Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Vai trò của tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.33 KB, 36 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin trân trọng cảm ơn Ths. Vũ Thị Thu Hằng, đã nhiệt tình giảng
dạy cho em những kiến thức bổ ích trong thời gian học tập vừa qua.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng do kiến thức còn hạn hẹp nên không
tránh khỏi những thiếu sót trong cách hiểu, lỗi trình bày. Em rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của quý thầy, cô để bài tiểu luận đạt được kết quả tốt
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng,
đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong đề tài do tôi tự
tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn
của Việt Nam.


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa đã khơi dậy tiềm năng của đất nước, thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tạo ra nhiều mâu
thuẩn với bản chất xã hội chủ nghĩa. Đó là xu thế phân hóa giàu nghèo, tâm lý
sùng bái đồng tiền, sự cạnh tranh sống còn của các doanh nghiệp. Cơ chế thị


trường cũng là mảnh đất nảy sinh chủ nghĩa cá nhân, tạo cơ hội cho một bộ
phận bất chất lợi ích tập thế, lợi ích cộng đồng, tìm mọi cách để mưu lợi cho
bản thân. Điều này dẫn đến quyền và lợi ích của người lao động luôn bị đè
bẹp, xâm hại. Vì thế Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều quy định pháp luật,
thành lập nên nhiều cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người lao động. Trong đó, công đoàn là một tổ chức gần gũi
và có những hoạt động thiết thực, có hiệu quả để bảo về người lao động. Đảng
và Nhà nước ta cũng đã có nhiều văn bản pháp luật quy định cụ thể vị trí,
chức năng , nhiệm vụ của tổ chức công đoàn nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý cho
hoạt động công đoàn. Công đoàn cơ sở là tổ chức thiết thực bảo vệ người lao
động, tạo mối quan hệ hài hòa, ổn định giữa các chủ thể tham gia lao động.
Công đoàn trực tiếp bảo vệ công nhân trong nhiều lĩnh vực, đại diện cho tập
thể lao động khi giải quyết tranh chấp lao động. Nhận thức được tầm quan
trọng của công đoàn trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động, nhất là trong giai đoạn hiện nay, việc vi phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động đang diễn ra khá phổ biến ở các doanh nghiệp, đặc
biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Công đoàn cơ sở trong các doanh
nghiệp này hoạt động hiệu quả, đồng thời nhiều doanh nghiệp và người lao
động có sự nhìn nhận sai lạc về vai trò của tổ chức công đoàn. Vậy đẻ hiểu rõ
hơn nữa về vấn đề này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về “Vai trò của tổ chức
công đoàn trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay”.

4


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Để hiểu rõ hơn về Công đoàn Việt Nam hiện tại đang phát triển ra sao,
và vai trò của nó như thế nào đặc biệt là đối với các tổ chức doanh nghiệp ở
nước ta hiện nay. Để mang đến cho mọi người những hiểu biết , nên tôiquyết
định chon đề tài tìm hiểu sâu về vai trò của tổ chức Công đoàn đối với tổ

chức doanh nghiệp hiện nay ở nước ta, để cung cấp thêm thông tin cho nhiều
người, trươc khi lựa chọn 1 công việc và tổ chức phù hợp. Đảm bảo quyền và
lợi ích của bản thân. Giúp các bạn có những quyêt định đúng đắn.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu những lí luận cơ bản về vai trò của Tổ chức
Công đoàn trong doanh nghiệp nước ta hiện nay, phát hiện ra những điểm
mạnh và điểm yếu, để từ đó đề xuất ra một số giải pháp nhằm nâng cao hơn
nữa chất lượng vai trò của tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp hiện
nay ở nước ta.
4. Đối tượng nghiên cứu.
Tổ chức Công đoàn có những vai trò như thế nào đối với sự phát triển
của các tổ chức doanh nghiệp hiện nay.
5. Phạm vi nghiên cứu.
Nội dung nghiên cứu trọng tâm đi sâu vào vấn đề tìm hiểu về vai trò
của tổ chức công đoàn đối với sự phát triển của đất nước nói chung và vai trò
của công đoàn như thế nào đối với người lao động và đối với các tổ chức
doanh nghiệp nói riêng. Các giải pháp nâng cao hơn nữa vai trò của tổ chức
công đoàn trong doanh nghiệp.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu đề tài trên các phương pháp được sử dụng nghiên cứu
trong bài là :
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp phân tích đối chiếu, so sánh để thấy được vai trò của tổ
chức công đoàn trong việc thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
5


người lao động, tăng năng xuất lao động, góp phần thúc đẩy phát triển công
ty.

7. Bố cục của đề tài.
Bài tiểu luận ngoài các phần lời cảm ơn,danh mục chữ cái viết tắt, phần
mở đầu thì bài tiểu luận còn có kết cấu 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận.
Chương 2: Thực trạng vai trò của tổ chức công đoàn trong doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hơn nữa vai trò của tổ chức
công đoàn trong các doanh nghiệp hiện nay ở nước ta.

6


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Các khái niệm chung
Theo nhập môn xã hội học tổ chức của Gunter Buschges (nhà xuất bản
thế giới, Hà Nội – 1996) thì tổ chức là dấu hiêuh đặc trưng và yếu tố cấu
thành một xã hội công nghiệp và dịch vụ hiện đại. Đóng vai trò là một bộ
phận xã hội trung gian, tổ chức nối từng thành viên trong xã hội chúng ta và
toàn xã hội cũng như giữa các hệ thống đang tồn tại trong xã hội đó. Tổ chức
được quyện chặt vào hệ thống kinh tế xã hội mà nó chứa trong đó.
Tổ chức được hình thành dựa trên một sự quyết định hợp lý, trên cơ sở
mong muốn có chủ đích của những người thành lập. Sự hình thành, cơ cấu và
sự phát triển của tổ chức phục vụ cho các mục tiêu đã chọn, vì nó mà tổ chức
được hình thành và bảo tồn.
Tổ chức mang lại một chất lượng đặc biệt cho tất cả những người mà
phần lớn cuộc sống của họ gắn liền với tổ chức. Như vậy, tổ chức không chỉ
là phương tiện để đạt được mục đích, là công cụ quan trọng để biến các mục
tiêu thành hiện thực mà còn có ý nghĩa trọng tâm đó là tổ chức cuộc sống. Tổ
chức tạo ra chất lượng cuộc sống thành hiện thực thông qua tổ chức.
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của

người lao động cùng với cơ quan Nhà nước , tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những NLĐ
khác; tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt
động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục cán bộ, công nhân viên
chức và những NLĐ khác; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Và nó có những đặc
-

trưng sau:
Là một đơn vị xã hội, tập hợp từ hai người trở lên có chung mục tiêu
Tổ chức là sự liên kết, phối hợp có ý thức, có nghĩa là đề cập đến hoạt động
quản lý, ranh giới hoạt động tương đối xác định đề cập đến một khía cạnh

-

quan trọng đó là phạm vi hoạt động rõ ràng
Mục tiêu của tổ chức là đề cập đến vấn đề tổ chức đó phải đạt được bằng hoạt
động của mình
Như vậy, Công đoàn là một tổ chức, nó có vị trí, vai trò, chức năng,
7


mục tiêu hoạt động cảu mình được Đảng, Nhà nước và xã hội thừa nhận.
Doanh nghiệp: Hay đúng ra là doanh thương là một tổ chức kinh tế, có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh
theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh.
1.2. Khái quát chung về tổ chức công đoàn
1.2.1. Lịch sử phát triển
Ngày 28/7/1929, tại số nhà 15 số Hàng Nón – Hà Nội, Ban Chấp hành
lâm thời Đông dương Cộng sản đảng đã quyết định tổ chức Hội nghị đại biểu

Tổng Công hội đỏ Bắc Kì lần thứ nhất( tổ chức tiền thân của công đoàn Việt
Nam). Đại hội đã bầu ban chấp hành Trung ương lâm thời Tổng công hội đỏ
do đ/c Nguyễn Đức Cảnh Ủy viên BCH Trung ương lâm thời Đông dương
Cộng sản Đảng đứng đầu.
Trong cuốn “Đường cách mệnh” Bác Hồ viết về tính chất nhiệm vụ tổ
chức Công hội đỏ (nay là tổ chức Công đoàn Việt Nam) như sau: “Tổ chức
công hội trước hết là để công nhân đi lại với nhau cho có tình cảm, hai là để
nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá
hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi của công nhân, năm là để giúp cho
quốc dân, giúp cho thế giới”.
Từ năm 1929 đến nay, Công đoàn Việt Nam đã qua 7 lần đổi tên:
-Công hội đỏ: 1929 – 1935
-Nghiệp đoàn Ái Hữu: 1935 – 1939
-Hội công nhân Phản Đế: 1939 – 1941
-Hội công nhân Cứu Quốc: 1941 – 1946
-Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam: 1946 – 1961
-Tổng Công đoàn Việt Nam: 1961 – 1988
-Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam: 1988 đến nay
1.2.2. Vị trí của Công đoàn Việt Nam
Công đoàn là thành viên trong hệ thống chính trị xã hội Việt Nam
-

Với Đảng, Công đoàn chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chỗ

8


-

dựa vững chắc và là sợi dây chuyền nối liền quần chúng với Đảng.

Với Nhà nước, Công đoàn là người cộng tác đắc lực, bình đẳng, tôn trọng lẫn
nhau, ngược lại Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý và cơ sở vật chất cho Công

-

đoàn hoạt động.
Với tổ chức chính trị-xã hội khác, Công đoàn là thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, hạt nhân trong khối liên minh Công, Nông, Trí thức, bình
đẳng, tôn trọng, tạo điều kiện cho nhau hoạt động (thông qua các Nghị quyết
liên tịch…)
1.2.3. Sơ đồ hệ thống tổ chức Công đoàn lao động Việt Nam

Công đoàn Việt Nam Tổ chức theo các cấp cơ bản sau:
-

Cơ quan Trung ương Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
+ Là cơ quan lănh đạo cao nhất của các cấp Công đoàn, Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam thay mặt cho công nhân, viên chức và lao động
tham gia quản lư kinh tế, quản lư Nhà nước, tham gia xây dựng pháp luật, chế
độ chính sách liên quan đến quyền lơị, nghĩa vụ của công nhân, viên chức và
lao động .
+ Thực hiện công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà
nước.

9


+ Tổ chức phong trào thi đua trong công nhân viên chức và lao động,
phát triển đoàn viên, xây dựng tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn
đáp ứng yêu cầu của phong trào công nhân, Công đoàn.

+ Thông qua quyết toán và dự toán ngân sách hàng năm
+ Tiến hành công tác đối ngoại theo đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam
-

Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là
Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố) và Công đoàn ngành Trung ương.
+ Là tổ chức Công đoàn theo địa bàn, tỉnh, thành phố có nhiệm vụ đại
diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, công nhân
lao động trên địa bàn. Triển khai thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Ban
chấp hành Tổng Liên đoàn, Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn và Nghị quyết
Ban chấp hành Công đoàn tỉnh, thành phố.
+ Tham gia với cấp uỷ Đảng, các cơ quan Nhà nước tỉnh, thành phố về
chủ trương phát triển kinh tế, xă hội, văn hoá giáo dục, các vấn đề liên quan
đến đời sống, việc làm, điều kiện làm việc của công nhân, viên chức, lao
động.
+ Tổ chức các phong trào thi đua, các hoạt đông xă hội của công nhân,
viên chức và lao động trên địa bàn.
+ Phối hợp với cơ quan chức năng của Nhà nước tổ chức kiểm tra việc
thực hiện pháp luật, các chính sách về lao động, tiền lương, bảo hộ lao động,
bảo hiển xă hội, bảo hiểm y tế và các chính sách khác có liên quan đến quyền
lợi, nghĩa vụ người lao động tại địa phương.
+ Tham gia hội đồng trọng tài lao động và an toàn lao động ở địa
phương, hướng dẫn, chỉ đạo giải quyết tranh chấp lao động. Chỉ đạo Công
đoàn ngành địa phương, Công đoàn quận huyện, thị xă và các Công đoàn trực
thuộc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ḿnh.
+ Tổ chức giáo dục nâng cao tŕnh độ văn hoá, nghiệp vụ và các hoạt
động văn hoá thể thao trong công nhân, viên chức lao động.

-


Liên đoàn lao động quận huyện và tương đương( Công đoàn cấp trên cơ
10


sở)
+ Công đoàn cấp trên trực tiếp của Công đoàn cơ sở gồm Công đoàn
Tổng công ty, Công đoàn ngành nghề địa phương, Công đoàn quận huyện, thị
xă, thành phố thuộc tỉnh, Công đoàn các cơ quan Bộ.
+ Công đoàn ngành địa phương là Công đoàn cấp trên cơ sở, là tổ chức
Công đoàn của công nhân, viên chức và lao động cùng ngành, nghề thuộc các
thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh, thành phố.
a) Nhiệm vụ, quyền hạn của Công đoàn ngành địa phương
+ Tổ chức triển khai các chủ trương công tác của Liên đoàn Lao động
tỉnh, thành phố, của Công đoàn ngành Trung ương và Nghị quyết của Công
đoàn cấp ḿnh.
+ Tham gia với chính quyền cùng cấp về phát triển kinh tế - Xă hội của
ngành địa phương, các vấn đề có liên quan đến trách nhiệm và lợi ích ngành
nghề, xây dựng đội ngũ công nhân, viên chức và lao động trong ngành.
+ Hướng dẫn, thông tin về các chế độ, chính sách, khoa học kỹ thuật,
ngành, nghề. Tổ chức các phong trào thi đua, giáo dục truyền thống, nghĩa vụ,
quyền lợi của công nhân, viên chức và lao động trong ngành. Phối hợp với
Liên đoàn Lao động huyện, quận, thị xă, thành phố (thuộc tỉnh) hướng dẫn,
chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các chế độ, chính sách ngành, nghề, bảo vệ
lợi ích chính đáng của công nhân, viên chức và lao động trong ngành.
+ Thực hiện công tác tổ chức, cán bộ theo phân cấp của Liên đoàn Lao
động tỉnh, thành phố, xây dựng Công đoàn cơ sở, Nghiệp đoàn vững mạnh,
tập huấn bồi dưỡng cán bộ Công đoàn.
b) Nhiệm vụ và quyền hạn của Công đoàn Tổng công ty
+ Công đoàn Tổng công ty là Công đoàn cấp trên cơ sở, là tổ chức

Công đoàn của công nhân, viên chức và lao động trong các công ty.
+ Triển khai thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết, chủ trương công tác của
Công đoàn cấp trên và Nghị quyết Đại hội Công đoàn Tổng công ty.
+ Tham gia với Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc về qui hoạch, kế
hoạch và mục tiêu phát triển kinh tế của Tổng công ty, tham gia xây dựng và
11


kiểm tra giám sát việc thực hiện nội qui, qui chế, chế độ tiền lương, tiền
thưởng và các qui định có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng
của đoàn viên, công nhân, viên chức và lao động Tổng công ty.
+ Phối hợp với chuyên môn thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tổ chức
Đại hội công nhân, viên chức, đại diện cho đoàn viên, công nhân viên chức và
lao động kư thoả ước lao động tập thể với Tổng giám đốc phù hợp với các qui
định của pháp luật, tham gia các Hội đồng của Tổng công ty để giải quyết các
vấn đề có liên quan đến công nhân, viên chức và lao động.
+ Chỉ đạo các Công đoàn cơ sở thuộc Công đoàn Tổng công ty thực
hiện các hh́ình thức tham gia quản lư, thực hiện Luật lao động, tổ chức phong
trào thi đua, tuyên truyền, giáo dục theo đặc điểm ngành, nghề, hướng dẫn
công tác bảo hộ lao động, bảo hiểm xă hội, bảo hiểm y tế và các chế độ, chính
sách ngành, nghề khác.
+ Quyết định thành lập hoặc giải thể các Công đoàn cơ sở thuộc Công
đoàn Tổng công ty phù hợp với các nguyên tắc và qui định của Tổng Liên
đoàn, thực hiện công tác cán bộ theo sự phân công của Công đoàn cấp trên,
chỉ đạo xây dựng Công đoàn cơ sở vững mạnh.
+ Tiếp nhận ý kiến tham gia và chỉ đạo của các Liên đoàn Lao động địa
phương đối với các Công đoàn cơ sở. Công đoàn cơ sở là thành viên của
Công đoàn Tổng công ty đóng trên địa bàn địa phương.
-


Công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn
+ Công đoàn cơ sở được thành lập ở các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế, các đơn vị sự nghiệp và cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị
- xă hội, các tổ chức xă hội có 5 đoàn viên trở lên và được Công đoàn cấp trên
Quyết định công nhận.
+ Nghiệp đoàn lao động tập hợp những người lao động tự do, hợp pháp
cùng ngành, nghề được thành lập theo địa bàn hoặc theo đơn vị lao động có
mười đoàn viên trở lên và được Công đoàn cấp trên ra Quyết định công nhận.

12


1.2.4. Vai trò của Công đoàn Việt Nam
Vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam không ngừng phát triển, mở
rộng qua các thời kì. Ngày nay trong giai đoạn đất nước bước vào thời kì đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vai trò của Công đoàn Việt Nam tác
động trên các lĩnh vực:


Trong lĩnh vực chính trị: Công đoàn có vai trò to lớn trong việc góp phần xây
dựng và nâng cao hiệu quả của hệ thống chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, đảm bảo và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, từng bước hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, đảm bảo thực thi pháp luật và để Nhà nước thực sự là Nhà



nước của dân, do dân và vì dân. Để đảm bảo sự ổn định về chính trị.
Trong lĩnh vực kinh tế: Công đoàn tham gia xây dựng hoàn thiện cơ chế quản
lý kinh tế nhằm xóa bỏ quan liêu, bao cấp, củng cố nguyên tắc tập trung trên

cơ sở mở rộng dân chủ. Góp phần cũng cố những thành tựu kinh tế văn hóa và
khoa học kĩ thuật đã đạt được trong những năm thực hiện đường lối đổi mới
của Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành
phần kinh tế trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, liên kết và hỗ trợ
các thành phần kinh tế khác phát triển có lợi cho quốc kê dân sinh. Đẩy mạnh
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, từng bước đưa kinh tế tri thức vào
Việt Nam, góp phần nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới, đặc biệt,
trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc
đẩy mạnh hoạt động của các thành phần kinh tế vẫn đảm bảo cho kinh tế quốc



doanh giữ vị trí then chốt, đóng vai trò chủ đạo.
Trong lĩnh vực văn hóa- tư tưởng: Trong nền kinh tế nhiều thành phần, công
đoàn phát huy vai trò của mình trong việc giáo dục công nhân, viên chức và
lao động nâng cao lập trường giai cấp, lấy chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nên tảng tư tương, kim chủ nam cho mọi hoạt động, phát
huy những giá trị cao đẹp, truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp thu những
thành tựu tiên tiến của văn minh nhân loại góp phần xây dựng nền văn hóa



tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.
Trong lĩnh vực xã hội: Công đoàn có vai trò trong tham gia xây dựng giai cấp
13


công nhân vững mạnh cả về số lượng và chất lượng, không ngừng nâng cao
trình độ giác ngộ chính trị, tính tổ chức kỉ luật, trình độ văn hóa, khoa học kĩ
thuật, có nhãn quan chính trị, thức sự là lực lượng nòng cốt của khối liên

mình công-nông-tri thức, làm nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, là cơ
sở vững chắc đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng và tăng cường sức mạnh của
Nhà nước.
1.2.5. Chức năng của Công đoàn Việt Nam
Công đoàn Việt Nam có ba chức năng:
-

Công đoàn đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của
người lao động, có trách nhiệm tham gia với Nhà nước phát triển sản xuất,

-

giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao động.
Công đoàn đại diện và tổ chức người lao động tham gia quản lý cơ quan, đơn
vị, tổ chức, quản lý kinh tế, xã hội, quản lý Nhà nước trong phạm vi chức
năng của mình, thực hiện quyền kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ quan

-

đơn vị, tổ chức theo quy định của pháp luật.
Công đoàn có trách nhiệm tổ chức, giáo dục động viên người lao động phát
huy vai trò làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và phát
triển bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Như vậy, chức năng của Công đoàn là một chính thể, một hệ thống
đồng bộ, đan xen tương tác lẫn nhau, trong đó chức năng bảo vệ quyền, lợi
ích của người lao động mang ý nghĩa trung tâm – mục tiêu hoạt động của
công đoàn. Từ các chức năng này sẽ định ra các nhiệm vụ cụ thể của Công
đoàn.
Về bản chất, chức năng của Công đoàn mang tính khách quan, nó tồn
tại không phụ thuộc vào sự áp đặt từ bên ngoài hay ý chí, nguyện vọng chủ

quan của mỗi đoàn viên, nó được xác định bởi tính chất, vị trí và vai trò của tổ
chức công đoàn. Trên thực tế, không nên nhận thức máy móc, cứng nhắc về
chức năng của công đoàn. Bởi vì, cùng với sự phát triển của xã hội, chức năng
của công đoàn cũng có sự bổ sung, phát triển. Sự bổ sung và phát triển các
chức năng của công đoàn không có nghĩa là phủ định, từ bỏ những chức năng
đã có mà thực chất làm phong phú thêm các chức năng; đồng thời tránh sa
14


vào tư tưởng nóng vội, phủ định một cách vô căn cứ nhưng chức năng của
công đoàn đã được thử thách qua các giai đoạn lịch sử của dân tộc và giai cấp
công nhân Việt Nam.
*Tiểu kết: Thông qua chương 1 chúng ta có thể hiểu rõ hơn về tổ chức
công đoàn, vị trí vai trò của nó quan trọng như thế nào đói với doanh nghiệp
nói riêng và đất nước nói chung. Như vậy, nắm rõ được vai trò quan trọng của
tổ chức công đoàn chúng ta, đặc biệt là Đảng và Nhà nước cần có những
chính sách phát triển mạng hơn nữa tổ chức Công đoàn trong các doanh
nghiệp, góp phần giữ vững ổn định lao động, tăng năng xuất lao động, thúc
đẩy kinh tế đất nước phát triển.

15


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN
TRONG DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Vai trò của công đoàn trong quan hệ lao động
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
kéo theo sự phát triển của quan hệ lao động . Do vậy, vai trò của tổ chức Công
đoàn trong quan hệ lao động cũng đượ phát huy tối đa để bảo vệ quyền lợi
cho người lao động khi quan hệ lao động đang ngày càng trở nên phức tạp và

nhiều mâu thuẫn. Tổ chức Công đoàn trong quan hệ lao động được quy định
trong Hiến pháp năm 2013, Luật Công Đoàn năm 2012 và Bộ Luật lao động
năm 2012.
Theo quy định tại Điều 10, Hiến pháp năm 2013 thì “Công đoàn Việt
Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao
động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người lao động,
chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động;
tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh
tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp
về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên
truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề
nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
Luật Công đoàn năm 2012 quy định “Công đoàn là tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành
lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội
Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán
bộ, công chức, viên chức, công nhânvà những người lao động khác (sau đây
gọi chung là người lao động), cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người
lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia thanh
tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị,
doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình
độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
16


Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”( Điều 1)
Về vai trò của tổ chức Công đoàn trong quan hệ lao động được quy
định tại Điều 188 Bộ Luật lao động năm 2012. Theo đó, Công đoàn có những
vai trò cơ bản sau :
-Thứ nhất: Công đoàn cơ sở thực hiện vai trò đại diện, bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên công đoàn, người lao động;
tham gia, thương lượng, ký kết và giám sát việc thực hiện thỏa ước lao động
tập thể, thang lương, bảng lương, định mức lao động, quy chế trả lương, quy
chế thưởng, nội quy lao động, quy chế dân chủ ở doanh nghiệp, cơ quan, tổ
chức; tham gia, hỗ trợ giải quyết tranh chấp lao động; đối thoại, hợp tác với
người sử dụng lao động xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ
tại doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức; được tham khảo ý kiến khi người sử dụng
lao động cho người lao động thôi việc vì lý do kinh tế hoặc doanh nghiệp thay
đổi cơ cấu, công nghệ, xử lý kỷ luật lao động, tạm đình chỉ công việc người
lao động V.V..
Bởi, những vấn đề về việc làm, tiền lương, thu nhập… là những vấn đề
liên quan đến lợi ích thiết thân của người lao động khi “bán” sức lao động và
là vấn đề dễ bị người sử dụng lao động lạm dụng đưa ra những quyết định
làm ảnh hưởng tới quyền lợi của người lao động nói riêng, tập thể lao động
nói chung. Việc tham gia của tổ chức công đoàn cơ sở ở những lĩnh vực trên
nhằm bảo đảm hơn quyền và lợi ích của người lao động khi tham gia quan hệ
lao động. Từ đó, giúp các bên hiểu biết nhau hơn nhằm duy trì quan hệ lao
động lâu dài.
-Thứ hai: Đối với tổ chức công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở, theo quy
định tại khoản 3 Điều 4 Luật Công đoàn năm 2012, công đoàn cấp trên trực
tiếp cơ sở là một cấp trong hệ thống tổ chức công đoàn, trực tiếp thực hiện
quyền công nhận công đoàn cơ sở, chỉ đạo hoạt động công đoàn cơ sở và liên
kết công đoàn cơ sở theo quy định của pháp luật và Điều lệ Công đoàn Việt
Nam. Đó chính là Liên đoàn Lao động huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh; công đoàn ngành địa phương; công đoàn các khu công nghiệp, khu chế
17


xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao; công đoàn tổng công ty và một số công
đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đặc thù khác (gọi chung là công đoàn cấp trên

trực tiếp cơ sở). Với tư cách là cấp công đoàn trung gian, làm cầu nối giữa
Liên đoàn lao động cấp tỉnh và công đoàn ngành với công đoàn cơ sở, có vai
trò quan trọng trong việc đại diện và bảo vệ quyền lợi người lao động. Để
công đoàn cơ sở thực hiện tốt vai trò của mình, công đoàn cấp trên trực tiếp
cơ sở có trách nhiệm hỗ trợ công đoàn cơ sở thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ của công đoàn cơ sở. Đồng thời, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở còn có
trách nhiệm tuyên truyền giáo dục, nâng cao hiểu biết về pháp luật về lao
động, pháp luật về công đoàn cho người lao động.
-Thứ ba: Đối với tổ chức công đoàn các cấp nói chung, khoản 4 Điều
188 quy định các cấp công đoàn này có vai trò trong việc tham gia với cơ
quan quản lý nhà nước cùng cấp và tổ chức đại diện người sử dụng lao động
để trao đổi, giải quyết các vấn đề về lao động. Điều này đã thể hiện sự chú
trọng của Nhà nước đến sự phối hợp của ba bên (tổ chức đại diện người lao
động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động và cơ quan quản lý nhà nước)
trong việc tổ chức cũng như giải quyết các vấn đề của quan hệ lao động- Sự
tham gia của ba chủ thể theo cơ chế ba bên sẽ góp phần xây dựng và duy trì
quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ. Đúng như nguyên tắc xác lập
quan hệ lao động và sự tham gia của các chủ thể này quy định ở Điều 7
BLLĐ: “Công đoàn, tổ chức đại diện người sử dụng lao động tham gia cùng
với cơ quan nhà nước hỗ trợ xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và
tiến bộ; giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật về lao động; bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động”.
-Thứ tư: Công đoàn tham gia đối thoại, hợp tác với người sử dụng lao
động xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ tại doanh nghiệp,
cơ quan, tổ chức. Trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tổ chức Công đoàn có vai trò điều hoà và ổn định quan hệ lao động xã
hội, đây là vai trò không một tổ chức nào khác có thể thay thế. Bởi vì, Công
đoàn là đại diện một bên của quan hệ lao động, thiếu Công đoàn không thể
18



tạo thành quan hệ lao động hoàn chỉnh.
Mặc dù pháp luật đã quy định cụ thể về chức năng, vai trò của Công
đoàn trong quan hệ lao động. Nhưng trên thực tế vai trò này vẫn chưa thực sự
được phát huy một cách có hiệu quả để bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
Vì việc áp dụng các quy định của pháp luật vào thực tiễn còn phụ thuộc nhiều
yếu tố, trong đó có yếu tố thực lực của chính bản than mỗi tổ chức Công
đoàn.
2.2. Vai trò của Công đoàn đối với người lao động
2.2.1. Công đoàn chăm lo đời sống người lao động
Trước tình hình SXKD khó khăn, ảnh hưởng đến NLĐ trong các tổ
chức doanh nghiệp, các tổ chức Công đoàn đã triển khai nhiều việc làm thiết
thực, có ý nghĩa, xây dựng mối quan hệ hài hòa trong doanh nghiệp như xây
dựng thỏa ước lao động tập thể có lợi hơn cho NLĐ; nhiều chính sách, chế độ
của Nhà nước, Tập đoàn đã được vận dụng giải quyết; công nhân bị bệnh
nghề nghiệp được điều dưỡng phục hồi sức khỏe, nghỉ dưỡng sức. Công đoàn
đã có vai trò quan trọng, tham gia tích cực trong việc xây dựng ban hành các
văn bản quy định, quy chế về lao động, khoán sản phẩm, tiền lương, cv tiền
thưởng, thi tuyển, nâng bậc, thi đua, khen thương, kỷ luật,…; nhất là đàotạo
đội ngũ CNLĐ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ SXKD của đơn vị sản xuất, cùng
với chuyên môn, Công đoàn đã cụ thể hóa các phong trào thi đua chung phù
hợp với các công đoàn tổ, đội.
2.2.2. Công đoàn bảo vệ lợi ích của người lao động
Hơn 80 năm ra đời, phát triển và trưởng thành, Công đoàn Việt Nam
luôn sát cánh cùng giai cấp công nhân và toàn dân tộc Việt Nam. Tìm hiểu và
nhận thức đúng về các chức năng hoạt động chủ yếu của công đoàn giai đoạn
hiện nay là ván đề quan trọng để từ đó hiểu đúng về vị trí, vai trò của Công
đoàn Việt Nam trong thời kì mới. Công đoàn Việt Nam có tầm ảnh hưởng lớn
tác động tới người lao động:

19


- Chức năng tham gia quản lý: Thực hiện chức năng tham gia quản lý
không có nghĩa là công đoàn làm thay hay can thiệp, làm cản trở công việc
quản lý của Nhà nước. Tham gia quản lý là thể hiện quyền của công đoàn, của
người lao động trong điều kiện chính quyền đã thuộc về nhân dân lao động.
Đồng thời, tham gia quản lý chính là thiết thực bảo vệ lợi ích trước mắt và lợi
ích lâu dài của công nhân, của tập thể và của Nhà nước một cách căn bản từ
gốc và có hiệu quả, phát huy vai trò tham gia quản lý của công đoàn. Các hoạt
động công đoàn đẩy mạnh thực hiện trong những năm qua như:
+ Tổ chức phong trào thi đua lao động giỏi trong công nhân, viên chức
và người lao động là biện pháp tổng hợp nhất để họ trực tiếp tham gia quản
lý. Vận động tổ chức công nhân viên chức và NLĐ tham gia xây dựng và thực
hiện kế hoạch SXKD, nhiệm vụ công tác, tham gia quản lý lao động, tìm việc
làm và tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho công nhân, viên chức và lao động.
+ Công đoàn tham gia trong lĩnh vực tiền lương, tiền thưởng của công
nhân, viên chức và người lao động.
+ Công đoàn tham gia trong việc xây dựng và thực hiện các cơ chế
quản lý mới.
+Công đoàn tham gia trong việc quản lý vật tư, kỹ thuật, tài chính
nhằm giảm mức tiêu hao trên một đơn vị sản phẩm.
+Công đoàn tham gia trong việc xây dựng và thực hiện các chế độ
chính sách liên quan đến người lao động.
+ Công đoàn tham gia tổ chức hội nghị cán bộ công chức và đại hội
công nhân viên chức, lao động hằng năm.
- Chức năng giáo dục: Một trong những nội dung quan trọng nằm thực
hiện chức năng giáo dục của công đoàn là làm cho NLĐ nhận thức đầy đủ về
lợi ích cá nhân phải gắn liền với kết quả SXKD của doanh nghiệp, lợi ích
20



chung của cộng đồng. Muốn có lợi ích phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình.
Từ đó củng cố kỉ luật lao động, không ngừng học tập nâng cao trình độ học
vấn, tay nghề, chuyên môn, nghiệp vụ, xây dựng ý thức tự giác, tự nguyện
trong lao động, công tác. Nội dung chức năng giáo dục của công đoàn trong
giai đoạn hiện nay cần được mở rộng theo hướng toàn diện nhất, nhất là
truyền bá lý luận Mác-Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng,
Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
tình hình quốc tế và khu vực; giáo dục pháp luật, giáo dục thẩm mĩ, giáo dục
truyền thống, giáo dục đạo đức mới cho công nhân viên chức và NLĐ.
- Chức năng bảo vệ lợi ích của người lao động: Trong điều kiện mở
cửa, hội nhập và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các DN
tư nhân, DN liên doanh, DN có vốn đầu tư nước ngoài,… được khuyến khích
hoạt động làm cho xu hướng thay đổi cơ cấu giai cấp công nhân rõ nét, số
lượng công nhân khu vực ngoài nhà nước có xu hướng tăng lên. Quan hệ chủ
thợ, tình trạng bóc lột, ức hiếp người lao động đang diễn ra hằng ngày, hàng
giờ và có xu hướng phát triển. Trong quá trình thực hiện các hoạt động nhằm
bảo vệ lợi ích người lao động, công đoàn đã nhận thức sâu sắc và giáo dục
đầy đủ đến mỗi đoàn viên các vấn đề cơ bản như: lợi ích NLĐ phải gắn liền
với lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể, phải hài hòa với lợi ích của người sử
dụng lao động, chủ DN. Sự tồn tại và phát triển vững mạnh của Nhà nước
chính là đảm bảo được lợi ích NLĐ. Nhà nước là người đảm bảo lợi ích, DN
và NLĐ tạo ra lợi ích, công đoàn là người bảo vệ lợi ích. Đấy là quan hệ biện
chứng, khăng khít giữa quyền lợi và nghĩa vụ. Đồng thời, nó là cơ sở quan
trọng để công đoàn ngày càng gắn bó chặt chẽ với giai cấp công nhân trong
điều kiện mới, thể hiện đúng bản chất cách mạng của Công đoàn Việt Nam
giai đoạn hiện nay.
2.3. Vai trò của tổ chức Công đoàn với doanh nghiệp
2.3.1. Sự cần thiết phải thành lập tổ chức Công đoàn trong doanh

nghiệp
21


Quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta có đặc trưng cơ bản là chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, từ nền kinh tế một thành phần (kinh tế quốc
doanh) sang nền kinh tế nhiều thành phần. Đổi mới về cơ chế kinh tế tất yếu
kéo theo những thay đổi về cơ cấu xã hội, quan hệ xã hội và tâm lý xã hội:


Đổi mới kinh tế làm thay đổi tính chất các quan hệ xã hội đã hình
thành, cơ sở các quan hệ xã hội là lấy lợi ích kinh tế làm tiêu chuẩn. Tư duy
của người lao động về lợi ích trong kinh tế thị trường cũng có sự thay đổi.



Cơ chế thị trường đặt các chủ thể kinh tế trong mối quan hệ vừa hợp
tác, vừa cạnh tranh với nhau và do vậy quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp
được thiết lập trên cơ sở bình đẳng hơn.



Cơ chế thị trường làm cho quan hệ xã hội đa dạng, phong phú hơn.
Trong cơ chế bao cấp, quan hệ xã hội thường mang tính chất khép kín trong
nội bộ giai cấp, tầng lớp, ngành chuyên môn hẹp. Với chính sách kinh tế
nhiều thành phần, quan hệ xã hội đã phát triển rất đa dạng phong phú và cũng
rất phức tạp.
Trong chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế xã hội, Đảng và Nhà
nước ta luôn quan tâm đến việc bảo vệ người lao động bởi vì bảo vệ người lao

động là thể hiện quan điểm vì con người, do con người, trước hết là người lao
động. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động không chỉ là trách
nhiệm của riêng ai mà là vấn đề chung của toàn xã hội, trong đó thiết thực
nhất vẫn là tổ chức công đoàn. “Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng
lớn của giai cấp công nhân và của người lao động” (Điều 1 Luật công đoàn)
và “chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao
động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra,
thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh
nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động;
tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng
nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 10
Hiến pháp 2013). Như vậy, pháp luật nước ta đã thừa nhận và quy định cho tổ
22


chức công đoàn có một vị trí, vai trò to lớn trong hệ thống chính trị - xã hội.
Công đoàn có nhiều chức năng như tham gia quản lý Nhà nước; chức năng
bảo vệ lợi ích công nhân, viên chức, lao động; chức năng giáo dục nhưng cơ
bản và trung tâm nhất vẫn là chức năng bảo vệ người lao động.
Nếu như trước đây, cơ sở kinh tế nước ta với hai hình thức chủ yếu là
kinh tế của hợp tác xã và kinh tế quốc doanh thì chỗ đứng và mối quan hệ
công đoàn với Nhà nước từ đơn vị thấp nhất là cơ sở (xí nghiệp, cơ quan hành
chính, bệnh viện, trường học...) đến cấp cao nhất là Nhà nước Trung ương là
rất thuận chiều.
Ngày nay, do sự ra đời nhiều thành phần kinh tế nên ở đơn vị cơ sở,
trước hết là trong các cơ sở doanh nghiệp tư nhân, liên doanh và đầu tư nước
ngoài ở nước ta (thường gọi là "ngoài quốc doanh") thì mối quan hệ công
đoàn với giới chủ, với người quản lý ở khu vực này đã khác cơ bản so với mối
quan hệ trong khu vực kinh tế quốc doanh. Một bên là mối quan hệ của những
người cùng làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu của Nhà nước giao cho cộng

đồng người lao động, trong đó có cán bộ quản lý để sản xuất kinh doanh. Một
bên là mối quan hệ của người sở hữu tư liệu sản xuất (tức người chủ cá nhân)
với người làm công mà ta thường gọi là người sử dụng lao động với người lao
động. Song, xét về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối
thực chất vẫn là quan hệ chủ thợ. Trong mối quan hệ này, người chủ thường
đặt lợi ích cá nhân của họ lên hàng đầu và tìm mọi cách để tăng quyền lợi.
Chính vì vậy, ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ý thức chấp hành pháp
luật của một số doanh nghiệp chưa cao, người sử dụng lao động hay tuỳ tiện
xem thường quyền lợi của người lao động, chưa thực hiện đúng và đầy đủ
chính sách đối với họ.
Mặc dù, theo nguyên tắc quan hệ lao động là quan hệ mang tính bình
đẳng. Người lao động muốn làm việc cho người sử dụng lao động hay không
là quyền của họ. Nhưng một khi đã tham gia vào một quan hệ lao động cụ thể
nào rồi thì dù muốn hay không thì người lao động cũng ở vào "thế yếu" hơn
so với người sử dụng lao động. Điều này cũng dễ hiểu bởi trên thực tế hiện
23


nay, người lao động do sức ép của việc làm, thu nhập mà họ thường chấp
nhận thua thiệt. Người lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đa
phần trình độ học thức, hiểu biết pháp luật lao động thấp cho nên họ dễ dàng
bị "chèn ép" và lợi dụng bởi những ông chủ có trình độ cao hơn.
Vì thế, mặc dù nhà nước đã cố gắng xây dựng một hệ thống văn bản
pháp luật để điều chỉnh quan hệ lao động giữa người lao động và người sử
dụng lao động trong các doanh nghiệp. Nhưng với tính phức tạp và năng động
của loại quan hệ này trong cơ chế thị trường thì cũng chưa đảm bảo được
hoàn toàn lợi ích của các bên mà quan trọng hơn cả là lợi ích của người lao
động.
Cái mới và tính phức tạp của quan hệ lao động trên trực tiếp chi phối
vai trò và vị trí của công đoàn. Thành lập công đoàn trong các doanh nghiệp

nhằm đảm bảo mối quan hệ hài hoà - ổn định giữa phát triển sản xuất và đảm
bảo cuộc sống, giữa quyền lợi của người lao động và chủ doanh nghiệp. Đây
cũng chính là sự đảm bảo công bằng xã hội và thể hiện tính dân chủ của Nhà
nước ta.
Trong thực tế một số chính sách, chế độ Nhà nước quy định về quyền
lợi của người lao động chưa thực hiện một cách nghiêm chỉnh, lao động khu
vực ngoài quốc doanh phần lớn chưa được ký kết hợp đồng lao động, tiền
lương thấp, thời gian lao động kéo dài, điều kiện lao động xấu,... thì việc
thành lập tổ chức công đoàn là không thể thiếu. Tổ chức công đoàn sẽ đứng ra
bảo vệ người lao động khi có hiện tượng vi phạm, vì chỉ có công đoàn là tổ
chức duy nhất đại diện cho người lao động, không thể có một tổ chức nào đại
diện khác được.
Tại điều 153 Bộ luật lao động 2012 quy định: ở những doanh nghiệp
đang hoạt động nhưng chưa có tổ chức công đoàn thì chậm nhất là sau sáu
tháng, kể từ ngày Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật lao động có
hiệu lực và ở những doanh nghiệp mới thành lập thì sau sáu tháng kể từ ngày
bắt đầu hoạt động, công đoàn địa phương, công đoàn ngành có trách nhiệm
thành lập tổ chức công đoàn tại doanh nghiệp để đại diện, bảo vệ quyền và lợi
24


ích hợp pháp của người lao động và tập thể lao động.
2.3.2. Công đoàn góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn
định, tiến bộ trong doanh nghiệp
Trước tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu, không ít doanh nghiệp phải tiết giảm hoạt động đầu tư, thậm chí
phải ngừng hoạt động do sản xuất kinh doanh thua lỗ. Hệ quả là công nhân
không có việc làm ổn định, nghỉ việc luân phiên, hoặc phải chấm dứt hợp
đồng lao động, chậm trả lương, nợ đọng bảo hiểm xã hội. Tổ chức Công đoàn,
với vai trò và chức năng của mình đã có nhiều đổi mới về nội dung, phương

pháp hoạt động, đạt nhiều hiệu quả trong xây dựng quan hệ lao động hài hòa
ổn định.
Trước tình hình đó, các cấp công đoàn đã chủ động, tích cực với nhiều
hình thức tập hợp ý kiến của đông đảo đoàn viên, người lao động tham gia
xây dựng, hoàn thiện các văn bản chính sách pháp luật liên quan trực tiếp đến
người lao động như: Xây dựng Luật Công đoàn 2012, Bộ Luật Lao động
2012, các Nghị định, Thông tư về tiền lương, việc làm, an toàn vệ sinh lao
động, Bảo hiểm xã hội… Công đoàn phát huy vai trò đồng hành cùng doanh
nghiệp tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh, chăm lo đời sống; đại
diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên và NLĐ;
xây dựng quan hệ hài hòa, ổn định tiến bộ tại doanh nghiệp, đạt được nhiều
kết quả cụ thể, thiết thực. Việc đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động,
nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức công đoàn và đội ngũ cán bộ công
đoàn các cấp công đoàn thường xuyên thực hiện. Công đoàn các cấp đã tham
gia với chuyên môn tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; kiểm tra giám sát việc
thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động, thực hiện quy chế
dân chủ tại cơ sở, tổ chức đối thoại, thương lượng ký thỏa ước lao động tập
thể… mang lại quyền, lợi ích hợp pháp cụ thể, thiết thực hơn cho NLĐ.
Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách pháp luật góp
phần nâng cao nhận thức và đề cao trách nhiệm cho NLĐ với nhiều hình thức
đa dạng và phong phú. Công đoàn các cấp đã xây dựng tủ sách pháp luật, biên
25


×