Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Chuyên đề vai trò của con người trong triết học đông – tây cổ đại luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.19 KB, 5 trang )

Tên : TÔ THỊ PHƯƠNG
MSSV: 16250710075
Lớp: Cao học kinh tế
Đề: Vấn đề tâm đắc nhất trong lịch sử triết học
VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC ĐÔNG CỔ ĐẠI
Trong triết học Đông-Tây cổ đại, một trong những vấn đề được đề cập làm cho mỗi
chúng ta dễ nhận thấy khi học tập, nghiên cứu nó, đó là yếu tố con người được thể hiện rất sớm,
có hệ thống và khá rõ nét. Đây là một nội dung quan trọng, cần được quan tâm nghiên cứu và
đánh giá cụ thể.
I- VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG
Trong qúa trình phát triển, các quốc gia ở phương Đông đã hình thành hệ thống các quan
điểm về thế giới tương đối hoàn chỉnh, góp phần không nhỏ vào kho tàng tri thức của nhân loại.
Tuy nhiên, do đặc điếm là hướng nội nên những quan điểm về con người là những vấn đề được
đề cập nhiều hơn cả.
Vai trò của con người trong triết học phương Đông được hình thành từ rất sớm và được
thể hiện một cách có hệ thống từ thế kỷ thứ III trước công nguyên trong các học thuyết triết học.
Nội dung các quan điểm này rất đa dạng, song những vấn đề mà người phương Đông tập trung
đề cập đến là những vấn đề thuộc nguồn gốc, bẤn tính của con người, đạo làm người và mẫu
hình con người lý tưởng. Trong tính đa dạng, phong phú của các hệ tư tưởng hước hết phải nêu
đến các quan điểm của Ấn Độ và Trung Quốc mà tiêu biểu là các quan điểm của triết học phật
giáo và triết học nho giáo.
Khởi nguồn của tư tưởng triết học Trung Quốc có thể bắt đầu từ thần thoại thời tiền sử;
song, tư tưởng triết học Trung Quốc trong đó có vấn đề con người trở thành hệ thống hoàn chỉnh
thì phải đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc, thời đại của trì trệ được giải phóng, hí thức được tôn
là thầy, trí thức được phổ cập. Phong trào “bách gia chư tử”, “bách gia tranh minh” là biểu hiện
sinh động của tư tưởng học thuật từ quyền lực nhà nước chuyển xuống thiên hạ rộng rãi. Cuối
Xuân Thu, học thuyết của các tư tưởng gia mọc lên như nấm. Trong khoẤng 103 nhà, nổi bật
lên 6 nhà: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Danh gia, Âm dương gia; có Ấnh hưởng lớn
nhất là Nho gia, Mặc gia và Đạo gia. Tư tưởng văn hóa thời Tiên Tần đã được xem là cội nguồn
tư tưởng triết học cổ đại Trung Quốc. Đây chính là thời kỳ hình thành khá mạnh mẽ và rực rỡ
của tư tưởng triết học về con người trong văn hóa cổ đại Trung Quốc. Sau thời kỳ này, với quan


điểm “thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách” đã làm cho tư tưởng triết học gắn bó với đời
sống xã hội, có lợi cho quốc kế dân sinh, xem con người là đối tượng của luận thuyết và mục
tiêu khai sáng là giải phóng con người.
Triết học Trung Quốc cổ đại đã nhấn mạnh đến vấn đề con người, vai hò con người. Lấy
con người làm trung tâm và mục tiêu nhận thức, triết học Trung Quốc đề cập và đề cao tinh thần
nhân văn, khẳng định giá trị tồn tại tích cực của con người đối với chính bẤn thân mình và đối
với thế giới bên ngoài. Con người là hạt nhân của vũ trụ nhưng không đồng nhất với động vật


hoặc thần linh mà hòa họp với hời và đất để hở thành “tam tài”. Từ con người có thể suy ra để
nắm bắt cả thế giới.
Trong triết học phương Đông, Đổng Trọng Thư, một người kế thừa Nho giáo theo
khuynh hướng duy tâm cực đoan quan niệm rằng trời và con người có thể thông hiểu lẫn nhau
“thiên nhân cảm ứng”. Nhìn chung, đây là quan điểm duy tâm, quy cuộc đời con người vào vai
trò quyết định của “thiên mệnh”. Những luận điểm như “thiên nhân vô nhị” (trời với người là
một), “tâm của thẤnh nhân và trời là một\ “trời là người, người là trời”, “vạn vật trong trời đất
với con người vốn là nhất thể” được đưa ra nhằm khẳng định con người gắn liền với vũ trụ, với
khí quyển và “đạo Hgười” cũng như “đạo trời” cùng tồn tại “vạn cổ bất biến”. Từ đó, xét cho
cùng những cái tâm, tính, tình, ý khí, lương tri...đều liên quan đến nhân tính, nhân sinh và vận
mệnh con người. Chính vì vậy, có thể nói, trong triết học cổ đại Trung Quốc, tư tưởng về xã hội
- nhân văn đặc biệt phát triển, còn tư tưởng triết học về tự nhiên lại đơn giẤn, nghèo nàn.
Quan niệm về con người hài hòa là cốt lõi trong nhiều tư tưởng triết học cổ đại Trung
Quốc. Bắt đầu từ những học thuyết của “Khổng Mạnh”, thuyết “Thiên nhân hợp nhất”, tư tưởng
này khá phổ biến, thuyết này về sau được nhiều nhà tư tưởng tiếp nhận và mở rộng. Khi thừa
nhận con người và tự nhiên, vật và các vật có quan hệ không thế tách rời nhau, người ta chủ
trương duy hì trạng thái cân bằng, thống nhất, điều chỉnh sao cho chúng không lấn át nhau. Tuy
nhiên, cũng có tư tưởng ngược lại, đó là quan niệm “thiên nhân bất tương quan” của Tuân Tử.
Ông chủ trương về phương diện sinh dưỡng thì người mang ơn trời, nhưng về phương diện trị
loạn, thịnh suy thì đạo trời không quan hệ gì đến đạo người. Thuyết Âm dương, Ngũ hành vận
dụng vào đời sống con người đã cho thấy con người không đồng nhất với thế giới bên ngoài;

song lại cần giao cảm, hòa họp với nó.
Nhìn chung triết học cổ đại Trung Quốc chỉ quan tâm đến “tính người”, “tâm người”, ‘Tý
người”, tức là chỉ bàn đến đến phẩm chất tinh thần, ý thức, tâm lý, tư tưởng của con người, về
cơ bẤn, các triết gia cổ đại Trung Quốc xem “tính người” như là biểu hiện của cái thiện hoặc
của cái ác, của cái tính hời hoặc của cái tính thuộc nhân tâm. Do quan niệm con người hòa đồng
với “trời” nên tính người không tách rời ‘tính trời”, “đạo hời”; tính người là cái được trời phú, bị
quy định bởi ý muốn của Thượng đế. Một số triết gia lại xem tính người có quan hệ dẫn đến sự
tác động của xã hội đối với con người. Tính người được sinh ra từ “vô” và “hữu” (đạo và đức)
nhưng xã hội đã làm cho con người, tính người hở thành rối loạn, thực giả, đúng sai, tốt xấu
không xác định được.
Do gắn triết học với vấn đề đạo đức, chính trị xem mặt xã hội của con người là trung tâm
nghiên cứu, các triết gia cổ đại Trung Quốc đã đặc biệt quan tâm đến vận mệnh con người. Quan
niệm “thiên mệnh” quyết định nhân sự con người, bất kể là ai đều phải tuân theo sự xếp đặt,
thưởng phạt của hời, là cơ sở của nhiều luận giải xã hội học về số phận con người và thực trạng
xã hội.
Nhìn chung các triết gia cổ đại Trung Quốc vẫn chua lý giải đuợc bẤn chất xã hội của
con nguời, cũng nhu chua tìm ra đuợc phuơng thức hữu hiệu để giải phóng con nguời. Những
quan niệm về con nguời đã nói ở trên, hoặc vẫn chua thoát khỏi chủ nghĩa duy tâm thần bí; hoặc
chỉ mới dừng lại ở cảm quan duy vật thô sơ, siêu hình. Có thể nói, về cơ bẤn các quan niệm về
con nguời, đặc biệt là về số vận của con nguời, vẫn chua đuợc xem xét trên nền tẤng các điều


kiện kinh tế - xã hội mà chỉ đuợc nhìn từ góc độ chính trị - đạo đức thuần túy. Chính điều này đã
làm cho các nhà triết học cổ đại Trung Quốc đã không thấy đuợc những vấn đề cơ bẤn của bẤn
chất nguời, tính chất nguời và sự phát triển của con nguời.
Nói đến con nguời và quan hệ xã hội của con nguời, triết học cổ đại Trung Quốc lấy đạo
đức-luân lý làm nội dung chủ yếu của luận thuyết. Lý thuyết “đạo đức chỉ thượng”, “đức trị”,
quan điểm “thân thân” và chữ “hiếu” là hạt nhân của giá trị đạo đức nho giáo.
Trong triết học phuơng Đông, với sự chi phối bởi thế giới quan duy tâm hoặc duy vật
chất phác, biểu hiện trong tu tuởng Nho giáo, Lão giáo, quan niệm về bẤn chất con nguời cũng

thể hiện một cách phong phú về bẤn chất con nguời {tỉnh người), Khổng Tử cho bẤn chất con
nguời do “thiên mệnh” chi phối quyết định, đức “nhân” chính là giá trị cao nhất của con nguời,
đặc biệt là nguời quân tử. Mạnh Tử quy tính thiện của con nguời vào năng lực bẩm sinh, do Ấnh
huởng của phong tục tập quán xấu mà con nguời bị nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt đẹp. Vì vậy,
phải thông qua tu duỡng, rèn luyện để giữ đuợc đạo đức của mình. Cũng nhu Khổng Tử, Mạnh
Tử cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ đạo đức để dẫn dắt con nguời huớng tới các giá trị
đạo đức tốt đẹp; triết học Tuân Tử lại cho rằng bẤn chất con nguời khi sinh ra là ác, nhung có
thể cải biến đuợc, phải chống lại cái ác ấy thì con nguời mới tốt đuợc, số phận con nguời, nho
giáo quy tất cả là do mệnh trời; Tuân Tử cho rằng con nguời có thể thắng đuợc trời, từ đó triết
học Trung Quốc huớng đến mẫu nguời lý tuởng nhu “sĩ”, “quân tử”, “đại trượng phu ”,
“thẤnh nhân”.
Lão Tử, nguời mở đầu cho truờng phái Đạo gia, cho rằng con nguời sinh ra từ "Đạo". Do
vậy, con nguời phải sống "vô vi", theo lẽ tự nhiên, thuần phát, không hành động một cách giả
tạo, gò ép, hái với tự nhiên. Quan niệm này biếu hiện tu tuởng duy tâm chủ quan của triết học
Đạo gia.
Khác với triết học phương Tây với mục đích là giải thích và cải tạo thế giới, mục đích
trong triết học Trung Quốc là nhằm ổn định trật tự xã hội và hòa đồng với thiên nhiên.
Mặc dù còn những hạn chế do trình độ phát triển của khoa học và do lập trường giai cấp,
nhưng có một số điểm nổi bật giống nhau là trong tư tưởng triết học của các nhà Nho con người
luôn là điểm xuất phát, mà chữ “nhân” là đạo đức hoàn thiện nhất. Quan niệm triết học về con
người luôn gắn liền quan niệm triết học về đạo đức, vì thế “nhân” gắn với “lễ”. Nhân và Lễ là
hạt nhân tư tưởng triết học Nho gia. Có thể nói rằng, trong lịch sử phát triển của nó, Nho gia đã
được phát huy đến tột đỉnh tư tưởng nhân học, tách con người khỏi thần linh, coi con người là
sẤn phẩm cao nhất của tự nhiên. Đó là tinh thần nhân văn cao cả, không quy giá trị con người
về thần linh, thượng đế hay bẤn thể linh hồn thần bí ngoài con người.
Nếu xem xét triết học cổ đại Trung Quốc là triết học xã hội-con người, thì chính triết học
này đã cống hiến cho tri thức nhân loại một kho tàng lớn lao về “tỉnh người”. Triết học cổ đại
Trung Quốc đã hiện diện như sự thống trị của quan niệm triết học duy tâm về con người. Mặc dù
không đóng vai trò chủ đạo trong tư tưởng triết học, song các quan điểm duy vật về con người
đã có tác động tích cực- phê phán và hạn chế các quan điểm duy tâm vốn gắn liền với lợi ích của

giai cấp phong kiến và chế độ phong kiến, đồng thời tạo ra động lực làm triết học phát triển.


Triết học Ấn Độ cổ đại có từ rất sớm, với nhiều hệ thống trường phái triết học khác nhau
đã thể hiện những tư tưởng triết học khác nhau về con người. Trong triết học Ấn Độ đã nhấn
mạnh đến vai trò của con người trong thế giới.
Triết học Ấn Độ quan tâm đến nhiều vấn đề, nhưng chủ yếu là vấn đề con người, bởi vậy
nó là triết lý nhân sinh. Điểm đặc biệt trong triết học Ãn Độ là nó phân con người thành những
yếu tố cấu thành, trong đó cái tâm có ý nghĩa quyết định, từ đó hướng chủ yếu của nó là đi
nghiên cứu, phân tích cái tâm con người. Điều đó quy định tính chất duy tâm, hướng nội trong
triết học Ấn Độ. Triết học Ấn Độ cho rằng muốn hiểu thế giới trước hết phải hiểu mình đã, và
khi đã hiểu mình thì hiểu tất cả vì bẤn thể vũ trụ có trong mỗi con người.
Sự hình thành, phát triển các tư tưởng triết học về con người của Ấn Độ cổ đại gắn liền
với quan niệm tôn giáo và mang đậm tính chất tôn giáo. Điều này khiến cho quan niệm triết học
về con người không tránh khỏi duy tâm, thần bí. Có những quan niệm đạt đến mức độ duy vật
chủ nghĩa (như quan niệm của
Lokayata) có tính biện chứng sâu sắc. Nhưng nhìn chung, do điều kiện lịch sử cụ thể và do sự
chi phối mạnh mẽ của tôn giáo, các tư tưởng về con người đều không tránh khỏi chủ nghĩa duy
tâm, thần bí, đặc biệt là khi đi đến tận cùng quan niệm về bẤn chất đời sống tâm linh và con
đường giải thoát.
Việc lý giải bẤn chất đời sống tâm linh và con đường giải thoát con người khỏi “bể khổ”
trở thành nội dung chính yếu trong toàn bộ hệ thống quan niệm về con người của tất cả các
hường phái triết học cổ. Một mặt việc tập trung chủ yếu các vấn đề này làm cho các quan niệm
triết học trở lên sâu sắc; mặt khác, nó làm cho các quan niệm nghiêng nhiều hơn về phương diện
nhân sinh và thế hiện ý nghĩa nhân văn cao cả.
Đối với các nhà triết học Ấn Độ cổ đại, mọi nguyên lý triết học đều tập trung vào việc
tìm con đường “giải thoát” con người khỏi sự ràng buộc của đời sống thế tục vật chất. Mục đích
“giải thoát” khiến tất cả các triết học đều coi trọng và đều đặt lên hàng đầu việc giải quyết vấn
đề con người. Thông qua những tư tưởng về con người, hàng loạt những vấn đề nhân sinh được
đặt ra: Đạo đức, tâm lý, chính trị, xã hội.

Đi từ bẤn thể luận là để lý giải về con người, vì vậy quan niệm về con người, sự phẤn
ánh triết học về con người trở lên đa dạng, sâu sắc và có khả năng mở rộng ra nhiều vấn đề triết
học khác. Con người là điểm xuất phát, “giải thoát” con người là mục đích cao nhất và cuối
cùng của chính con người. Đó chính là ý nghĩa nhân văn của triết học Ấn Độ cổ đại.
Tóm lại, từ thời kỳ cổ đại, các trường phái triết học phương Đông đều tìm cách lý giải
vấn đề bẤn chất con người, quan hệ giữa con người đối với thế giới xung quanh. Có thể nói
rằng, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học phương Đông biểu hiện tính da dạng và
phong phú, thiên về vấn đề con người trong mối quan hệ chính trị, đạo đức. Nhìn chung, con
người trong triết học phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm, có pha trộn tính chất duy vật chất
phác ngây thơ trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội.
Triết học phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm, có pha trộn tính chất duy vật chất phác
ngây thơ trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội và vấn đề con người thiên về mối quan hệ
chính trị, đạo đức. Thì đối với triết học phương Tây cổ đại lại cho mục tiêu cao quý của con
người là chinh phục tự nhiên để phục vụ cho mình; con người trong quan hệ với thiên nhiên cơ


bẤn là tích cực, thế hiện tinh thần vươn lên làm chủ giới tự nhiên của con người Hy Lạp cố đại.
Nhìn chung, trong lịch sử cả triết học phương Tây và phương Đông, thời nào cũng có tư tưởng
duy vật, gắn liền với thực tiễn xã hội. Tuy nhiên, bàn về nguồn gốc, bẤn chất con người, tư
tưởng thống trị trong thời cổ đại vẫn là quan điểm duy tâm.



×