Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

áo dài việt nam qua các thời kì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.11 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Con người ai cũng có nhu cầu về ăn mặc, đây là những nhu cầu cần thiết từ xưa đến nay.
Theo thời gian những nhu cầu này luôn thay đổi và phát triển, nhất là về trang phục. Ở mỗi
quốc gia, trang phục không những chỉ đẹp mà con mang tính giá trị lịch sử, mang tính đâm
đà và vẻ đẹp văn hóa của mỗi quốc gia. Khi nhắc tới Nhật Bản chúng ta sẽ nghĩ tới Kimono,
ở Trung Quốc sẽ là Sườn xám, còn ở Hàn Quốc lại là Hanbok. Cũng như vậy khi nhắc tới
trang phục truyền thống của người Việt họ sẽ liên tưởng tới chiếc áo dài thướt tha với hai tà
áo luôn bay trong gió.
Hình ảnh chiếc áo dài luôn gắn liền với cuộc sống của người dân từ nông thôn cho đến
thành thị. Theo lệ trong mỗi dịp trọng đại, mọi người luôn vận khăn đóng áo dài, từ nam phụ
lão ấu cho đến các dịp ma chay,ngày lễ, hội làng….ai ai cũng đều mặc được, không phân biệt
giàu sang nghèo khó. Chính vì vậy với sự phổ biến này áo dài đã trờ thành trang phục truyền
thống của người Việt Nam. Cho dù bị ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa khác nhau từ phương
Đông đến phương Tây, áo dài vẫn mang nét riêng của mình để không thể lẫn lộn với kiểu
dáng khác. Ngày nay, chiếc áo dài ngày càng được cải tiến theo nhiều kiểu lạ và đẹp với
nhiều màu sắc khác nhau nhưng vẫn giữ được nét đẹp đặc trưng của chiếc áo dài. Trải qua
thời gian và năm tháng, bộ trang phục truyền thống áo dài vẫn tồn tại và phát huy được thế
mạnh của mình trong đời sống văn hóa và được coi như là “ quốc phục “ của Việt Nam.
Bởi vì tự hào với vẻ đẹp của chiếc áo dài của đất nước mình, tôi muốn được tìm hiểu
cũng như cảm nhận và lĩnh hội về những nét đẹp trong văn hóa của nước mình thông qua
hình ảnh của chiếc áo dài. Vì vậy với những lí do trên, tôi đã quyết định chọn đề tài với tên
gọi : “ áo dài Việt Nam xưa và nay” để làm đề tài nghiên cứu cho môn Phương Pháp Nghiên
Cứu Khoa Học.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của đề tài là nhằm tiềm hiểu về nguồn gốc, sự phát triển của trang phục áo dài
Việt Nam thay đổi từ xưa cho đến nay.Làm rõ được vị trí của áo dài trong đời sống và xã hội
của con người.
3. Lịch sử nghiên cứu:

Từ trước đến giờ đề tài áo dài luôn được quan tâm, nghiên cứu và chiếc áo dài đã thu hút


nhiều học giả, nhà nghiên cứu tìm hiểu về nguồn gốc lịch sử hình thành của nó. Một số tác
phẩm nói về chiếc áo dài như: Gió và chiếc áo dài Việt Nam trong Quê hương tôi của Tràng
Thiên ( NXB Thời Đại, 2012) nói về nét đẹp của tà áo dài nhờ có gió.


Đoàn Thị Tình (2006), Trang phục Việt Nam, NXB Mỹ Thuật. Cuốn sách này đã đề cập
đến sự thay đổi của áo dài từ những năm 20 của thế kỉ XX đến những năm cuối năm của thế
kỉ XX.
Ngoài ra còn có một số bài viết được trích ra từ tạp chí, bài báo như: tạp chí Văn hóa dân
gian, tạp chí Xưa và nay, tạp chí Dân tộc và thời đại , tinh hoa áo dài trong tạp chí du lịch….
Những tác phẩm và bài viết trên đã cho ta thấy được phần nào về lịch sử và sự thay đổi
của áo dài qua thời gian và năm tháng. Và đó là những tư liệu quý giá để tôi thực hiện đề tài
này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng: Phân tích để làm rõ quá trình hình thành cũng như đặc trưng của chiếc áo dài.
Phạm vi: Không giới hạn về không gian và thời gian.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Về vấn đề phương pháp nghiên cứu tôi vận dụng phương pháp lịch sử kết hợp chặt chẽ
với phương pháp logic.
Tìm hiểu và chọn lọc các thông tin cùng một số các tư liệu tìm đọc để nghiên cứu về lịch
sử hình thành và phát triển của chiếc Áo dài Việt Nam qua các thời đại, với sự cách tân về
kiểu dáng đa dạng trong nét đẹp của dân tộc và sự cần thiết trong sự lưu giữ và phát triển nét
đẹp vốn có của nó.
6. Bố cục của đề tài:
Đề tài này gồm có 4 phần:
Phần mở đầu
1.
Lý do chọn đề tài
2.
Mục đích nghiên cứu

3.
Lịch sử nghiên cứu
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.
Phương pháp nghiên cứu
6.
Bố cục của đề tài
Nội dung
Chương 1: Nguồn gốc và lịch sử hình thành của áo dài
Chương 2: Những nét mới của áo dài cách tân và các loại áo dài ngày nay
Chương 3: Hình ảnh áo dài xưa – nay nét đẹp nhân văn
Kết luận
Tài liệu tham khảo

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC VÀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỦA ÁO DÀI
1.1 Nguồn gốc của áo dài
Ở Việt Nam mọi người dân đều biết áo dài và coi áo dài là trang phục truyền thống nhưng
không ai biết được chiếc áo dài ra đời từ lúc nào và hình dáng ra sao vì không có tài liệu ghi
nhận và ít ai chú ý tới . Theo một số tài liệu ghi rằng, trang phục xa xưa nhất của người Việt
được thấy trên những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách nay khoảng vài
nghìn năm, cho thấy hình ảnh người phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Và sử gia Đào
Duy Anh viết, “Theo sách Sử ký chép thì người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên ta, mặc áo dài
về bên tả (hình thức tả nhiệm). Có sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho
dân quận Cửu Chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách đó chép thì ta có


thể suy luận rằng trước hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về tay trái, mà sau bắt chước
người Trung Quốc mới mặc áo gài về tay phải”. Ngoài ra còn có tư liệu cho rằng kiểu sơ

khai của áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, hơi giống áo tứ thân, sau đó qua lao động sản xuất
chiếc áo được thay đổi để phù hợp với lao động hơn và trở thành áo tứ thân, ngũ thân.

Hình 1.1: Chiếc áo Giao Lãnh sơ khai
1.2 Lịch sử hình thành
Áo Dài, trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam, ôm sát cơ thể, có cổ cao và dài
khoảng ngang gối. Nó được xẻ ra ở hông. Áo Dài vừa quyến rũ lại vừa gợi cảm, vừa kín đáo
nhưng vẫn biểu lộ đường nét của một người thiếu nữ. Tuy nhiên, trải qua các giai đoạn lịch


sử khác nhau, những vùng địa lý khác nhau, trang phục áo đã thay đổi và hình thành nên
những đặc sắc riêng.
Năm Hưng Long thứ tám 1301 thời Trần Anh Tông cấm dân chúng không được mặc áo
rộng tay hay năm 1374 Vua Trần Duệ Tông cấm người dân dùng trang phục theo Bắc Quốc.
Tuy nhiên việc Chúa Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong, khi xưng Vương năm 1744, đã bắt
quan dân Thuận Quảng phải mặc lễ phục lấy mẫu từ sách Tam Tài Đồ Hội của nhà Minh,
Trung Quốc. Rồi năm 1776, sau khi quân đội của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài chiếm được kinh
đô Phú Xuân của xứ Đàng Trong, quan Hiệp Trấn Thủ Lê Quý Đôn của nhà Trịnh ra lệnh cho
dân ở đây phải thay đổi lại lề lối ăn mặc theo tục lệ cũ, nghĩa là giống như cách trang phục
của Đàng Ngoài lúc bấy giờ, cũng như ở Đàng Trong trước biến đổi thời 1744. Theo lệnh
này, về thường phục thì "Từ nay trở đi, đàn ông và đàn bà chỉ được mặc loại áo ngắn tay với
cổ đứng…” Ngắn tay tức là tay áo chỉ dài đến cổ tay, thay vì dài gấp đôi chiều dài tay như
trong áo lễ.
Nhưng áo dài không phải là lễ phục. Áo dài chỉ là một loại thường phục trang trọng có
thể mặc để tiếp khách, hoặc đi ra đường. Những khi có lễ, người xưa phải khoác ra ngoài áo
dài một cái áo rộng tay, như áo tấc, áo dấu, áo tràng ngoài dân gian; hoặc áo bào, áo mệnh
phụ trong triều. Chỉ có các lễ phục này mới mang ảnh hưởng của phương Bắc. Trong khi đó,
từ đầu đến cuối quyển sách Trung Quốc Phục Trang Sử nổi tiếng, viết và minh họa về y phục
Trung Hoa từ đời Xuân Thu cho đến những năm đầu Dân Quốc (477 trước Công Nguyên đến
thập kỷ 1920 sau Công Nguyên), không thấy đả động gì đến bì bào. Loại bì bào độc nhất ở

Trung Quốc, thường gọi là trường xàm, mà người mình hay gọi theo tiếng Quảng Đông là
sườn xám, có nghĩa là áo dài, chỉ xuất hiện từ Trùng Khánh và Thượng Hải trong thập niên
1920. Sườn xám trở thành nổi tiếng nhờ bà Tống Mỹ Linh, vợ Thống Chế Tưởng Giới
Thạch.
Cũng nên để ý rằng phụ nữ của một số bộ tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam cũng mặc
loại áo giống áo dài dưới đồng bằng. Trong khi người cùng những bộ tộc ấy các nước chung
quanh lại không thấy mặc loại áo này. Có một sự hiểu lầm khá phổ biến gần đây, là áo dài cài
bên bây giờ có gốc từ áo tứ thân xẻ giữa. Đây là những sự hiểu lầm rất đáng tiếc. Thật ra hai
dòng áo dài tứ thân và năm thân được truyền xuống từ ngàn xưa, vẫn luôn giữ nguyên vẹn
hình dạng và tính chất của chúng.
Trong khoảng thế kỉ 17 thời vua Minh Mạng truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt
Nam như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665
với sắc lệnh nhắc nhở: "... áo đàn bà con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ
xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế...". Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra
chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt phải mặc quần hai ống, nên hồi ấy mới xuất hiện câu ca
dao than vãn: “Tháng Tám có chiếu vua ra.Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng!”
Từ lúc đó trở đi cho tới thế kỉ 19, để áo dài có sự trang trọng và quyền quý hơn, phụ nữ
thành thị đã biến tấu chiếc áo dài tứ thân thành áo dài ngũ thân nhằm thể hiện sự giàu sang,
địa vị trong xã hội, và chiếc áo dài ngũ thân tương đương với ngũ hành: Kim – Mộc – Thủy –
Hỏa – Thổ.


Hình 1.2: Áo dài ngũ thân
Giống như một quy luật, thời trang cũng đi liền với diễn biến lịch sử, chiếc áo dài đã phát
triển theo một đỉnh cao mới, vào năm 1932 làn sóng văn hóa Tây Âu du nhập vào Việt Nam
đã làm ảnh hưởng đến gu thẩm mỹ của người dân, đặc biệt là hình ảnh chiếc áo dài. Vào thời
gian này một hoa sĩ tên Cát Tường gọi theo tiếng pháp là Le Mur vào thập kỷ 1930 đã thực
hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo tứ thân để biến nó chỉ còn lại hai vạt trước và sau
mà thôi.Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển chuyển trong
bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo những đường cong cơ thể người mặc tạo

nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước được
dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn. Tuy nhiên, áo
dài Le Mur có nhiều biến cải mà nhiều người thời đó cho là "lai căng" thái quá. Lối tân thời
này tuy được nhiều người yêu thích nhưng cũng đã bị một số dư luận khi đó tẩy chay. Vài
năm sau khi áo dài Le Mur xuất hiện được nhiều khen chê khác nhau thì một họa sĩ tên Lê
Phổ đã thay đổi bỏ bớt những nét lai căng, cứng cỏi của áo Le Mur, đồng thời đưa thêm các
yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân
người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn. Sự dung hợp này quá hài hòa, vẹn vẻ giữa
cái mới và cái cũ, được giới nữ thời đó hoan nghênh nhiệt liệt.


Hình 1.3: Áo dài Le Mur
Cho đến cuối thập niên 50, trong một buổi lễ khai mạc, phu nhân ông Ngô đình Nhu là bà
Trần Lệ Xuân đã xuất hiện với áo dài không cổ, bà đã thiết kế ra kiểu áo dài cách tân mới bỏ
đi phần cổ áo gọi là áo dài cổ thuyền, cổ hở, cổ khoét, dân gian gọi là áo dài Trần Lệ Xuân
hay áo dài bà Nhu. Không chỉ lạ về mẫu áo, chiếc áo dài hở cổ còn được ‘phá cách’ với họa
tiết trang trí trên áo, nhành trúc mọc ngược tạo ra một làn song thời trang áo dài mới.


Hình 1.3: Áo dài bà Nhu
Vào thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo dài với cách
ráp tay raglan (giác lăng). Cách ráp này đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất khi may áo
dài: những nếp nhăn thường xuất hiện hai bên nách. Cách ráp này cải biến ở chỗ hàng nút cài
được bố trí chạy từ dưới cổ xéo xuống nách, rồi kế đó chạy dọc một bên hông. Với cách ráp
tay raglan làn vải được bo sít sao theo thân hình người mặc từ dưới nách đến lườn eo, khiến
chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình người phụ nữ, tạo thêm tính thẩm mỹ.
Từ đây, chiếc áo dài Việt Nam được hình thành.
Những năm 1968 – 1989 khi mà làn sóng Hippy đang thịnh hàn với kiểu váy ngắn và
quần ống loe thì áo dài cũng được thiết kế theo kiểu áo dài với quần ống loe. Phần eo được
nối rộng hơn so với áo dài bà Nhu, vạt áo may hẹp và ngắn tới đầu gối, thân áo rộng lượn

theo dáng người và không chiết eo, cổ áo thấp, quần được may rất dài và rộng tới 60 cm hoặc
mặc với quần tây. Kiểu áo dài này thịnh hành đến cuối năm 1989. Song song với áo dài
Hippy thì có áo dài mini (1971) áo dài này phù hơp cho học sinh với tà áo dài ngắn đên đầu
gối, áo không chit eo nhưng vẫn may theo đường cong cơ thể. Áo dài có sự cách tân hiện đại
nhưng vẫn kết hợp với kiểu cũ có cổ. Kiểu áo dài này làm tôn lên sự hồn nhiên, dễ thương
của các nữ sinh.
Ngày nay áo dài càng ngày càng phát triển không chỉ dừng lại ở kiểu dáng truyền thống
mà chiếc áo dài còn được thiết kế thành áo cưới, áo dài vạt ngắn mặc với quần jean hay còn


gọi là áo dài cách tân ngày nay… tuy được biến đổi nhiều theo thẩm mỹ của mỗi thời đại
nhưng áo dài vẫn giữ được nét truyền thống của tà áo dài Việt xưa.

Hình 1.5: Sự thay đổi áo dài cho tới ngày nay
CHƯƠNG 2: NHỮNG NÉT MỚI CỦA ÁO DÀI CÁCH TÂN VÀ CÁC LOẠI ÁO
DÀI NGÀY NAY
2.1 Những nét mới của áo dài cách tân
Một vài nhà tạo mẫu đã xuất hiện trong giai đoạn 1930 nhưng gần như họ chỉ bỏ được
phần nối giữa sống áo. Tay áo vẫn may nối. Nổi nhất lúc ấy là nhà may Cát Tường ở Hà Nội.
Năm 1939 nhà tạo mẫu này đã tung ra một kiểu áo dài được Âu hóa. Áo Le Mur vẫn giữ
nguyên phần áo dài may không nối sống bên dưới. Nhưng cổ áo khoét hình trái tim. Có khi
áo được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ. Vai áo tay bồng, tay nối ở vai. Khuy áo
may dọc trên vai và sườn bên phải, nhưng kiểu áo này chỉ tồn tại đến khoảng năm 1943.
Đến khoảng năm 1950 sườn áo bắt đầu được may có eo. Các thợ may lúc đó đã khôn
khéo cắt áo lượn theo thân người. thân áo sau rộng hơn thân trước, để áo ôm theo thân dáng
mà không cần chít eo. Vạt áo cắt hẹp hơn, thân áo trong được cắt ngắn dần từ giai đoạn này,
cổ áo bắt đầu cao lên trong khi gấu hạ thấp xuống.
Áo dài được thay đổi nhiều nhất trong thập kỷ 60, áo dài bắt đầu được may chít eo, eo áo
cắt cao lên. Gấu áo lúc này cắt thẳng ngang và may dài gần đến mắt cá chân. Nhiều người
sau đó còn may áo dài với cổ khoét tròn. Đến gần cuối thập kỷ 60, áo dài mini trở thành thời

thượng. Vạt áo may hẹp và ngắn, có khi đến đầu gối, áo may rộng hơn, không chít eo nữa,
nhưng vấn giữ đường lượn theo thân thể. Cổ áo thấp xuống còn 3cm, tay áo cũng được may


rộng ra. Đặc biệt trong khoảng thời gian này, vai áo dài bắt đầu được cắt lối raglan để ngực
và tay áo ôm hơn, ít nhăn mà lại đỡ tốn vải. tay áo được nối với thân từ chéo vai. Quần may
rất dài với gấu rộng đến 60cm và nhiều khi được lót hai, ba lớp. Đến những năm 90, áo dài
đã trở lại và cầu kì hơn, thanh nhã hơn và bắt đầu được bạn bè Quốc tế nghĩ tới như là một
biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam.
Từ đây áo dài hiện đại chính thức ra đời và vẫn giữ nguyên nét đẹp ấy cho tới ngày nay,
dù đã trải qua bao nhiêu năm tháng chiến tranh, áo dài vẫn là một biểu trưng của người phụ
nữ Việt. Áo dài còn trở nên đặc biệt khi mỗi chiếc áo dài chỉ may riêng cho một người và chỉ
có người ấy mặc ôm sát cơ thể một cách vừa vặn và đẹp nhất. Cho dù giờ đây người Việt
không còn mặc áo dài như một trang phục thường ngày như trước đây nhưng vào những dịp
lễ quan trọng thì áo dài vẫn là ưu tiên hàng đầu.
Không quá cầu kì trong cách mặc áo dài, đối với phụ nữ thì có thể may áo theo kiểu
truyền thống, tà áo thướt tha mặc với quần lụa. Ngày nay các nhà thiết kế áo dài nổi tiếng
như Sĩ Hoàng, Võ Việt Chung, Việt Hùng…vẫn sáng tạo ra những mẫu áo dài cách điệu để
phù hợp với giới trẻ như áo ngắn tay, tà ngắn có thể mặc với quần jeans, quần ôm… ngay cả
nam giới cũng khuyên khích mặc áo dài trong các dịp lễ để tôn lên nét đẹp truyền thống đáng
ngưỡng mộ của người Việt.
2.2 Các kiểu áo dài
2.2.1 Áo dài nữ giới
Thuở xưa phụ nữ Việt Nam từ Bắc xuống Nam đều mặc váy. Đến ngày nay chiếc váy đó
chỉ còn rải rác ở một số vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Thanh Nghệ. Chiếc áo dài đã trở
thành biểu tượng của người phụ nữ Việt.
Phụ nữ có nhiều sự lựa chọn cho áo dài vì từ thế kỷ XVIII đến nay thì từ áo thân đã nâng
cấp lên thành áo dài và có nhiều sự biến đổi để càng ngày càng phù hợp với hoàn cảnh lúc
bấy giờ hơn. Để tôn lên sự dịu dàng đằm thắm nhưng vẫn toát lên vẻ kiêu sa, đài cát cho
người phụ nữ thì họ đã lựa chọn chất liệu và kiểu dáng phù hợp với minh. Và áo dài được

phụ nữ mặc nhiều hơn nam giới, ví dụ như trong các dịp lễ hội, đi dạy, đi học, đi làm…
2.2.2 Áo dài nam giới
Có lẽ sẽ thiếu sót trầm trọng nếu không đề cập tới áo dài dành cho nam giới. Theo nhà
nghiên cứ Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khan đội đầu cũng là
một truyền thống cho phái nam. Thường thì đàn ông, đàn bà dung áo cổ đứng ngắn tay, cửa
ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy vào sở thích mỗi người.
Theo biên khảo Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đôi với quần hai ống và khăn đội đầu
cũng là quốc phục của nam giới. Các bà, các cô dung màu sắc óng ả, tươi mát thì nam giới
thường chỉ dung màu đen, trắng hoặc lam thẫm. Ngày nay ta ít có dịp bắt gặp hình ảnh thanh
niên mặc áo dài, chỉ những người có tuổi trong trang phục áo dài truyền thống. Thế nhưng
đây vẫn là một trang phục đẹp của nam giới mỗi khi có dịp trưng diện.


Hình 2.1 Áo dài nam giới
2.2.3 Áo dài trẻ em

cách tân

Hình 2.2 Áo dài trẻ em ngày
xuân
Trẻ em Việt Nam thường
mặc áo dài trong các dịp lễ tết, đám
cưới. Trang phục của các em
thường có màu sáng, tươi mắt như
màu đỏ, hồng… và thường đội khăn xếp tượng trưng cho sự trong sáng, hồn nhiên. Có cả áo
dài dành cho bé trai và bé gái ở mọi độ tuổi. Qua đó cũng gửi gắm thông điệp về một cuộc
sống hạnh phúc tươi đẹp.
2.2.4 Áo dài trong các ngày lễ
Áo dài trong các ngày cưới hỏi:
Nhân dân ta mỗi khi nói đến ngày cưới vẫn thường cho rằng: “Trăm năm mới có một lần”

có lẽ do đó mà từ trước đến nay những bộ trang phục cưới bao giờ cũng hết sức đặc biệt.


Hình 2.3 Cô dâu chú rể mặc áo dài cưới hỏi
Ngày xưa, bộ trang phục mà các cô dâu mặc trong ngày cưới cũng chính là trang phục
các cô mặc trong ngày lễ hội cổ truyền của dân tộc là áo tứ thân, áo ngũ thân, áo dài. Cho đến
nay khi áo dài chính thức trở thành trang phục truyền thống của Việt Nam thì trong ngày cưới
cô dâu thường mặc áo dài đỏ và trắng. Màu trắng thể hiện sự tinh khiết cả về thể xác lẫn tâm
hồn, còn màu đỏ thể hiện mơ ước hai vợ chồng sẽ trăm năm hạnh phúc, son sắc, thủy chung.
Nhưng cho đến nay áo dài chỉ được thấy trong các đám hỏi, dạm ngõ, còn trong đám cưới cô
dâu thường chọn chiếc váy âu sang trọng
Áo dài trong tang lễ:
Đối với người Việt Nam chọn trang phục để mặc trong tang lễ là điều quan trọng, vì
không gian tang lễ khác hoàn toàn so với các không gian khác. Đến tang lễ không chỉ là chia
buồn với gia đình người đã mất mà còn phải thể hiện sự tôn kính đối với người đã khuất. Từ
xưa đến nay trang phục trong tang lễ là bộ đồ xô gai, tuy vậy áo dài vẫn được lựa chọn để
mặc. Và điểm đáng chú ý là áo dài phải là những người thân, hàng xóm mặc đến chia buồn
cùng gia quyến.
Chương 3: Hình ảnh của áo dài xưa và nay – nét đẹp nhân văn
3.1Nét đẹp truyền thống xưa:
Để nói về hình ảnh áo dài trong nét đẹp truyền thống xưa Huế là nơi tiêu biểu nhất có thể
lột tả được vẻ đẹp của áo dài xưa. Thật là đẹp đẽ và cao sang làm sao khi ở cái xứ sở lắm
mưa, lắm nắng này người buồn thúng bán bưng cũng vương nét đoan trang. Trong tấm áo
dài, một nắng hai sương, nối tay nối vạt vì thêu vảu hay may bằng nhung đều quyền quý.
Người phụ nữ Việt Nam vẫn dịu dàng đến e ấp, nhẹ như mây hiền như lúa, thơm như sen
mùa hạ trong hồ nội đô.
Trong chiếc áo dài người phụ nữ cảm nhận niềm tự hào đức hạnh và ý thức giữ gìn đức
hạnh ấy. không biết có phải vi nét thâm trầm của người con gái Việt hay không mà người xưa
cứ “đẩy tiếng thoải” của “một nửa thế giới” xứ minh cho chiếc áo dài đến vậy. Những lớp
thế hệ xưa từ bà võ quan trong triều cho tới những tiểu thư đài cát, các chị buôn thúng bán

bưng một nắng hai sương từ mọi nẻo đất nước…ai nấy đều kìn đáo đến cao snag, nhỏ nhẹ
đến nhẫn nhịn rất Việt Nam.
Người phụ nữ xưa luôn “trông màu trời, chọn sắc áo”. Áo tết thường có màu tươi sáng,
áo mặc vào các dịp cúng, lễ giỗ, hội làng…thường may rộng, vải màu sẫm như nâu, tím, lam
với hoa vân chèm. Áo ra ngoài trời mưa màu đậm, còn để đi dưới nắng thường nhạt màu,
sáng trong.
Dù la miền trung du, đồng bằng Bắc Bộ nơi địa đầu tổ quốc hay trải dài xuống đất Mũi
Cà Mau thì áo dài xứ Huế vẫn cứ để nhớ trong long ta hơn cả, phải chăng vì non nước này đã
in dấu bao thăng trầm đổi thay cả dân tộc. Bởi thế phụ nữ xứ chiều tím thường cũng có màu


tím đặc trưng riêng cho minh, không thể chìm khuất giữa vườn hoa muôn sắc. Với người cố
đô, tím Huế không ngả qua đen, không tía đỏ mà chỉ đủ đậm như màu mực học trò trên giấy
trắng. Cùng với sự nền nã của màu sắc, vẻ đẹp kín đáo của kiểu dáng, nét dịu dàng, quý phái
trong cử chỉ vì mặc, chiếc áo dài tím với tà áo dài lồng lộng gió cùng vành nón lá che
nghiêng tóc thề không biết tự bao giờ đã trở thành hình ảnh khó quên của xứ sông hương núi
ngự.
Bạn bè năm châu đã từng ngưỡng mộ mà thốt lên “không đâu có loại trang phục nào kín
đáo đến thế, cũng không có loại áo nào hở cho bằng nhất là khi khoác lên minh nhưng có cái
dịu hiền xứ Huế. Bởi tà áo ấy đủ dài tha thướt để thu hút ánh mắt người theo vóc dáng thanh
tao như bay, như múa trên phố. Đủ kín để người ta ước tìm chỗ hở, chỗ mô. Càng đủ nhẹ để
người ta thấy sức nặng quyến rũ của sức mạnh trong sáng nụ cười e ấp, cử chỉ duyên dáng,
rồi cảm nhận trái tim nhân hậu, dịu dáng của người phụ nữ nơi non thanh thủy tú.
3.2 Vẻ đẹp hiện đại với hơi thở dân tộc của tà áo dài ngày nay:
Ngày nay,cuộc sống đang có biết bao đổi thay, biến động, liệu áo dài ngày nay có mất đi
vẻ chân phương thuở ấy, có còn là nơi để gìn giữ tôn vinh sông núi này? Điều đó một phần ở
lòng người với quốc hồn dân tộc, lòng người có biết giữ gìn, thủy chung son sắc với tinh hoa
của dân tộc hay không? Người xưa đã từng nâng niu trân trọng áo dài bao nhiêu thì ngày nay
áo dài càng đi vào đời sống thường nhật bấy nhiêu, bởi năm tháng đã đưa áo dài trở thành
một phần trong đời sống tâm hồn bấy nhiêu.

Không giống như Kimônô của Nhật Bản, Hanbok của Hàn Quốc áo dài mặc không cần
tốn nhiều thời gian, lại đơn giản, gọn gàng, duyên dáng mà thanh lịch, có lẽ bởi thế mà áo dài
ấy đã đi vào đời sống của người phụ nữ Việt một cách giản đơn và dung dị như thế, có còn
hình ảnh nào đẹp cho bằng khi mỗi sáng hình ảnh nữ sinh trong bộ đồng phục áo dài, trắng
thiết tha rất đổi thanh bình và thanh tao, hay trên những chuyến bay đường dài, nữ tiếp viên
trong bộ áo dài đằm thắm là cơn gió mát xua tan bao mệt mỏi, bụi trần. Nơi công sở,người
phụ nữ vẫn nhanh nhẹn, linh hoạt làm việc trong tà áo dài xinh tươi.
Làm sao có thể quên được hình ảnh một sớm mai kia, người con gái từ biệt mẹ cha theo
chồng xa xứ trong chiếc áo dài đỏ thắm, trang trọng, cao sang với áo choàng và chiếc khăn
đóng truyền thống đội đầu.
Không chỉ dừng lại ở đó áo dài Việt Nam còn theo chân bạn bè năm châu đến những
miền xa xôi, gói gọn cả tình người Việt Nam vào đó. Vào khoảng tháng 6/2001, lần đầu tiên
áo dài Việt Nam được giới thiệu tới thành phố Tour Pháp với sự tham gia khoảng 300 người
hâm mộ văn hóa Việt, chiếc áo dài được xem là di sản văn hóa phi vật thể của nó với người
Việt Nam xa xứ, họ thường thổ lộ xa Việt Nam đã lâu nhưng trong lòng lúc nào cũng muốn
duy trì phong tục và truyền thống Việt, thích nhất là phong tục Việt với tà áo dài trong thật
duyên dáng và ẩn hiện nét đẹp dể thương.
Ở đâu có phụ nữ Việt ở đó có áo dài Việt. Áo dài không chỉ đơn thuần là trang phục
truyền thống mà chính là văn hóa nói lên nhân sinh quan và gói trọn tinh thần Việt. Là
“Quốc hội” của người phụ nữ Việt Nam.
KẾT LUẬN
“Tà áo em bay bay bay bay trong gió nhẹ nhàng
Tà áo em bay bay bay bay trên phố dịu dàng


Áo bay trên đường như mây xuống phố
Áo tung sân trường tựa cánh chim câu…
Dù ở đâu, Paris Luân Đôn hay những miền xa
Thoáng thấy áo dài bay trên đường phố
Sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó…em ơi

Tung bay tà áo tung bay
Xôn xao một trời nắng đỏ…”
Vâng đây là một đoạn trong bài hát “Một thoáng quê hương” của nhạc sĩ Thanh Tùng, nó
đã kết lại đề tài của chúng em với những lưu luyến, tự hào…về áo dài-đại diện cho nét đẹp
văn hóa của đất nước mình với những hình ảnh dịu dàng, đằm thắm của người phụ nữ với
những bước uyển chuyển trong trang phục mỹ miều này. Thật tự hào khi nói về chiếc áo dài
Việt Nam, đại diện cho một nét đẹp văn hóa, nó không chỉ đẹp về kiểu dáng và đường nét mà
điều quan trọng là chiếc áo dài còn mang nhiều ý nghĩa kết tinh những nét đẹp tinh hoa của
dân tộc, tà áo dài và người con gái Việt là sự kết tinh nhẹ nhàng thanh tao như chính tà áo
bay vào thơ ca, nhạc họa khiến bao trái tim xuyến xao. Tất cả những tâm tư suy nghĩ của con
người đều được cộng đồng hóa, biểu hiện rõ nét qua trang phục. Áo dài đang dần trở thành
thời trang khi không chỉ người Việt mới mặc áo dài, mà ngay cả các nhà thiết kế nổi tiếng thế
giới cũng đưa tà áo dài làm cảm hứng sáng tạo cho những bộ sưu tập trên sàn diễn quốc tế
của mình. Trong bộ sưu tập mới nhất lấy cảm hứng từ Việt Nam, nhãn hàng Emillio Pucci đã
cho ra mắt những mẫu thiết kế hết sức hiện đại và sang trọng, đặc biệt là in đậm hình ảnh của
hai tà áo dài. Đây là một bước tiến vô cùng quan trọng của áo dài Việt, khi được thế giới đón
nhận với một cách nhìn khác, có thể thấy áo dài sẽ trở thành một biểu tượng của văn hóa và
thời trang chứ không phải chỉ là trang phục truyền thống.
Tìm hiểu để biết rõ về trang phục truyền thống của dân tộc quả là một điều thú vị, được
biết về nguồn gốc lích sử cũng với sự kiên cường “đổi minh” qua các thời kỳ lịch sử từ xưa
đến nay giúp ta có thêm sự hiểu biết và thêm tự hào khi giới thiệu Áo dài Việt với bạn bè
năm châu. Từ đó luôn trân trọng giữ gìn và phát huy nét đẹp của trang phục truyền thống ấy
để tồn đọng lại nét đẹp tinh túy nhất trong bản thân mỗi người.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bảo tàng áo dài Việt Nam: />2. Áo dài: />3. Áo dài – Hanbok sự giao thoa giữa hai nền văn hóa:
file:///C:/Users/Admin/Downloads/1.Ao_dai_va_Han_bok_su_giao_thoa_hai_
nen_van_hoa.3h07.htm
4. Quan điểm áo dài trong nghệ thuật: />
dai-viet-nam-duoi-mat-nhin-triet-hoc-17660/

5. Hình ảnh áo dài: />biw=1366&bih=662&tbm=isch&sa=1&ei=lIMdWr3eAYHF0gSH3bGoBQ&q=h
%C3%ACnh+%E1%BA%A3nh+%C3%A1o+d%C3%A0i+x%C6%B0a+v
%C3%A0+nay&oq=h%C3%ACnh+%E1%BA%A3nh+%C3%A1o+d%C3%A0i+x
%C6%B0a+v%C3%A0+nay&gs_l=psy-


ab.3..0.17711.20724.0.21075.17.10.0.4.4.0.208.994.0j4j2.6.0....0...1c.1.64.psyab..8.8.766...0i67k1j0i8i30k1j0i30k1.0.yGpwWBl5Nko



×