Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Đánh giá hiệu quả của hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện tuyên hoá, tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (852.91 KB, 87 trang )

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang tập trung vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNHHĐH) đất nước, trước hết là CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn. Trong lộ trình Việt
Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, thì quan trọng nhất là hàm lượng làm
nên nước công nghiệp từ nông thôn phải chiếm một tỷ trọng lớn nhất. Đó là chiến lược
toàn diện và lâu dài trên con đường xây dựng một quốc gia: “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để đạt được điều đó thì đòi hỏi sự phối hợp, nổ
lực phấn đấu của tất cả các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế. Trong đó, dịch vụ
ngân hàng cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ, đặc biệt là ở khu vực nông
thôn cũng phải phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng theo hướng đầu tư hợp lý
và có hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực nhất là đối với các hộ sản xuất ở nông thôn.
Nền nông nghiệp nước ta liên tiếp thu được những thành tựu to lớn. Từ chỗ là
nước thiếu lương thực đến nay chúng ta đã trở thành một trong những nước đứng hàng
đầu thế giới về xuất khẩu lương thực. Có được kết quả đó là có sự đóng góp đáng kể
của kinh tế hộ gia đình. Thể hiện đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong
việc phát triển kinh tế hộ sản xuất. Từ định hướng và chính sách về phát triển kinh tế
hộ sản xuất đã giúp cho ngành ngân hàng nói chung, ngân hàng nông nghiệp nói riêng
thí điểm, mở rộng và từng bước hoàn thiện cơ chế cho vay kinh tế hộ sản xuất. Hộ sản
xuất có nhiều cơ hội tiếp cận nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Trong quá trình đầu
tư vốn đã khẳng định được hiệu quả của đồng vốn cho vay và khả năng quản lý, sử
dụng vốn của các hộ gia đình cho sản xuất kinh doanh, mở rộng thêm ngành nghề, tăng
sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập cho gia đình và hoàn trả được vốn cho Nhà nước.
Tuy nhiên, hoạt động tín dụng nói chung ở khu vực nông thôn Việt Nam mới
chỉ chú ý độc canh tín dụng đối với sản xuất nông nghiệp là chính, còn hai đối tượng
rất lớn và quan trọng khác là nông dân và nông thôn thì dường như còn bỏ ngỏ. Nông
dân đang đứng trong tình thế tách dần mảnh ruộng của mình nhường đất cho công
nghiệp và trang trại sản xuất hàng hoá tập trung để tự biến mình thành “công nhân
nông nghiệp không nghề đi làm thuê”. Tuy đạt được một số kết quả, song trên thực tế,
tại nhiều vùng quê, hiệu quả của tín dụng nông thôn còn thấp. Nguyên nhân là do
người dân thiếu thông tin về hệ thống tín dụng, dẫn đến khó khăn trong tiếp cận vốn.
1




Bên cạnh đó, cơ chế, thủ tục vay rườm rà cũng khiến bà con ngại đến ngân hàng, các tổ
chức tín dụng. Những bất cập này đang là rào cản lớn trong quá trình phát triển thị trường
tín dụng nông thôn đầy tiềm năng.
Chính lẽ đó cùng với việc đổi mới tư duy về “tam nông”, thị trường dịch vụ tín
dụng, ngân hàng cũng phải đổi mới cơ cấu thị phần và cả cơ cấu các sản phẩm tiện ích
ngân hàng để không chỉ hướng vào nông nghiệp, mà cần hướng mạnh cả vào chất
lượng sống của bản thân người nông dân và bộ mặt nông thôn.
Cùng với công cuộc đổi mới kinh tế xã hội của đất nước, Ngân hàng
NN&PTNT tỉnh Quảng Bình nói chung và chi nhánh huyện Tuyên Hoá nói riêng đã có
những bước thay đổi căn bản và đã đạt được những thành tựu đáng kể, góp phần vào
việc thực hiện quá trình CNH-HĐH đất nước. Trong những năm qua, Ngân hàng
NN&PTNT Quảng Bình đã từng bước phát triển cả về quy mô và chất lượng tín dụng,
đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, đặc biệt là đối với lĩnh vực
nông, lâm, ngư nghiệp cũng như khu vực nông thôn. Đồng thời, đi đầu trong việc thực
hiện chính sách cho vay hỗ trợ lãi suất của Chính phủ, với 78,9% số khách hàng và
52,7% dư nợ cho vay của toàn tỉnh, góp phần quan trọng thúc đẩy sản xuất kinh
doanh, cải thiện đời sống nhân dân.
Tuyên Hoá nằm trong vùng có địa lý phức tạp là vùng trung du miền núi, đồng
bằng nhỏ hẹp xen lẫn với những ngọn núi đá vôi, thuộc tỉnh Quảng Bình. Điều kiện tự
nhiên và kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ nghèo đói còn ở mức cao là
23,92% (năm 2009), trình độ dân trí còn thấp, sản xuất còn mang tính nhỏ lẻ, manh
mún, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, lao động chủ yếu còn mang tính thô sơ, thị trường
tiêu thụ chưa phát triển, thu nhập bình quân đầu người còn khá thấp (khoảng 6,67 triệu
đồng/người/năm, năm 2009), nên khả năng tích tụ và tập trung vốn cho yêu cầu mở rộng
sản xuất gặp nhiều khó khăn, vấn đề vốn và sử dụng vốn có hiệu quả cho sản xuất là
một nhu cầu bức xúc. Vì vậy, việc mở rộng cho vay vốn đối với hộ sản xuất của chi
nhánh còn gặp nhiều khó khăn và khả năng rủi ro luôn tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng.
Nhận thức được những vấn đề trên và xuất phát từ thực tiễn hoạt động tín dụng

cho vay vốn đến hộ sản xuất tại Ngân hàng NN&PTNT huyện Tuyên Hoá. Tôi đã lựa
chọn đề tài nghiên cứu: “Đánh giá hiệu quả của hoạt động tín dụng đối với hộ sản
xuất tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tuyên
Hoá, tỉnh Quảng Bình”.
2


1.2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số lý luận chung về tín dụng ngân hàng, vai trò của tín dụng
đối với phát triển kinh tế ở nông thôn.
- Đánh giá tình hình cho vay và phân tích hiệu quả của hoạt động tín dụng hộ
sản xuất tại chi nhánh đối với sự phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn trên địa bàn;
hiệu quả sử dụng vốn của hộ sản xuất.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả của hoạt động tín
dụng hộ sản xuất tại chi nhánh.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng
NN&PTNT huyện Tuyên Hóa đối với việc phát triển kinh tế hộ sản xuất trên địa bàn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về hoạt động tín dụng tại ngân hàng NN&PTNT
Tuyên Hóa đối với hộ sản xuất qua 3 năm từ 2007 đến 2009.
1.4. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề về lý luận và thực tiễn có liên quan
đến hoạt động tín dụng ngân hàng đối với kinh tế hộ sản xuất: về hiệu quả kinh tế của
việc cho vay, sử dụng vốn tại chi nhánh qua 3 năm 2007-2009. Phân tích các nhân tố ảnh
hưởng đến kết quả và hiệu quả của hoạt động tín dụng đối với hộ hộ sản xuất tại chi nhánh.
- Về không gian nghiên cứu: Tín dụng đối với hộ sản xuất tại ngân hàng
NN&PTNT huyện Tuyên Hóa, Quảng Bình; Điều tra tại 2 xã Hương Hóa, Thanh Hóa
mỗi xã chọn 30 hộ để điều tra.
- Về thời gian nghiên cứu: trong 3 năm 2007 – 2008 - 2009.

1.5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập số liệu: Sử dụng số liệu từ nguồn dữ liệu thứ cấp và sơ
cấp kết hợp với phương pháp chuyên gia, chuyên khảo:
+ Phương pháp chuyên gia, tham khảo ý kiến: Thông qua những người làm
công tác tín dụng (cán bộ tín dụng, tổ nhóm vay vốn, những người sử dụng vốn của
ngân hàng trong nhiều năm,…) có kinh nghiệm, có hiểu biết trong lĩnh vực cho vay và
sử dụng vốn vay để tiến hành điều tra thu thập số liệu được chính xác và có hiệu quả
hơn, giúp tiết kiệm được thời gian và giúp hiểu rõ hơn về đối tượng nghiên cứu.

3


+Phương pháp điều tra chọn mẫu: Sau khi tìm hiểu qua tình hình chung, cơ bản
của đối tượng nghiên cứu, cuộc điều tra được tiến hành theo phương pháp chọn mẫu
các hộ sản xuất trong 2 xã đại diện cho 20 xã, thị trấn trong toàn huyện có sử dụng vốn
vay tại chi nhánh ngân hàng NN&PTNT huyện Tuyên Hoá, không giới hạn đến số tiền
được vay, số lần vay, mục đích sử dụng món vay và thời hạn vay nhưng có giới hạn về
thời gian vay là chỉ điều tra các hộ vay vốn trong thời gian nghiên cứu là từ năm 2007
đến năm 2009. Đồng thời trong các hộ điều tra tiến hành tìm hiểu qua tình hình của
từng loại hộ theo ngành nghề sản xuất kinh doanh để có thể nắm rõ đặc điểm của hộ
trước khi phỏng vấn, tiến hành phân tổ theo ngành nghề và chuẩn bị phiếu điều tra
theo từng đặc điểm hoạt động kinh doanh của hộ, nhằm mục đích giúp nội dung phiếu
tập trung theo từng nhóm đối tượng điều tra và để cuộc điều tra thu được kết quả cao
và chính xác hơn.
- Phương pháp phân tích thống kê:
+ Tổng hợp thống kê.
+ Thống kê mô tả.
+ Phương pháp so sánh.
+ Phương pháp hạch toán kinh tế.


4


PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1.Cơ sở lý luận
1.1.1.1. Hộ sản xuất và vai trò của kinh tế hộ đối với nền kinh tế
a. Khái quát chung
- Khái niệm hộ sản xuất:
Theo ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được hiểu như sau: "Hộ
sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động kinh doanh, là chủ thể trong mọi
quan hệ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất của
mình". Thành phần chủ yếu của hộ sản xuất bao gồm: hộ nông dân, hộ tư nhân, cá thể,
hộ gia đình xã viên, hộ nông, lâm trường viên.
Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn. Các hộ này
tiến hành sản xuất kinh doanh đa dạng kết hợp trồng trọt với chăn nuôi và kinh doanh
ngành nghề phụ. Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề nói trên đã góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta.
- Đặc điểm của hộ sản xuất
+ Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất vừa là một đơn
vị tiêu dùng.
+ Quan hệ giữa tiêu dùng và sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển của hộ từ tự cấp
hoàn toàn đến sản xuất hàng hoá hoàn toàn. Trình độ này quyết định quan hệ giữa hộ nông
dân và thị trường.
+ Khả năng tài chính của hộ sản xuất chỉ có thể thoả mãn các nhu cầu tái sản
xuất giản đơn thông qua việc kiểm soát các nguồn lực như đất đai, lao động, vốn,…
Cho nên nông dân bị hạn chế bởi thiếu vốn nghiêm trọng, các hộ sản xuất thường thiếu
cả vốn lưu động để mua các yếu tố đầu vào cho sản xuất và vốn cố định để mua các

phương tiện, công cụ sản xuất.
+ Các hộ nông dân ngoài hoạt động nông nghiệp còn tham gia vào hoạt động
phi nông nghiệp với các mức độ khác nhau.

5


+ Sản xuất kinh doanh (SXKD) của hộ nông dân phần lớn là gắn liền với tự
nhiên, cho nên trong SXKD thì hộ sản xuất thường chịu ảnh hưởng của nhiều rủi ro
mà khả năng khắc phục lại hạn chế. Mặt khác trình độ SXKD và công nghệ lại yếu
kém và lạc hậu, thiếu vốn sản xuất, thị trường nông thôn chưa phát triển nên không
kích thích được sản xuất, hộ nghèo và hộ trung bình còn chiếm tỷ trọng cao.
1.1.1.2. Một số vấn đề chung về tín dụng ngân hàng đối với kinh tế HSX
a. Khái niệm
- Tín dụng ngân hàng
Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tuy nhiên khi gắn tín
dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho
vay.Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng thương
mại (NHTM), phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng.
Như vậy,tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ
ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất
định. Cũng như quan hệ tín dụng khác, tín dụng ngân hàng chứa đựng ba nội dung:
+) Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng.
+) Sự chuyển nhượng này mang tính tạm thời hay có thời hạn.
+) Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.
b. Phân loại
Tín dụng ngân hàng có thể phân chia thành nhiều loại khác nhau tuỳ theo những
loại tiêu thức phân loại khác nhau.
- Tín dụng chia theo thời gian
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng, vì thời gian

liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn
trả của khách hàng. Theo thời gian tín dụng được phân thành:
+ TD ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống (tài trợ cho tài sản lưu động).
+ TD trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm, tái trợ cho các tài sản cố định như
phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn.
+ TD dài hạn: Trên 5 năm tài trợ cho công trình xây dựng, máy móc thiết bị có
giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu.
Việc xác định thời hạn trên chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay
không xác định trước được chính xác thời hạn.
- Tín dụng chia theo hình thức tài trợ.
6


Tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu thương phiếu…
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng
phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay được định lượng
theo 2 chỉ tiêu: Doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ.
+ Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay ra trong kỳ.
+ Dư nợ cuối kỳ là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ.
Chiết khấu thương phiếu là việc NH ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng
với giá trị của thương phiếu, trừ đi phần thu nhập của NH để sử dụng một thương
phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ).
Cho thuê tài chính là việc NH bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo
những thoả thuận nhất định. Sau một thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc
lẫn lãi cho NH.
Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách
hàng của mình.
- Tín dụng được chia theo hình thức đảm bảo
Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận TD về việc dùng tài sản mà mình đang
sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho NH, bao gồm:

+ Cho vay không có bảo đảm là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng vay vốn
để quyết định cho vay.
+ Cho vay có đảm bảo là loại cho vay dựa trên cơ sở các đảm bảo cho tiền vay
như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba nào khác. TD dựa trên cam kết
đảm bảo yêu cầu NH và khách hàng phải ký hợp đồng đảm bảo.
- Tín dụng chia theo mục đích của tín dụng, bao gồm:
+ Cho vay phục vụ SXKD công thương nghiệp.
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân.
+ Cho vay bất động sản.
+ Cho vay nông nghiệp.
+ Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu.
- Tín dụng phân loại theo rủi ro
Tín dụng bao gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình, thấp:
+ Tín dụng lành mạnh: Các khoản TD có khả năng thu hồi cao.

7


+ Tín dụng có vấn đề: Các khoản TD có dấu hiệu không lành mạnh như khách
hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên tai,
khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính,…
+ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn
và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn…
+ Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế
chất nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
- Dựa vào phương thức cho vay, TD được chia thành các loại:
+ Cho vay theo món vay.
+ Cho vay theo hạn mức tín dụng.
Ngoài ra còn có một số cách phân loại khác như phân theo ngành kinh tế (công,

nông nghiệp…); theo đối tượng TD (tài sản lưu động, tài sản cố định)…
c. Vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất.
Tín dụng ngân hàng được các nhà kinh tế công nhận là có vai trò quan trọng
trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tín dụng chỉ được coi là một
trong rất nhiều điều kiện cần thiết và là trung gian phân bổ nguồn lực cho phát triển.
Do đó TD có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn và
được thể hiện qua các vai trò cụ thể như:
+ Tín dụng ngân hàng có tầm quan trọng sống còn đối với chương trình phát
triển nông thôn của đất nước. Trong nhiều cơ chế, chính sách Chính phủ đã ban hành
nhằm tăng cường đầu tư vốn phát triển nông nghiệp, nông thôn, chính sách TDNH có
vai trò hết sức quan trọng.
Thường những người muốn thành lập hoặc mở rộng các doanh nghiệp hoặc
dịch vụ trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn rất cần TD. Do đó, việc cung cấp TD,
với các điều kiện mà cá nhân và các tổ chức có thể quản lý được đóng vai trò rất quan
trọng trong phát triển nông thôn.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy hình thành thị trường tài chính nông thôn.
Thị trường tài chính ở nông thôn là nơi giải quyết quan hệ cung cầu về vốn,
nhằm thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế nông thôn. Thị trường tài chính nông thôn
bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Trong thị trường này, NH nông nghiệp có
vai trò vô cùng quan trọng, vì nó có hệ thống chân rết đến tận huyện. Mặt khác, ở từng
xã, khu vực còn có quỹ TDND cơ sở. Chính hoạt động TDNH đã hình thành và đẩy
nhanh sự phát triển của thị trường tài chính, TD ở nông thôn.
8


+ Hoạt động TDNH đã góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn,
tư liệu sản xuất, khoa học công nghệ để phát triển kinh tế nông thôn.
Trong nông thôn hiện nay, số hộ dân khá đang giàu lên chiếm tỷ lệ ngày càng
cao do họ có trình độ SXKD, tiếp thu được khoa học kỹ thuật, họ có vốn là điều thiết
yếu ban đầu cho quá trình sản xuất và nắm bắt nhanh nhạy thị trường, họ quyết định

được sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? và sản xuất như thế nào? để mang lại hiệu quả
kinh tế cao nhất. Ngược lại, có những hộ không có kinh nghiệm, kinh doanh không có
hiệu quả dẫn đến lỗ, hoặc có ruộng đất quá ít so với nhu cầu của họ hoặc thiếu vốn cho
quá trình sản xuất. Trong mọi trường hợp đồng vốn TD của NH, đã giúp hộ có khả
năng giải quyết được khó khăn trong SXKD và góp phần tăng thu nhập cho hộ. Trên
cơ sở đó, họ có khả năng dễ dàng trong việc tích tụ và tập trung vốn.
+ Tín dụng đã góp phần tận dụng khai thác mọi tiềm năng về đất đai, lao động
và tài nguyên thiên nhiên.
Tiềm năng về phát triển ở nông thôn nước ta là rất lớn, nếu được Nhà nước
quan tâm đúng mức với những chính sách vĩ mô thích hợp, đặc biệt là nếu có chính
sách đầu tư TD hợp lý, thì chắc chắn những khả năng tiềm tàng mà lâu nay chưa được
sử dụng sẽ được động viên khai thác triệt để và phát huy hiệu quả.
+ Tín dụng đã góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho nông dân
tiếp thu công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh.
Trong điều kiện hiện nay, đời sống nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở
vật chất kỹ thuật lạc hậu. Muốn cải thiện tình hình đó cần phải tăng cường đầu tư vốn
phát triển nông thôn. Chính vì lẽ đó, vốn TD của NH không những tham gia vào quá
trình sản xuất bằng hình thức bổ sung vốn lưu động, mà còn là vốn đầu tư trung hạn và
dài hạn nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến cho quá trình sản xuất. Các
công trình đầu tư nhằm phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi,
tiêu dùng như: công nghiệp chế biến nông sản, dịch vụ, phát triển các ngành nghề mới,
các hệ thống tưới tiêu, công trình thuỷ lợi, đường giao thông, mạng lưới điện... nhằm
phục vụ phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới.
+ Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện phát triển ngành nghề truyền thống, ngành
nghề mới, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động trong nông thôn.
Chính việc xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng các xí nghiệp chế biến nông sản
đã thu hút một số lượng lớn lao động dư thừa trong nông thôn, tạo việc làm cho họ.
Hiện nay luật khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành đã tạo luồng sinh khí
9



mới cho các doanh nghiệp trong nước mạnh dạn đầu tư vào tất cả các lĩnh vực SXKD,
dịch vụ và tạo điều kiện cho các ngành nghề khác phát triển, trước hết là chăn nuôi và
ngành nghề phục vụ nông nghiệp và công nghiệp chế biến.
Như vậy TDNH ảnh hưởng gián tiếp và trực tiếp đến sự phát triển của những
ngành nghề truyền thống và ngành nghề mới. Thông qua tín dụng nông nghiệp, các
TCTD góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển từ đó tạo điều kiện cho các ngành
nghề truyền thống và ngành nghề mới phát triển, đồng thời các TCTD trực tiếp bổ
sung vốn kịp thời cho các ngành nghề này phát triển. Những ngành nghề dịch vụ mới
phát triển đã thu hút lao động trong nông thôn, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời
sống ở nông thôn.
+Tín dụng ngân hàng đã tạo cho người dân không ngừng nâng cao trình độ sản
xuất, tăng cường hạch toán kinh tế đồng thời tạo tâm lý tiết kiệm tiêu dùng.
Hộ gia đình là một đơn vị kinh tế tự chủ, sản xuất kinh doanh lời ăn lỗ chịu. Do
vậy bắt buộc bản thân hộ gia đình muốn tồn tại và phát triển thì phải đáp ứng được
những yêu cầu mới. Trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật (KHKT) phát triển
như vũ bão đòi hỏi người nông dân phải không ngừng nâng cao trình độ của mình. Kết
quả cuối cùng đã ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân và gia đình họ. Vì vậy ngoài việc
hăng say lao động, họ phải áp dụng những quy trình kỹ thuật mới vào sản xuất để đem
lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần đảm bảo hiệu quả xã hội, nâng cao cuộc sống
tinh thần vật chất cho người nông dân. TD nông nghiệp đã có những đóng góp rất lớn vào
việc xóa đói giảm nghèo.
Hoạt động tín dụng ngân hàng thực hiện tốt sẽ góp phần hạn chế nạn cho vay
nặng lãi trong nông thôn. Chính việc mở rộng cho các hộ nông dân vay vốn đã góp
phần hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi, người dân đỡ bị bóc lột hơn và kết quả là sau
quá trình sản xuất người dân thực sự được hưởng thành quả lao động của họ. Việc
cung ứng vốn TD của NH cho những HSX thiếu vốn, kể cả hộ giàu và hộ nghèo, đều
đòi hỏi phải có tài sản thế chấp, đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích. Như vậy
đồng vốn của NH đã đi sâu vào tận cùng thôn ấp, thúc đẩy nông thôn phát triển, làm cho hộ

nghèo trở nên khá hơn, hộ khá trở nên giàu hơn, đời sống các tầng lớp dân cư trong nông thôn
được nâng cao.

10


+ Tín dụng ngân hàng là nguồn cung vốn cơ bản, lâu dài và chất lượng cho quá
trình phát triển kinh tế hộ gia đình. Góp phần điều hoà vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu,
đảm bảo cho sản xuất ổn định, có hiệu quả cao.
Khi HSX cần vốn thì NH là công cụ đắc lực cung cấp vốn cho nhu cầu SXKD
của các hộ. Còn khi HSX có sản phẩm thu hoạch bán, tiền vốn và tiền lãi chưa được sử
dụng thì NH là nơi gửi tiền tiết kiệm an toàn và có lãi cho hộ nông dân. Vậy tín dụng
ngân hàng là thị trường chung chuyển nguồn tín dụng nông nghiệp – nông thôn.
+ Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy các quan hệ kinh tế của hộ sản xuất,
tạo điều kiện để các hộ sản xuất tăng cường quan hệ hợp tác với nhau, với các doanh
nghiệp, nhà cung ứng và tiêu thụ trong nước và nước ngoài.
+ Tín dụng ngân hàng đối với hộ nông dân thực sự là đòn bẩy thúc đẩy nông
nghiệp Việt Nam phát triển toàn diện, mạnh mẽ và đang ngày càng trở thành ngành
nông nghiệp hàng hoá, không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà doanh số xuất khẩu
của nhiều ngành hàng có xuất xứ nguyên liệu, lao động từ nông nghiệp, nông thôn
ngày càng lớn.
Vậy tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong mọi mặt của đời sống kinh
tế xã hội nông thôn. Cho nên cần sử dụng tín dụng như một công cụ đắc lực để thúc
đẩy quá trình phát triển kinh tế nông thôn.
1.1.1.3. Hệ thống các chỉ tiêu sử dụng nghiên cứu đề tài
a. Các chỉ tiêu phản ánh tình hình cho vay và chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất
- Doanh số cho vay (DSCV) là chỉ tiêu phản ánh dung lượng hoạt động cho vay
trong kỳ, đó là tổng số tiền mà NH đã cho vay trong kỳ (tính cho tháng, quý, năm).Chỉ
tiêu này phản ánh mối quan hệ giữa NH với khách hàng. DSCV đến HSX cho biết
lượng tiền cho vay đến các HSX, nó phản ánh quy mô, mức độ hoạt động TD HSX.

DSCV trong kỳ = Dư nợ cuối kỳ - Dư nợ đầu kỳ + DSTN trong kỳ
- Doanh số thu nợ (DSTN) là tổng các khoản thu nợ phát sinh trong kỳ, tính cho
tháng, quý, năm. Chỉ tiêu này phản ánh lượng tiền mà NH đã thu về từ các chủ thể vay vốn.
DSTN trong kỳ = Dư nợ đầu kỳ - Dư nợ cuối kỳ + DSCV trong kỳ
- Dư nợ là chỉ tiêu phản ánh số tiền mà NH hiện đang còn cho vay tính đến thời
điểm cụ thể, dư nợ là chỉ tiêu tích luỹ qua các kỳ. Đây chính là khoản mà NH cần phải
thu về. Tổng dư nợ cho vay HSX phản ánh quy mô, tốc độ tăng trưởng của TD HSX,
nó cho biết mối quan hệ giữa NH với HSX.
Dư nợ cuối kỳ = Dư nợ đầu kỳ + DSCV trong kỳ - DSTN trong kỳ
11


- Tỷ lệ thu nợ (Hệ số thu nợ) = Doanh số thu nợ / Doanh số cho vay * 100%
Tỷ lệ thu nợ càng cao thể hiện công tác thu hồi nợ của NH càng tốt, tạo điều
kiện để hoạt động cho vay của NH được tốt hơn.
- Nợ xấu là khoản cho vay đến hạn trả nhưng chưa trả. Khi hết kỳ hạn trả nợ
hoặc kết thúc thời hạn cho vay, nếu khách hàng không có khả năng trả nợ đúng hạn và
không được điều chỉnh kỳ hạn nợ hoặc không được gia hạn nợ thì số nợ đến hạn phải
chuyển sang nợ quá hạn và khách hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn đối với số tiền
chậm trả (áp dụng mức lãi suất bằng 130% so với lãi suất trong hợp đồng TD). Nợ xấu
là kết quả của sản phẩm cho vay được thiết kế kém, nó phản ánh chất lượng của
nghiệp vụ TD tại NH.
+ Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu / Tổng dư nợ * 100%
b. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng và hiệu quả sản xuất kinh
doanh của hộ sản xuất
+) Chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các hộ sản xuất
- Giá trị sản xuất GO phản ánh toàn bộ giá trị của cải vật chất mà hộ đã tạo ra
trong một khoảng thời gian nhất định (thường là 1 tháng, 1 quý hoặc 1 năm).
GO = ∑Qi*Pi (Qi: sản lượng sản phẩm i; Pi: Giá đơn vị sản phẩm i)
- Tổng chi phí sản xuất (TC) là toàn bộ chi phí bằng tiền hoặc vật chất của hộ, gồm:

* Chi phí trung gian (IC) là một bộ phận cấu thành của tổng chi phí sản xuất
bao gồm toàn bộ chi phí thường xuyên về mặt vật chất và chi phí dịch vụ được sử
dụng trong quá trình sản xuất trong một thời gian nhất định thường là 1 tháng, 1 quý
hay 1 năm.
* Chi phí tự có (Tc) bao gồm công lao động gia đình, vật tư gia đình tự sản xuất.
* Khấu hao tài sản cố định
- Giá trị gia tăng (VA) phản ánh giá trị tăng thêm so với chi phí thuê mua ngoài dùng
cho sản xuất.
VA = GO – IC
- Giá trị gia tăng thuần (NVA) hay còn gọi là thu nhập hỗn hợp (MI) là chỉ tiêu
biểu hiện toàn bộ giá trị mới được sản xuất ra trong một thời kỳ nhất định tháng, quý
hay năm (không kể phần khấu hao TSCĐ).
MI = VA - KH
- Lợi nhuận kinh tế ròng (NB) là phần còn lại của tổng giá trị sản xuất trừ đi
tổng chi phí sản xuất hay là phần còn lại của MI sau khi trừ đi chi phí tự có.
12


NB = MI – Tc
- Tỷ lệ GO/IC, VA/IC, MI/IC, NB/IC cho biết cứ 1 đồng chi phí trung gian đầu
tư sản xuất tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất và tương ứng với bao nhiêu
đồng giá trị gia tăng, bao nhiêu đồng thu nhập và bao nhiêu đồng lợi nhuận.
- Giá trị hiện tại thuần (NPV) của khoản đầu tư là tổng giá trị hiện tại của các
khoản thu trừ đi giá trị hiện tại của các khoản chi phí đầu tư của dự án.
n

Bt

NPV = ∑


n

Ct

- ∑

i=1 (1 + i)t i=1 (1 + i)
Trong đó: Bt là thu nhập của dự án ở năm t
Ct là chi phí của dự án ở năm t
t: số năm thực hiện dự án
i: lãi suất tính toán
- Hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR) là mức lãi suất mà tại đó thu nhập vừa hoàn
được chi phí bỏ ra. Hay hệ số hoàn vốn nội bộ là lãi suất tính toán mà ứng với nó giá
trị hiện tại ròng (NPV) bằng 0.
n

Bt

IRR = ∑

n

Ct

- ∑

=0

i=1 (1 + i)t i=1 (1 + i)
Trong đó: Bt là thu nhập của dự án ở năm t

Ct là chi phí của dự án ở năm t
t: số năm thực hiện dự án
i: lãi suất tính toán
Chỉ tiêu IRR chính là suất thu hồi mà bản thân dự án có thể tạo ra. Chỉ tiêu IRR
trong đề tài được dùng so sánh với lãi suất tiền vay ngân hàng (i).
+ Nếu IRR < i thì hoạt động đầu tư bị lỗ do thu nhập không đủ trả nợ vay ngân hàng.
+ Nếu IRR = i thì hoạt động đầu tư không có lời vì thu nhập chỉ đủ trả nợ tiền vay.
+ Nếu IRR > i thì hoạt động đầu tư có lãi.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
1.1.2.1. Tình hình hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất của Việt Nam trong
thời gian qua
Hoạt động tín dụng đóng vai trò quan trọng trong phát triển sản xuất, tạo công
ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.
13


Trong những năm qua, các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đã giúp hàng
vạn hộ nông dân đẩy mạnh sản xuất, mở rộng thâm canh tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi và phát triển mở rộng ngành nghề, góp phần tăng thu nhập và cải
thiện đời sống người dân nông thôn.
Trên địa bàn nông thôn hiện nay có nhiều tổ chức tín dụng hoạt động, chủ lực
như NH NN&PTNT, NH Chính sách xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể
làm dịch vụ tài chính, các tổ tiết kiệm vay vốn... , tạo thành một kênh huy động vốn và
cho vay tại chỗ để chuyển tải vốn đến hộ nông dân với phương châm cạnh tranh nhau
bình đẳng, không giành giật khách hàng của nhau. Nhiều ngân hàng đã chủ động tìm
dự án có hiệu quả, giúp các hộ và các doanh nghiệp hoàn thành những thủ tục cần thiết
để chủ động giải ngân cho vay sớm. Riêng hệ thống NH NN&PTNT số dư cho vay
vốn hộ nông dân đến đầu năm 2007 là 150.500 tỉ đồng. Thị trường tín dụng nông
nghiệp, nông thôn được mở rộng, tăng được tỷ trọng số hộ vay và mức dư nợ bình
quân/hộ. Các hộ nông dân vay vốn được giải quyết nhanh chóng, những thủ tục phiền

hà đã giảm bớt, không còn tình trạng phải chờ đợi như những năm trước đây. Đặc biệt
là mức cho hộ vay đã nâng lên đến 10 triệu đồng mà không phải thế chấp tài sản (đối
với những vùng đặc biệt khó khăn, mức cho vay tối đa lên đến 100 triệu đồng), tạo cơ
hội giúp hộ nông dân chủ động thực hiện phương án kinh doanh của mình.
Các NHTM và TCTD đã giúp các hộ nông dân đẩy mạnh sản xuất, chuyển đổi
cơ cấu cây trồng vật nuôi theo mùa vụ và tiếp tục mở rộng ngành nghề góp phần làm
tăng thu nhập và cải thiện đời sống. Nhờ mở rộng đầu tư tín dụng cùng với vốn tự có
và sức lao động đã giúp họ có điều kiện khai thác tiềm năng kinh tế tự nhiên của mỗi
vùng, từng bước hình thành các vùng chuyên canh lúa, hoa màu và cây công nghiệp có
tỷ suất hàng hóa cao. Ngoài ra, ngân hàng còn mở rộng cho vay phát triển ngành nghề
tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Đặc biệt là phát triển việc cho các làng nghề
vay theo hướng sản xuất hàng hóa như chế biến nông lâm sản, chăn nuôi đại gia súc
gia cầm, làm các nghề mộc, nghề rèn, thêu ren, đồ gỗ..., điển hình là sản xuất hàng thủ
công mỹ nghệ ở Bắc Ninh, mây tre đan xuất khẩu, dệt lụa ở Hà Tây, gốm sứ ở Bát
Tràng (Hà Nội).
Để thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển, ngân hàng còn đầu tư vốn khuyến
khích các trang trại mở rộng quy mô sản xuất, thu hút nhiều lao động, tạo nhiều việc
làm cho người lao động nông thôn. Ngân hàng đã giúp cho các đối tượng vay để trang
14


trải chi phí giống, cải tạo vườn, ao, chuồng, thậm chí cả chi phí trả công lao động thời
vụ. Vốn bình quân cho vay một trang trại từ 200 triệu đến 300 triệu đồng, có trang trại
vay đến 500 triệu đồng. Năm 2008 cả nước có trên 113.730 trang trại với số diện tích
đất sử dụng là 663,5 ngàn ha, đã tạo việc làm thường xuyên cho 395 ngàn lao động.
Cùng với chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, vốn tín dụng đầu tư cho vay
từng bước góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng. Ở vùng đồng bằng sông
Hồng cơ cấu tín dụng đã biến động theo hướng tăng đầu tư vào công nghiệp; ở các tỉnh
thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, các ngân hàng đã phối hợp chặt chẽ cho các

đối tượng thông thường cho vay theo các chương trình, dự án quan trọng được hưởng
lãi suất ưu đãi của Chính phủ và cho vay để sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ nông lâm sản và xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Tổng dư nợ ở vùng Đông Nam Bộ
hiện là 285.000 tỉ đồng, trong đó dư nợ ngắn hạn 176.000 tỉ đồng (chiếm 62%), dư nợ
cho vay trung và dài hạn là 109.000 tỉ đồng (chiếm 38%). Vùng Tây Nguyên có tiềm
năng kinh tế tự nhiên rất lớn, nhưng chưa được khai thác, nên những năm qua các
ngân hàng đã tích cực mở rộng mạng lưới giao dịch phục vụ bà con để thâm canh mở
rộng diện tích cây chè, cà phê kết hợp với chăn nuôi đại gia súc. Tổng số dư nợ cho
vay ở vùng này hiện đạt 28.000 tỉ đồng, trong đó dư nợ ngắn hạn chiếm 64%, dư nợ
trung dài hạn chiếm 36%, với 652.000 hộ và 1.229 doanh nghiệp còn dư nợ vay. Để
tạo điều kiện cho quan hệ tín dụng mở rộng tại đây, ngân hàng đã tạo thuận lợi cho họ
trả nợ lãi cùng với nợ gốc theo chu kỳ thu hoạch của cây trồng, vật nuôi. Không áp
dụng lãi suất nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan.
Trong đó NHNo luôn luôn giữ vai trò nòng cốt. Dư nợ cho hộ nông dân chiếm
gần 30% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, trong đó riêng NHNo đã đáp ứng tới 90%. Hầu
hết bộ phận hộ nông dân được vay vốn ngân hàng. Tín dụng đối với hộ nông dân thực
sự là đòn bẩy thúc đẩy nông nghiệp Việt nam phát triển toàn diện, mạnh mẽ và đang
ngày càng trở thành ngành nông nghiệp hàng hoá, không chỉ đáp ứng nhu cầu trong
nước mà doanh số xuất khẩu của nhiều ngành hàng có xuất xứ nguyên liệu, lao động từ
nông nghiệp, nông thôn ngày càng lớn.
1.1.2.2. Những thành tựu trong hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất của
ngân hàng NN&PTNT Việt Nam trong thời gian qua
- Tăng trưởng liên tục mạnh mẽ cả về dư nợ, số hộ được vay và chất lượng tín
dụng: Tổng tài sản khi mới thành lập năm 1988 là 1.500 tỷ đồng, đến thời điểm

15


31/12/2007 là 325.802 tỷ đồng, tương đương 20 tỷ USD và lớn gấp 220 lần năm 1988.
Trong đó với gần 70% tổng dư nợ của NHNo dành cho khu vực nông nghiệp.
Từ chỗ chỉ có vài nghìn hộ nông dân năm 1991 được vay tín dụng của NH đến nay

đã có hơn 10 triệu hộ khách hàng, với khoảng 70% tổng dư nợ (242.062 tỷ đồng) của
NHNo dành cho kinh tế hộ nông dân và nông thôn, tương đương với 90% tổng dư nợ tín
dụng của toàn ngành Ngân hàng Việt nam tại khu vực nông nghiệp và nông thôn.
- Đa dạng hóa đối tượng cho vay, tạo điều kiện cho hộ nông dân thỏa mãn các nhu
cầu về vốn.
Ngoài sản xuất kinh doanh, hộ nông dân còn được NHNo cho vay khi có nhu
cầu vốn để đầu tư vào các lĩnh vực phi nông nghiệp như: Xuất khẩu lao động; Mua xe
ô tô, xe máy để phục vụ sản xuất đời sống, xây dựng, sửa chữa nhà; Khắc phục khó
khăn trong sản xuất, đời sống (như thiên tai, dịch bệnh)...
- Đa dạng hóa phương thức cho vay giúp hộ nông dân thuận lợi, dễ dàng khi vay vốn.
NHNo đã áp dụng các phương thức cho vay thuận tiện cho người vay như hạn
mức tín dụng (trong mức vay quy định mỗi lần vay không phải làm thủ tục đơn từ); lưu vụ
(các vùng trồng lúa có 2 vụ liền kề được duy trì nợ vay, không phải trả gốc từng lần)….
- Chất lượng tín dụng được bảo đảm, tỷ lệ nợ quá hạn ngày càng thấp, đến nay
là dưới 2%. Hộ nông dân trả nợ tốt, ngay cả khi do có khó khăn được Ngân hàng gia
hạn, khoanh nợ, sau đó khi khôi phục và phát triển trở lại, người vay luôn cố gắng trả
nợ sòng phẳng như các trường hợp đối với hộ vay trồng cà phê, cao su, dập dịch cúm
gà trong những năm qua.
- Tín dụng nông nghiệp đã có những đóng góp rất lớn vào việc xóa đói giảm nghèo.
Ước cuối năm 2009, tỷ lệ hộ nghèo cả nước chỉ còn 11% so với mức 20% tại thời điểm cuối
năm 2005.
Tính đến 31/12/2009, dư nợ cho vay khu vực nông nghiệp, nông thôn của
NHNo là 242.062 tỷ đồng, chiếm 68,36% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Bước vào
năm 2010, NHNo đã dành 10.000 tỷ đồng để đầu tư cho vay phục vụ nông nghiệp,
nông thôn. Dự kiến trong quý I/2010, NHNo sẽ tiếp tục bổ sung vốn 3.200 tỷ đồng để
đầu tư cho vay các nhu cầu thu mua lương thực, cá tra, cá ba sa, cà phê xuất khẩu. Để
tiếp tục khẳng định là tổ chức tín dụng hàng đầu ở khu vực Tam nông, Hội đồng quản
trị NHNo vừa ban hành Quyết định số 1469 phê duyệt Đề án "NHNo mở rộng và nâng
cao hiệu quả đầu tư vốn cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020”.

16


CHƯƠNG II
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ
SẢN XUẤT TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NN&PTNT
HUYỆN TUYÊN HOÁ – QUẢNG BÌNH
2.1. TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Tuyên Hoá là một huyện miền núi phía Tây bắc Quảng Bình, phía Bắc gíáp
huyện Hương Khê và Kỳ Anh của tỉnh Hà Tĩnh, phía Tây giáp huyện Minh Hoá và
nước bạn Lào, phía Nam giáp huyện Bố Trạch, phía Đông giáp huyện Quảng Trạch
của tỉnh Quảng Bình. Vị trí địa lý này tạo thuận lợi cho Tuyên Hoá trong việc tiếp cận
và tiếp thu những công nghệ và phương thức quản lý tiên tiến, có môi trường giao lưu
kinh tế - xã hội thuận lợi với bên ngoài.
Toàn huyện có tổng diện tích tự nhiên 114.940,99 ha, chiếm 1/7 diện tích tỉnh
Quảng Bình. Trong đó, đất nông nghiệp chiếm diện tích lớn nhất trong toàn huyện với
94.316,60 ha, chiếm 82,06% trong tổng diện tích đất tự nhiên, điều đó tạo lợi thế vùng
phát triển nông lâm nghiệp, với diện tích đất lâm nghiệp là 86.692,6 ha chiếm 91,9%
trong tổng diện tích đất nông nghiêp đây là một lợi thế để địa phương phát triển trồng
rừng và chăn nuôi gia súc lớn. Còn đất chưa sử dụng cũng chiếm một tỷ lệ khá lớn
trong tổng diện tích tự nhiên là 14,76%, điều đó chứng tỏ huyện còn có nhiều lợi thế
và khả năng trong việc mở rộng về diện tích và quy hoạch sử dụng vào các mục đích
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương ngày một tốt hơn. Tuy nhiên, do cơ cấu diện
tích đất chủ yếu là đất rừng, đất sản xuất nông nghiệp ít và manh mún, dân cư lại sống
rải rác không tập trung đã gây ra không ít khó khăn cho địa phương trong vấn đề quản
lý, phân bố và sử dụng đất đai và khó tạo được sự cân đối giữa các vùng ngành.
Địa hình chủ yếu của huyện là đồi núi, đồng bằng nhỏ hẹp, manh mún, mạng
lưới sông suối, re rạch chằng chịt đã tạo ra sự chia cắt lớn giữa các vùng trong huyện
và giữa địa phương với các vùng khác. Địa hình phức tạp có độ dốc lớn từ Tây sang

Đông, đất đai rất dễ bị rửa trôi và kém màu mỡ, do đó giá trị sản xuất nông nghiệp
mang lại rất thấp, người dân chủ yếu chỉ sống dựa vào rừng. Với chiều ngang nhỏ hẹp,
có đoạn chỉ 3km, nhưng lại có chiều dài từ Bắc vào Nam hơn 60km, giao thông đi lại
rất khó khăn, đã gây cản trở lớn cho việc phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

17


Dân số trung bình của huyện là 81.739 người (năm 2008) dân số lại phân bố
không đồng đều, với mật độ trung bình là 71 người/km2 nhưng có nơi chỉ có 9
người/km2 như xã Lâm Hóa, xã Ngư Hóa, có nơi mật độ dân số lại khá lớn như thị trấn
Đồng Lê là 527 người/km2, hay xã Châu Hóa là 304 người/km2. Với sự phân bố không
đồng đều như vậy đã gây ra khó khăn trong việc quản lý và quy hoạch phát triển của địa
phương, đồng thời nó cũng tạo ra các lợi thế và khó khăn riêng cho mỗi vùng trong việc
phát triển kinh tế xã hội.
Tuyên Hoá có khí hậu mang tính chất khí hậu nhiệt đới gió mùa, có sự phân hoá
sâu sắc của địa hình và chịu ảnh hưởng khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền
Nam nước ta, do đó có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ
tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm 2.000 - 2.300mm/năm.
Thời gian mưa tập trung vào các tháng 9, 10 và 11. Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8
với nhiệt độ trung bình 24oC – 25oC. Ba tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6, 7 và 8,
nhiệt độ có lúc lên tới 39oC. Khí hậu có nhiều chuyển biến phức tạp, thời tiết thường
không ổn định, mùa mưa và mùa nắng kéo dài, giao giữa 2 mùa thường xảy ra các trận
bão lũ, sương muối nhiều. Với điều kiện khí hậu như vậy đã ảnh hưởng không nhỏ tới
hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân, đặc biệt là sản xuât nông nghiệp, dẫn
đến mất mùa và là điều kiện thuận lợi cho sâu hại phát triển như bệnh rầy nâu hại lúa,
bệnh chết ẻo cây lạc, sâu đục thân ngô,...
Với tình hình cơ bản về đất đai, dân số, địa hình như đã nêu ở trên đã tạo ra cho
vùng không ít khó khăn, thách thức song nó cũng đã tạo ra cho vùng những đặc trưng,
lợi thế riêng đó là: Tuyên Hoá là một huyện có thế mạnh về rừng với 29.038 ha rừng

phòng hộ, và 57.433,1 ha rừng sản xuất. Rừng tự nhiên ở đây có trữ lượng gỗ tương
đối lớn, khoảng 3 triệu m3, với nhiều loại lâm sản, gỗ quý như dạ hương, huệ mộc,
cánh kiến, lim, gõ, mun, dổi...Ngoài gỗ, còn có nhiều loại tre, nứa, song, mây và nhiều
loại thảo dược quý như sa nhân, sâm, trầm hương, hà thủ ô và nhiều loại rau quả như
nấm, măng. Ở đây còn là nơi sinh sống của hàng trăm loài chim thú như lợn rừng, khỉ,
sơn dương, gà lôi, công, trĩ, mật ong… Và những đồng cỏ là môi trường lý tưởng cho
chăn nuôi đại gia súc. Chính đã tạo điều kiện cho địa phương phát triển mạnh về nông
lâm nghiệp đặc biệt là khai thác rừng và trồng rừng. Với 15.800 ha đất vùng gò đồi,
Tuyên Hoá có tiềm năng lớn để phát triển cây công nghiệp dài ngày như cây tiêu, vải
thiều, bưởi và chăn nuôi đại gia súc khai thác và trồng rừng.
Nhờ mạng lưới sông suối thuận lợi, đặc biệt là dòng sông Gianh kéo dài từ đầu
đến cuối huyện và cùng với rất nhiều con sông và các suối đá khác, đã cung cấp cho
18


vùng một lượng nước sinh hoạt và tưới tiêu với chất lượng cao, đồng thời tạo lợi thế
cho vùng có thể phát triển thuỷ điện, thuỷ lợi. Trong đó, Thuỷ điện Hố Hô tại thôn Tân
Đức, xã Hương Hoá đã khởi công xây dựng với tổng công suất 13MW. Nhánh Rào
Trổ có khả năng phát triển thuỷ điện với tổng công suất 25 MW. Ngoài ra còn tạo điều
kiện cho phát triển nghề nuôi cá lồng bè, đồng thời đảm bảo khả năng cung cấp nước
ngọt cho toàn huyện và có khả năng mở rộng tiêu thụ sang các huyện khác.
Không chỉ có vậy, Tuyên Hóa còn có thế mạnh với hàng tỷ m3 đá vôi. Đây là
nguồn cung cấp chính cho nhà máy xi măng sông Gianh đang được xây dựng tại Tiến
Hoá, có công suất 1,4 triệu tấn/năm. Ngoài ra, trữ lượng các loại cát sỏi tại các sông
suốt khá lớn, đủ cung cấp cho xây dựng cơ bản trong huyện và huyện bạn Minh Hoá.
Mỏ vàng trữ lượng lớn, kéo dài từ Kim Hoá đến Ngư Hoá, mỏ Măng gan khu vực Kim
Hoá, thị trấn Đồng Lê, Đồng Hoá, Thuận Hoá có trữ lượng khá chưa được khai thác.
Tạo lợi thế cho vùng đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ thương mại. Tạo
nhiều việc làm cho người lao động và góp phần tăng thu nhập, nâng cao đời sống của
người dân.

Với các lợi thế, tiềm năng sẵn có như vậy nếu được quan tâm, đầu tư và sử
dụng hợp lý thì hiệu quả đem lại sẽ rất lớn. Vì vậy, chính quyền địa phương cần dựa
vào đặc điểm riêng của mỗi vùng để phát huy các lợi thế sẵn có, và có phương án,
chính sách khắc phục những khó khăn, trở ngại để có thể phát triển hài hòa giữa các
vùng miền và giữa các ngành, các thành phần kinh tế. Vấn đề đầu tiên chính là giải
quyết vấn đề về vốn, cần có sự phân bổ và sử dụng hợp lý, cho nên cần có sự hợp tác
chặt chẽ giữa người cấp vốn và người sử dụng vốn. Để hiệu quả đem lại của đồng vốn
ngày càng tốt hơn, nhằm góp phần tích cực trong công tác phát triển KTXH của tùng vùng
cũng như của toàn địa phương.
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Kết cấu hạ tầng
Đến nay, toàn huyện đã phủ lưới điện quốc gia, với trên 80% số hộ có điện lưới.
Hệ thống cung cấp nước do nhà máy nước Đồng Lê đảm trách. Mạng lưới giao thông
gồm đường sông, đường sắt, đường bộ. Trong đó, giao thông đường thuỷ, đoạn từ Văn
Hoá đến Minh Cầm có thể hoạt động đối với tàu thuyền có trọng tải 50-100 tấn, đoạn
từ Minh Cầm đến Thuận Hoá có thể hoạt động đối với tàu thuyền có tải trọng 20-30
tấn ; hệ thống đường sắt Bắc Nam chạy suốt chiều dài huyện Tuyên Hoá với 62 km,
qua 9 ga; hệ thống giao thông đường bộ với quốc lộ 12A chạy qua Tuyên Hoá dài 42
km, nối liền huyện Quảng Trạch, Minh Hoá và nước bạn Lào qua cửa khẩu Cha Lo.
19


Quốc lộ 15 nay là đường Hồ Chí Minh chạy qua phía Tây Bắc huyện, qua 3 xã Hương
Hoá, Thanh Hoá và Lâm Hoá dài gần 30 km, đường xuyên Á qua thị trấn Đồng Lê,
Thuận Hoá, 6 tuyến đường huyện dài 48 km và 5 tuyến đường liên xã dài 18 km.
14/20 xã, thị trấn có hệ thống điện thoại cố định, trên 1.100 hộ sử dụng điện thoại;
sóng di động đã phủ đến thị trấn Đồng Lê và các xã lân cận từ năm 2003.
2.1.2.2. Tình hình xã hội
Nguồn nhân lực và chất lượng lao động đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển
của toàn bộ xã hội nói chung cũng như của nền kinh tế nói riêng.

Theo thống kê của phòng thống kê huyện, Tuyên Hoá nguồn nhân lực khá dồi
dào và không ngừng tăng lên qua các năm. Năm 2003 có lực lượng lao động trong độ
tuổi là 37.600 người, trong đó có 35.700 người làm việc trong các ngành nghề kinh tế.
Đến năm 2008, với tổng số 81.739 khẩu trong 18.407 hộ dân, với tổng số 43.474
lao động trong đó có 38.704 người làm việc trong các ngành kinh tế, gồm:
- Nông lâm nghiệp: 31.970 người, chiếm 82,6%.
- NNDV: 4.845 người, chiếm 12,5%.
- Ngành khác: 1.889 người, chiếm 4,9%
Với lực lượng lao động như vậy đã cung cấp cho huyện một lợi thế lớn về
nguồn nhân lực. Song vấn đề đặt ra là trình độ và chất lương lao động ở đây còn khá
thấp so với yêu cầu phát triển trong thời đại hiện nay. Lao động chủ yếu còn dựa vào
kinh nghiệm, thủ công chưa qua đào tạo, trình độ chuyên môn còn kém; tỷ lệ lao động
không có việc làm còn khá cao, chiếm khoảng 12% trong tổng số lao động (năm
2008). Vì vậy, chính quyền cần có các chính sách và hỗ trợ hợp lý để nâng cao hơn
nữa chất lượng lao động và có chính sách tạo việc làm, đầu tư phát triển các ngành
nghề phụ để giải quyết lượng lao động dư thừa. Theo báo cáo tình hình kinh tế xã hội
của UBND huyện năm 2009, trong năm qua nhờ sự quan tâm chỉ đạo của các cấp
Đảng ủy và chính quyền các cấp đã tạo việc làm cho 2.730 lao động; xuất khẩu lao
đông 20 người; đăng ký học nghề miễn phí cho 30 lao động; Công tác hướng nghiệp
dạy nghề đã được quan tâm, trung tâm dạy nghề của huyện đã đi vào hoạt động, đã mở
4 lớp đào tạo nghề miễn phí về kỹ thuật chăn nuôi, thú y và tin học văn phòng cho 140
học viên.
2.1.2.3. Tình hình phát triển kinh tế
Là một huyện miền núi có điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi cho nên điều
kiện kinh tế đang còn khó khăn, ngành nghề chính là trồng trọt và chăn nuôi, thu nhập
của người dân còn thấp 6,67 triệu đồng/người/năm, hộ nghèo còn chiếm tỷ lệ tương
20


đối cao 23,92% năm 2009. Tốc độ tăng trưởng kinh tế không ngừng tăng qua các năm,

đó là vào năm 2007 tốc độ tăng trưởng kinh tế huyện là 3,66% đến năm 2008 tăng đạt
mức 15,2%, vượt so với mức kế hoạch đề ra là 3,2%. Năm 2009, tốc độ tăng trưởng
kinh tế đạt 12%, giữ mức kế hoạch đề ra.
Theo số liệu báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội năm 2009
của UBND huyện trong vài năm trở lại đây thì về phát triển các thành phần kinh tế đã
đạt được các kết quả khả quan: Kinh tế trang trại và kinh tế hộ đang được duy trì và
phát triển, các hộ dân đã mạnh dạn đầu tư phát triển mô hình kinh tế vườn hộ thành
trang trại, góp phần tăng thu nhập, giải quyết việc làm cho người lao động. Đến năm
2009 toàn huyện đã có 17 trang trại đạt tiêu chí được cấp chứng chỉ, gồm 10 trang trại
chăn nuôi và 7 trang trại lâm nghiệp. Các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm
hữu hạn đã phát huy lợi thế của địa phương đầu tư mở rộng sản xuất, đến năm 2009
toàn huyện có 47 doanh nghiệp tư nhân, với trên 50% doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả cao, giải quyết việc làm cho hơn 1.000 lao động. Trong đó có doanh nghiệp sản
xuất công nghiệp là 18 doanh nghiệp, chiếm 38,3%; thương mại có 12 doanh nghiệp,
chiếm 25,5% và doanh nghiệp xây dựng là 17, chiếm 36,2%. Còn về kinh tế tập thể,
đến năm 2009 toàn huyện có 1 HTX vận tải và 7 HTX tiểu thủ công nghiệp, thu hút
được trên 150 lao động.
Về công tác tín dụng: các ngân hàng (ngân hàng Chính sách và ngân hàng nông
nghiệp) đã tập trung huy động vốn, mở rộng cho vay; thực hiện các chủ trương của
Chính phủ về kích cầu đầu tư; cho vay hỗ trợ sản xuất theo đúng quy định, thực hiện
có hiệu quả chương trình cho vay và đảm bảo an toàn vốn. Tổng nguồn vốn huy động
là 280,5 tỷ đồng trong đó vốn huy động của NH nông nghiệp là 102,787 tỷ đồng,
chiếm 36,6% trong tổng vốn huy động. Doanh số cho vay 138,5 tỷ đồng và tổng dư nợ
là 317,8 tỷ đồng.
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NN&PTNT HUYỆN TUYÊN HÓA
2.2.1. Tình hình cơ bản của ngân hàng NN&PTNT huyện Tuyên Hoá
Ngân hàng NN&PTNT huyện Tuyên Hoá là chi nhánh cấp III thuộc ngân hàng
NN&PTNT tỉnh Quảng Bình. Với vai trò là một ngân hàng thương mại nên mọi hoạt
động của chi nhánh cũng giống với hoạt động của các ngân hàng thương mại khác

khác. Chi nhánh đã thực hiện các chức năng như huy động vốn và cho vay đến mọi đối
tượng trong nền kinh tế; chức năng thanh toán, chuyển tiền và các dịch vụ khác có liên
quan đến việc kinh doanh tiền tệ theo quy định của Nhà nước, pháp luật và ngân hàng
21


nông nghiệp cấp trên. Chịu sự quản lý của ngân hàng cấp trên và các cấp uỷ Đảng, chính
quyền địa phương trong quá trình hoạt động và phát triển.
Trụ sở chính của chi nhánh được đặt ở trung tâm thị trấn huyện, đây là một lợi
thế lớn của chi nhánh, tạo điều kiện để chi nhánh phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt
động.
2.2.1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của chi nhánh
Đến nay chi nhánh đã có 3 phòng ban, nghiệp vụ với hơn 25 cán bộ công nhân
viên, bao gồm: 1 phòng kế hoạch – kinh doanh, 1 phòng kế toán – ngân quỹ và 1
phòng giao dịch và trong mỗi phòng đều có 1 trưởng phòng và có các nhân viên thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ riêng dưới sự chỉ đạo, điều hành và quản lý của Giám
đốc điều hành chi nhánh theo quan hệ trực tuyến (Là việc quản lý, điều hành trực tiếp
của Giám đốc chi nhánh đối với Phó giám đốc và các phòng ban cấp dưới; Giám đốc
là người chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết quả công việc của những người cấp dưới
của mình). Còn giữa các phòng đều có quan hệ với nhau theo kiểu chức năng (Là việc
các cán bộ phụ trách các phòng ban có quyền ra mệnh lênh và các vấn đề có liên quan
đến chuyên môn của họ cho các bộ phận khác).
Sơ đồ 1: Sơ đồ bộ máy quản lý của chi nhánh NH No&PTNT huyện Tuyên Hoá
Giám đốc

P.Giám đốc
Phòng KH – KD

Phòng Giao dịch


Phòng KT-NQ

Quan hệ trực tuyến
Quan hệ chức năng
2.2.1.2. Chức năng nhiệm vụ của người quản lý và các phòng ban:
- Giám đốc chi nhánh chịu trách nhiệm quản lý, điều hành toàn bộ hoạt động
của chi nhánh, chịu trách nhiệm trước ban lãnh đạo cấp trên và các cấp chính quyền về
các vấn đề có liên quan đến chi nhánh. Đề ra các mục tiêu, đường lối chính sách, chiến
lược,…của toàn đơn vị.

22


- Phó giám đốc kinh doanh là người giúp việc cho giám đốc, chịu trách nhiệm
trước giám đốc về pháp luật và nhiệm vụ được giao. Tham mưu cho Giám đốc về các
vấn đề có liên quan đến hoạt động kinh doanh TD của chi nhánh.
- Phòng kế hoạch – kinh doanh (KH – KD) là phòng tập trung những hoạt động
chính của NH như xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiệnkế hoạch kinh doanh của
chi nhánh. Tổ chức thực hiện các công tác về TD của chi nhánh như:
+ Nhận đơn và thẩm định, kiểm tra, xét duyệt cho vay.
+ Hướng dẫn khách hàng làm thủ tục vay vốn.
+ Đôn đốc, thu hồi vốn và lãi cho vay.
+ Tổng hợp các báo cáo về công tác TD, cho vay, thu nợ theo đúng nguyên tắc
và quy định hiện hành.
-Phòng kế toán – ngân quỹ (KT-NQ) là phòng thực hiện các công việc có liên
quan đến công tác huy động vốn, tiền gửi, thanh toán ngân phiếu, chuyển tiền, thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giải ngân và lưu trữ hồ sơ vay vốn của khách hàng. Đảm nhận
vai trò thu chi tiền mặt phục vụ cho hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
- Phòng Giao dịch chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các nhiệm vụ thu chi, huy
động vốn, cho vay TD, thanh toán nội tệ, ngoại tệ,…Lập báo cáo hoạt động tại các địa

bàn hoạt động.
2.2.2. Đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng hộ sản xuất tại ngân hàng
NN&PTNT huyện Tuyên Hóa giai đoạn 2007 – 2009
Mặc dầu phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình hình
thành và phát triển do đối tượng phục vụ chủ yếu của ngân hàng là khu vực nông lâm
nghiệp, nông thôn sản xuất đều mang tính nhỏ lẻ, manh mún. Song bằng việc mở rộng
mạng lưới hoạt động trong toàn huyện, tại các xã đều mở các điểm giao dịch riêng với
một cán bộ tín dụng phụ trách địa bàn, chi nhánh đã phối hợp cùng các cán bộ địa bàn
lập nên các tổ vay vốn nhằm phục vụ tốt công tác tín dụng, đưa nguồn vốn đến tận tay
người dân đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc quản lý việc sử
dụng nguồn vốn của người dân.
2.2.2.1. Công tác huy động vốn
Cũng như các NHTM khác ngân hàng nông nghiệp huyện Tuyên Hóa đều thực
hiện kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch
vụ khác. Trong đó, huy động vốn chính là hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng,
23


vốn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của NH và nó ảnh hưởng tới quy mô cũng
như chất lượng của các hoạt khác => ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân
hàng. Vì vậy, trong những năm qua để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và để đảm bảo
cho hoạt động của NH được hiệu quả, bằng nhiều hình thức huy động vốn: đẩy mạnh
việc huy động tiền tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, phát hành kỳ phiếu, trái
phiếu...Chất lượng dịch vụ không ngừng nâng cao với các chương trình huy động và
mức lãi suất huy động linh hoạt, chi nhánh đã thu hút được một lượng lớn khách hàng
tới gửi tiền, đảm bảo được nguồn vốn cho hoạt động của NH. Trong những năm qua
chi nhánh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nguồn vốn huy động không ngừng
tăng lên qua các năm.
Qua bảng 1 cho thấy nguồn vốn huy động được của chi nhánh có sự chênh lệch
khá lớn giữa các năm và giữa các loại nguồn vốn. Với tổng nguồn vốn huy động năm

2007 là 58.764 triệu đồng, đến năm 2008 tăng 36.533 triệu đồng tương ứng tăng
62,17% so với năm 2007. Đến năm 2009 tổng nguồn vốn huy động đạt được là
102.787 triệu đồng, tăng 7,68% so với năm 2008. Có sự tăng lên như vậy là nhờ sự
tăng lên phần lớn của các khoản tiền gửi tiết kiệm của dân cư và tiền gửi tiết kiệm của
các tổ chức kinh tế, đặc biệt là lượng TGTK có kỳ hạn của dân cư (nguồn TGTK có kỳ
hạn chiếm phần lớn trong tổng TGTK của dân cư và không ngừng tăng lên qua các
năm là do sự chênh lệch lãi suất giữa 2 hình thức này, đối với TGTK không kỳ hạn có
mức lãi suất thấp còn TGTK có kỳ hạn có mức lãi suất tiền gửi cao hơn nhiều). Điều
đó cho thấy tính ổn định của nguồn vốn tăng, hiệu quả hoạt động huy động vốn của chi
nhánh trong thời gian qua là tương đối tốt, chi nhánh đã tranh thủ được nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân cư, tăng nguồn vốn huy động có kỳ hạn dài hơn để cho vay trung và
dài hạn. Như vậy dân chúng đã biết đến ngân hàng như là nơi đảm bảo an toàn và sinh
lợi cho các khoản tiết kiệm của họ, chi nhánh đã tạo được niềm tin khá lớn ở người
dân, đây chính là một lợi thế của chi nhánh trong vấn đề tạo nguồn vốn cho hoạt động
của mình.

24


Bảng 1: Tình hình huy động vốn tại NH NN&PTNT huyện Tuyên Hóa giai đoạn 2007 – 2009
ĐVT: Trđ
Chỉ tiêu

2007
Giá trị

2008

2009


Chênh lệch 07/08

Chênh lệch 08/09

%

Giá trị

%

Giá trị

%

+/-

%

+/-

%

Tổng nguồn vốn huy động

58.764

100

95.297


100

102.787

100

36.533

62,17

7.490

7,86

1. TGTK của dân cư

46.025

78,32

67.071

70,38

76.972

74,88

21.046


45,73

9.901

14,76

TGTK không kỳ hạn

874

1,9

410

0,61

156

0,2

(464)

(53,09)

(254)

(61,95)

TGTK có kỳ hạn


45.151

98,1

66.661

99,39

76.816

99,8

21.510

47.64

10.155

15,23

2. TGTK của các TCKT

5.140

8,75

14.151

14,85


16.578

16,13

9.011

175,31

2.427

17,15

3. Các loại nguồn vốn khác

7.599

12,93

14.075

14,77

9.237

8,99

6.476

85,22


(4.838)

(34,37)

(Nguồn: Phòng Kế hoạch – Kinh doanh)

25


×