Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Tình hình nghiên cứu về vi khuẩn salmonella và bệnh phó thương hàn trên đàn vịt nuôi tại hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.95 KB, 39 trang )

MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu vấn đề nghiên cứu
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có những chuyển biến về mọi
mặt, bước qua ranh giới lãnh thổ để vươn xa ra thế giới. Cùng với sự chuyển biến
đó, ngành chăn nuôi cũng có những thay đổi vượt bậc, từ sản xuất mang tính tự
cung tự cấp chuyển sang sản xuất mang tính hàng hoá, không những cung cấp
nguồn thực phẩm cho tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu sang các nước bạn.
Thành phố Hải Phòng cũng không nằm ngoài vòng phát triển đó: hàng năm cung
cấp một nguồn thực phẩm lớn cho nhu cầu tiêu thụ tại địa phương, trong nước và
xuất khẩu. Tuy nhiên, ngành chăn nuôi nước ta nói chung và của Hải Phòng nói
riêng cũng đang phải đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức, đặc biệt là dịch bệnh
nguy hiểm và sức cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Dịch
bệnh trên đàn gia súc, gia cầm thường xuyên xảy ra, bùng phát trên diện rộng, gây
thiệt hại không nhỏ. Đồng thời lượng thực phẩm có nguồn gốc động vật nhập vào
còn lớn hơn nhiều lần so với lượng thực phẩm chúng ta xuất đi các nước bạn. Một
câu hỏi đặt ra trước tình hình này là tại sao ngành chăn nuôi nước ta lại chưa phát
triển, tại sao nguồn thực phẩm chúng ta cung ứng cho thị trường lại không đáp ứng
được nhu cầu tiêu thụ? Để trả lời cho câu hỏi này chúng ta phải kiểm tra, xem xét
lại thực trạng ngành chăn nuôi nước ta nói chung và tại Hải Phòng nói riêng để tìm
ra giải pháp phù hợp.
Qua nhiều năm phát triển, ngành chăn nuôi đã trải qua nhiều thăng trầm,
gian khó, thành công có mà thất bại cũng nhiều, đã khẳng định vai trò quan trọng
trong sản xuất nông nghiệp nói riêng và trong cơ cấu nền kinh tế nói chung. Đến
nay, trước tình hình suy thoái kinh tế toàn cầu lại càng khẳng định vai trò to lớn
của ngành nông nghiệp, trong đó có chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy hải sản.
Thành phố Hải Phòng xác định, nông nghiệp là ngành cứu cánh cho kinh tế địa
phương trong tình hình khủng hoảng, suy thoái kinh tế như hiện nay. Chính vì vậy,
phát triển nông nghiệp bền vững, trong đó có chăn nuôi là một yêu cầu cần thiết.
Vịt là loài thuỷ cầm có tính thích nghi cao với các điều kiện sinh thái, thích
hợp cho việc chăn thả ở những nơi có nguồn nước để tìm kiếm thuỷ động vật và
1




thóc lúa rơi vãi sau thu hoạch. Những năm gần đây, chăn nuôi vịt thịt phát triển
mạnh, tuy nhiên, điều kiện nuôi vịt cần có nước là môi trường rất thuận lợi cho
việc phát triển bệnh do vi khuẩn gây ra, trong đó Salmonella có vai trò quan trọng
về dịch tễ, là một hạn chế đáng kể trong việc phát triển mạnh giống gia cầm này.
Hầu hết các sản phẩm chăn nuôi vịt đều bị vấy nhiễm Salmonella ở các mức độ
khác nhau.
Nhiều kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước đã kết luận Salmonellosis là
bệnh chung của nhiều loài vật nuôi và gây bệnh cho cả con người. Nhằm đảm bảo
an toàn cho người tiêu dùng, tiêu chuẩn qui định đối với Salmonella là không được
có bất kỳ 1 type Salmonella nào trong 25 gam sản phẩm được thực hiện ở hầu hết
các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, tiêu chuẩn này cũng được quy định trong
TCVN 7046-2002. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nước ta gia nhập tổ chức
thương mại thế giới (WTO) thì vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, trong đó có gia
cầm và thịt gia cầm sạch bệnh nhất là sạch Salmonella là một yêu cầu cấp thiết.
Vi khuẩn Salmonella đã được nghiên cứu từ nhiều năm nay, trong những
năm gần đây chúng được các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều bởi sự gia tăng của
các bệnh ngộ độc thực phẩm ở người mà nguyên nhân chủ yếu là do độc tố của
chúng gây ra. Việc nghiên cứu vi khuẩn Salmonella, tỷ lệ nhiễm, vai trò gây bệnh
của chúng… đối với đàn gia cầm tại thành phố Hải Phòng là việc làm cần thiết, để
từ đó có cơ sở xây dựng biện pháp phòng, chống bệnh đạt hiệu quả cao, góp phần
thúc đẩy chăn nuôi gia cầm nói chung, chăn nuôi vịt nói riêng phát triển bền vững,
tạo ra sản phẩm an toàn vệ sinh thực phẩm, có sức cạnh tranh cao trên thị trường.
Ở nước ta cho tới nay những nghiên cứu về Salmonella nói chung và đặc biệt là
các chủng Salmonella gây ngộ độc thực phẩm chủ yếu ở người còn ít được quan tâm.
Tại Hải Phòng chăn nuôi vịt trong những năm gần đây vẫn được duy trì và
phát triển trong các hộ gia đình và trang trại góp phần tăng thu nhập kinh tế cho
các nông hộ. Tuy nhiên, ngoài một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như cúm gia
cầm, viêm gan... thì đàn thủy cầm nuôi tại Hải Phòng còn bị tổn thất nhiều do

nhiễm bệnh Phó thương hàn.
Để có cơ sở trong việc nghiên cứu và xây dựng những biện pháp phòng và
2


trị bệnh Phó thương hàn ở đàn vịt cho hiệu quả cao tại Hải Phòng, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu: “Tình hình nghiên cứu về vi khuẩn Salmonella và bệnh do
Salmonella gay ra trên đàn vịt nuôi tại Hải Phòng”.
2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
- Bênh PTH vịt;
- Một số biện pháp phòng trị bệnh PTH vịt ở Hải Phòng.
- Địa điểm nghiên cứu: Các nông hộ chăn nuôi vịt tại các huyện Vĩnh Bảo, Tiên
Lãng, Kiến Thụy và Thủy Nguyên.
- Triển khai 400 phiếu điều tra, đánh giá tình hình bệnh và ảnh hưởng của
một số yếu tố nguy cơ đến tình hình mắc bệnh PTH vịt trên địa bàn các huyện
Vĩnh Bảo, Tiên Lãng, Kiến Thụy và Thủy Nguyên.
- Thời gian nghiên cứu: 3 tháng.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Thu thập thông tin và tài liệu về vi khuẩn Salmonella và bệnh PTH vịt: Tại
Cục thú y, Trung tâm chẩn đoán thú y TW, Viện Thú y Quốc gia, Trường Đại học
Nông nghiệp Hà Nội, trên mạng Internet, tài liệu, sách....
- Điều tra đánh giá tình hình bệnh PTH vịt tại các huyện Vĩnh Bảo, Tiên Lãng,
Kiến thụy, Thủy Nguyên qua mẫu phiếu điều tra, mỗi huyện 100 phiếu điều tra (32 chỉ
tiêu).
- Tổng hợp kết quả điều tra, phân tích, đánh giá thực trạng bệnh PTH vịt tại
Hải Phòng.
4. Đối tượng nghiên cứu
- Bệnh PTH vịt trên thế giới;
- Bệnh PTH vịt tại Hải Phòng;
- Điều kiện chăn nuôi vịt tại Hải Phòng (4 huyện Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Kiến

Thuỵ, Thuỷ Nguyên).
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin
- Thu thập thông tin về vi khuẩn Salmonella và bệnh PTH vịt từ Trung tâm
chẩn đoán thú y Trung ương, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Viện Thú y
Quốc gia, Cục Thú y; qua tài liệu, sách, Internet....
3


- Lấy ý kiến các chuyên gia: Phỏng vấn trực tiếp hoặc gián tiếp qua văn bản.
Phương pháp điều tra
Điều tra theo mẫu phiếu điều tra với hình thức phỏng vấn trực tiếp từng hộ
chăn nuôi, cán bộ thú y cơ sở.
Triển khai 400 phiếu điều tra về tình hình bệnh PTH vịt tại các huyện, quận:
Vĩnh Bảo, Thủy Nguyên, Tiên Lãng, Kiến Thụy, cụ thể:
STT

Huyện

Số lượng mẫu
100

1

Vĩnh Bảo

2

Thủy Nguyên


100

3

Tiên Lãng

100

4

Kiến Thụy

100

Tổng cộng

400

Phương pháp phân tích, xử lý số liệu:
- Phần mềm xử lý Win Episcope 2.0; Bảng tương liên 2x2;
- Bảng tính Excel 2003;
- Thống kê sinh học.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu về vi khuẩn Salmonella
4


1.1.1. Nghiên cứu trên thế giới
Nghiên cứu, phát hiện Salmonella và bệnh do chúng gây ra, cùng với các

bệnh dịch tả, lao, nhiệt thán, thương hàn đã được bắt đầu nghiên cứu cách đây trên
120 năm trong lĩnh vực vi sinh vật y học. Năm 1880, trực khuẩn thương hàn lần
đầu tiên được Eberth quan sát và phát hiện từ lá lách và hạch bạch huyết màng treo
của người tử vong bởi bệnh Thương hàn. Và năm 1881, Robert Koch đã thành
công trong việc nuôi dưỡng vi khuẩn, nhưng chưa tìm ra được những căn cứ chắc
chắn để phân biệt vi khuẩn thương hàn với các vi khuẩn đường ruột khác. Sau đó
năm 1884 Gaffky đã nuôi cấy thành công vi khuẩn. Loài vi khuẩn S. typhi lúc đầu
được gọi với các tên như Bacillus typhous, Bacterium typhi và Eberthella typhy
typhosa. Còn tên giống Salmonella được Lignires sử dụng đặt cho trực khuẩn gây
bệnh dịch tả “Hog-cholera bacillus” vào năm 1900 (Selbitz và cs, 1995)[39].
Năm 1896, người ta đã tìm ra được mối liên hệ gây bệnh giữa động vật và
người qua việc phát hiện sự tương đồng về kháng huyết thanh sinh ra khi tiêm
chủng kháng nguyên cho động vật và ở người bị mắc thương hàn.
Tên của loài vi khuẩn quen thuộc đối với chúng ta ngày nay là S. cholerae suis, lần
đầu xuất hiện trong báo cáo năm của phòng Chăn nuôi Công nghiệp Mỹ năm 1885
với sự nhìn nhận nhầm lẫn cho là tác nhân gây bệnh dịch tả lợn (Barnes D.M và
Sorensen K.D, 1975)[29]. D.E. Salmon lúc bấy giờ là trưởng phòng nghiên cứu, vì
vậy mà tên ông được lấy để đặt tên cho vi khuẩn mới này.
Những năm tiếp theo, các nhà khoa học tiếp tục phân lập được vi khuẩn này
gây bệnh ở người, tìm thấy vi khuẩn trong thịt bò, trong chuột bạch…
Năm 1934, theo đề nghị của hội nghị các nhà sinh vật học quốc tế, để kỷ
niệm người đầu tiên tìm ra vi khuẩn là Salmon, tên chính thức của loài vi khuẩn
này được đặt là Salmonella (Nguyễn Như Thanh, 2001)[27].
Vi khuẩn Salmonella được tìm thấy ở tất cả các nước trên khắp thế giới ở
trong động vật khoẻ cũng như động vật ốm.
Năm 1987, Clark MA, Barret EL đã nghiên cứu về gen PHS và khả năng
sản sinh sunfua hydro của vi khuẩn Salmonella typhimurium đã chỉ ra rằng hầu hết
các loài Salmonella sản sinh ra sunfua hydro đều có thể dễ dàng phát hiện trong
môi trường có chứa sulfat sắt, ví dụ như môi trường TSI. Và khi nghiên cứu về
5



Salmonella ở cấp độ cấu trúc phân tử L. Le Minor, Popoff MY (1987) đã chỉ ra
rằng vi khuẩn Salmonella chỉ có 1 loài, Salmonella Enterica.
Năm 1988, A.Gartner ở Jena (Đức) đã xác định được nguyên nhân gây viêm
ruột người do ăn phải thịt bò chết ở Frankenhausen (Đức) là vi khuẩn, lúc đó được
gọi là Bacillus enteritidis (nay là S.enteritidis); căn cứ vào tên người phát hiện ra vi
khuẩn, cũng như nơi mà vi khuẩn gây bệnh; trong một khoảng thời gian dài loài vi
khuẩn S. enteritidis được gọi là trực khuẩn Gartner với các tên khác nhau như
Gartner - bacillus hoặc Typus Gartner Jena. Năm 1889 và 1890 tại Viện vệ sinh
trường Đại học Greiswald (Đức) do F.Loeffler phụ trách đã xảy ra dịch bệnh gây
thiệt hại nghiêm trọng đối với chuột thí nghiệm. Nguyên nhân do loài vi khuẩn lúc
đó được gọi tên là Bacillus typhimurium. Năm 1891, C.O Jensen đã tách được S.
dublin từ bệnh phẩm của bê bị bệnh tiêu chảy. Cùng năm đó loài S. typhimurium
được phát hiện ở Greiswald và Breslau. Năm 1900, tên giống Salmonella được
Lignieres sử dụng đặt cho trực khuẩn gây bệnh dịch tả “Hogcholera bacillus”. Lúc
đầu tất cả các bệnh ở gia súc do Salmonella gây ra được gọi chung một tên là bệnh
PTH “Paratyphus”. Cho đến năm 1914 có tổng cộng 12 loài vi khuẩn được mô tả
và xếp vào giống Salmonella. Trong những năm 30 (thế kỷ XX) số lượng loài
Salmonella đã tăng lên nhanh chóng. Năm 1926, White đã có những công trình
nghiên cứu về cấu trúc kháng nguyên của Salmonella, bắt đầu một thời kỳ khoa
học mới về giống vi khuẩn này. F.Kauffmann tiếp tục thành công trong những
nghiên cứu sau đó và đã thiết lập được bảng kháng nguyên đầu tiên vào năm 1934,
làm nền tảng cho việc tra cứu. Bảng kháng nguyên vi khuẩn Salmonella được gọi
tên là bảng phân loại Kauffmann - White đã thường xuyên được Trung tâm hợp tác
của WHO về nghiên cứu Salmonella tại Viện Pasteur - Pari bổ sung và công nhận.
Cùng năm đó, hai nhà bác học đã thiết lập được bảng cấu trúc kháng nguyên đầu
tiên đặt tên là bảng phân loại Kauffmann-White. Từ đó đến nay, bảng cấu trúc
kháng nguyên của Salmonella luôn luôn được bổ sung. Năm 1993 đã có 2375 type
Salmonella được định danh. Đến năm 1997 con số type Salmonella đã lên đến

3000. Năm 1998 có thêm 6 type khác được bổ sung. Như vậy giống Salmonella
luôn luôn thu hút sự chú ý của các nhà chuyên môn trong lĩnh vực Vi sinh vật và Y
học (Selbitz và cs, 1995)[39].
6


Việc nghiên cứu chi tiết từng loài Salmonella gây bệnh cho từng loại vật
nuôi cũng đã được nhiều tác giả thông báo.
Sorrells, KM, Speck ML và JA Warren (1970) nghiên cứu khả năng gây
bệnh của vi khuẩn Salmonella ganliinarumsau khi làm yếu vi khuẩn bằng cách
ngăn chặn quá trình chuyển hoá của vi khuẩn ở nhiệt độ đóng băng cho thấy không
có sự khác biệt về khả năng gây bệnh giữa vi khuẩn bị làm yếu và vi khuẩn không
bị làm yếu đi (ở độ tin cậy 95%).
Janda JM, Abbott SL (2006). Khi nghiên cứu về họ vi khuẩn đường ruột đã
chỉ ra rằng hiện nay, có hai loài Salmonella được công nhận là Salmonella
enterica và Salmonella bongori, với sáu phân loài chính: enterica (I), salamae (II),
arizonae (IIIa), diarizonae (IIIB), houtenae (IV), và indica (VI)
Mermin J, Angulo FJ (1997), nghiên cứu về các loài bò sát ở Mỹ cho thấy
rùa, rắn, cự đà, ếch là nguồn mang mầm bệnh Salmonella.
Gantois và cs (Tháng 7/2009) nghiên cứu về cơ chế xâm nhiễm vào trứng
của Salmonella có nhận xét: vi khuẩn có thể từ môi trường xâm nhập vào hoặc
trong quá trình đẻ trứng do cơ quan sinh dục của gà mẹ bị nhiễm trùng; sau khi
xâm nhập vào trứng, vi khuẩn phải đối phó với các yếu tố kháng khuẩn trong màng
lòng trắng trứng và vitelline (màng lòng đỏ) trước khi xâm nhập được vào lòng đỏ.
Humphrey, TJ (1994) nghiên cứu sự nhiễm vi sinh vật ở vỏ và trong lòng
trứng cho biết có thể tìm thấy Salmonella enteritidis ở vỏ ngoài và lòng đỏ trứng
của đàn gà mẹ bị bệnh sinh sản. Okamura, Masashi và cs (2001) nghiên cứu sự
khác nhau trong số sáu Serovars Salmonella trong khả năng xâm chiếm bộ phận
sinh sản và gây ô nhiễm trứng gà mái cũng cho biết: khi thử nghiệm gây nhiễm 6
serovar Salmonella: Salmonella enteritidis, Salmonella typhimurium, Salmonella

infantis, hadar Salmonella, Salmonella Heidelberg, hoặc Montevideo Salmonella
cho gà đẻ thì phát hiện 7% mẫu trứng thu được bị nhiễm Salmonella enteritidis,
cho thấy ô nhiễm trứng từ truyền transovarian của S. enteritidis. Gast và cs (tháng
8 năm 2010) cũng cho biết tần số của sự xâm nhập của vi khuẩn Salmonella
enteritidis vào lòng đỏ trứng từ gà mái khoảng 30-58% và nồng độ trung bình của
vi khuẩn Salmonella enteritidis ở lòng đỏ khoảng từ 0,8 đến 2,0 log10 cfu/mL.
Humphrey, TJ, A. Whitehead, AHL Gawler, A. Henley và B. Rowe (1991) khi
7


kiểm tra số lượng Salmonella enteritidis trong trứng bị ô nhiễm từ 5700 con gà mẹ
của 15 đàn gà đã phát hiện 32/5700 trứng bị nhiễm ở vỏ hoặc trong lòng trứng
(chiếm tỷ lệ 0,6%).
Stokes, JL, Osborne, HG Bayne (1956), nghiên cứu về sự xâm nhập và tăng
trưởng của vi khuẩn Salmonella trong trứng cho biết: "Thông thường, các ống dẫn
trứng của gà mái là vô trùng và do đó vỏ và toàn bộ trứng không có nhiễm vi sinh
vật. Tuy nhiên khi buồng trứng và ống dẫn trứng bị nhiễm Salmonella thì trứng đẻ
ra sẽ bị nhiễm Salmonella.
Năm 1972, tại nước Anh đã tìm thấy vi khuẩn Salmonella có trong phân lợn
là 9,9% số mẫu kiểm tra; năm 1973, tiếp tục phát hiện Salmonella trong hạch ruột
lợn ốm là 7,3%. Tại Mỹ, năm 1984 đã xét nghiệm thấy Salmonella trong máu lợn
chết là 4,3%. Năm 1989, Hungari công bố tỷ lệ mẫu phân lợn có Salmonella tới
48% (Wilcock và Schwartz, 1992) [42].
Barnes và Sorensen (1975)[29]; Wilcock và Schwartz (1992)[42]; Selbitz và
cs, (1995)[39]; Laval A (2000)[15] đều cho biết bệnh PTH cấp tính ở lợn con do S.
cholerae suis var kunzendorf gây ra; bệnh viêm ruột mãn tính do S. typhimurium. Gây
bệnh chủ yếu ở trâu, bò là S. dublin, S. enteritidis. Các loài S. abortus ovis, S.
montevideo, S. dublin, S. anatum gây bệnh ở cừu. S. abortus equi là tác nhân chính
gây bệnh cho ngựa. Còn ở gia cầm và chim chủ yếu do S. pullorum-.ganliinarum,
S. typhimurium, S. enteritidis gây ra.

Tại Mỹ rất nhiều công trình nghiên cứu về các chủng Salmonella gây bệnh
cho gia cầm đã được công bố. Williams và cs, (1976)[43] đã nghiên cứu các biện
pháp chẩn đoán phát hiện S. typhimurium ở gia cầm.
Tại các nước Đông Nam Á, Bela Toth (1985)[25] một chuyên gia thú y của
FAO đã dành nhiều năm nghiên cứu về bệnh của vịt cho biết bệnh do Salmonella
gây trên vịt xảy ra ở hầu khắp thế giới và tỷ lệ thay đổi từ 1 - 60%. Trong một ổ
dịch thường thấy vịt chết ngay từ những ngày đầu sau khi đưa ra khỏi lò ấp, vịt ở
mọi lứa tuổi đều mẫn cảm với bệnh, tuy nhiên triệu chứng lâm sàng thường
chỉ thấy ở vịt con. Đã có những nghiên cứu về các chủng Salmonella gây
bệnh trên vịt, một số tác giả đã phân lập được S. typhimurium từ một số ổ dịch
8


tự nhiên xảy ra trên vịt con và vịt đẻ. Tuy nhiên, các tác giả cũng nhận thấy rằng
vịt có sức đề kháng với Salmonella cao hơn so với gà. S. typhimurium và S.
enteritidis đựơc coi là nguyên nhân chủ yếu gây bệnh cho vịt. Tại Thái Lan, đã
phân lập được S. typhimurium từ các ổ dịch tự nhiên xảy ra trên vịt.
Vai trò gây bệnh của Salmonella đối với gia cầm được đề cập từ đầu thế kỷ
XX, tuy nhiên triệu chứng bệnh đã được mô tả sớm hơn nhiều. Vào năm 1888 một
vụ dịch xảy ra ở Anh tại một cơ sở chăn nuôi gà công nghiệp đã gây chết 400 con.
Lúc bấy giờ người ta nghi đây là bệnh dịch tả gà, ngay sau đó Klein phân lập được
căn bệnh và đặt tên là Bacillus ganliinarum. Một vài năm sau Lucet ở Pháp, Pfeiler
và Rhese ở Đức cũng mô tả căn bệnh tương tự. Cho đến năm 1892, Loeff đã gọi
Bacterium typhimurium là vi trùng gây bệnh chủ yếu của bệnh thương hàn ở gia
cầm. Từ năm 1933 đến năm 1956 tại Anh đã có rất nhiều tác giả để tâm nghiên cứu
về bệnh này. Hầu hết các loài gia cầm như gà, gà tây, vịt, ngan, ngỗng và bồ câu
đều bị nhiễm Salmonella ở mọi lứa tuổi, tỷ lệ nhiễm thay đổi từ 1 - 9,8% (Nagaraja
và cs, 1991)[36].
Nhờ có sự tiến bộ của khoa học như kính hiển vi điện tử, công nghệ gen... Việc
nghiên cứu vi khuẩn Salmonella liên tục được các nhà khoa học trên thế giới bổ sung,

định danh, phân loại. Bảng phân loại của Kauffmann - White bổ sung đến 1993 đã có
2375 type được định danh. Còn cho biết bộ gene “genom” của Salmonella được
nghiên cứu tương đối kỹ. Cho đến nay ít nhất đã chứng minh được 750 gene, trong
đó có 680 gene đã có trong bản đồ gene (Selbitz và cs, 1995)[39]. Năm 1997, số
type đã lên đến 3000 (Plonait và Birkhardt, 1997)[37]. Năm 1998, lại thêm 14 type
Salmonella được công nhận và bổ sung các đặc tính.
Như vậy, trong ngành vi sinh vật, vi khuẩn Salmonella đã gây được sự chú ý cao
và có nhiều nghiên cứu cơ bản với mục tiêu tìm ra những biện pháp có hiệu quả để
ngăn chặn và đẩy lùi bệnh do Salmonella gây ra ở động vật và người.
1.1.2. Nghiên cứu ở trong nước
Salmonella là vi khuẩn gây ra quá trình bệnh lý đường tiêu hoá cho nhiều
loài vật nuôi. Do vậy, để phòng chống bệnh đạt hiệu quả cao góp phần bảo vệ đàn
vật nuôi nói chung, chăn nuôi gia cầm nói riêng, giữ vệ sinh an toàn thực phẩm,
9


bảo vệ sức khoẻ con người thì nghiên cứu về vi khuẩn Salmonella toàn diện là yêu
cầu hết sức cần thiết.
Ngay từ những năm 1951 - 1953, viện Pasteur Sài Gòn đã phân lập được
6 type Salmonella ở người và 35 type Salmonella ở lợn tại lò giết mổ. Năm 1963,
Viện vệ sinh dịch tễ Hà Nội kiểm tra và phát hiện 6,3% mẫu phân của công nhân
giết mổ và 22% mẫu thịt lợn nhiễm Salmonella, với phần lớn là các type thuộc
nhóm E (Nguyễn Quang Tuyên, 1996)[26].
* Salmonella ở lợn:
Nghiên cứu Salmonella ở lợn có công trình của Phùng Quốc Chướng (1995)
[6], Trần Xuân Hạnh (1995)[9], Hồ Văn Nam và cs, (1997)[18], Cù Hữu Phú và
cs, (2000)[21], Đỗ Trung Cứ và cs, (2001)[5], Nguyễn Bá Hiên (2001)[11], Đặng Xuân
Bình và cs, (2010)[3], Trịnh Tuấn Anh và cs, (2010)[2].
Trần Xuân Hạnh (1995)[9] khi phân lập vi khuẩn Salmonella trên lợn ở tuổi
giết thịt tại lò mổ ở thành phố Hồ Chí Minh (nguồn lợn từ 6 tỉnh: Minh Hải (nay là

2 tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau), Hậu Giang, Đồng Nai, Tiền Giang, Ninh Thuận, Bình
Thuận và Thành phố Hồ Chí Minh) đã cho biết 20,82% mẫu hạch màng treo ruột,
11,28% mẫu phân có Salmonella.
Phùng Quốc Chướng (1995)[6] trong thời gian 5 năm (1989-1994) xét
nghiệm một lượng lớn mẫu phân lợn lấy từ 4 tỉnh Tây Nguyên (Đắk Lắk, Gia Lai,
Kon Tum, Lâm Đồng) cho biết tỷ lệ nhiễm vi khuẩn Salmonella ở các vùng khác
nhau, ở lợn các lứa tuổi và theo các mùa trong năm là khác nhau. Kết quả nghiên
cứu cho thấy lợn nuôi tại Tây Nguyên có tỷ lệ nhiễm Salmonella 24,83%; 15% số
mẫu thức ăn thừa trong máng ăn, 30% số mẫu nước rửa chuồng tại trại nhiễm
Salmonella. Tác giả đã theo dõi biến động số lợn nhiễm Salmonella ở lợn khoẻ và
ở lợn bị tiêu chảy.
Hồ Văn Nam và cs (1997)[18] nghiên cứu sự phân bố của Salmonella trong
cơ thể lợn bị bệnh PTH; đã tiến hành gây viêm ruột cho 12 lợn sau cai sữa bằng
cách cho uống nước muối và sau 10 giờ cho uống thêm 5 ml canh trùng
Salmonella. Sau 4 - 7 ngày lợn sốt (40 - 41 0C), ỉa chảy phân khắm; chứng tỏ viêm
ruột ở giai đoạn nhiễm trùng. Và tiến hành xét nghiệm vi khuẩn 12 lợn trên, 100%
bệnh phẩm lấy ở ruột; 85,71% đến 100% bệnh phẩm là hạch lâm ba, gan, lách có
10


Salmonella cả thể cấp tính và mãn tính.
Cù Hữu Phú và cs (2000)[21] nghiên cứu Salmonella trong bệnh tiêu chảy ở
lợn 35 ngày đến 4 tháng tuổi nuôi xung quanh Hà Nội cho biết 80% mẫu phân lợn
tiêu chảy có nhiễm Salmonella. Xác định đặc tính sinh học, khả năng sản sinh độc
tố đường ruột của các chủng Salmonella phân lập được; các tác giả đã chế thử
nghiệm autovacxin phòng bệnh tiêu chảy cho lợn, kết quả đạt 89,22% lợn được
phòng bệnh sau 4 tháng tiêm phòng.
Nghiên cứu vi khuẩn Salmonella gây bệnh Phó thường hàn lợn ở một số tỉnh
miền núi phía bắc, Đỗ Trung Cứ và cs, (2001)[5] cũng công bố những kết quả
tương tự; ngoài ra các tác giả đã cho biết ở lợn bệnh vi khuẩn được tìm thấy nhiều

nhất là ở hạch ruột (94,59%) và ít nhất là ở thận (20,08%).
Theo Đặng Xuân Bình, Dương Thùy Dung (2010)[3] nghiên cứu Salmonella
trên thịt lợn tươi được thu thập tại các chợ khu vực trung tâm thành phố Thái
Nguyên từ 5/2009 đến 4/2010 chiếm từ 10% đến 19,5% mẫu thịt nhiễm
Salmonella không đạt tiêu chuẩn kỹ thuật.
Trịnh Tuấn Anh và cs (2010)[2] nghiên cứu Salmonella trong bệnh tiêu chảy
ở lợn 1 ngày đến 90 ngày tuổi nuôi tại Thái Nguyên. Qua xét nghiệm 516 mẫu
phân và bệnh phẩm lợn bệnh có 83 mấu nhiễm Salmonella spp (chiếm tỷ lệ
16,08%).
* Salmonella ở trâu, bò:
Nguyễn Quang Tuyên (1996)[26] nghiên cứu đặc tính một số chủng
Salmonella gây bệnh tiêu chảy ở bê, nghé ở các địa phương Phù Đổng (Hà Nội), Ba
Vì (Hà Tây) và Bắc Thái (Thái Nguyên và Bắc Kạn ngày nay) đã có những nhận xét
về triệu chứng lâm sàng, bệnh lý của bê, nghé bị bệnh. Tác giả đã xét nghiệm mẫu
bệnh phẩm, khảo sát các chủng vi khuẩn Salmonella phân lập được và chế tạo chế
phẩm sinh học cho uống, tạo miễn dịch tại chỗ, ngăn cản sự bám dính của
Salmonella, phòng bệnh có hiệu quả.
Nguyễn Văn Quang (1998)[22] có công trình nghiên cứu mang tính bao quát
về một số vi khuẩn hiếu khí thường gặp và vai trò của Salmonella trong hội chứng
tiêu chảy của bò, bê ở một số tỉnh Nam Trung Bộ.
11


* Salmonella ở gia cầm:
Bệnh PTH gia cầm được Nguyễn Vĩnh Phước (1974)[20] đề cập đến từ
những năm đầu của thập kỷ 70. Từ đó đến nay bệnh đã xuất hiện ở nhiều cơ sở
chăn nuôi gia cầm trong cả nước. Trong những năm gần đây có rất nhiều tác giả
nghiên cứu căn bệnh do Salmonella trên gà công nghiệp.
Trần Thị Hạnh và cs (1999)[8] nghiên cứu tình trạng nhiễm Salmonella tại
các cơ sở chăn nuôi gà công nghiệp, đã xác định vi khuẩn ở thức ăn hỗn hợp, nước

uống, nước thải, chất độn chuồng, vỏ trứng và lòng đỏ trứng. Kết quả cho thấy tỷ
lệ nhiễm Salmonella cao nhất ở chất độn chuồng (80,00%); thấp nhất là vỏ trứng
và lòng đỏ trứng (18,29%).
Nguyễn Bá Hiên (2001)[11] đã cho biết kết quả phân lập vi khuẩn thường
gặp trong đường ruột, biến động các loài vi khuẩn khi gia súc bị tiêu chảy, đặc biệt
là tình trạng bội nhiễm Salmonella.
1.2. Tình hình nghiên cứu bệnh Phó thương hàn vịt
1.2.1. Nghiên cứu trên thế giới
Chăn nuôi gia cầm chiếm vị trí quan trọng trong ngành chăn nuôi thế giới,
đáp ứng nhu cầu về thịt và trứng ngày càng cao của con người, trong đó Châu Âu,
Châu Mỹ cung cấp 65% sản lượng thịt gà và Châu Á cung cấp 86,2% sản lượng
thịt thủy cầm (FAO, 2009). Chất lượng nguồn thực phẩm đã được quan tâm chú
trọng bởi nó có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người sử dụng, đặc biệt
có thể gây nguy hiểm đến tính mạng con người như thực phẩm bị nhiễm E.coli,
Salmonella, ... Chính vì vậy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về sự hiện diện
của các tác nhân gây bệnh này trong thực phẩm cũng như trong chăn nuôi, đặc biệt
là trong sản phẩm thủy cầm – một trong những nguồn thực phẩm dễ nhiễm
Salmonella.
* Ở Đài Loan:
Nghiên cứu về sự lưu hành và tính mẫn cảm với thuốc kháng sinh của
Salmonella ở vịt đã phân lập được 10 chủng Salmonella là: S. potsdam (31,9%),
S.dusseldorf (18,7%), S.indiana (14,3%), S.typhimurium (7,7%), S.hadar (5,5%),
S.newport (4,4%), S.derby (4,4%), S.montevideo(2,2%), S. schwarzengrund (2,2%)
12


và S. asinnine (1,1%). Nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ phân lập được Salmonella ở
vịt dưới 15 ngày tuổi cao hơn so với các nhóm tuổi khác và xác định được các
kháng sinh mẫn cảm với vi khuẩn phân lập được là Amikacine, Amoxycyclin,
Ceftraxin, Cephalothin, Ceprofloxacine, Norfloxacine, Ofloxacine, Polymycin B

(Tsai và cs (2005)[40]).
Một nghiên cứu khác cho thấy tỷ lệ nhiễm Salmonella ở vịt, ngỗng và giữa
các lứa tuổi có sự khác nhau: ở vịt 1 tuần tuổi là 37,5%; ở vịt 4 tuần tuổi là 1%; ở
ngỗng 1 tuần tuổi là 5,2%; ở ngỗng 4 tuần tuổi là 12,1%. Nghiên cứu cũng cho biết
vịt kháng với Salmonella Typhimurium tăng theo tuổi (Yu C.Y, (2008) [33]).
* Ở Malaysia:
Khi nghiên cứu xác định tỷ lệ và kháng kháng sinh của Salmonella trên đàn
vịt nuôi và môi trường chế biến biến thịt tại Penang, Malaysia từ tháng 8 năm 2009
đến tháng 10 năm 2010, đã phân lập được Salmonella ở 125/531 mẫu kiểm tra,
chiếm tỷ lệ 23,5% và thuộc 10 loài Salmonella, cụ thể là S. typhimirium (29,6%),
S. enteritidis (12,0%), S. ganliinarum (2,4%), S. braenderup (12,0%), S. albany
(11,2%), S. hadar (20,8%), S. derby (6,4% ), S.weltevreden (1,6%), S.
newbrunswick (3,4%) và S. london (0,8%). Kết quả thử kháng sinh đồ cho thấy
100% loài Salmonella phân lập được mẫn cảm với Cephalothin, Gentamicin,
Ceftriaxone và kháng với Erythromycin. Nghiên cứu cũng khẳng định vịt nên được
coi là một nguồn quan trọng của các tác nhân gây bệnh truyền qua thực phẩm
(Frederick, (2011)[34]).
Một nghiên cứu khác về các vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy, viêm dạ dạ ruột ở
vịt bao gồm Campylobacter, Salmonella, and Listeria monocytogenes cho thấy:
Tỷ lệ nhiễm Salmonella trung bình là 19,9% ( dao động từ 3,3-56,9%), ở thịt vịt và
các bộ phận 28,4% (dao động từ 4,4-75,6%), ở vịt nuôi và xử lý môi trường 32,5%
(dao động từ 10,5-82,6%). Tỷ lệ nhiễm Campylobacter trung bình là 53% (dao
động từ 0-83,3%), ở thịt vịt và các bộ phận 31,6% (dao động từ 12,5-45,8%), ở vịt
nuôi và xử lý môi trường 94,4% (92-96,7%). Tỷ lệ nhiễm Listeria monocytogenes
rất hiếm (Frederick Adzitcy, (2012)[35]).
* Tại Thái Lan:
Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm Salmonella ở vỏ trứng và lòng trứng của vịt đã phát
13



hiện tỷ lệ nhiễm ở ngoài vỏ trứng là 12,4%, ở lòng trứng là 11%, ở cả ngoài vỏ và
lòng trứng là 0,2%; đồng thời xác định được 23 type huyết thanh khi phân lập
Salmonella, trong đó các type phổ biến là Salmonella typhimurium, S. cerro, S.
tennessee, S. amsterdam, S. agona và S. infantis với các tỷ lệ tương ứng là 5,5%,
4,1%, 2,8%, 2,1%, 1,4% và 1,1%. (Saitanu K, (1994)[38]).
* Tại Mỹ:
Hai đợt dịch do vi khuẩn Samonella gây ra trên người năm 1999 được đánh
giá là có liên quan đến gà con và đàn vịt chăn nuôi tại Michigan và Missouri.
Chính quyền đã khuyến cáo phải rửa tay kỹ lưỡng sau khi tiếp xúc với gà và vịt,
đặc biệt là trẻ em (Bidol, S, 1999, [31]).
Nghiên cứu phân lập xác định tỷ lệ nhiễm vi khuẩn Salmonella tại các trang
trại chăn nuôi gia cầm và sau khi vận chuyển và chế biến sản phẩm thịt gia cầm
cho biết: không được Salmonella lập từ gà sao, chim cút, nhưng xác định được
một vài mẫu dương tính ở vịt và bồ câu con, chủ yếu là S. Typhimurium. (BA
McCrea, (2006)[28]).
* Tại Anh:
Khi nghiên cứu xác định tỷ lệ nhiễm và kháng kháng sinh của
Campylobacter và Salmonella phân lập từ thịt gia cầm bán lẻ tại Anh trong thời
gian 2003-2005 cho biết tỷ lệ thịt gia cầm thường xuyên bị nhiễm với Salmonella
là 6,6%. Trong đó, thịt vịt nhiễm cao nhất (29,9%), thịt gà (5,6%), Gà Tây (5,6%),
và thịt gia cầm khác (8,6%). Salmonella Enteritidis được phân lập là chủ yếu. Tỷ lệ
kháng kháng sinh ở vịt là 13,6%. (Christine L. Little, (2008)[32]).
Khi nghiên cứu về sự nhiễm Salmonella ở vịt nuôi thương phẩm; thí nghiệm
nghiên cứu về độc tính, số lượng nhiễm và sự đề kháng tại đường ruột cho thấy:
trong vòng 36 giờ sau nở, vịt có khả năng miễn nhiễm với các chủng Salmonella
typhimurium, S. enteritidis và S. ganliinarum và khi nhiễm S. typhimurium, S.
enteritidis, S. heidelberg, S. orion qua đường uống trong vòng 2 ngày sau nở có thể
bài thải vi khuẩn qua phân đến ít nhất 6 tuần (Barrow và cs, 1999[30]).
* Tại Bỉ:


14


Nghiên cứu phân lập xác định sự lưu hành và kháng thuốc của vi khuẩn
Salmonella ở 100 đàn vịt trên chín trang trại trong vòng 32 tháng đã phân lập được
95 chủng Salmonella thuộc 11 typ huyết thanh, trong đó phổ biến nhất là S.
Indiana (42,1%) và S. Regent (36,8%), trong khi đó S. Typhimurium và Enteritidis
chỉ phân lập được một lần (1,1%). Nghiên cứu cũng cho thấy 100% các chủng
Salmonella phân lập được đều kháng ít nhất với 2 loại kháng sinh, và 21,6% các
chủng kháng với trên 5 loại kháng sinh (A. Flament, (2012)[27]).
* Tại Trung Quốc:
Nghiên cứu xác định sự lưu hành và kháng kháng sinh của vi khuẩn
Salmonella ở vật nuôi từ năm 2008 – 2009 đã phân lập xác định được 15 chủng
Salmonella, trong đó chủ yếu là các chủng S. Senftenberg (29,4%), S. Typhimurium
(17,8%), S. Pullorum (17,2%) và S. Enteritidis (11,1%). Tỷ lệ nhiễm Salmonella ở
vịt là 5,3%, phân lập xác định được 6 chủng là S. Senftenberg (6,7%), S.
Typhimurium (26,7%), S. Enteritidis (13,3%), S. Newpot (20%), S. Saintpaul
(20%), S. Tshiongwe (13,3%). Các chủng Salmonella phân lập được ở vịt kháng
với các loại kháng sinh Nalidixic axid, Carbenicillin, Tetracycline, Sulfafurazole,
Trimethoprim/sulfamethoxazole với tỷ lệ tương ứng là 53,3%, 33,3%, 26,7%, 20%,
13,3% và kháng các loại kháng sinh Amoxicillin, Ampicillin, Cefotaxime,
Streptomycin, Chloramphenicol với tỷ lệ 6,7%. Các loại kháng sinh mẫn cảm được
xác định là Gentamycin, Kanamycin, Ciprofloxacin với tỷ lệ 100%. Salmonella
phân lập ở vịt kháng ít nhất với 1 loại kháng sinh chếm tỷ lệ 80%, kháng với 4-9
loại kháng sinh chiếm 20%, không có chủng nào kháng với trên 9 loại kháng sinh.
( Z.M.Pan, (2010)[44]).
1.2.2. Nghiên cứu trong nước
Việt Nam là nước có chăn nuôi vịt phát triển, với tổng đàn vịt tăng nhanh
qua các năm: năm 1990 tổng đàn vịt là 23.636.400 con, năm 1994 tổng đàn vịt là
32.041.200 con, năm 1997 tổng đàn vịt là 39.983.100 con, đứng thứ 4 thế giới sau

Trung Quốc, Pháp, Thái Lan (Nguyễn Duy Hoan, (1999) [13]) và năm 2009 tổng
đàn vịt là 84.000.000 con, đứng thứ 2 thế giới sau Trung Quốc (2009, FAO).
Những năm 90 chăn nuôi vịt chủ yếu tập trung ở Đồng bằng Sông Cửu Long
(44,2%), ở miền núi và trung du phía bắc chiếm 13,3%, ở Đồng bằng Sông Hồng
15


chiếm 12,2%, vùng Tây Nguyên 0,93% với các giống vịt hướng thịt: vịt Bắc Kinh,
vịt Anh Đào, vịt Szarvas, vịt C.V. Super M; các giống vịt hướng trứng: vịt cỏ, vịt
Khali Campbell, vịt Ô môn, vịt CV2000 Layer; các giống vịt kiêm dụng: vịt Bầu,
vịt Kỳ Lừa, vịt Bạch Tuyết (Nguyễn Duy Hoan, (1999) [13]). Đến nay chăn nuôi
vịt đã phát triển mạnh, tập trung chủ yếu ở Miền Bắc và Miền Nam với số lượng
tổng đàn tăng nhanh qua các năm: năm 2006, tổng đàn vịt của miền Bắc là
34.552.000 con, của miền Nam là 28.031.000 con; năm 2009, tổng đàn vịt của
miền Bắc là 39.709.000 con, của miền Nam là 40.472.000 con (Tổng cục thống kê,
2010). Tuy nhiên, số lượng công trình, đề tài nghiên cứu, đánh giá về tình hình
bệnh dịch trên đàn vịt còn hạn chế, đặc biệt là bệnh PTH trên đàn vịt.
* Tại Tp. Hồ Chí Minh:
Trần Xuân Hạnh và Tô Thị Phấn (1999)[17], bước đầu nghiên cứu tình hình
nhiễm Salmonella trên vịt ở thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh lân cận cho
biết tỷ lệ nhiễm là 28,3%;
Nghiên cứu xác định sự lưu hành Salmonella trên đàn vịt CV-SuperM nuôi
tại trại vịt giống Vigova – Tp. Hồ Chí Minh, cho biết: Tỷ lệ nhiễm bình quân
chung Salmonella trong mẫu xét nghiệm ở vịt CV- Super M nuôi nhốt trong điều
kiện trại giống là 8,88% (dao động từ 3,54 đến 16,19%); Tỷ lệ nhiễm Salmonella
khác nhau ở các loại mẫu xét nghiệm: cao nhất là ở trứng sát, giảm dần theo thứ tự
ở: vịt con, phân vịt con, phân vịt đẻ, phân vịt hậu bị. Phát hiện 3 chủng Serovar
Salmonella là S. Typhimurium, S. Senftenberg, S. Amsterdam trên các mẫu xét
nghiệm. Kết quả kháng sinh đồ cho thấy, dùng Amoxilline và Norfloxacine có hiệu
quả cao đối với các chủng Salmonella (Nguyễn Ngọc Huân, (2008)[14]).

* Tại Cần Thơ:
Tỷ lệ nhiễm Salmonella trên đàn vịt tại 3 huyện Phụng Hiệp, Cờ Đỏ, Ô Môn
là 27%, trong đó tỷ lệ nhiễm ở những con có biểu hiện sốt, bỏ ăn, tiêu chảy là
58,7%. Điều kiện chăn nuôi không đảm bảo có nguy cơ vấy nhiễm Salmonella rất
cao, đặc biệt từ môi trường chăn nuôi, nguồn nước, thức ăn, phân, nền chuồng, ...
(9,2%). Vịt nhiễm chủ yếu 2 chủng là S.typhimurium (17,8%) và S. Enteritidis
(5,8%). S.typhimurium hiện diện phổ biến hơn, ở cả môi trường chăn nuôi và trên
đàn vịt, trong khi đó S. Enteritidis chỉ được phát hiện ở vịt có biểu hiện bệnh và
16


phân trên nền chuồng nuôi. Salmonella phân lập được đã kháng với phần lớn các
kháng sinh thông dụng như Tilmicosin, Enrofloxacin, Flumequin; Các loại kháng
sinh còn hiệu lực điều trị là Marbofloxacin, Oxytetracyclin, Fosfomycine,
Amikacine. Sử dụng hỗn hợp 2 kháng sinh Doxycylin + Neomycin có liệu lực với
Salmonella phân lập được và có thể ứng dụng điều trị. Việc phối hợp thêm nữa một
số loại kháng sinh đã có hiện tượng kháng thuốc qua thử nghiệm không nâng cao
hiệu quả điều trị (Nguyễn Đức Hiền, (2012)[12]).
* Tại tỉnh Hậu Giang:
Nghiên cứu khảo sát tỷ lệ nhiễm Salmonella trên đàn thủy cầm (vịt, vịt xiêm
(ngan), ngỗng) nuôi tại tỉnh Hậu Giang và xác định sự hiện diện của 2 chủng
Salmonella enteritidis và Salmonella typhimurium (liên quan đến ngộ độc thực
phẩm trên người) trong sản phẩm thủy cầm (thịt, trứng) thực hiện từ tháng 03 đến
tháng 11 năm 2011 cho thấy: tỷ lệ nhiễm vi khuẩn Salmonella spp. trên đàn thủy
cầm là 19,13%; Trong đó, tỷ lệ nhiễm của vịt là 17,43%; vịt xiêm là 23,44 % và
ngỗng là 25%. Tỷ lệ nhiễm theo loại mẫu (thân thịt, phân, vỏ trứng, lòng đỏ) lần
lượt là 32,76%, 21,01%, 13,73%, 0,13%. Chỉ phát hiện được S. enteritidis trên
mẫu thịt (3,45%) và mẫu phân (0,72%), không tìm thấy sự hiện diện của S.
typhimurium trong nghiên cứu này (Trần Ngọc Bích, (2012)[4]).
* Tại Đồng Bằng Sông Cửu Long:

Nghiên cứu xác định sự lưu hành của vi khuẩn Salmonella trên đàn vật nuôi
(lợn, gà, vịt) tại 6 tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long cho thấy tỷ lệ nhiễm Salmonella
chung là 7,1%, trong đó tỷ lệ nhiễm ở vịt cao nhất 8,7%, ở gà là 7,9% và ở lợn là
5,2%. Từ những mẫu thu thập, 80 chủng Salmonella đã được phân lập và 25 phân
loài đã được xác định. Serovar chủ yếu là S. Javiana, S. Derby, và S. Weltevreden.
S. Javiana và S. Weltevreden đã được phát hiện cùng nhau trong lợn, gà, vịt.
Những kết quả này chỉ ra rằng các phân loài Salmonella phân bố rộng rãi ở động
vật nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam (Tran TP, (2004)[41]).
* Tại Hưng Yên:
Tỷ lệ nhiễm chung Salmonella trên đàn vịt là 20,7%, khác nhau ở các huyện
và điều kiện nuôi dưỡng. Mùa xuân, hè nhiễm cao hơn mùa thu - đông với tỷ lệ
tương ứng là 23%, 27%, 17,01%; đàn vịt nhiễm chủ yếu Salmonella Typhimurium
17


và Salmonella Enteritidis tương ứng với tỷ lệ 29,26% và 7,31%; Salmonella
Typhimurium, Salmonella Enteritidis có độc lực mạnh, gây chết 100% chuột thí
nghiệm trong vòng 5-24 giờ sau tiêm. Kết quả làm kháng sinh đồ cho thấy
Salmonella phân lập được kháng với các loại kháng sinh Tetracyclin, Gentamycin,
Amoxicyclin với tỷ lệ 100%, 86,6% và 66,66% (Trần Văn Thành, (2010)[24]).
* Tại Bắc Ninh, Bắc Giang:
Tỷ lệ nhiễm Salmonella trên đàn vịt là 19,02%. Vịt nhiễm chủ yếu 2 chủng
là S.typhimurium (22,8%) và S. Enteritidis (8,5%). Salmonella phân lập được cũng
có mức độ đề kháng cao với một số kháng sinh thông dụng (Nguyễn Thị Chinh,
(2010)[7]).
* Tại Hà Tây trước đây:
Tỷ lệ nhiễm Salmonella trên đàn vịt là 21%, vịt các lứa tuổi đều nhiễm
Salmonella;, trong đó vịt con (1 - 56 ngày tuổi) nhiễm cao nhất (20,97% 25,42%); vịt đẻ nhiễm thấp hơn (8,78% - 14,4%) (Nguyễn Thị Ngọc Liên (1997)
[16]).
* Tại Hải Phòng:

Chưa có nghiên cứu đánh giá về tình hình bệnh PTH trên đàn vịt cũng như
sự mẫn cảm với một số kháng sinh thông dụng.
1.3. Tình hình Bệnh Phó thương hàn vịt ở Hải Phòng
1.3.1. Thực trạng chăn nuôi vịt nông hộ tại Hải Phòng
Ngành chăn nuôi nói chung và ngành chăn nuôi vịt nói riêng của thành phố
Hải Phòng trong những năm gần đây có những bước phát triển không ngừng cả về
số lượng và phương thức chăn nuôi, đến nay tổng đàn vịt đã tăng lên khoảng
1.309.000 con. Tuy nhiên phương thức chăn nuôi nhỏ lẻ, tận dụng môi trường sống
và thức ăn thức ăn tự nhiên, thức ăn tận dụng vẫn tồn tại. Chuồng trại không đảm
bảo vệ sinh thú y, mật độ trong chuồng nuôi chật hẹp. Con giống thường mua ở
chợ hoặc từ xã, nơi khác không đảm bảo chất lượng, .... Kết quả điều tra thực trạng
chăn nuôi vịt nông hộ trên địa bàn nghiên cứu được tổng hợp cụ thể như sau:
* Cơ cấu đàn vịt:
Bảng 1: Cơ cấu đàn vịt
18


Vịt đẻ
con
%

T
T Huyện

Vịt < 15 d
con
%

Vịt > 15 d
con

%

Tổng
đàn
(con)

1

Vĩnh Bảo

7.590

21,53 11.970 33,96

15.690

44,51

35.250

2

Thủy Nguyên

8.380
17.37

18,6

5.420

10.97

12,03

31.250

69,37

45.050

3

Tiên Lãng

0

23,38

0

14,76

45.960

61,86

74.300

4


Kiến Thụy

9.270
42.61

18,46

6.960
35.32

13,56

34.000

67,69

50.230

Tổng cộng
0
20,8
0
17,24 126.900
Ghi chú: d: ngày tuổi; Tỷ lệ % = số con x100/ tổng đàn.

61,95

204.830

Qua bảng 1 cho thấy: Cơ cấu đàn vịt trên địa bàn nghiên cứu trong thời gian

điều tra là: vịt dưới 15 ngày tuổi 17,24% , vịt trên 15 ngày tuổi 61,95%; vịt đẻ
cung cấp trứng chiếm 20,80%.
* Nguồn cung cấp con giống:
Bảng 2: Nguồn cung cấp con giống

T
T

Huyện

1

Vĩnh Bảo

2

Thủy Nguyên

3

Tiên Lãng

4

Kiến Thụy
Tổng cộng

Nguồn gốc con giống
Mua từ
Mua ở

địa
Tỷ lệ
Tỷ lệ
chợ
phương
(%)
(%)
(con)
khác
(con)


nguồn Tỷ lệ
gốc
(%)
(con)

Tổng
đàn
(con)

Tự
túc

Tỷ
lệ
(%)

0


0

3.110

8,82

30.390

86,21

1.750

4,96

35.250

0

0

1.200

2,66

43.550

96,67

300


0,67

45.050

0

0

5.700

7,67

67.400

90,71

1.200

1,62

74.300

0

0

500

1,00


49.530

98,60

200

0,40

50.230

0

0

10.510

5,13

190.870

93,19

3.450

1,68

204.830

Ghi chú: Tỷ lệ % = số con x100/ tổng đàn.
Qua bảng cho thấy: nguồn cung cấp con giống cho các hộ chăn nuôi nông

hộ chủ yếu là mua từ chợ, xã khác, không rõ nguồn gốc chiếm 98,32% (mua ở chợ
5,13%, mua từ xã khác 93,19%); chỉ có 1,68% các hộ sử dụng con giống rõ nguồn
gốc: mua từ cơ sở giống hoặc qua chọn lọc tại gia đình qua nhiều thế hệ. Hải
19


Phòng chưa có cơ sở cung cấp giống vịt đảm bảo, nguồn giống vịt cho chăn nuôi
Hải Phòng được cung cấp từ tỉnh ngoài, chủ yếu qua các thương lái được mua từ
Đại Xuyên Hà Nội, không có giấy chứng nhận nguồn gốc xuất xứ, giấy chứng
nhận kiểm dịch của cơ quan chức năng.
Việc chọn con giống trong chăn nuôi có ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả và
hiệu quả trong chăn nuôi. Tuy nhiên thực trạng chăn nuôi hiện nay trong cả nước
nói chung và Hải Phòng nói riêng, việc sử dụng con giống có chất lượng, an toàn
dịch bệnh chưa được quan tâm chú trọng trong nông hộ chăn nuôi. Trong khi đó, tỷ
lệ mắc, nhiễm Salmonella ở đàn vịt giống là rất lớn, do nguy cơ nhiễm từ đàn vịt bố
mẹ sang, từ máy ấp trứng không đảm bảo điều kiện vệ sinh thú y.
Những con giống mua tại chợ hay mua từ xã khác chưa được cơ quan Thú y
giám sát tình hình dịch bệnh, cấp giấy chứng nhận kiểm dịch động vật, không đảm
bảo điều kiện vệ sinh thú y, hoặc không rõ được đặc điểm chăn nuôi của đàn giống
bố mẹ. Do đó rất dễ mua phải đàn giống đã bị nhiễm mầm bệnh hoặc con giống
nhỏ, yếu, không đảm bảo yêu cầu làm giống, dễ bị nhiễm và phát bệnh trong quá
trình chăm sóc nuôi dưỡng. Đặc biệt trong giai đoạn con giống vịt có nguồn gốc từ
Trung Quốc không đảm bảo chất lượng, an toàn dịch bệnh xuất hiện trên thị trường
Việt Nam, trong khi người chăn nuôi không phân biệt được con giống đảm bảo.
* Phương thức chăn nuôi:
Bảng 3: Phương thức chăn nuôi
TT
1
2
3

4

Huyện

Thường xuyên
Số hộ
Tỷ lệ %
64
64,00
35
35,00
83
83,00
11
11,00
48,25
193

Không thường xuyên
Số hộ
Tỷ lệ %
36
36,00
65
65,00
17
17,00
89
89,00
207

51,75

Vĩnh Bảo
Thủy Nguyên
Tiên Lãng
Kiến Thụy
Tính chung
Qua bảng cho thấy: 51,75% các hộ chăn nuôi theo phương thức chăn nuôi

không thường xuyên, 48,25% các hộ áp dụng phương pháp chăn nuôi thường
xuyên. Việc đưa đàn vịt chăn nuôi phụ thuộc vào nhiều yếu tố: nhu cầu của thị
trường, nguồn vốn của gia đình, ... Việc chăn nuôi không thường xuyên cũng có
thể coi là một ưu điểm làm giãn mật độ, tần suất chăn nuôi, tạo thời gian để trống
20


môi trường chăn nuôi, góp phần hạn chế dịch bệnh phát triển. Trong thời gian gần
đây do ảnh hưởng của dịch bệnh đặc biệt là dịch cúm gia cầm gây thiệt hại lớn cho
đàn chăn nuôi và giá thức ăn chăn nuôi tăng cao khiến nhiều hộ nông dân giãn mật
độ và giảm đàn nuôi, cho thấy tác động không nhỏ của dịch bệnh đến kinh tế của
hộ chăn nuôi.
* Hình thức chăn nuôi:
Bảng 4: Hình thức chăn nuôi
Hình thức chăn nuôi
TT

Huyện

1


Nuôi cạn

Kết hợp chăn thả

Vĩnh Bảo

0

100

2

Thủy Nguyên

0

100

3

Tiên Lãng

0

100

4

Kiến Thụy


0

100

0

400

Tổng cộng

Qua bảng cho thấy hình thức chăn nuôi vịt tại 4 huyện của Hải Phòng là
hình thức nuôi kết hợp chăn thả, đây cũng là hình thức chăn nuôi truyền thống với
ưu thế tận dụng được môi trường và nguồn thức ăn tự nhiên.
Mô hình nuôi vịt kết hợp trồng lúa và thả cá đã được nghiên cứu và áp dụng
đem lại hiệu quả kinh tế cao cho các hộ chăn nuôi vùng Đồng Bằng Sông Hồng và
Sông Cửu Long (Ái, Đ.N., (2004)[1]). Tuy nhiên đây là hình thức chăn nuôi cũng
có nhược điểm là môi trường chăn nuôi có nguy cơ không đảm bảo điều kiện vệ
sinh thú y, dễ bị nhiễm và lây lan nguồn bệnh, việc khử trùng môi trường chăn nuôi
bị hạn chế, mầm bệnh dễ dàng tồn tại và lưu cữu trong môi trường.
Đồng thời việc chăn thả vịt trên kênh, mương, đồng ruộng sẽ thải vào môi
trường một lượng lớn chất thải, gây ô nhiễm môi trường và nguy cơ phát tán, lây
lan dịch bệnh cao, gây khó khăn cho công tác quản lý, kiểm soát dịch bệnh.
* Thức ăn sử dụng trong chăn nuôi:
Bảng 5: Thức ăn sử dụng trong chăn nuôi
Thức ăn sử dụng (số hộ/%)
21


1


Vĩnh Bảo

2

Thủy Nguyên

3

Tiên Lãng

4

Kiến Thụy
Tổng cộng

23

0

0

77

(23,0)
17

(0)
0

(0)

0

(77,0)
83

(17,0)
32

(0)
0

(0)
0

(83,0)
68

(32,0)
0

(0)
0

(0)
0

(68,0)
100

(0)

72

(0)
0

(0)
0

(100,0)
328

(18,0)

(0)

(0)

(82,0)

Qua bảng cho thấy: nông hộ chăn nuôi vịt chủ yếu sử dụng thức ăn tự nhiên
kết hợp thức ăn tận dụng và cám công nghiệp (82,0%). Trong đó, ở huyện Kiến
Thụy là 100%, ở huyện Thủy Nguyên 83,0%, ở huyện Vĩnh Bảo 77,0% và ở huyện
Tiên Lãng 68,0%.
Thức ăn sử dụng trong chăn nuôi cần phải đáp ứng được yêu cầu, tiêu chuẩn
vệ sinh thức ăn đối với vật nuôi. Thức ăn chăn nuôi chiếm phần lớn chi phí trong
chăn nuôi (60-80%). Năm 2006 tỷ lệ sử dụng thức ăn công nghiệp trong ngành
chăn nuôi Việt Nam là 41,6%, thấp hơn mức trung bình của thế giới là 48,2% và
đặc biệt thấp hơn các nước có ngành chăn nuôi phát triển như Thụy Điển, Na Uy,
Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc với tỷ lệ sử dụng thức ăn công nghiệp trên 80% (Bộ
NN&PTHT, 2007). Sử dụng thức ăn tự nhiên là ưu điểm, lợi thế của ngành chăn

nuôi vịt: sẵn có, chi phí thấp. Tuy nhiên, thức ăn tự nhiên và thức ăn tận dụng là
nguồn thức ăn chưa được kiểm tra chất lượng đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh thú y
thức ăn cho vật nuôi. Một số hộ chăn nuôi còn sử dụng bã bia làm thức ăn cho vịt.
Việc sử dụng thức ăn không đảm bảo vệ sinh thú y theo qui định ảnh hưởng
rất lớn đến tình trạng sức khỏe và khả năng phòng bệnh của đàn vật nuôi, đặc biệt
trong quá trình lưu trữ, bảo quản thức ăn không đảm bảo dễ gây hiện tượng lên
men, tạo những hoạt chất không có lợi cho tiêu hóa của vật nuôi, tạo môi trường
thuận lợi cho các vi sinh vật gây hại trong đường ruột của vật nuôi phát triển, làm
giảm sức đề kháng của cơ thể, tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập và phát bệnh.
Khi đó vi khuẩn gây hại sẽ có cơ hội nhân lên và gây bệnh, đặc biệt là vi khuẩn
Salmonella, E.coli.
22


Vì vậy việc sử dụng thức ăn đảm bảo vệ sinh thú y trong chăn nuôi cần
được quan tâm, chú trọng, góp phần nâng cao hiệu quả chăn nuôi và hạn chế dịch
bệnh do thức ăn gây nên.
* Phương pháp vệ sinh, khử trùng tiêu độc:
Bảng 6: Phương pháp vệ sinh, khử trùng tiêu độc
Phương pháp vệ sinh
TT

Huyện

1 Vĩnh Bảo
2 Thủy Nguyên
3 Tiên Lãng
4 Kiến Thụy
Tổng cộng


Cơ giới

Vật lý

Cơ giới + hóa học

37

0

63

Khác
0

(37,0)
21

(0)
0

(63,0)
79

(0)
0

(21,0)
19


(0)
0

(79,0)
81

(0)
0

(19,0)
1

(0)
1

(81,0)
98

(0)
0

(1,0)
78

(0)
1

(98,0)
321


(0)
0

(19,5)

(0,25)

(80,25)

(0)

Qua bảng cho thấy số hộ chăn nuôi chỉ sử dụng phương pháp cơ giới để vệ
sinh chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi chiếm tỷ lệ 19,5%; số hộ sử dụng cả hai
phương pháp cơ giới và hóa học để vệ sinh chiếm 80,25%. Qua đó cho thấy việc
vệ sinh khử trùng tiêu độc trong chăn nuôi nông hộ tại Hải Phòng đã dần dần thay
đổi, phương pháp vệ sinh có khả năng diệt khuẩn cao đã được áp dụng. Đây là một
yếu tố góp phần đẩy lùi dịch bệnh trong chăn nuôi. Tuy nhiên việc chỉ sử dụng
phương pháp cơ giới vẫn chiếm tỷ lệ cao, chưa diệt được hết mầm bệnh trong khu
chăn nuôi cũng như dụng cụ chăn nuôi. Vì vậy tạo điều kiện cho mầm bệnh xâm
nhập, cư trú, phát triển và gây bệnh khi có điều kiện thuận lợi.
Trong chăn nuôi, vấn đề sát trùng chuồng trại là hết sức quan trọng với mục
đích nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những vi sinh vật ngoài môi trường gây
bệnh cho vật nuôi, nhằm để giảm đi bệnh tật cho gia súc, gia cầm, góp một phần
đáng kể cho sự thành công hay thất bại trong nghề. Tuy nhiên thực tế, vấn đề sát
trùng chuồng trại chưa quan tâm đúng mức vì hiệu quả không thấy ngay được
23


trước mắt, không có tác dụng trực tiếp ngay như việc sử dụng thức ăn hay thuốc
thú y. Vì vậy vấn đề này cần phải hết sức quan tâm để tiến hành đúng qui trình,

đúng đối tượng mà hóa chất tác động có hiệu quả.
Đồng thời chất thải chăn nuôi nếu không được áp dụng biện pháp vệ sinh,
xử lý đảm bảo trước khi thải vào môi trường sẽ làm ô nhiễm nguồn nước, không
khí, có nguy cơ lây nhiễm mầm bệnh cho đàn vật nuôi, ảnh hưởng tới sức khỏe con
người, gây khó khăn cho công tác quản lý dịch bệnh. Theo báo cáo đánh giá của
Cục Thú y: Các hoạt động gây ô nhiễm do chăn nuôi vẫn đang tiếp tục diễn ra ở
nhiều nơi trên cả nước. Tình trạng chăn nuôi thả rông, chăn thả trên đất dốc, đầu
nguồn nước v.v... còn khá phổ biến đã làm tăng diện tích đất xói mòn, suy giảm
chất lượng nước, giảm thiểu khả năng sản xuất nông nghiệp trên vùng rộng lớn. Ô
nhiễm môi trường còn làm phát sinh dịch bệnh, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả chăn
nuôi. Từ cuối năm 2003, dịch cúm gia cầm đã bùng phát. Từ năm 2003 đến nay,
dịch đã tái phát ở nhiều tỉnh thành trong cả nước, đã phải tiêu huỷ hàng trăm triệu
gia cầm các loại, thiệt hại ước tính lên đến hàng ngàn tỷ đồng, gây tổn thất lớn cho
ngành chăn nuôi, gây mất an toàn thực phẩm và còn có nguy cơ lây nhiễm sang
người (Nguyễn Khoa Lý)[17].
* Tần suất vệ sinh, khử trùng tiêu độc:
Bảng 7: Tần suất vệ sinh, khử trùng tiêu độc
Tần suất vệ sinh
TT

Huyện

1
tuần/lần

Tỷ lệ
(%)

2
tuần/lần


Tỷ lệ
(%)

Khác

Tỷ lệ
(%)

1 Vĩnh Bảo

16

16,0

43

43,0

41

41,0

2 Thủy Nguyên

23

23,0

34


34,0

43

43,0

3 Tiên Lãng

19

19,0

31

31,0

50

50,0

4 Kiến Thụy

5

5,0

59

59,0


36

36,0

Tính chung

63

15,75

167

41,75

170

42,50

24


Qua bảng cho thấy tần suất vệ sinh, khử trùng tiêu độc tại các hộ chăn nuôi:
Số hộ thực hiện vệ sinh 1 tuần/lần còn hạn chế, chiếm 15,75%; Số hộ thực hiện vệ
sinh 2 tuần/lần chiếm 41,75%; Số hộ không thực hiện vệ sinh khử trùng tiêu độc
hoặc thực hiện vệ sinh lâu hơn 2 tuần/lần (khác) chiếm 42,50%.
Với thực trạng vệ sinh khử trùng tiêu độc như trên thì không đảm bảo điều
kiện vệ sinh thú y trong chăn nuôi, theo đó nguy cơ xảy ra bệnh và làm lây lan dịch
bệnh là rất cao.
Việc định kỳ vệ sinh tiêu độc sát trùng cho cơ sở chăn nuôi là một biện pháp

chủ động để loại trừ mầm bệnh giúp cho người nuôi phòng ngừa được các dịch
bệnh nguy hiểm. Tuy nhiên, việc thực hiện không đúng phương pháp như không
làm vệ sinh trước khi phun thuốc, chọn loại thuốc, thời gian thực hiện, … sẽ gây
lãng phí công sức, tiền của mà dịch bệnh vẫn xảy ra. Thời gian thực hiện tiêu độc
khử trùng được coi là có hiệu quả khi áp dụng định kỳ hàng tuần hoặc hàng tháng
tiến hành phun thuốc một lần; khi có dịch bệnh: thực hiện tiêu độc một tuần 2 lần,
liên tục cho đến khi hết dịch; hoặc sau mỗi khi xuất bán phải vệ sinh, sát trùng tiêu
độc và để trống chuồng trong thời gian tối thiểu là 7 ngày trước khi nuôi mới.
Đồng thời phương pháp vệ sinh khử trùng tiêu độc phải tuân thủ theo 2 bước: làm
sạch cơ học và phun thuốc sát trùng (Phan Trung Nghĩa)[19].
* Số hộ chăn nuôi lại sau khi bệnh xảy ra
Bảng 8: Số hộ chăn nuôi lại sau khi bệnh xảy ra
TT

Huyện

Số lượng (hộ)

Tỷ lệ (%)

1

Vĩnh Bảo

91

91,0

2


Thủy Nguyên

78

78,0

3

Tiên Lãng

95

95,0

4

Kiến Thụy

82

82,0

346

86,5

Tính chung
25



×