TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
TÀI LIỆU ÔN TẬP MÔN
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 1
Trần Tuấn Anh, K54 Viện Ngân hàng – Tài chính
HÀ NỘI, 5/2016
1
CHƯƠNG 1: HỆ THỐNG TIỀN TỆ
1.1. Ý nghĩa của tiền
Khái niệm: Tiền là bất cứ thứ gì được chấp nhận rộng rãi trong việc thanh toán cho hàng hoá, dịch vụ
hoặc hoàn trả các khoản nợ.
1.2. Các chức năng của tiền
Theo quan điểm kinh tế hiện đại, tiền có ba chức năng chính:
1) Phương tiện trao đổi
Tiền được sử dụng để thanh toán cho các hàng hoá, dịch vụ mà chúng ta mua. Việc sử dụng tiền trong
thanh toán góp phần làm giảm chi phí giao dịch, từ đó thúc đẩy hiệu quả kinh tế. Khác với nền kinh tế
trao đổi hiện vật, nơi mà giao dịch chỉ có thể được thực hiện khi có sự trùng khớp về nhu cầu, thời gian
và địa điểm của những người tham gia, thì ở nền kinh tế tiền tệ, nơi mà mọi người sẵn sàng chấp nhận
những đồng tiền chung, việc mua bán được diễn ra nhanh chóng, thuận tiện hơn, từ đó góp phần đẩy
nhanh guồng máy lưu chuyển hàng hoá, kích cầu cho đầu tư, tiêu dùng.
2) Đơn vị hạch toán
Tiền được sử dụng làm thước đo, đo lường và tính toán các giá trị trong nền kinh tế. Ở chức năng này,
tiền góp phần làm giảm số giá phải niêm yết so với thời kì nền kinh tế trao đổi hiện vật. Khi chưa có tiền,
nếu một xã hội sản xuất ra được N hàng hoá, họ sẽ phải niêm yết tới N(N-1)/2 mức giá, bằng cách yết tỉ
lệ theo số lượng một mặt hàng này đổi được bao nhiêu mặt hàng kia. Nhưng ở nền kinh tế tiền tê, có
bao nhiêu hàng hoá, dịch vụ thì sẽ có bấy nhiêu mức giá, không cần nhiều hơn.
3) Phương tiện cất trữ giá trị
Tiền được sử dụng để làm vật chứa đựng sức mua theo thời gian, khi một người tiết kiệm số tiền có
được ở hiện tại, nhằm để dành cho chi tiêu trong tương lai. Tiền không phải là phương tiện duy nhất
giúp chúng ta cất trữ giá trị. Mọi tài sản khác như chứng khoán, bất động sản, tác phẩm nghệ thuật, đồ
trang sức,… đều có thể thực hiện chức năng cất trữ tốt hơn tiền do chúng có giá trị sử dụng hoặc có thể
đem lại lợi nhuận. Vậy tại sao mọi người vẫn nắm giữ tiền? Đó là do tiền có tính thanh khoản cao nhất
trong các loại tài sản.
Tính thanh khoản của một tài sản là nỗ lực và thời gian cần thiết để chuyển đổi tài sản đó thành tiền mặt.
Thông thường, người ta sẵn sàng hi sinh một chút lợi nhuận như tiền lãi có được khi gửi vốn vào ngân
hàng để đổi lấy sự thuận tiện do có tiền mặt trong tay. Chức năng cất trữ giá trị của tiền còn phụ thuộc
vào tình hình lạm phát. Nếu lạm phát cao, tiền mất giá, người dân có xu hướng chuyển tài sản của mình
sang các dạng khác bảo tồn giá trị tốt hơn như vàng, ngoại tệ, bất động sản,…
* Những điều kiện để một hàng hoá làm chức năng của tiền là:
+) Dễ chuẩn hoá: Tức dễ được đo lường, xác định giá trị
2
+) Được chấp nhận rộng rãi: Một người chấp nhận một vật nào đó là tiền khi anh ta nghĩ rằng những
người khác cũng chấp nhận nó như vậy.
+) Dễ chia nhỏ: Đảm bảo cho tiền có thể được sử dụng với nhiều lượng khác nhau tuỳ theo quy mô của
các cuộc trao đổi.
+) Dễ mang vác: Giúp cho mọi người tiết kiệm được thời gian và công sức khi vận chuyển.
+) Bền vững: Giúp cho tiền có thể được sử dụng nhiều lần và mọi người có thể cất trữ nó lâu dài khi
chưa có nhu cầu chi tiêu.
1.3. Quá trình phát triển của hệ thống thanh toán
Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu quá trình phát triển của hệ thống thanh toán, tức các phương pháp thực
hiện giao dịch kinh tế hay các dạng hình thái của tiền.
1) Tiền hàng hoá
Vào thời kì đầu của tiền tệ, các hàng hoá thông thường có tần suất trao đổi nhiều nhất hoặc đặc sản của
mỗi địa phương được cư dân nơi đó chọn làm môi giới trung gian trong trao đổi. Trong những giai đoạn
và ở những địa phương khác nhau, những loại hàng hoá khác nhau được lựa chọn như: gia súc, thuốc lá,
vải vóc, muối, dầu oliu,…
Với sự phân công lao động xã hội lần hai, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp và vai trò của tiền tệ
chuyển dần sang các kim loại quý. Cuối thời kì này, vàng được mọi người chấp nhận chung trong thanh
toán do nó hội tụ được những ưu điểm sau:
+) Ưu điểm: (1) Tính đồng nhất cao, bền vững trước các tác động của môi trường; (2) dễ chia nhỏ, hợp
nhất mà không làm ảnh hưởng đến giá trị vốn có của nó; (3) dễ vận chuyển do một khối lượng nhỏ vàng
cũng có giá trị lớn; (4) có đặc tính lí hoá rõ rệt để khó bị làm giả; (5) có mức khan hiếm vừa đủ cộng
thêm con người không thể tự sản xuất nên đã giới hạn được cung tiền trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, sự bất lợi của lưu thông tiền vàng cũng dần được bộc lộ:
+) Nhược điểm: (1) bất tiện trong việc vận chuyển, bảo quản một khối lượng vàng lớn khi muốn chuyển
tải một lượng giá trị không nhỏ; (2) vì lượng vàng có hạn và việc khai thác cũng trồi sụt nên không đủ
đáp ứng cho việc thanh toán khi nhu cầu con người và sản lượng hàng hoá ngày càng tăng.
2) Tiền pháp định
Giấy bạc ngân hàng là những tờ giấy thực chất có mức giá rất nhỏ so với lượng giá trị mà nó đại diện, do
ngân hàng trung ương của mỗi nền kinh tế phát hành. Lúc đầu, người ta căn cứ vào lượng vàng của mỗi
quốc gia để in một lượng tiền có giá trị tương ứng đem vào lưu thông. Tuy nhiên sau đó để đáp ứng nhu
cầu phát triển, người ta đã bỏ chế độ bản vị vàng và in tiền theo mức đánh giá chủ quan về nhu cầu tiền
tệ của nền kinh tế trong tương lai, dựa trên các biến tăng trưởng và lạm phát kì vọng. Tiền khi đó được
gọi là tiền pháp định, tức giá trị của nó được hình thành bởi luật pháp, là do nhà nước lấy uy tín ra đảm
3
bảo. “Ích lợi của bản thân tiền tệ lại là cái ít quan trọng nhất của nó… Người ta muốn có tiền với danh
nghĩa là tiền chứ không phải là hàng hoá, không phải vì bản thân nó mà vì những gì nó có thể mua
được.” – Samuelson và Nordhaus trong sách Kinh tế học quyển một.
+) Ưu điểm: (1) Nhẹ, dễ di chuyển với khối lượng lớn; (2) chi phí in ấn để làm ra đôi khi nhỏ hơn nhiều
giá trị mà nó đại diện; (3) dễ dàng kiểm soát với sự phát hành độc quyền từ NHTW.
+) Nhược điểm: dễ xảy ra lạm phát do việc điều tiết lượng tiền cung ứng nhịp nhàng với tốc độ tăng
trưởng kinh tế là một nghệ thuật rất phức tạp.
3) Tiền ghi sổ (trên tài khoản ngân hàng)
Tiền ghi sổ là những khoản tiền gửi không kì hạn dùng vào mục đích thanh toán của khách hàng tại các
ngân hàng thương mại. Việc sử dụng công cụ này cho phép có thể thực hiện thanh toán mà không cần
tiền mặt.
+) Ưu điểm: (1) Tiết kiệm chi phí giao dịch từ việc giảm bớt in tiền, bảo quản, vận chuyển, kiểm đếm,
đóng gói, kiểm định tiền mặt; (2) tăng cường sự giám sát của xã hội với tài sản cá nhân nhằm hạn chế
tình trạng tham nhũng; (3) tăng cường hiệu quả kinh tế thông qua việc đẩy nhanh tốc độ lưu thông hàng
hoá; (4) tạo điều kiện thuận lợi cho NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng.
+) Nhược điểm: (1) Tiêu tốn thời gian để chuyển séc cho đối tác thanh toán, rồi người nhận lại phải
mang tờ séc đó tới ngân hàng mới rút được tiền mặt; (2) phát sinh các chi phí từ việc xử lí chứng từ tại
ngân hàng.
1.4. Khối lượng tiền tệ
Khối tiền tệ là tập hợp tất cả các phương tiện thanh toán (tuỳ theo tiêu chí chọn lựa) tại một thị trường
và trong một khoảng thời gian nhất định. Khối tiền tệ của Mĩ được phân chia như sau:
M1 = Tiền trong lưu thông + Séc du lịch + Tiền gửi thanh toán + Tiền gửi có thể phát hành séc khác
M2 = M1 + Tiền gửi kì hạn mệnh giá nhỏ + Tiền gửi tiết kiệm + Tài khoản tiền gửi thị trường tiền tệ + Cổ
phần quỹ tương hỗ trên thị trường tiền tệ phi tổ chức + Đô la châu Âu qua đêm
M3 = M2 + Tiền gửi kì hạn mệnh giá lớn + Số dư quỹ tương hỗ trên thị trường tiền tệ có tổ chức + Hợp
đồng mua lại có kì hạn + Đô la châu Âu có kì hạn.
1.5. Chế độ tiền tệ
Chế độ tiền tệ là hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của một quốc gia hoặc một khu vực. Gồm ba yếu tố:
Bản vị tiền tệ: là cơ sở để đảm bảo giá trị và định giá một đồng đồng tiền.
Đơn vị tiền tệ: là đơn vị hạch toán giá trị bằng đồng tiền của một quốc gia.
Hình thức trao đổi: là các hình thức cụ thể của tiền được lưu hành như tiền giấy, tiền xu, séc,…
Trước kia cho phép lưu hành tiền vàng, bạc nhưng hiện nay không còn.
4
Tiêu chí
Cơ
sở
đảm bảo
giá trị
Cách
định giá
một đv
tiền tệ
Căn cứ
phát
hành
tiền
Tình hình
lưu
thông
Cung
tiền
Lạm
phát
Tính
chất
Chế độ bản vị vàng
Vàng
Chế độ bản vị pháp định
Uy tín, pháp luật của Nhà nước
Theo một trọng lượng vàng nhất định.
Theo sức mua = 1/Mức giá chung
của nền kinh tế.
Dựa theo lượng vàng nắm giữ. Có bao nhiêu vàng thì in Dựa theo tốc động tăng trưởng kì
ra bấy nhiêu tiền theo tỉ lệ đã quy định.
vọng và tỉ lệ lạm phát kì vọng của
nền kinh tế trong kì tới.
Người dân được tự do chuyển đổi tiền mặt ra vàng. Khi
đó vàng và tiền được lưu thông song hành, có vai trò
trong thanh toán ngang nhau (bản vị tiền vàng). Với chế
độ bản vị vàng thỏi, vàng được đúc thành những thỏi
lớn phục vụ cho việc tích trữ hoặc sử dụng trong thanh
toán quốc tế nên mất chức năng tiền tệ.
Cung tiền khá ổn định trừ những khi lượng vàng tăng
– hoặc giảm đột biến (do khai thác thêm từ những mỏ
mới phát hiện, xuất/nhập khẩu vàng với nước ngoài).
Do vậy nền kinh tế hầu như không có lạm phát.
Cứng nhắc. Không thích hợp khi kinh tế tăng trưởng tới
một mức nhất định khiến lượng vàng không đủ đáp
ứng cho nhu cầu chi tiêu của người dân.
5
Vàng bị rút khỏi lưu thông và chỉ
còn đóng vai trò như một hàng
hoá thông thường. Tiền tệ trong
nền kinh tế chỉ tồn tại dưới dạng
tiền mặt.
Cung tiền được điều hành theo
nhận định chủ quan của NHTW
nên nguy cơ xảy ra lạm phát là
không tránh khỏi.
Linh hoạt. NHTW có thể điều
chỉnh tăng/giảm cung tiền tuỳ ý
dựa trên những biến động của
nền kinh tế hoặc nhằm thực hiện
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội đã đề ra.
CHƯƠNG 2: THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
2.1. Chức năng cơ bản của thị trường tài chính
Là tạo ra kênh dẫn vốn từ những người tiết kiệm-cho vay (sắp theo thứ tự giảm dần về mức độ: hộ gia
đình, doanh nghiệp, chính phủ và người nước ngoài) đã để dành một phần vốn dôi ra do chi tiêu ít hơn
thu nhập cho những người thiếu vốn vì muốn chi tiêu nhiều hơn thu nhập của mình, những người chi
tiêu-đi vay (sắp theo thứ tự giảm dần về mức độ: doanh nghiệp, chính phủ, hộ gia đình và người nước
ngoài).
Thị trường tài chính là nơi diễn ra hoạt động tài chính trực tiếp: người đi vay trực tiếp vay vốn từ người
cho vay trên thị trường bằng cách bán chứng khoán cho họ. Chứng khoán ở đây được hiểu đơn giản là
trái quyền về thu nhập tương lai hoặc tài sản của người đi vay. Xét về mặt sở hữu, chứng khoán là tài
sản của người mua, nhưng là khoản nợ của người bán (hay phát hành) chúng.
Thị trường tài chính giúp kết nối những người có vốn nhưng không có nhu cầu chi tiêu, không có khả
năng/cơ hội đầu tư với những người cần vốn có tính chất ngược lại. Do vậy chúng ta có thể nói: thị
trường tài chính là khâu then chốt tạo ra sự phân bổ vốn một cách có hiệu quả, từ đó góp phần nâng cao
sức sản xuất của nền kinh tế.
Ba chức năng của thị trường tài chính: (1) dẫn vốn, (2) tạo động lực tiết kiệm, (3) tạo thanh khoản cho
các công cụ tài chính.
2.2. Vai trò của thị trường tài chính
1) Tạo lập các quỹ vốn phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội
2) Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
3) Tạo điều kiện thuận lợi cho việc hội nhập, mở cửa nền kinh tế
4) Thúc đẩy hoạt động tiết kiệm, đầu tư nhờ vào tính thanh khoản và sinh lời của thị trường.
2.3. Cơ cấu của thị trường tài chính
2.3.1. Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần
Các cá nhân và doanh nghiệp có thể huy động vốn trên thị trường tài chính bằng hai cách:
6
2.3.2. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
2.3.3. Sở giao dịch và thị trường OTC
Đây là hai dạng tổ chức của thị trường thứ cấp:
7
2.3.4. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn
2.4. Thị trường tài chính quốc tế
Chỉ lưu ý ba thuật ngữ quan trọng:
8
Trái phiếu nước ngoài: Là loại trái phiếu được bán ở nước ngoài và được ghi bằng đồng tiền của
nước đó. Ví dụ: một doanh nghiệp Nhật Bản cần vay VND sẽ phát hành trái phiếu tại thị trường
Việt Nam và ghi bằng đồng Việt Nam (vay nội tệ của các nhà đầu tư Việt Nam).
Trái phiếu châu Âu: Là loại trái phiếu được bán ở nước ngoài nhưng được ghi bằng một đồng
tiền khác. Ví dụ: một doanh nghiệp Nhật Bản phát hành trái phiếu tại thị trường Việt Nam nhưng
ghi bằng đồng Nhân dân tệ (vay ngoại tệ của các nhà đầu tư Việt Nam).
Đồng tiền châu Âu: Là khoản tiền gửi ở những ngân hàng nằm ngoài lãnh thổ quốc gia phát hành
đồng tiền đó. Phổ biến nhất là đồng đô la châu Âu: Là những đồng đô la Mĩ nhưng được gửi ở
các ngân hàng nằm ngoài nước Mĩ, ví dụ như Việt Nam, Trung Quốc,…
CHƯƠNG 3: NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
3.1. Các khái niệm
Theo Luật Ngân sách nhà nước năm 2015:
1) Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện
trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định để bảo
đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
2) Bội chi ngân sách nhà nước được xác định bằng chênh lệch lớn hơn giữa tổng chi ngân sách nhà
nước không bao gồm chi trả nợ gốc và tổng thu ngân sách nhà nước.
Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước chỉ được sử dụng cho đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi
thường xuyên. Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp từ các nguồn sau:
a) Vay trong nước từ phát hành trái phiếu chính phủ, công trái xây dựng Tổ quốc và các khoản vay trong
nước khác theo quy định của pháp luật;
b) Vay ngoài nước từ các khoản vay của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế và phát hành trái phiếu
chính phủ ra thị trường quốc tế, không bao gồm các khoản vay về cho vay lại.
1) Chi đầu tư phát triển là nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước gồm chi đầu tư xây dựng cơ bản
(để thực hiện các chương trình, dự án đầu tư kết cấu hạn tầng kinh tế - xã hội và các chương
trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội) và một số nhiệm vụ chi đầu tư khác theo quy
định của pháp luật.
Bao gồm chi đầu tư cho các dự án, đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm, dịch
vụ công ích do Nhà nước đặt hàng; các tổ chức kinh tế; các tổ chức tài chính của trung ương; đầu tư vốn
nhà nước vào doanh nghiệp và các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy định của pháp luật.
2) Chi thường xuyên là nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước nhằm bảo đảm hoạt động của bộ
máy nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, hỗ trợ hoạt động của các tổ chức
khác và thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh.
Bao gồm chi vào các lĩnh vực sau:
9
a) Quốc phòng;
b) An ninh và trật tự, an toàn xã hội;
c) Sự nghiệp giáo dục - đào tạo và dạy nghề;
d) Sự nghiệp khoa học và công nghệ;
đ) Sự nghiệp y tế, dân số và gia đình;
e) Sự nghiệp văn hóa thông tin;
g) Sự nghiệp phát thanh, truyền hình, thông tấn;
h) Sự nghiệp thể dục thể thao;
i) Sự nghiệp bảo vệ môi trường;
k) Các hoạt động kinh tế;
l) Hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức chính trị và các tổ chức chính trị - xã hội; hỗ trợ
hoạt động cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
theo quy định của pháp luật;
m) Chi bảo đảm xã hội, bao gồm cả chi hỗ trợ thực hiện các chính sách xã hội theo quy định của pháp
luật;
n) Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
3) Thu ngân sách nhà nước bao gồm:
a) Toàn bộ các khoản thu từ thuế, lệ phí;
b) Toàn bộ các khoản phí thu từ các hoạt động dịch vụ do cơ quan nhà nước thực hiện, các khoản phí
thu từ các hoạt động dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước thực hiện nộp
ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật;
c) Các khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân ở ngoài nước cho
Chính phủ Việt Nam và chính quyền địa phương;
d) Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
4) Chi ngân sách nhà nước bao gồm:
a) Chi đầu tư phát triển;
b) Chi dự trữ quốc gia (để mua hàng dự trữ);
c) Chi thường xuyên;
d) Chi trả nợ lãi (để trả các khoản nợ đến hạn phải trả, bao gồm khoản gốc, lãi, phí và chi phí khác phát
sinh từ việc vay);
đ) Chi viện trợ;
10
e) Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
5) Năm ngân sách bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm dương lịch.
*** Bổ sung (định nghĩa không theo luật):
6) Chu trình ngân sách là toàn bộ các hoạt động từ khâu lập dự toán ngân sách đến khâu chấp
hành và cuối cùng là quyết toán ngân sách nhà nước. Trong đó, năm ngân sách là giai đoạn mà
dự toán thu - chi của Nhà nước đã được phê chuẩn và có hiệu lực thi hành, nằm trong một chu
trình ngân sách.
7) Thuế là khoản đóng góp bắt buộc từ các pháp nhân và thể nhân cho Nhà nước theo luật định,
nhằm giúp Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Thuế không có tính chất hoàn trả
trực tiếp. Các loại thuế đang được áp dụng tại VN hiện nay như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu
nhập DN, thuế môn bài, thuế xuất - nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế
tài nguyên,…
8) Phí là khoản tiền mà các cá nhân, tổ chức phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung ứng
dịch vụ. Phí có rất nhiều loại như phí giao thông, phí thuỷ lợi, học phí, viện phí,…
9) Lệ phí là khoản tiền mà các tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức
có thẩm quyền cung cấp các dịch vụ công về hành chính, pháp lí. Các loại lệ phí như lệ phí đăng
kí hộ khẩu, lệ phí chứng nhận kết hôn, lệ phí công chứng, lệ phí cấp phép hành nghề,…
10) Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là việc xử lí mối quan hệ giữa chính quyền nhà nước
trung ương với các cấp chính quyền địa phương trong hoạt động của ngân sách nhà nước, từ đó
cho phép hình thành một cơ chế phân quyền về quản lí ngân sách nhà nước giữa các cấp chính
quyền. Phân cấp quản lí ngân sách nhà nước về cơ bản bao gồm 3 nội dung chủ yếu sau:
Một là, phân cấp ban hành chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức.
Thông qua việc phân cấp nhằm làm rõ vấn đề cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền ban hành ra các chế
độ, chính sách, định mức, tiêu chuẩn, phạm vi, mức độ của mỗi cấp chính quyền. Cơ sở pháp lí này được
xây dựng dựa trên Hiến pháp hoặc các đạo luật tổ chức hành chính, từ đó định ra hành lang pháp lí cho
việc chuyển giao các quyền gắn với các trách nhiệm tương ứng được phân cấp, đảm bảo tính ổn định,
tính pháp lí, không gây sự rối loạn trong quản lý ngân sách nhà nước.
Hai là, phân cấp về mặt vật chất, tức là phân cấp về nguồn thu và nhiệm vụ chi.
Có thể nói đây luôn là vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất, gây nhiều bất đồng nhất trong quá trình xây
dựng và triển khai các đề án phân cấp quản lí ngân sách. Những khó khăn này bắt nguồn từ sự phát triển
không đồng đều giữa các địa phương, sự khác biệt về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội giữa các
vùng miền trong cả nước.
Ngân sách trung ương hưởng các khoản thu tập trung quan trọng không gắn trực tiếp với công tác quản
lí của địa phương như: Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thu từ dầu thô… hoặc không đủ căn cứ chính
xác để phân chia như: thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành, đồng thời đảm
bảo nhiệm vụ chi cho các hoạt động có tính chất đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chiến lược, quan trọng
11
của quốc gia như: Chi đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, chi quốc phòng, an ninh, chi giáo dục, y tế,
chi đảm bảo xã hội do trung ương quản lý… và hỗ trợ các địa phương chưa cân đối được thu, chi ngân
sách. Ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu để đảm bảo chủ động thực hiện những nhiệm vụ
được giao, gắn trực tiếp với công tác quản lý tại địa phương như: Thuế nhà đất, thuế môn bài, thuế
chuyển quyền sử dụng đất, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao,…
Ba là, quan hệ chu trình ngân sách.
Là quan hệ về quản lí trong chu trình vận động của ngân sách nhà nước, từ khâu lập dự toán đến chấp
hành và quyết toán ngân sách.
3.2. Vai trò của ngân sách nhà nước
1. Điều tiết trong lĩnh vực kinh tế: Nhà nước thông qua các chính sách thuế và chi tiêu chính phủ để tác
động lên các lực lượng cung – cầu, từ đó kích thích sản xuất phát triển, kiểm soát lạm phát,…
Ví dụ với chính sách thuế, thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, biểu hiện ở các điểm:
Thuế có thể được sử dụng như một công cụ nhạy bén góp phần điều hoà nền kinh tế, kích thích
đầu tư, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững.
Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển quá nóng, Nhà nước có thể tăng thuế thu nhập từ lợi tức
nhằm giảm bớt đầu tư tư nhân.
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển trì trệ, việc giảm thuế đầu tư sẽ góp phần kích thích đầu
tư, kích cầu tiêu dùng, làm cho kinh tế phục hồi nhanh hơn.
Áp dụng chính sách thuế phân biệt giữa các ngành, các lĩnh vực, các khu vực khác nhau có tác
dụng phân bổ lại nguồn lực, tạo ưu thế tương đối cho các vùng, khu vực, ngành nghề cần ưu
tiên phát triển, nhằm duy trì hoặc lập lại trạng thái phát triển hài hoà, cân đối của toàn bộ nền
kinh tế.
Thuế được coi là công cụ để phân phối lại sản phẩm xã hội nhằm đạt mục tiêu công bằng xã hội.
Ví dụ với biểu thuế suất luỹ tiến theo thu nhập, thu nhập càng cao thì càng phải nộp nhiều thuế
để Nhà nước tái phân bổ lại cho các đối tượng có thu nhập thấp hơn mà không làm giảm đi đáng
kể mức sống của người nộp thuế.
Thuế còn được sử dụng để bảo hộ sản xuất nội địa và duy trì, tăng cường khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế trong điều kiện hội nhập quốc tế (thuế xuất-nhập khẩu).
Mức thuế cao với hàng nhập khẩu có tác dụng giảm bớt hoặc triệt tiêu lợi thế giá cả giữa hàng
nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước.
Mức thuế thấp, thậm chí bằng không đối với một số mặt hàng nhập khẩu có tác dụng khuyến
khích nhập khẩu những hàng hoá cần thiết, bù đắp thiếu hụt cho nền kinh tế, đồng thời gây áp
lực cần thiết nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho những ngành hàng nội địa tương tự.
Các công cụ bảo hộ mới như thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế đối kháng có thể
được sử dụng bổ sung cho thuế quan trong việc bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hiệu
quả.
12
2. Điều tiết trong lĩnh vực xã hội
Cung cấp hàng hoá công cộng;
Duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước;
Đảm bảo an ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội;
Duy trì các hoạt động văn hoá, thể thao, y tế, giáo dục,…;
Tái phân phối lại thu nhập cho các đối tượng chính sách, có hoàn cảnh khó khăn.
3. Điều tiết trong lĩnh vực thị trường
Ổn định giá cả - Kiểm soát lạm phát
Ví dụ với thuế, thuế có thể được sử dụng như một công cụ nhạy bén góp phần kiềm chế lạm phát, ổn
định giá cả, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững.
+) Trường hợp lạm phát do cầu kéo: Nhà nước tăng thuế tiêu dùng, làm giảm bớt áp lực tăng cầu giả
tạo, trên cơ sở đó điều chỉnh lại cân bằng cung-cầu.
+) Trường hợp lạm phát do chi phí đẩy: Nhà nước giảm thuế đối với các chi phí đầu vào (xăng, dầu, điện,
nước,…), nhằm giảm nhẹ áp lực tăng chi phí và tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm, trên cơ sở đó lập lại
quan hệ cung - cầu.
3.3. Thâm hụt ngân sách nhà nước: Ảnh hưởng và cách khắc phục
3.3.1. Ảnh hưởng tới các biến số kinh tế
Lãi suất: Nhà nước thiếu vốn để cân đối => cầu vốn tăng => lãi suất tăng.
Hoặc có thể lí luận theo cách khác: Nhà nước thiếu vốn để cân đối => tăng lượng trái phiếu phát
hành để vay nợ => cung trái phiếu tăng => giá trái phiếu giảm => lãi suất tăng.
Giá tài sản: nhìn chung khi mặt bằng lãi suất thị trường tăng, giá của hầu hết các tài sản trong
nền kinh tế giảm xuống (trong đó có chứng khoán).
Tiết kiệm xã hội: Khi chi vượt thu trong cân đối, tức Nhà nước không còn tiền để tiết kiệm => tiết
kiệm Nhà nước giảm, thậm chí phải đi vay nợ từ nguồn vốn tư nhân để bù đắp => tiết kiệm tư
nhân giảm. Hệ quả chung là tổng tiết kiệm quốc gia giảm.
Đầu tư trong nước: Lãi suất thị trường tăng nhìn chung làm tăng mức lãi suất thực, khiến hoạt
động đầu tư của các doanh nghiệp trong nước giảm xuống.
Đầu tư nước ngoài – Cán cân tài khoản vốn: Do lãi suất đồng nội tệ cao hơn tương đối so với
mặt bằng lãi suất thế giới nên hấp dẫn được các luồng vốn quốc tế đổ vào nhằm hưởng mức lợi
tức lớn hơn => đầu tư nước ngoài tăng hay cán cân vốn chuyển dịch theo hướng thặng dư.
Cán cân thương mại: Lãi suất cao khiến nội tệ lên giá, ngoại tệ rẻ hơn một cách tương đối =>
xuất khẩu bị ảnh hưởng tiêu cực trong khi nhập khẩu được tăng cường => cán cân thương mại
chuyển dịch theo hướng thâm hụt.
3.3.2. Cách khắc phục thâm hụt NSNN
Có hai hướng khắc phục, một là cắt giảm thâm hụt, hai là tài trợ thâm hụt.
13
1. Cắt giảm thâm hụt ngân sách: Là việc Nhà nước tăng thu giảm chi. Hệ quả là có thể giải quyết
được sự thiếu hụt ngân sách tạm thời, nhưng về lâu dài khi tăng trưởng bị kiềm chế, sản xuất
đình đốn, Nhà nước sẽ mất nguồn thu và khi đó lại tốn tiền ngân sách để kích cầu.
2. Tài trợ thâm hụt: Là việc Nhà nước huy động các nguồn lực bên ngoài để bù đắp vào phần thiếu
hụt. Có năm hướng huy động vốn như sau:
Vay nợ trong nước
Chính phủ phát hành trái phiếu và bán cho các đối tượng có vốn nhàn rỗi như cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp, trung gian tài chính trong nước, kể cả các cá nhân, tổ chức nước ngoài có vốn bằng đồng bản tệ,
nhằm huy động vốn nội tệ. Dơ sở tiền không bị tác động (nội tệ chỉ luân chuyển giữa các chủ thể bên
ngoài NHTW) nên không có lạm phát.
Lưu ý là trong thực tế có trường hợp Chính phủ phát hành trái phiếu bán cho NHTM, nhưng rồi NHTM lại
đem chiết khấu số trái phiếu đó tại NHTW, dẫn tới không khác gì là NHTW đang tài trợ vốn cho Chính
phủ chi tiêu. Cơ sở tiền được bơm thêm qua kênh chiết khấu gây nguy cơ lạm phát.
Vay nợ nước ngoài
Khi vay nợ từ các đối tác nước ngoài hoặc vay của các tổ chức trong nước nguồn vốn bằng ngoại tệ,
Chính phủ sẽ có hai hướng sử dụng như sau: (1) chi tiêu trực tiếp thông qua việc trả nợ/đảo nợ cho các
chủ nợ quốc tế, hoặc cho vay lại các doanh nghiệp nhà nước để nhập khẩu máy móc, trang thiết bị (như
trước kia Chính phủ từng làm với Vinashin) – trường hợp này ngoại tệ vào và ra khỏi nền kinh tế chỉ như
“người đi qua đường”, không có tác động lên cơ sở tiền tệ nên tình hình lạm phát không bị ảnh hưởng;
(2) bán lại cho NHTW để lấy nội tệ ra dùng. Tiền được in bổ sung không thông qua kì vọng về tăng
trưởng kinh tế hay sự mất giá dự kiến mà là để đối ứng với lượng ngoại tệ tăng thêm trên bảng cân đối
tiền tệ của NHTW tất yếu dẫn tới nguy cơ lạm phát.
Một cơ chế có thể diễn ra là thậm chí nếu Chính phủ vay ngoại tệ về không bán cho NHTW mà bán lại
cho một NHTM nào đó cũng nhằm lấy nội tệ chi tiêu, thì cung ngoại tệ trên thị trường sẽ tăng => nội tệ
lên giá => cản trở xuất khẩu và tạo ra gánh nặng lên cán cân thương mại. NHNN buộc phải khắc phục
bằng cách mua lại hết số ngoại tệ dư thừa trên và kịch bản vẫn như vậy => lạm phát, áp lực tài khoá gia
tăng.
Thêm nữa, việc vay nợ nước ngoài sẽ tác động lên uy tín quốc gia, nghiệp vụ phức tạp, chi phí huy động
vốn cao và phải chịu thêm các ràng buộc tài chính, minh bạch thông tin, nên đây nhìn chung không phải
là một giải pháp hay, trừ khi mặt bằng lãi suất thế giới đang thấp và lạm phát trong nước cũng không
cao, tạo dự địa cho chính sách tiền tệ mở rộng.
Xuất quỹ dự trữ ngoại hối ra chi tiêu
Phải khẳng định trước rằng, quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia là để ổn định tỉ giá, dùng trong thanh toán và
trả nợ quốc tế, chứ không phải để cho chi tiêu. Gần đây Chính phủ có đề xuất sử dụng quỹ dự trữ ngoại
14
hối mà NHNN đang quản lí để bù đắp hụt thu ngân sách do giá dầu sụt giảm. Nhưng ý tưởng này đã vấp
phải sự phản đối quyết liệt từ phía các chuyên gia kinh tế do nhiều nguyên nhân. Có thể kể đến như:
+) Thứ nhất, việc dùng quỹ cho chi tiêu như đề xuất của Chính phủ là sai mục đích, hầu như chỉ khi nền
kinh tế rơi vào khủng hoảng, thiếu vốn trầm trọng mới phải động đến quỹ dự trữ ngoại hối.
+) Thứ hai, tổng giá trị quỹ hiện nay là khoảng 38 tỉ USD, dù đã đạt tới mức cao kỉ lục trong lịch sử nhưng
so với tiêu chuẩn do IMF đề ra là khối lượng tối thiểu từ 3-4 tháng nhập khẩu thì vẫn chưa đáp ứng đủ.
+) Thứ ba, do đồng tiền của ta còn yếu, cung - cầu thị trường thường dễ biến động do tâm lí bất an hoặc
hoạt động đầu cơ gây nên, nếu không còn một quỹ dự trữ ngoại hối lớn, đủ sức can thiệp thị trường
nhằm bình ổn tỉ giá thì không còn gì có thể bảo vệ cho đồng nội tệ.
+) Thứ tư, đa phần dự trữ ngoại hối của ta đến từ các khoản viện trợ ODA, đầu tư FDI, FPI, vay nợ nước
ngoài,…, các khoản đến từ thặng dư thương mại rất ít, nên thực chất ngoại tệ đó là một khoản nợ (từ
các chủ nợ, nhà đầu tư nước ngoài) và rồi đến một lúc nào đó phải có nghĩa vụ trả, nên không thể sử
dụng tuỳ tiện được.
Vay của NHTW (với mô hình NHTW độc lập Chính phủ)
Chính phủ phát hành trái phiếu và bán lại cho NHTW. Tiền được NHTW in thêm ra để trả cho lô trái
phiếu đó. Việc in tiền không dựa trên tốc độ tăng trưởng kinh tế kì vọng hay tỉ lệ lạm phát dự kiến mà in
một cách kĩ thuật như vậy cố nhiên sẽ có tác động đột biến lên cung tiền và ảnh hưởng tới lạm phát.
Phát hành tiền (với mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ)
Việc phát hành tiền nhằm bù đắp thâm hụt hoặc tài trợ cho chi tiêu Chính phủ được thực hiện không
dựa trên tín hiệu của nền kinh tế mà căn cứ vào mệnh lệnh hành chính từ Chính phủ là trái với nguyên
tắc thị trường. Khác với việc Chính phủ vay tiền từ NHTW, việc chủ động cho phát hành tiền khi NHTW
chịu sự kiểm soát tuyệt đối từ Chính phủ sẽ không tạo ra nghĩa vụ nợ với ngân sách, việc phát hành là
tuỳ ý và chủ quan. Đây có thể coi là giải pháp cuối cùng, bất đắc dĩ, khiến tiền in thêm đến đâu mất giá
đến đó và càng thúc ép Chính phủ phải cho in nhiều hơn nữa. Hậu quả tất yếu là lạm phát gia tăng,
người dân mất niềm tin và đồng tiền mất giá.
15
CHƯƠNG 4: LÃI SUẤT
4.1. Tính toán lãi suất
4.1.1. Giá trị hiện tại
Tiền có giá trị khác nhau khi phát sinh tại các thời điểm khác nhau. Một USD bạn nhận được ở hiện tại có
giá trị hơn cũng một USD đó nhưng nhận được sau một năm. Vì với một USD ở hiện tại, bạn có thể đem
đi gửi tiết kiệm để rồi một năm sau, số tiền đó sinh lãi và bạn có được nhiều hơn một USD. Nếu lấy mốc
thời gian là sau một năm thì rõ ràng một USD ở hiện tại đem lại cho bạn lợi ích cao hơn một USD phát
sinh tại thời điểm đó. Và do vậy để đánh giá lợi ích của các dòng tiền phát sinh tại nhiều thời điểm khác
nhau trong tương lai, chúng ta cần chiết khấu để đưa chúng về cùng một thời điểm, ví dụ như hiện tại
thì mới có căn cứ để so sánh.
Một dòng tiền có giá trị FV, phát sinh tại thời điểm sau n năm kể từ hiện tại, với mức tỉ suất chiết khấu r%
thì giá trị hiện tại của dòng tiền là:
PV =
4.1.2. Bốn loại công cụ của thị trường tín dụng
1) Cho vay đơn: Là loại hình cho vay mà trong đó người cho vay cấp cho người đi vay một số vốn nhất
định, đồng thời người đi vay cam kết trả cho người cho vay cả gốc và lãi một lần vào thời điểm đáo hạn.
2) Cho vay với mức thanh toán cố định: Là loại hình cho vay mà trong đó người cho vay cấp cho người đi
vay một số vốn nhất định, đồng thời người đi vay cam kết trả cho người cho vay những khoản tiền bằng
nhau tại mỗi kì, liên tục cho đến kì hạn cuối cùng khi hợp đồng đáo hạn, trong đó có cả vốn gốc và tiền
lãi theo quy định.
3) Trái phiếu coupon: Là loại trái phiếu trả lãi định kì và cuối kì nhận lại vốn gốc bằng mệnh giá.
4) Trái phiếu chiết khấu (trái phiếu zero coupon): Là loại trái phiếu được bán với mức giá thấp hơn mệnh
giá và mệnh giá được hoàn trả vào ngày đáo hạn.
4.1.3. Lãi suất hoàn vốn
Lãi suất hoàn vốn là mức lãi suất làm cho giá trị hiện tại của các khoản thanh toán nhận được từ một
công cụ nợ bằng giá trị hiện tại của nó.
1) Cho vay đơn
Giả sử tôi cho bạn vay 100 USD trong một năm, lãi suất yêu cầu là 10%/năm. Số tiền sau một năm bạn
phải trả tôi là 100×(1+10%) = 110 USD. Ở đây, giá trị hiện tại của khoản vay cũng là dòng tiền phát sinh
tại thời điểm hiện tại là 100 USD. Giá trị tương lai sau một năm là 110 USD do tính thêm cả tiền lãi. Gọi r
là mức lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của khoản thanh toán trong tương lai với giá trị hiện tại của
khoản vay. Ta có: 100 = 110/(1+r) => r = 10%, bằng mức lãi suất cho vay.
16
Từ đây ta rút ra nhận xét: Với những khoản cho vay đơn, lãi suất hoàn vốn bằng lãi suất cho vay.
2) Cho vay với mức thanh toán cố định
Giả sử bạn đến cửa hàng của tôi mua một chiếc xe máy trị giá 1000 USD theo hình thức trả góp trong 25
năm, với mức thanh toán định kì mỗi năm là 126 USD, trả liên tục trong suốt khoảng thời gian đó.
Ta có: 1000 = 126/(1+r)^1 + 126/(1+r)^2 + 126/(1+r)^3 + … + 126/(1+r)^25
Giải phương trình và xác định được giá trị của r ≈ 12%. Các trường hợp khác làm tương tự.
Tổng quát: Với LV là giá trị của khoản vay, FP là khoản thanh toán cố định hàng năm, n là số năm tới
ngày đáo hạn.
LV =
+
+
+…+
3) Trái phiếu coupon
Giả sử doanh nghiệp của bạn phát hành loại trái phiếu mệnh giá 1000 USD, lãi suất 10%/năm, kì hạn 10
năm và bán cho tôi. Khi đó định kì vào mỗi năm tôi nhận được một khoản tiền lãi là 1000×10%=100 USD.
Nhận liên tục như vậy trong 10 năm, tuy nhiên đến năm thứ 10 khi trái phiếu đáo hạn, bên cạnh khoản
lãi định kì là 100 USD như vẫn nhận được trong suốt 9 năm trước đó thì tôi còn nhận lại khoản vốn gốc
là 1000 USD đã cho doanh nghiệp bạn vay. Như vậy khi nắm giữ trái phiếu này, có mười dòng tiền phát
sinh trả cho tôi, trong đó 9 năm đầu mỗi năm chỉ nhận 100 USD, đến năm thứ 10 thì nhận được một
khoản 100 + 1000 = 1100 USD. Giá trị hiện tại của khoản vay chính là mệnh giá trái phiếu 1000 USD.
Lưu ý hình thức này chỉ thanh toán vốn gốc một lần khi đáo hạn, khác với trường hợp cho vay với mức
thanh toán cố định, ở đó vốn gốc được “chẻ” ra thành nhiều phần bằng nhau và phân bổ đều cho mỗi kì
trả lãi.
Ta có: 1000 = 100/(1+r)^1 + 100/(1+r)^2 + … + 100/(1+r)^10 + 1000/(1+r)^10
Giải phương trình và xác định được giá trị của r = 10% (bằng mức lãi suất coupon 10%)
Tổng quát với P là giá hiện hành của trái phiếu, C là số tiền thanh toán coupon hàng năm, F là mệnh giá
trái phiếu, n là số năm tới ngày đáo hạn.
P=
+
+
+…+
+
*** Ba điểm cần lưu ý về trái phiếu coupon:
+) Khi trái phiếu coupon được định giá bằng mệnh giá thì lãi suất đáo hạn bằng lãi suất coupon (như ví
dụ trên).
+) Giá trái phiếu coupon và lãi suất hoàn vốn có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau (rút ra từ công thức).
17
+) Lãi suất hoàn vốn lớn hơn lãi suất coupon khi giá trái phiếu thấp hơn mệnh giá (rút ra lưu ý thứ hai).
*** Trái phiếu consol: Là một dạng đặc biệt của trái phiếu coupon khi n tiến tới vô cực, tức quá trình trả
lãi diễn ra liên tục, không xác định ngày đáo hạn.
Bằng toán học ta chứng minh được rằng, với trái phiếu consol: P =
r=
Ví dụ: với trái phiếu consol mệnh giá 1000 USD, lãi suất 10%, đang được bán với giá 2000 USD thì có lãi
suất hoàn vốn là: r = C/P = (1000×10%)/2000 = 5%.
4) Trái phiếu chiết khấu
Giả sử tôi mua của bạn một trái phiếu chiết khấu mệnh giá 1000 USD với mức giá 900 USD, thời gian đáo
hạn một năm. Ta có: 900 = 1000/(1+r) => r ≈ 11,1%.
Tổng quát: Với F là mệnh giá, P là thị giá trái phiếu chiết khấu, xét kì hạn một năm.
P=
r=
4.2. Các chỉ tiêu khác về lãi suất
Lãi suất hoàn vốn là chỉ tiêu chính xác nhất và được sử dụng phổ biến nhất về lãi suất. Tuy nhiên, lãi suất
hoàn vốn đôi khi khó tính toán nên các chỉ tiêu ít chính xác hơn về lãi suất thường được sử dụng trên thị
trường trái phiếu. Đó là hai chỉ tiêu: lãi suất hiện hành và lãi suất hoàn vốn tính giảm.
1) Lãi suất hiện hành
Là chỉ tiêu gần đúng cho lãi suất hoàn vốn, được xác định bằng công thức: iC
=
Trong đó: P là thị giá trái phiếu và C là mức thanh toán coupon hàng năm.
Chúng ta dễ dàng rút ra một số nhận xét:
Công thức trên giống với công thức xác định lãi suất hoàn vốn của trái phiếu consol, tức với
những trái phiếu có kì hạn càng dài (càng giống consol) thì lãi suất hiện hành càng gần với mức
lãi suất hoàn vốn và là một chỉ tiêu khá sát để phản ánh để phản ánh nó.
Từ công thức ta thấy: lãi suất hiện hành biến thiên ngược chiều với thị giá, nhớ lại rằng lãi suất
hoàn vốn cũng có tính chất như vậy, nên suy ra lãi suất hiện hành và lãi suất hoàn vốn có tương
quan thuận chiều. Nhưng khi thị giá thay đổi thì mức biến động của lãi suất hoàn vốn sẽ lớn hơn
lãi suất hiện hành.
Thị giá = Mệnh giá => lãi suất coupon = lãi suất hiện hành = lãi suất hoàn vốn
Thị giá > Mệnh giá => lãi suất coupon > lãi suất hiện hành > lãi suất hoàn vốn
Thị giá < Mệnh giá => lãi suất coupon < lãi suất hiện hành < lãi suất hoàn vốn
2) Lãi suất hoàn vốn tính giảm
18
Công thức: idb =
; với F là mệnh giá, P là thị giá, M là số ngày đáo hạn.
(công thức này ít được sử dụng)
4.3. Tỉ suất lợi tức
Tỉ suất lợi tức từ việc nắm giữ trái phiếu =
Trong đó Pt và P(t+1) lần lượt là giá trái phiếu tại thời điểm mua – t và thời điểm bán – t+1; C là tổng số
lãi coupon thu được trong suốt kì nắm giữ.
Với những trái phiếu được mua bằng mệnh giá, ta rút ra một số nhận xét sau đây:
+) Loại trái phiếu duy nhất có tỉ suất lợi tức bằng lãi suất hoàn vốn là trái phiếu mà thời gian tới ngày đáo
hạn đúng bằng thời kì nắm giữ (khi đó mức giá bán ra bằng giá mua vào và tỉ suất lợi tức = lãi suất hiện
hành = lợi suất hoàn vốn (do mua bằng mệnh giá)).
+) Sự gia tăng trong lãi suất gắn với sự giảm giá trái phiếu, dẫn đến các khoản lỗ về vốn của những trái
phiếu mà thời gian tới ngày đáo hạn dài hơn thời kì nắm giữ (khi đó mức giá bán ra nhỏ hơn giá mua vào
dẫn tới làm giảm tỉ suất lợi tức).
+) Trái phiếu càng cách xa ngày đáo hạn thì quy mô thay đổi giá cả tính bằng phần trăm trên sự thay đổi
của lãi suất càng lớn (chứng minh bằng toán học).
+) Trái phiếu càng cách xa ngày đáo hạn thì tỉ suất lợi tức càng thấp khi có sự gia tăng trong lãi suất (do
giá trái phiếu giảm càng mạnh trên mỗi biến động % của lãi suất)
+) Cho dù một trái phiếu có lãi suất ban đầu cao thì tỉ suất lợi tức của nó vẫn có thể âm khi lãi suất tăng.
4.4. Lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế
Lãi suất thực tế là lãi suất danh nghĩa sau khi đã loại bỏ lạm phát; là mức gia tăng sức mua của nhà đầu
tư tính bằng lượng hàng hoá, dịch vụ mua được.
Công thức: Lãi suất thực tế = Lãi suất danh nghĩa – Tỉ lệ lạm phát dự kiến
Khi lạm phát thực tế cao hơn mức dự kiến thì lãi suất thực tế sẽ thấp hơn mức kì vọng và nhà đầu
tư/cho vay bị thiệt, người đi vay được lợi và ngược lại.
19
CHƯƠNG 5: NGÂN HÀNG
5.1. Bảng cân đối tài sản của ngân hàng
TÀI SẢN
1. Các khoản dự trữ và tiền mặt
Dự trữ
Tiền mặt trong quá trình thu
Tiền gửi tại tổ chức tín dụng khác
2. Chứng khoán
3. Các khoản cho vay
4. Tài sản khác
NGUỒN VỐN
1. Tiền gửi
Tiền gửi giao dịch
Tiền gửi phi giao dịch
2. Các khoản đi vay
3. Vốn chủ sở hữu
Phương trình cơ bản: Tài sản = Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu
Trong đó: Nợ phải trả = Tiền gửi huy động + Các khoản đi vay
5.1.1. Nguồn vốn
1) Tiền gửi
Tiền gửi giao dịch: Là tài khoản tiền gửi không kì hạn mà khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào
(có thể viết séc). Đây thường là các khoản tiền gửi không trả lãi, mà nếu có thì lãi suất cũng rất
thấp. Do tính chất linh hoạt trong việc rút tiền, nên tiền gửi giao dịch là một nguồn vốn kém ổn
định với ngân hàng.
Tiền gửi phi giao dịch: Là tài khoản tiền gửi mà người gửi tiền không thể thực hiện các dịch vụ
thanh toán trên tài khoản. Hai dạng cơ bản của tiền gửi phi giao dịch là tiền gửi tiết kiệm và tiền
gửi có kì hạn (còn được gọi là chứng chỉ tiền gửi – CD). Với tiền gửi tiết kiệm, người ta có thể bổ
sung hoặc rút vốn ra bất cứ lúc nào, các giao dịch và thanh toán lãi suất được ghi lại trong một
quyển sổ nhỏ mà người chủ tài khoản nắm giữ. Tài khoản tiền gửi có kì hạn luôn xác định rõ một
khoảng thời gian đáo hạn cụ thể, trong khoảng thời gian đó người gửi tiền không được phép rút
ra, nếu không sẽ bị phạt lãi theo mức lãi suất của tiền gửi không kì hạn thấp hơn nhiều. Tiền gửi
phi giao dịch thường chiếm mức tỉ trọng cao nhất trong cơ cấu nguồn vốn của NHTM. Lãi suất
tiền gửi phi giao dịch nhìn chung cao hơn của tiền gửi giao dịch, nhưng đổi lại tính thanh khoản
với người gửi tiền lại giảm đi.
2) Các khoản đi vay: Bên cạnh việc huy động tiền gửi, các ngân hàng cũng chủ động để có được vốn bằng
cách đi vay của Ngân hàng trung ương, vay trên thị trường liên ngân hàng hoặc của các định chế tài
chính, doanh nghiệp khác. Các khoản vay NHTW hoặc trên thị trường liên ngân hàng chủ yếu để đáp ứng
nhu cầu vốn ngắn hạn, giải quyết sự thiếu hụt thanh khoản tạm thời.
3) Vốn chủ sở hữu: Là giá trị ròng của ngân hàng sau khi đã khấu trừ hết các khoản nợ. Thường chỉ chiếm
tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu vốn, nhưng lại đóng một vai trò quan trọng như tấm đệm hấp thụ các tổn thất
20
của ngân hàng trong quá trình kinh doanh. Vốn chủ sở hữu có được bằng nhiều cách như được cấp từ
Nhà nước/công ty mẹ, phát hành cổ phiếu, giữ lại một phần lợi nhuận,…
5.1.2. Tài sản
1) Các khoản dự trữ và tiền mặt
Dự trữ: Là số tiền ngân hàng giữ lại, không đầu tư ra bên ngoài từ số vốn có được. Có hai cách
phân loại dự trữ: (1) theo địa chỉ, gồm dự trữ tại ngân hàng và dự trữ gửi ở NHTW, (2) theo tính
chất, gồm dự trữ bắt buộc và dự trữ dôi ra. Dự trữ bắt buộc là theo quy định của NHTW, tính
trên số tiền gửi mà ngân hàng huy động được, với một mức tỉ lệ nhất định trong từng thời kì, với
từng loại hình ngân hàng, trên từng loại tiền gửi. Mục đích của dự trữ bắt buộc là để NHTW điều
tiết cung tiền trong nền kinh tế. Dự trữ dôi ra là số tiền mỗi ngân hàng muốn nắm giữ thêm,
ngoài yêu cầu của NHTW, nhằm mục tiêu đảm bảo tính thanh khoản hàng ngày.
Tiền mặt trong quá trình thu: Giả sử một tấm séc được viết vào tài khoản mở tại ngân hàng khác,
sau đó được gửi vào ngân hàng bạn nhưng bạn chưa nhận được số vốn làm cơ sở cho tấm séc
kia, khi đó tấm séc được phân loại vào tài khoản tiền mặt đang trong quá trình thu, và nó là tài
sản đối với ngân hàng bạn.
Tiền gửi tại tổ chức tín dụng khác: Để thực hiện các dịch vụ thanh toán liên ngân hàng hoặc khi
có thanh khoản dư thừa, các tổ chức tín dụng thường mở tại khoản tại hội sở của nhau. Khi đó
tài sản vừa đảm bảo sinh lời lại thuận tiện để thực hiện các dịch vụ cho khách hàng.
2). Chứng khoán: Thay vì hình thức cho vay trực tiếp, các NHTM có thể mua trái phiếu của Chính phủ,
các chính quyền địa phương hoặc doanh nghiệp, tổ chức khác.Tín phiếu Kho bạc là chứng khoán có tính
thanh khoản cao nhất trên thị trường nên thường được chọn làm dự trữ cấp hai sau tiền mặt.
3) Các khoản cho vay: Ngân hàng kiếm lợi nhuận chủ yếu bằng cách cho vay. Đây là các tài sản có tính
lỏng thấp, rủi ro cao nhưng mức lợi thuận thu về lớn hơn bất cứ một loại hình kinh doanh nào khác của
ngân hàng.
5.2. Nguyên tắc chung trong quản lí ngân hàng
Nhà quản lí ngân hàng thường quan tâm tới ba vấn đề sau:
(1) Quản lí thanh khoản: Đảm bảo ngân hàng có đủ tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền chính
đáng của khách hàng bất cứ lúc nào.
(2) Quản lí tài sản: Giảm thiểu tối đa mức rủi ro ngân hàng có thể gặp phải bằng cách đa dạng hoá
danh mục tài sản nắm giữ.
(3) Quản lí nguồn vốn: Thu hút được nguồn vốn với chi phí thấp nhất.
5.2.1. Quản lí thanh khoản
Tiền dự trữ (dôi ra) trong ngân hàng có hai vai trò chính:
21
(1) hạn chế chi phí khi có dòng tiền rút ra, giúp ngân hàng tránh phải thực hiện những việc làm phát sinh
các khoản phí ngoài dự kiến như: đáo hạn sớm hợp đồng hoặc bán các hợp đồng cho vay cho tổ chức tín
dụng khác, bán chứng khoán, vay của NHTW, vay trên thị trường liên ngân hàng hoặc từ các doanh
nghiệp;
(2) phòng ngừa rủi ro mất khả năng thanh khoản (chứ không phải thanh toán!) dẫn đến vỡ nợ: các ngân
hàng cần duy trì các khoản dự trữ vượt mức, dự trữ cấp hai (chứng khoán thanh khoản cao) và vốn chủ
sở hữu đủ lớn để hấp thụ các khoản thua lỗ trong kinh doanh và đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu rút
tiền chính đáng của khách hàng bất cứ lúc nào. Do dự trữ không đem lại lợi nhuận cho ngân hàng, trong
khi vẫn mất phí huy động, nên vấn đề khó nhất ở đây là nhà quản lí phải tính toán ra một mức dự trữ
hợp lí, nhằm vừa đảm bảo khả năng thanh khoản hàng ngày, vừa tối thiểu hoá được chi phí cơ hội do
việc dự trữ đem lại.
5.2.2. Quản lí tài sản
Để tối đa hoá lợi nhuận, ngân hàng càng tìm kiếm những lợi tức cao nhất từ các khoản cho vay và tối
thiểu hoá rủi ro có thể gặp phải bằng các cách:
+) Thứ nhất: Ngân hàng phải chủ động tìm kiếm những khách hàng uy tín, có tiềm lực tài chính hoặc dự
án có tính khả thi cao để cho vay.
+) Thứ hai: Ngân hàng cố gắng mua được những chứng khoán đem lại lợi tức cao, nhưng đồng thời phải
có mức rủi ro kiểm soát được.
+) Thứ ba: Ngân hàng phải đa dạng hoá danh mục tài sản nắm giữ để tối thiểu hoá tổng mức rủi ro có
thể gặp phải, bằng cách đầu tư vào nhiều loại tài sản có mức độ tương quan về lợi tức ngược chiều nhau.
+) Cuối cùng: Ngân hàng cần quản lí tốt trạng thái thanh khoản để thoả mãn được những đòi hỏi về dự
trữ mà không phải chịu một mức tổn thất lớn.
5.2.3. Quản lí rủi ro tín dụng – Các nguyên tắc quản lí tiền cho vay
1) Sàng lọc và giám sát
Sàng lọc nhằm khắc phục vấn đề lựa chọn đối nghịch. Ngân hàng sẽ thu thập những thông tin cần thiết
về khách hàng tiềm năng, sau đó đánh giá, chấm điểm tín dụng. Mục đích là để chọn ra được những đối
tượng đi vay uy tín, có tiềm lực tài chính hoặc dự án đầu tư khả thi mới đồng ý cấp vốn. Sàng lọc được
thực hiện trước khi hợp đồng tín dụng giữa hai bên được kí kết.
Giám sát nhằm khắc phục vấn đề rủi ro đạo đức. Sau khi giải ngân, cán bộ tín dụng của ngân hàng phải
thường xuyên theo dõi tình hình sử dụng vốn vay, xem khách hàng có làm đúng với những yêu cầu do
hợp đồng tín dụng đề ra hay không. Mục đích là nhằm tránh tình trạng khách hàng sau khi nhận vốn về
sẽ đem tiền đầu tư vào những lĩnh vực không được các bên thoả thuận ban đầu, dẫn tới rủi ro của món
vay tăng, gây thiệt hại cho cả ngân hàng và người đi vay. Giám sát là hoạt động được thực hiện sau khi
hợp đồng tín dụng được kí kết.
22
2). Quan hệ khách hàng
Ngân hàng cần duy trì một mối quan hệ lâu dài với khách hàng để nhanh chóng thu thập được các thông
tin hữu ích, đáng tin cậy về lịch sử tín dụng cũng như khả năng trả nợ của khách hàng, qua đó giảm được
chi phí thu thập thông tin, tạo được sự tin cậy giữa ngân hàng và khách hàng, giúp khách hàng được vay
vốn với mức lãi suất thấp hơn.
3). Cam kết cho vay
Ngân hàng cũng tạo mối quan hệ lâu dài và thu thập thông tin bằng cách đưa ra cam kết cho vay với các
khách hàng thương mại. Đây là cam kết từ phía ngân hàng, có hiệu lực trong một khoảng thời gian nhất
định, với một doanh nghiệp rằng họ sẽ được vay tới một mức giới hạn cho trước, với lãi suất được thả
nổi theo một loại lãi suất thị trường nào đó. Ưu điểm của chính sách này là thúc đẩy mối quan hệ dài
hạn và qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu thập thông tin khách hàng. Ngoài ra các điều khoản
trong hợp đồng cấp hạn mức tín dụng cũng yêu cầu khách hàng phải minh bạch hoá thông tin.
3). Thế chấp tài sản và số dư bù
Đa số các hợp đồng vay vốn đều đòi hỏi vật thế chấp. Đó giống như “vật làm tin”, một tấm đệm hấp thụ
rủi ro, giúp ngân hàng giảm thiểu mức tổn thất có thể gặp phải khi khách hàng mất khả năng thanh toán
hoặc không có thiện chí thanh toán cho ngân hàng, bằng cách ngân hàng phát mại tài sản, bù đắp vào số
tiền khách hàng còn thiếu.
Số dư bù là số tiền khách hàng phải gửi vào một tài khoản viết séc mở tại ngân hàng đó, đồng thời thực
hiện tất cả các giao dịch liên quan đến dự án cần vay vốn thông qua tài khoản ấy, nhằm giúp ngân hàng
theo dõi, đánh giá được tình hình kinh doanh và sử dụng vốn vay của khách hàng. Trong trường hợp
khách hàng vỡ nợ, ngân hàng sẽ lấy về số tiền đó để bù đắp tổn thất.
4). Hạn chế tín dụng
Có hai dạng: (1) NHTM từ chối bất kì một yêu cầu vay vốn nào của khách hàng có rủi ro tín dụng quá cao,
(2) NHTM sẵn sàng cho vay nhưng không đáp ứng hết mức yêu cầu mà khách hàng mong muốn, nhằm
khiến khách hàng cũng phải bỏ vốn vào dự án để san sẻ rủi ro, tăng cường tính trách nhiệm.
5). Vốn ngân hàng và tính tương hợp
Để đảm bảo nghĩa vụ của ngân hàng với người gửi tiền, những người đã tin tưởng giao vốn cho họ kinh
doanh để nhận về một chút tiền lãi, cần thực hiện ba biện pháp sau:
Đảm bảo một mức vốn chủ sở hữu đủ lớn để hấp thụ các khoản thua lỗ có thể xảy ra trong quá
trình kinh doanh. Vốn chủ sở hữu càng cao thì mức độ an toàn của ngân hàng càng lớn.
Đa dạng hoá danh mục đầu tư nhằm hạn chế rủi ro, để số vốn khách hàng tin tưởng giao phó
không chỉ sinh lời mà còn được bảo toàn đầy đủ.
Chính phủ cần ban hành những chính sách ràng buộc một lĩnh vực đầy rủi ro như kinh doanh
ngân hàng nhằm bảo đảm mức lợi ích cao nhất cho người dân.
23
CHƯƠNG 6. QÚA TRÌNH TẠO TIỀN GỬI VÀ CUNG TIỀN
6.1. Các tác nhân trong quá trình cung tiền
1) Ngân hàng trung ương: Là cơ quan chịu trách nhiệm điều tiết lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế,
có khả năng bơm và hút tiền mặt khỏi lưu thông. (tác nhân quan trọng nhất)
2) Ngân hàng: Là các định chế tài chính được phép nhận tiền gửi từ cá nhân, doanh nghiệp và cho vay ra
nền kinh tế.
3) Người gửi tiền: Là các cá nhân, tổ chức gửi tiền ở các định chế tài chính được phép nhận tiền gửi.
4) Người vay tiền: Là các cá nhân, tổ chức vay tiền từ các định chế tài chính được phép nhận tiền gửi và
các tổ chức phát hành trái phiếu mà các định chế tài chính được phép nhận tiền gửi mua.
6.2. Bảng cân đối tiền tệ của Ngân hàng trung ương
Có
Chứng khoán
Cho vay chiết khấu
Nợ
Tiền mặt trong lưu thông
Dự trữ
6.2.1. Bên nợ
1) Tiền mặt trong lưu thông: Đây là tài sản đối với những người nắm giữ nhưng là một khoản nợ với cơ
quan phát hành ra nó – Ngân hàng trung ương.
2) Dự trữ: Là tổng lượng tiền nằm trong hệ thống ngân hàng, gồm cả dự trữ tại két và dự trữ gửi ở Ngân
hàng trung ương. Đây là tài sản đối với ngân hàng nhưng là nợ với Ngân hàng trung ương.
6.2.2. Bên có
1) Chứng khoán: Ngân hàng trung ương chủ yếu nắm giữ trái phiếu của Chính phủ. Đây là tài sản đối với
Ngân hàng trung ương nhưng là một khoản nợ với tổ chức phát hành là Chính phủ.
2) Cho vay chiết khấu: Là số tiền Ngân hàng trung ương cho hệ thống ngân hàng vay theo mức lãi suất
chiết khấu.
6.3. Kiểm soát cơ sở tiền tệ
Cơ sở tiền tệ (MB) bằng Tiền mặt trong lưu thông (C) cộng với Dự trữ (R) trong hệ thống ngân hàng.
Công thức: MB = C + R
Ngân hàng trung ương có thể thay đổi cơ sở tiền tệ bằng hai cách:
24
+) Thứ nhất, thực hiện nghiệp vụ thị trường mở (OMO): Là việc NHTW mua/bán trái phiếu chính phủ với
các ngân hàng. Đối với nghiệp vụ mua, NHTW nhận trái phiếu chính phủ từ phía ngân hàng đồng thời trả
tiền cho họ. Tiền ở trong NHTW không có giá trị nhưng khi ra nền kinh tế thì lại có giá trị lưu thông. Nếu
đối tượng mua là một tác nhân phi ngân hàng thì C tăng, còn nếu đối tượng mua là ngân hàng (chủ yếu
rơi vào trường hợp này) thì R tăng. Chung quy cả hai trường hợp đều dẫn đến MB tăng. Ngược lại nếu
NHTW thực hiện nghiệp vụ bán ra trên thị trường mở, hút tiền về sẽ khiến MB giảm.
+) Thứ hai, cho vay chiết khấu: Khi ngân hàng gặp khó khăn về tài chính sẽ tìm đến cứu cánh cuối cùng
của nó là NHTW. Số tiền NHTW cho ngân hàng vay bằng số dự trữ tăng thêm trong hệ thống ngân hàng,
R tăng dẫn tới MB tăng.
6.4. Quá trình tạo tiền gửi qua hệ thống ngân hàng
Giả sử NHTW thực hiện nghiệp vụ mua trên thị trường mở với ngân hàng A, lượng giao dịch trị giá 100
USD. Ngân hàng A giao một lượng chứng khoán trị giá 100 USD cho NHTW đồng thời nhận về số tiền
tương ứng. Khi đó ta nói dự trữ của ngân hàng A tăng lên 100 USD. Với 100 USD có được từ bán chứng
khoán, ngân hàng A không phải trích dự trữ bắt buộc. Giả định ngân hàng A đem cho khách hàng vay hết
100 USD dự trữ tăng thêm để kiếm lời. Khách hàng sau khi nhận được vốn lại gửi vào một tài khoản viết
séc mở tại ngân hàng B và không nắm giữ đồng tiền mặt nào cả. Giả sử tỉ lệ dự trữ bắt buộc là 10%.
Ngân hàng B sau khi huy động được một lượng tiền gửi là 100 USD, sẽ phải trích dự trữ bắt buộc 10% ×
100 = 10 USD. Số dự trữ dôi ra còn lại là 90 USD được ngân hàng B tiếp tục cho vay. Số tiền đó ra nền
kinh tế lại được gửi nguyên vẹn vào một tài khoản viết séc của ngân hàng C. Ngân hàng C huy động 90
USD tiền gửi phải trích ra 10% × 90 = 9 USD làm dự trữ bắt buộc và chỉ được cho vay ra tiếp 81 USD. Quá
trình cứ diễn ra liên tục như vậy, kể cả khi các ngân hàng cho nhau vay trực tiếp không thông qua các tác
nhân phi ngân hàng, nhưng phải đảm bảo là ngân hàng sau khi nhận được vốn phải cho vay ra hết và
không có tiền mặt trong lưu thông. Đó là sự mô tả quá trình tạo tiền giản đơn.
Công thức mô hình tạo tiền giản đơn: ∆D = 1/rr × ∆R
Trong đó: ∆D là quy mô thay đổi lượng tiền gửi có thể viết séc; ∆R là lượng dự trữ tăng thêm; rr là tỉ lệ
dự trữ bắt buộc do NHTW quy định.
*** Anh/Chị hãy dùng tài khoản chữ T chứng minh Ngân hàng trung ương kiểm soát cơ sở tiền tệ tốt
hơn dự trữ của Ngân hàng thương mại.
Lời giải: Ta sẽ chứng minh mệnh đề trên thông qua nghiệp vụ thị trường mở của NHTW.
+) NHTW mua trên thị trường mở từ hệ thống ngân hàng
Giả sử NHTW mua 100 USD trái phiếu từ một NHTM, thanh toán bằng hình thức phát hành một tấm séc
100 USD do NHTW kí. Sau khi nhận được, NHTM có hai cách: một là đem gửi tấm séc đó vào tài khoản
mở tại NHTW, hai là đổi ra tiền mặt và chuyển về quỹ của ngân hàng. Cả hai hành động đó đều làm tăng
dự trữ của NHTM thêm đúng 100 USD.
Ngân hàng
25