Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất mận tam hoa nằm trong đề án đưa cây mận tam hoa vào thay thế cây thuốc phiện ở xã vùng cao mường lống – huyện kỳ sơn – tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (872.57 KB, 80 trang )

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Các chất ma túy nói chung và thuốc phiện nói riêng đang là nguyên nhân gây ra
các tệ nạn cho nhân loại nói chung và người Việt Nam nói riêng. Ma túy là một trong
những nguyên nhân chủ yếu gây ra bệnh tật, đói nghèo, hủy hoại giống nòi, nguồn lao
động và rất nhiều các tệ nạn khách đi theo nó.
Đảng và Nhà nước ta xác định tệ nạn ma túy là tệ nạn cực kỳ nguy hại, trái với
đạo đức truyền thống của dân tộc, ảnh hưởng rất xấu đến phát triển kinh tế, gây hại
lớn cho sức khoẻ của một bộ phận nhân dân, ảnh hưởng xấu tới nòi giống dân tộc, để
lại hậu quả nghiêm trọng cho các thế hệ mai sau. Đây là mối quan tâm, lo lắng của
toàn xã hội.
Huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An do hợp đất, hợp khí hậu, cây thuốc phiện rất dễ
trồng, lên tốt và có thu nhập cao hơn so với các loại cây khác nên thu hút người dân ở
các xã vùng biên tham gia trồng. Trong tổng số 16 xã của huyện có trồng cây thuốc
phiện thì xã Mường Lống là xã trồng nhiều nhất, được mệnh danh là “thủ phủ thuốc
phiện” của tỉnh Nghệ An.
Để thực hiện Nghị Quyết số 6 – CP của Chính Phủ về “Tăng cường chỉ đạo
công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy”, năm 1996, tỉnh Nghệ An đã ban hành
chủ trương “xóa bỏ và chống tái trồng cây thuốc phiện trên toàn tỉnh”. Hưởng ứng
và triển khai chủ trương của tỉnh, huyện Kỳ Sơn đã phát động cuộc vận động loại bỏ
cây thuốc phiện ra khỏi đời sống cộng đồng, đặc biệt là điểm nóng ở xã Mường
Lống. Song song với biện pháp tuyên truyền, một số nghiên cứu khoa học để đưa ra
giải pháp xóa bỏ cây thuốc phiện một cách bền vững đã được tiến hành. Các nghiên
cứu đưa ra một kết luận là phải đưa một cây trồng phù hợp nhất với điều kiện tự
nhiên của xã Mường Lống. Đoàn công tác phòng chống ma túy và xóa bỏ cây thuốc
phiện của tỉnh Nghệ An được cử đi tìm hiểu các mô hình kinh tế của huyện Sapa tỉnh
Lào Cai. Và thấy cấy mận tam hoa là phù hợp nhất với xã Mường Lống. Khi đó đề
án “Đưa cây mận tam hoa vào thay thế cây thuốc phiện ở xã vùng cao Mường Lống”
được xây dựng và triển khai từ năm 1996. Đến năm 1999, những cây mận tam hoa
bắt đầu cho thu hoạch.


-1-


Để không tái trồng cây thuốc phiện thì cây mận tam hoa phải có hiệu quả kinh
tế cao nhất. Chưa có đề tài nào nghiên cứu, đánh giá hiệu quả kinh tế trong sản xuất
cây mận tam hoa của xã vùng cao Mường Lống. Một số câu hỏi đặt ra là: liệu rằng
cây mận tam hoa có mang lại hiệu quả kinh tế cao hay không? Nó đóng vai trò như
thế nào trong nguồn thu nhập của bà con dân tộc ở xã Mường Lống? Trong vòng 10
năm cho thu hoạch thì cây mận tam hoa có những thuận lợi gì và đang gặp phải
những khó khăn nào?
Để có căn cứ khoa học cho việc trả lời những câu hỏi trên, tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài “Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất mận tam hoa nằm trong đề án đưa
cây mận tam hoa vào thay thế cây thuốc phiện ở xã vùng cao Mường Lống – huyện
Kỳ Sơn – tỉnh Nghệ An”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu và đánh giá hiệu quả kinh tế trong sản xuất nậm tam hoa ở xã vùng
cao Mường Lống trong thời gian qua. Từ đó đề tài đưa ra một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất cây mận tam hoa trong thời gian tới và
đưa cây mận tam hoa thực sự là cây trồng phù hợp nhất thay thế cây thuốc phiện mà
các cây trồng khác không có được.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hoàn thiện lý luận và phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế nói
chung và sản xuất mận tam hoa nói riêng..
- Tìm hiểu thực trạng sản xuất và hiệu quả kinh tế sản xuất cây mận tam hoa từ
khi triển khai dự án đưa cây mận tam hoa vào thay thế cây thuốc phiện cho đồng bào
dân tộc H’Mông ở xã vùng cao Mường Lống.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về hiệu quả kinh tế sản xuất đề xuất định
hướng và một số giải pháp chủ yếu có căn cứ khoa học và thực tiễn nhằm phát triển
sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế cho cây mận tam hoa.


-2-


1.3. Phương pháp nghiên cứu
1.3.1. Phương pháp chọn điểm và phương pháp chọn đối tượng nghiên cứu
1.3.1.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, địa bàn nghiên cứu phải đại diện cho vùng
nghiên cứu trên phương diện điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và các đặc điểm đặc
trưng về tình hình nông thôn và nông dân của xã. Căn cứ vào đặc điểm của xã, dựa vào
đặc điểm năng suất, quy mô sản xuất mận tam hoa, xã Mường Lống chia thành các
nhóm hộ: nhóm hộ có qui mô trồng mận tam hoa nhiều, nhóm hộ có qui mô trung
bình, nhóm hộ có qui mô ít. Trong nghiên cứu chúng tôi chọn các hộ ở bản Mường
Lống I đại diện cho 3 nhóm hộ trồng mận trên.
1.3.1.2. Phương pháp chọn đối tượng nghiên cứu
Đề tài chỉ chọn nghiên cứu những hộ nông dân trồng mận tam hoa trong xã
Mường Lống. Về cơ bản, đề tài chọn đối tượng nghiên cứu dựa trên tiêu chí qui mô
sản xuất mận tam hoa (qui mô lớn, trung bình và nhỏ) việc phân chia qui mô này dựa
trên sự so sánh tổng thể chung của các hộ nông dân trồng mận tam hoa trong xã.
1.3.2. Thu thập số liệu thứ cấp
Thu thập số liệu thứ cấp thông qua phòng thống kê, phòng nông nghiệp và một số
phòng ban khác có liên quan của huyện Kỳ Sơn, của xã Mường Lống (từ năm 2007 đến
năm 2009).
1.3.3. Thu thập số liệu sơ cấp
Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua việc thiết kế phiếu điều tra phỏng vấn và
tiến hành phỏng vấn trực tiếp 45 hộ được lựa chọn ngẫu nhiên.
1.3.4. Phương pháp xử lý thông tin, phân tích số liệu
1.3.4.1. Phương pháp thống kê mô tả
Thống kê số liệu qua các thời kỳ để thấy được sự biến động về tình hình sản
xuất mận tam hoa của các hộ nông dân ở xã Mường Lống.

1.3.4.2. Phương pháp thống kê so sánh
Dùng để so sánh giữa những hộ có điều kiện kinh tế khác nhau, những hộ có
quy mô khác nhau để làm sáng tỏ tình hình sản xuất và tiêu thụ ở các nhóm hộ khác

-3-


nhau có khác nhau hay không, nếu không khác nhau thì nguyên nhân tại sao, nếu khác
nhau thì do những lý do gì? để từ đó đưa ra được những định hướng và giải pháp cho
phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất mận tam hoa cho các hộ nông
dân trong xã.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các hộ nông dân sản xuất mận tam hoa ở xã vùng cao Mường Lống – huyện Kỳ
Sơn – tỉnh Nghệ An.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi về nội dung: đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất mận tam hoa nằm
trong đề án đưa cây mận tam hoa vào thay thế cây thuốc phiện ở xã vùng cao Mường
Lống – huyện Kỳ Sơn – tỉnh Nghệ An.
* Phạm vi về thời gian: thời gian thực hiện đề tài từ ngày 5/02/2010 đến ngày
15/05/2010, cụ thể là nghiên cứu thực trạng sản xuất, hiệu quả kinh tế sản xuất mận
tam hoa:
+ Từ khi được thu hoạch đến năm 2006, dựa trên số liệu thứ cấp của các cơ
quan, ban ngành huyện Kỳ Sơn và UBND xã Mường Lống.
+ Trong 3 năm (2007 – 2009), dựa trên số liệu thứ cấp và số liệu sơ cấp thông
qua điều tra thực tế, phỏng vấn các hộ trồng mận tam hoa ở xã Mường Lống.
* Phạm vi về không gian: nghiên cứu tình hình sản xuất mận tam hoa trên địa
bàn xã vùng cao Mường Lống – huyện Kỳ Sơn – tỉnh Nghệ An.

-4-



PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số lý luận cơ bản về sản xuất sản phẩm
* Khái niệm: Sản xuất là quá trình con người sử dụng lao động tác động vào tự
nhiên khai thác hoặc cải tiến các dạng vật chất của tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu
của mình để tạo ra sản phẩm.
* Vai trò của sản xuất: Đời sống của xã hội rất phong phú có nhiều hoạt động
khác nhau như: hoạt động sản xuất, hoạt động chính trị, khoa học, văn hóa, nghệ thuật…
Trong các hoạt động đó thì hoạt động sản xuất chiếm một vị trí quan trọng tạo ra của cải
vật chất đáp ứng yêu cầu của mỗi con người trong xã hội để từ đó con người tiến hành
các hoạt động khác, nếu không có sản xuất thì con người không thể thực hiện được các
hoạt động khác. Vậy sản xuất là toàn bộ cơ sở của đời sống xã hội, là cơ sở tồn tại và
phát triển của loài người, sản xuất là yêu cầu khách quan của sự tồn tại xã hội.
Quá trình sản xuất là cơ sở của đời sống xã hội đồng thời là quá trình phát triển
và hoàn thiện bản thân con người. Để sản xuất có kết quả, con người không ngừng
thâm nhập vào tự nhiên, khám phá phát hiện các quy luật của tự nhiên. Lịch sử của xã
hội loài người, nền văn minh nhân loại gắn liền và dựa trên sự phát triển, hoàn thiện
nền sản xuất.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất:
Trong sản xuất để tạo ra sản phẩm chịu tác động của nhiều yếu tố, đặc biệt
trong sản xuất nông nghiệp chịu tác động của những yếu tố chủ yếu sau:
+ Các yếu tố tự nhiên: đây là điều kiện thời tiết, khí hậu, giao thông, thủy lợi…
Các yếu tố này ảnh hưởng trong suốt quá trình từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.
+ Giá cả và các yếu tố đầu vào: giá cả đầu vào ảnh hưởng đến sản xuất và khả
năng cung ứng sản phẩm ra thị trường. Nếu giá cả đầu vào tăng làm cho giá thành trên
một đơn vị sản phẩm cao lên, do vậy sản xuất sẽ giảm làm cho khả năng cung ứng sản

phẩm ra thị trường giảm xuống.

-5-


+ Công nghệ sản xuất: là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao năng suất
giảm chi phí lao động trong quá trình sản xuất, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, mẫu
mã đẹp, cải tạo công nghệ làm cho cung tăng lên như: thay thế dây chuyền sản xuất, áp
dụng phương pháp mới đầu tư thâm canh sản xuất, đưa các giống mới có năng suất cao
vào sản xuất trong nông nghiệp…
+ Chính sách thuế: chính sách thuế của Chính phủ có ảnh hưởng đến quyết định
sản xuất do đó ảnh hưởng đến cung sản phẩm, mức thuế cao sẽ làm giảm cung ra thị
trường và ngược lại.
+ Các yếu tố đầu ra của sản xuất như năng suất, sản lượng, giá bán và hiệu quả
sản xuất ảnh hướng lớn đến quá trình sản xuất cả về mặt lượng đến mặt chất của sản
xuất. Khi năng suất và giá bán cao thì kích thích được sản xuất phát triển, hiệu quả sản
xuất ngày càng cao hơn.
+ Số lượng người sản xuất: số lượng người tham gia vào sản xuất cung ứng sản
phẩm nhiều thì khối lượng sản phẩm cung ứng ra thị trường lớn và ngược lại nếu số
lượng người tham gia vào sản xuất ít thì khối lượng sản phẩm tạo ra ít từ đó khối
lượng sản phẩm cung ứng ra thị trường sẽ ít. Chính những điều này sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến giá cả sản phẩm, tác động đến người sản xuất và khả năng cung ứng sản phẩm
của những năm tiếp theo.
+ Kỳ vọng về giá cả hàng hóa của người sản xuất: người sản xuất mong vào
thời gian tới giá sẽ thay đổi tăng lên từ đó kích thích sản xuất và khả năng cung ứng ra
thị trường sẽ tăng.
+ Dự đoán của người sản xuất về giá cả của các yếu tố đầu vào, đầu ra, nếu
thuận lợi thì việc sản xuất và cung ứng ra thị trường sẽ thuận lợi.
1.1.2. Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Sản xuất kinh doanh là một hoạt động mà trong đó mục tiêu chính của nó là làm

sao cho đáp ứng tốt về nhu cầu sản phẩm, chất lượng cũng như dịch vụ đối với xã hội
và người tiêu dùng, mặt khác nó còn nhằm mang lại lợi ích cho nhà sản xuất – kinh
doanh. Bởi vì nếu người tiêu dùng quan tâm đến chất lượng, giá cả của sản phẩm và
dịch vụ thì các nhà sản xuất – kinh doanh lại quan tâm chủ yếu đến lợi nhuận của họ.
Như vậy lẽ dĩ nhiên giữa họ sẽ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Người sản xuất –

-6-


kinh doanh muốn có lợi thì tất yếu là phải tiêu thụ được sản phẩm và như vậy cũng có
nghĩa là họ cũng phải đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng về mặt chất lượng
cũng như giá cả sản phẩm. Vì vậy, lợi ích kinh tế hay nói theo thuật ngữ chuyên môn:
Hiệu quả kinh tế (HQKT) là điều mà xã hội, chúng ta cần quan tâm.
HQKT là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh tế.
Nâng cao chất lượng hoạt động kinh tế có nghĩa là tăng cường trình độ lợi dụng các
nguồn lực sẵn có trong hoạt động kinh tế. Đây chính là một đòi hỏi khách quan của
mọi nền sản xuất xã hội do nhu cầu vật chất cuộc sống của con người ngày một tăng.
Nói một cách khác thì do yêu cầu của công tác quản lý kinh tế cần thiết phải đánh giá
nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động kinh tế, và từ đó đã làm xuất hiện phạm
trù HQKT.
Vào những năm 1878, Sapodonicop cùng nhiều nhà kinh tế, nhà khoa học khác
đã tổ chức tranh luận nhiều về vấn đề HQKT. Những phải hơn 30 năm, tức năm 1910
mới bắt đầu có văn bản pháp quy đánh giá HQKT đang được quan tâm nghiên cứu,
phát huy và là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, chính trị học trong nền kinh tế
thị trường. Nhưng để mà nói rõ hơn về vấn đề hiệu quả kinh tế này thì các nhà kinh tế
ở nhiều nước và nhiều lĩnh vực có những quan điểm, cách nhìn khác nhau. Tuy nhiên
ở đây có thể tóm tắt thành ba hệ thống quan điểm như sau:
* Hệ thống quan điểm thứ nhất cho rằng: HQKT được xác định bởi tỷ số giữa
kết quả đạt được và các chi phí bỏ ra (như là: các nguồn nhân lực, vật lực, tiền vốn …)
để đạt được kết quả đó. Theo quan điểm này thì:


Q
Hay: H =

C
Trong đó: H: là hiệu quả kinh tế
Q: là kết quả thu được
C: là chi phí bỏ ra
* Hệ thống quan điểm thứ hai cho rằng: HQKT được đo bằng hiệu số giữa giá
trị sản xuất đạt được và lượng chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.

-7-


Theo quan điểm này thì:
Hiệu quả kinh tế = Kết quả thu được – Chi phí bỏ ra
Hay H = Q – C
* Hệ thống quan điểm thứ ba cho rằng: khác với hai quan điểm trên, quan
điểm này trước tiên là phải xem xét HQKT trong thành phần biến động giữa chi phí và
kết quả sản xuất. Nhưng bên cạnh đó HQKT còn được biểu hiện ở quan hệ tỷ lệ giữa
phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí, hay còn là quan hệ tỷ lệ
giữa kết quả bổ sung và chi phí bổ sung.
Để hiểu rõ hơn về quan điểm này thì ta có:
Phần tăng thêm của kết quả thu được
Hiệu quả kinh tế =
Phần tăng thêm của chi phí bỏ ra
Hoặc: Hiệu quả kinh tế = Phần tăng thêm của kết quả thu được – Phần tăng thêm
của chi phí bỏ ra.
Hay được viết theo công thức:
HQKT = ΔQ - ΔC

Mà: ΔQ = Q1 – Q0
ΔC = C1 – C0
Trong đó: Q1, Q0 là lượng kết quả ở hai kỳ
C1, C0 là lượng chi phí ở hai kỳ
1.1.3. Nội dung và bản chất của hiệu quả kinh tế
Quá trình phát triển của một nền kinh tế thường gắn liền với quá trình của khoa
học kỹ thuật và việc áp dụng chúng vào sản xuất. Bản thân những tiến bộ đó đã chứa
đựng những tính ưu việt, nhưng nó chỉ phát huy được hiệu quả cao khi áp dụng chúng
trong những điều kiện sản xuất thích hợp. Vậy để vận dụng một cách thông minh các
thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất và phấn đấu để đạt HQKT cao trong
ứng dụng tiến bộ kỹ thuật như là một tất yếu. Mà điều đó có ý nghĩa quan trọng và bức
thiết đối với bền sản xuất của nước ta.

-8-


Với một lượng dự trữ tài nguyên nhất định muốn tạo ra được khối lượng sản
phẩm lớn nhất thì chính là mục tiêu hàng đầu của các nhà sản xuất và quản lý. Hay nói
một cách khác là ở một mức sản xuất nhất định cần phải làm thế nào để có được chi
phí tài nguyên và lao động thấp nhất. Như vậy điều đó chứng tỏ cho ta thấy rằng quá
trình sản xuất là một sự liên hệ mật thiết giữa các yếu tố đầu vào (input) và đầu ra
(output), nó cũng chính là sự biểu hiện kết quả của các mới quan hệ thể hiện tính hiệu
quả của sản xuất.
Mà ta biết HQKT được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt
được và lượng chi phí bỏ ra. Cho nên khi mà xác định HQKT thì nhiều nhà kinh tế ít
nhấn mạnh quan hệ so sánh tương đối (phép chia) mà chỉ quan tâm đến quan hệ tuyệt
đối (phép trừ). Ngoài ra nó còn được biểu hiện bằng giá trị tổng sản phẩm, tổng thu
nhập cũng như lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
Tuy nhiên muốn hiểu rõ hơn về nội dung HQKT, thì ta cũng phải cần phân biệt
rõ HQKT với hiệu quả xã hội. Nếu như HQKT là mối tương quan so sánh giữa lượng

kết quả kinh tế đạt được và lượng chi phí bỏ ra thì hiệu quả xã hội là mối tương quan
so sánh giữa kết quả xã hội và tổng chi phí bỏ ra của xã hội. Cho nên HQKT và hiệu
quả xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng là tiền đề của nhau và là phạm trù
thống nhất.
Bản chất của HQKT, là nó xuất phát từ mục đích của sản xuất và phát triển kinh
tế xã hội nhằm đáp ứng ngày càng cao nhu cầu về vật chất và tinh thần của mọi thành
viên trong xã hội. Và để làm rõ hơn bản chất của hiệu quả kinh tế, thì cần phải phân
định sự khác nhau và mối liên hệ giữa “kết quả” và “hiệu quả”.
Kết quả ở đây được hiểu theo là một kết quả hữu ích mà nó do mục đích của
con người tạo nên, được biểu hiện bằng nhiều chỉ tiêu, nhiều nội dung, tùy thuộc vào
những trường hợp cụ thể xác định. Do tính mâu thuẫn giữa khả năng hữu hạn về tài
nguyên với nhu cầu tăng lên của con người mà người ta xem xét kết quả đó được tạo
ra như thế nào và chi phí bỏ ra là bao nhiêu, xem có mang lại kết quả hữu ích hay
không. Chính vì vậy, khi đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ
dừng ở việc đánh giá kết quả mà còn phải đánh giá chất lượng công tác hoạt động sản
xuất kinh doanh để tạo ra sản phẩm đó. Mà chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh
là nội dung đánh giá của hiệu quả. Trên phạm vi xã hội, các chi phí bỏ ra để thu được

-9-


kết quả phải là chi phí lao động xã hội. Vì vậy bản chất của hiệu quả chính là hiệu quả
của lao động xã hội và được xác định bằng tương quan so sánh giữa lượng kết quả hữu
ích thu được với lượng hao phí lao động xã hội, còn mục tiêu của hiệu quả là sự tối đa
hóa kết quả và tối thiểu hóa chi phí trong điều kiện nguồn tài nguyên hữu hạn. Do vậy
mà bất kỳ một nhà sản xuất – kinh doanh nào muốn hoạt động sản xuất thì đều cần
phải xác định 2 yếu tố đó là:
+ Yếu tố đầu vào: đó là chi phí sản xuất, chi phí trung gian, chi phí lao động,
chi phí vốn đầu tư và đất đai.
+ Yếu tố đầu ra (hay là mục tiêu đạt được): nó chính là mục tiêu chung của nền

kinh tế quốc dân cũng như của từng đơn vị sản xuất – kinh doanh (đã được xã hội chấp
nhận). Và các kết quả đạt được chính là những hàng hóa trao đổi trên thị trường như:
khối lượng sản phẩm, giá trị sản phẩm, giá trị sản xuất cũng như lợi nhuận … so với
chi phí bỏ ra.
Song nhìn chung thì khoa học kỹ thuật đầu tư vào sản xuất nông nghiệp nước ta
vẫn còn thấp và lạc hậu do đó mà các yếu tố tự nhiên còn tác động rất lớn, kể cả tác
động tích cực và tiêu cực. Do đó mà việc xác định các yếu tố đầu vào sẽ gặp những
khó khăn, trở ngại. Vì thế mà khi đánh giá HQKT thì kết quả và chi phí đều dựa trên
cơ sở giá thị trường tại thời điểm xác định hay đôi khi vẫn sử dụng giá trị cố định hoặc
giá kỳ gốc để so sánh các hiện tượng cần nghiên cứu.
1.1.4. Ý nghĩa của việc đánh giá hiệu quả kinh tế
Đánh giá hiệu quả kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng, giúp biết được mức độ
ảnh hưởng của các nhân tố đến hiệu quả sản xuất như đất đai, lao động, phân bón… từ
đó người dân có thể sử dụng các yếu tố nguồn lực một cách hợp lý để có tạo ra mức
sản lượng tối ưu nhất.
1.1.5. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả sản xuất mận tam hoa
1.1.5.1. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất
+ Tổng giá trị sản xuất (GO): Là toàn bộ giá trị của cải vật chất do lao động
sáng tạo ra trong một thời kỳ nhất định.
+ Chi phí trung gian (IC): là toàn bộ chi phí vật chất thường xuyên và dịch
vụ,lao động thuê ngoài được sử dụng trong quá trình sản xuất .

- 10 -


+ Giá trị gia tăng (VA): là kết quả cuối cùng thu được sau khi trừ đi chi phí
trung gian của một hoạt động sản xuất kinh doanh.
VA = GO – IC
+ Thu nhập hỗn hợp (MI): đây chính là thu nhập thuần kết quả sản xuất trong
một chu kỳ sản xuất.

MI = VA – Thuế – Khấu hao TSCĐ.

1.1.5.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất
+ Tỷ suất giá trị sản xuất theo chi phí trung gian (GO/IC): Chỉ tiêu này
cho biết việc bỏ ra một đồng chi phí trung gian đầu tư thu được bao nhiêu đồng giá
trị sản xuất.
+ Tỷ suất giá trị tăng thêm theo chi phí trung gian (VA/IC): Chỉ tiêu này thể
hiện cứ bỏ ra 1 đồng vốn vào sản xuất thì sẽ thu được bao nhiêu đồng giá trị tăng thêm.
+ Tỷ suất thu nhập hỗn hợp theo chi phí trung gian (MI/IC): chỉ tiêu này
phản ánh trình độ tổ chức quản lý và sử dụng vốn trong sản xuất.
+ Thu nhập hỗn hợp bình quân trên 1 ngày công lao động: chỉ tiêu này
phản ánh mức độ giá trị 1 ngày công lao động với nguồn thu hiện tại.
TNHH / ngày công lao động = TNHH của 1 đơn vị sản xuất / tổng số ngày công lao
động cho 1 đơn vị sản xuất.
1.1.6. Đặc điểm kinh tế, kỹ thuật trong sản xuất cây mận nói chung và mận Tam
hoa nói riêng
1.1.6.1. Đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của giống mận
Mận là giống cây ăn trái được trồng nhiều nơi trên thế giới. Ở đô thị cây mận
trồng để làm cảnh, lấy bóng râm vì cây có tán lá sum - suê, xanh mướt quanh năm.
Hoa, lá có mùi hương thơm dễ chịu. Nếu được trồng chăm sóc đúng qui trình kỹ thuật
mận sẽ cho hoa trái theo ý muốn, bán được giá cao nên có thể xem là cây xóa đói giảm
nghèo cho một số bà con nông dân.
Có rất nhiều giống. Hiện nay giống Thongsamsti có nguồn gốc từ Thái Lan, là
giống được ưa chuộng nhất. Cây sinh trưởng khỏe, ít sâu bệnh. Trồng sau một - hai
năm có thể cho hoa trái, hình chuông,màu nâu đỏ, sọc xanh mờ nhạt, đặc ruột, thịt dẻ

- 11 -


và có màu trắng xanh, giòn - ngọt - ngon. Năng suất cao, trọng lượng trái trung bình

80 - 120gram/trái.
Các giống mận:
+ Mận tam hoa: có quả vỏ tím xanh, ruột tím đậm;
+ Mận tả van tím (mận đường): có vỏ tím ruột vàng;
+ Mận hậu: quả tím có ruột xanh lơ chuyển sang vàng, ruột vàng. Ra hoa tháng
2, chín tháng 7. Khối lượng quả: 30-40 quả/kg;
+ Mận tả hoang ly: quả chín có vỏ vàng, ruột vàng. Ra hoa tháng 1, đến đầu
tháng 2. Quả chín từ cuối tháng 6 sang tháng 7;
+ Mận trải trảng li: ra hoa tháng 2, quả chín tháng 7, quả thường chín không
đều. Quả nhỏ: 50-60 quả/kg. Năng suốt đạt 28-30 tấn/ha. Thường được trồng ở độ cao
900-1000mét;
+ Mận đỏ: vỏ quả tím, ruột tím. Là giống mận địa phương ăn có vị chua, không
ngọt như các giống mận đường
+ Mận chua: còn gọi là mận đắng, có vỏ quả màu tím vàng, ruột vàng. Là giống
mận địa phương có vị chua đắng, sức sinh trưởng khoẻ, thường được làm gốc gép.
1.1.6.2. Kỹ thuật trồng, chăm sóc và thu hái mận nói chung và mận Tam hoa nói riêng
a) Kỹ thuật trồng:
* Giống: chọn cây khỏe mạnh không sâu bệnh.
* Mật độ, khoảng cách:
Khoảng cách trồng 5m hoặc 5 x 4m (400-500 cây/ha), tức là cây cách cây 44,5m, hàng cách hàng 4-5m. Đất xấu trồng mau, đất tốt trồng thưa hơn. Ghép lên gốc
đào, cây mọc khỏe tán to, cũng trồng thưa hơn khi ghép lên gốc mận.
* Đất trồng:
+ Vùng đất trũng:
Làm mô trồng : có thể rộng 0,8-1m, cao 0,4-0,8m. Mỗi mô có thể bón 0,5kg vôi
bột 0,3kg phân lân, 5kg phân hữu cơ hoai mục.
+ Vùng cao, đất gò đồi:

- 12 -



- Đất bằng phẳng đào hốc có kích thước 0,5 x 0,5 x 0,5. Bón mỗi hốc 0,5kg vôi
bột 0,2kg phân lan, mỗi ít phân hữu cơ. Vun mô rộng 0,8m, cao 0,3m.
- Đất dốc, cách làm hốc trồng và bón phân như trên. Nếu độ dốc nhỏ hơn 7%,
hốc trồng ngang bằng mặt đất, độ dốc lớn hơn, độ dốc lớn hơn, hốc trồng có thể thấp
hơn mặt đất 10-20cm.
* Cách trồng:
+ Móc một hốc nhỏ ở giữa vị trí trồng. Rọc đáy túi dựng bầu. Đặt cây vào vị trí,
và rọc một đường từ trên xuống để lấy túi đựng bầu ra. Lấp đất giữ chặt cây.
+ Cắm cọc cố định cây (cột cây bằng dây nilon).
* Bổ hốc, đánh cây:
+ Bổ hốc theo kỹ thuật thông thường và nên bổ sớm cho đất ải. Mận cũng
như hồng là một cây rụng lá nên thời gian trồng thuận tiện nhất là tháng 12, 1 khi
cây nghỉ Đông.
+ Thời kỳ này có thể trồng rễ trần nghĩa là đánh cây lên, rũ hết đất; nếu có đất
bùn ao tốt nhúng vào rễ bùn sau đó bó từng bó 10, 20 cây sau vài ngày trồng vẫn có
thể sống 100%.
+ Không thể trồng rễ trần các tháng khác khi cây đang sinh trưởng. Muốn trồng
sống vào bất cứ thời gian nào trong năm nên ương cây trong bầu bọc polyetylen, 610kg đất, ghép khi cây còn ở bầu, bóc vỏ bỏ polyetylen khi trồng.
b) Kỹ thuật chăm sóc:
* Giữ ẩm: Sử dụng các vật liệu dễ tìm như rơm rạ, cỏ khô … đậy phủ xung
quanh gốc để giữ ẩm.
* Tưới tiêu: Cung cấp nước cho cây thường xuyên nhất là ở thời kỳ mới trồng,
và khô hạn kéo dài. Cây chuẩn bị ra hoa, cần giữ cho gốc cây khô ráo. Thời kỳ mang
trái, cây rất cần nước để nuôi trái.
* Tỉa cành tạo tán:
+ Chỉ có thể tạo hình trên cơ sở chăm sóc tốt cây con ngay từ đầu, cắm cọc
chống khi cần để có thân chính thẳng. Cũng như các cây ăn quả khác, hãm ngọn thân
chính để tạo nên 3-5 cành khung hay nhiều hơn tùy theo sức cây và chân cành khung

- 13 -



trên thân chính phải cách nhau đều, khoảng 20-30cm. Khống chế chiều cao cây
khoảng 3,5m, tạo thông thoáng giúp cây quang hợp tốt.
+ Tạo quả: Cây mận rụng lá mùa Đông, lại có nhiều mắt, có khả năng bật thành
cành lớn do đó mận là cây chịu đốn; vậy cành vượt, cành già bắt đầu khô, cành manh,
đều có thể tỉa bớt, cắt bỏ từ chân cành. Tất cả các giống mận của ta đều thuộc loại mận
Trung Quốc, nụ hoa ra nhiều nếu thụ phấn tốt không sợ thiếu quả mà thường hay xảy
ra tình trạng quả ra quá nhiều.
* Tỉa quả:
Tỉa quả là một điều bắt buộc đối với mận vì:
+ Quả sau khi tỉa đều, to và mã quả đẹp hơn nếu không tỉa.
+ Tỉa quả là một biện pháp quan trọng để ngăn ngừa gãy cành (cành mận dòn
dễ gãy).
+ Tỉa quả giảm số công thu hoạch vì quả to, phân bố đều trên cành.
Phương pháp tỉa: có thể tỉa bằng tay, đợi đến tháng 4 khi quả đã to bằng hạt đỗ
tương (đậu nành) thì tỉa. Nguyên tắc tỉa: không để chùm và quả nọ cách quả kia 4-5cm
trên cành quả.
* Bồi đất cho cây: Hàng năm nên bồi thêm đất cho cây vào đầu mùa khô như
bùn mương, đất khô … dầy 2- 3cm, xung quanh tán cây kết hợp với việc bón phân hữu
cơ hay phân hóa học.
* Bón phân, tưới nước, làm cỏ:
Mặc dù mận trồng được ở đất xấu, cần phải bón nếu muốn đạt sản lượng cao.
Tốt nhất trong điều kiện Việt Nam là phân chuồng để ải; số lượng khi trồng bỏ dưới
hốc: 30-40kg.
Những năm sau bón tháng 12 khi cây nghỉ Đông. Sau khi cây ra quả, thời kỳ
cần bón nhất là tháng 6, 7 sau khi thu hoạch.
Trong các yếu tố dinh dưỡng, đạm và kali cần nhất rồi đến lân. Lượng phân
khoáng thường bón 300-500g/cây amôn sunfat khi cây chưa ra quả; 1-1,5kg khi cây đã
có quả rồi. Tính ra NPK nguyên chất 1 hecta đương thu hoạch bón khoảng 100kg N,

100-150 P2O5, 150-200kg K2O.

- 14 -


Mận thường trồng ở đất gò, dốc, xa nước nên tập quán là trồng không tưới. Nếu
trồng gần nhà một vài cây, tháng 3, 4 khi quả non đương lớn, và nếu trời hạn, tưới cho
mỗi gốc một vài thùng nước rất có lợi.
Mận sợ cỏ vì rễ ăn nông, vì vậy lúc nào gốc mận cũng nên giữ sạch cỏ. Tốt
nhất nên phủ rác quanh gốc, dưới tán cây, vừa chống cỏ, vừa giữ ẩm. Dùng cuốc xới
cỏ quanh gốc thường làm đứt rễ, vì vậy khi có cỏ nên làm thật sớm khi cỏ chưa lớn để
khỏi phải cuốc sâu và tốt nhất nên nhổ cỏ bằng tay.
* Trừ sâu bệnh:
Trên núi cao, với điều kiện khí hậu thích hợp, nhất là về nhiệt, cây mận mọc
khỏe, không có sâu bệnh đáng kể. Ở đây trồng giống mận chua, chống sâu sâu bệnh
cũng khỏe, nên ít khi người ta bắt sâu phun thuốc. Nếu chăm bón tốt và nếu lại trồng
những giống mận ngon quả to, sâu bệnh vẫn nguy hiểm. Những loại chính là:
+ Bệnh chảy gôm: phổ biến ở đào, mận. Cách phòng: không đốn cành non, đặc
biệt cành hơi to. Khi phải đốn, dùng cưa và dao sắc để vết thương chóng lành, phòng
trừ sâu đục thân, sâu ăn vỏ cũng giảm bớt bệnh.
+ Bệnh khô cành: mận Tam Hoa trồng ở vùng thấp hay mắc triệu chứng: cành
nhỏ khô từng vết khi vết loang ra bao trùm cả cành thành một vòng thì lá và quả non
đang lớn héo đi, lấy dao cạo vỏ thì thấy dưới vết khô gỗ biến màu nâu, ống dẫn nhựa
bị tắc do đó cành héo. Có thể bệnh do một loại vi khuẩn gây ra. Phòng trừ bằng thuốc
bordeaux ít tác dụng. Cắt cành khô đem đốt, tháng 12 khi cây ngừng sinh trưởng, làm
giảm bệnh. Ở trại Lý Nhân ghép lên mận chua, mận Tam Hoa ít bệnh hơn trồng bằng
cành chiết.
+ Bệnh nấm đỏ (Polystigma rubrum) ở Sapa, Mèo Vạc, đặc biệt những nơi ẩm
lá mận bị hại thành từng vết tròn màu đỏ da cam có nhiều bào tử nấm. Trị bằng thuốc
bordeaux rất có hiệu lực.

Ở trung du và đồng bằng, những sâu chính hại mận có: xén tóc, mối, sâu róm
ăn lá và quả non, sâu đục nõn, nhưng không có sâu nào đặc biệt nguy hiểm.
+ Sâu ăn lá : Là loài sâu ăn tạp, thường cắn phá đọt non làm bộ lá còi cọc xơ
xác. Dùng các loại thuốc bảo vệ thực vật để xử lý : Vifast 5ND, Desic 2,5 ND,
Trebon 10ND …

- 15 -


+ Rầy mềm, rệp sáp, rệp dính : Tấn công chồi non, cuốn lá cuốn trái, … làm
cành lá quăn queo, bị muội hóng làm đen trái … Có thể dùng Bassa 50ND, Supracide
40ND, Polytrin 10ND …
+ Sâu đục thân, đục cành : Ấu trùng đục vào cành, thân làm cho cành bị khô có
thể bị gãy ngang. Đầu tiên chúng khoét những đường hang ngoằn – ngoèo, hay đụt sâu
vào thân cây, cây suy kiệt dần rồi chết. Có thể dùng Vibasu 10H, Vicarp 10H, Regent
… để bón định kỳ xung quanh gốc, hay sử dụng các loại thuốc có tính lưu dẫn để xịt
phòng cho cây như : Basudin 50EC, BiAn 40EC, … (Lưu ý thời gian cách ly).
+ Sâu đục trái : Chúng đục sâu vào bên trong trái, đùn phân ra ngoài làm giảm
phẩm chất trái. Dùng các loại thuốc sâu có độc tính thấp để phun phòng ngừa như:
Polytrin P440 ND, Vertmec 1,8 ND, …
+ Ruồi đục trái : Gây hại trên trái ở giai đoạn trái gần chín. Ruồi đẻ nhiều trứng
vào trái, trứng nở ra giòi, đụt khoét thành hang làm như hư thối. Vào mùa mưa trái
thường bị hư hại rất nặng nề. Dùng chất dẫn dụ sinh học Vizubon - D để bẩy ruồi đực,
làm giảm khả năng sinh sản của ruồi cái. Với cách diệt ruồi đụt trái này sẽ không gây ô
nhiễm môi trường, giúp tăng chất lượng của cây trái.
c) Thu hoạch chế biến:
+ Mùa mận chín là tháng 5 - 6 ở đồng bằng, 7 - 8 ở miền núi. Xác định độ
chín căn cứ vào màu sắc quả. Vị trí chuyển màu trước tiên là vết lõm ở đuôi quả
nơi xa cuống nhất. Màu xanh nhạt dần chuyển sang vàng nhạt rồi vàng sẫm, đỏ
hoặc tía tùy giống.

+ Hái xanh hái chín căn cứ vào mục đích sử dụng. Nếu để ăn tươi thì người ta
hái sớm, nhiều ít tùy theo nơi sử dụng xa hay gần nơi sản xuất vì quả càng chín càng
nhũn khó vận chuyển, và càng phải mang đi xa càng phải hái sớm khi mận còn hơi
xanh. Chú ý điểm sau đây: mận để lâu trên cây không những hàm lượng đường tăng
nhanh mà thể tích, khối lượng quả cũng tăng. Ví dụ mận Tam Hoa hái chín già so với
khi mới chín cách nhau chỉ mươi ngày nhưng khối lượng có thể tăng tới 30%. Vì vậy
hái sớm có thể là một nguyên nhân thất thu. Hái muộn quá thì ngược lại có thể làm cho
cây yếu sức đi.

- 16 -


+ Hái xanh hay chín còn tùy giống, ví dụ mận Hậu Bắc Hà khi chín rất nhũn
không mang đi xa được, do đó phải hái tương đối xanh. Nếu hái mận khi bắt đầu chín
có thể bảo quản 10-15 ngày, quả mềm dần nhưng chưa thối.
+ Mận phơi khô phải hái lúc thật chín vì lúc này hàm lượng đường cao nhất.
Chế mận khô có thể phơi, dùng nhiệt mặt trời, hoặc sấy ở lò. Độ nhiệt sấy lúc đầu là
50-60oC sau tăng dần lên nhưng không bao giờ được cao quá 72-73oC. Thời gian sấy
vào khoảng 24-36 giờ và sau khi sấy độ ẩm chỉ còn khoảng 20%. 100kg mận tươi sau
khi sấy còn khoảng 32-36kg mận khô.
1.1.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất mận tam hoa
Trong qua trình sản xuất ra sản phẩm chúng ta đã sử dụng một lượng nhất định
các yếu tố về sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động được kết hợp với
nhau theo một kỹ thuật nhất định, với một không gian và thời gian cụ thể. Hiệu quả
sản xuất phụ thuộc vào số lượng và chất lượng các yếu tố đầu vào được huy động vào
sản xuất. Chúng ta cần đi sâu nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản
xuất mới có thể nắm bắt được những tác động trực tiếp hay gián tiếp, từ đó tìm ra cách
thức biến đổi các nhân tố đó, phát huy được hiệu quả kỹ thuật cũng như hiệu quả kinh
tế của hoạt động sản xuất.
Các nhân tố ảnh hưởng có thể phân thành nhiều loại nhưng chủ yếu được nhìn

nhận thành nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan.
Nhân tố khách quan là những nhân tố thường phát sinh và tác động như nhu
cầu tất yếu, không phụ thuộc vào chủ thể tiến hành sản xuất. Kết quả sản xuất của mỗi
nông hộ có thể chịu tác động bởi các nhân tố khách quan như thời tiết, khí hậu ...
Nhân tố chủ quan là những nhân tố tác động đến đối tượng ngiên cứu phụ thuộc
vào năng lục chủ quan của chủ thể sản xuất. Tức là khi xem xét từng nhân tố, mức độ
được huy động về lượng và chất lượng theo các hướng khác nhau, nhưng khi sử dụng
hài hoà, hợp lý tỷ lệ tham gia của từng yếu tố còn phụ thuộc vào trình độ của lực lượng
sản xuất. Những nhân tố đó như là lao động, vật tư, tiền vốn, trình độ khai thác những
nhân tố khác quan của chủ thể sản xuất làm ảnh hưởng toàn bộ kết quả sản xuất.
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi chỉ đi sâu nhgiên cứu và phân tích những
nhân tố chủ quan nằm trong tầm kiểm soát của mỗi nông hộ. Các nhân tố đó là:

- 17 -


* Giống:
Giống đóng vai trò rất quan trọng, không có giống con người không thể tiến
hành sản xuất nông nghiệp.
Giống góp phần làm tăng năng suất, sản lượng cây trồng và tạo ra những
thay đổi đánh kể về chất lượng. Một khi giống cũ phẩm chất kém, không phù hợp
nhu cầu sẽ bị thay thế bằng một giống khác có phẩm chất cao hơn và phù hợp với
nhu cầu tiêu dùng.
Ngoài ra giống còn là phương tiện để thâm canh tăng vụ. Nhờ việc đưa vào sản
xuất các giống cây ngắn ngày làm tăng vụ gieo trồng, đồng nghĩa với việc tăng sản
lượng trên một đơn vị diện tích, tăng việc làm và tăng thu nhập cho nhà nông.
Như vậy giống có ý nghĩa rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Người
nông dân không chỉ chọn các giống có năng suất cao mà phải đưa các giống có chất
lượng tốt vào sản xuất.
* Phân bón:

Là thành phần quan trọng cung cấp chất dinh dưỡng, nước và muối khoáng cho
cây, vì vậy nó ảnh hưởng lớn đến sự sinh trưởng và phát triển từ đó ảnh hưởng đến
năng suất cây trồng. Trên thực tế người sản xuất cần quan tâm, cả về số lượng và chất
lượng phân bón. Nếu bón quá ít cây trồng sẽ không đủ dinh dưỡng nên năng suất sẽ
thấp. Ngược lại, nếu bón phân quá nhiều sẽ làm cho cây phát triển không bình thường
và hiệu quả đầu tư không cao.
Như vậy phân bón rất quan trọng đòi hỏi người nông dân phải bón hợp lý: đúng
liều lượng, đúng lúc và đúng kỹ thuật thì cây mới sinh trưởng, phát triển và cho năng
suất cao được.
* Lao động:
Là yếu tố đầu vào quan trọng của mọi quá trình sản xuất, nếu không có lao
động thì quá trình sản xuất sẽ không được tiến hành và nếu lao động không đảm bảo
thì năng suất và chất lượng sản phẩm không cao, từ đó hiệu quả sản xuất cũng không
cao. Lao động chính là hoạt động có mục đích của con người thông qua các công cụ
lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng thành của cải vật chất
cần thiết cho nhu cầu bản thân và xã hội.

- 18 -


Ngày nay với sự ra đời của nhiều loại máy móc hiện đại thì lao động thủ công
ngày một ít đi đòi hỏi người lao động phải có trình độ nhất định. Người nông dân được
học tập, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức sẽ mạnh dạn đầu tư và áp dụng các biện pháp
thâm canh, canh tác một cách hợp lý và có hiệu quả hơn, từ đó sẽ cho năng suất và sản
lượng cao hơn.
* Thuốc BVTV:
Thuốc BVTV là nhân tố rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, nếu không
có thuốc BVTV thì cây trồng sẽ rất khó để có thể sinh trưởng, phát triển và cho năng
suất cao. Thuốc BVTV sẽ giúp loại trừ được các loại cỏ dại, sâu bệnh, giúp cây trồng
phát triển góp phần làm tăng năng suất cây trồng, làm cho người nông dân nhàn rỗi hơn.

Hiện nay ngày càng có nhiều loại thuốc BVTV xuất hiện trên thị trường nên
người dân phải biết chọn đúng loại thuốctheo nguyên tắc 4 đúng:
- Đúng chủng loại
- Đúng liều lượng và nồng độ
- Đúng thời điểm ( đúng lúc)
- Đúng kỹ thuật ( đúng cách)
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khái quát về cây mận tam hoa
Ở nước ta khi nhắc đến cây mận hoa người ta liên tưởng ngay đến giống mận
Tam hoa huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai được coi là quê
hương cho ra đời giống mận Tam Hoa. Cách đây gần 30 năm, kỹ sư nông nghiệp Vũ
Đức Lợi - Trạm trưởng Trạm nghiên cứu giống cây ăn quả Bắc Hà đã di thực giống
mận lạ từ Trung Quốc và lai ghép thành công với giống mận chua địa phương, để tạo
ra giống mận quý mang tên thương hiệu mận Tam Hoa. Giống mận Tam Hoa sống
khỏe, sai quả, quả to, giòn ngọt, màu tím đẹp. Và đến nay giống mận Tam Hoa đã
được nhân rộng ra trồng rộng khắp cả nước ở những vùng có điều kiện tự nhiên tương
tự như huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai.
Huyện Bắc Hà, được mệnh danh là “thủ phủ” của cây mận Tam Hoa của nước
ta. Hiện nay huyện đã trở thành một vùng trồng cây mận Tam Hoa rộng hơn 1.000 héc

- 19 -


ta, lớn nhất cả nước, với sản lượng hàng năm từ 10 - 15 ngàn tấn, mang lại nguồn thu
đáng kể cho người dân địa phương. Hiện nay thị trường tiêu thụ mận Tam Hoa của
Bắc Hà đã vươn ra rộng khắp cả nước, là loại trái cây phổ biến và được ưa chuộng ở
các thành phố lớn như Hà Nội và các địa phương phía Bắc vào mỗi dịp đầu hè. Ở miền
Nam, mận Tam hoa đã xuất hiện ở những tỉnh, thành phố lớn như thành phố Hồ Chí
Minh, Cần Thơ…
Mận Tam hoa, là loại cây đặc sản sinh trưởng và phát triển ở cao nguyên Bắc

Hà, ở độ cao trên dưới 1.000 mét so với mặt nước biển. Tháng 6 là thời điểm chín rộ
của mận Tam hoa, thường kéo dài đến giữa tháng 7 dương lịch hàng năm. Cách thành
phố tỉnh lỵ Lào Cai 65km về hướng Đông Bắc, huyện Bắc Hà nằm trong khu vực đầu
nguồn sông Chảy, thuộc vùng núi cao, địa hình biến thiên từ 116 - 1.900m so với mặt
nước biển. Nằm trên cao nguyên đá vôi có khí hậu quanh năm thoáng đãng, mát mẻ,
không phải ngẫu nhiên mà Bắc Hà có vùng mận Tam hoa độc nhất vô nhị rộng hàng
ngàn héc ta. Đầu thập niên 1980, cây mận Tam hoa được trồng thử nghiệm nơi đây và
nhanh chóng bén rễ với đồi núi Bắc Hà, cho quả to, đẹp mã, cùi dày với hương vị đặc
trưng, không đâu sánh được. Đồng bào các dân tộc ở đây thấy đây là loại cây mang lại
hiệu quả kinh tế cao nên đã nhanh chóng nhân giống lên 500 ha vào năm 1990, rồi xấp
xỉ 1.300 ha vào thời điểm hiện nay. Vùng mận chuyên canh này cho sản lượng mỗi
năm trên dưới 10.000 tấn. Mận Tam hoa được trồng trên sườn đồi, mọc kín những
đồng bằng nhỏ kẹp giữa những ngọn núi và cả trong vườn nhà. Ở đây, hầu như gia
đình nào cũng trồng mận quanh nhà.
Giải pháp phát triển mận Tam hoa cho quê hương của giống cây ăn quả đặc sản:
rút kinh nghiệm từ nhiều vụ mận Tam hoa giá bán bấp bênh do chín đồng loạt, khó
tiêu thụ, mấy năm gần đây, Chính quyền huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai khuyến khích
nông dân xóa bỏ hình thức trồng quảng canh, hướng vào thâm canh, nâng cao chất
lượng quả và áp dụng các biện pháp khoa học cho cây chín rải vụ. Ở một số nơi, bà
con áp dụng kinh nghiệm thực tế, chọn những cây và cành có quả chín sớm để trồng
xen với tỷ lệ thích hợp nên năm nay huyện Bắc Hà đã có ít nhất 100ha/700 ha diện tích
mận chín sớm hơn 1 tháng theo mục đích rải vụ. Người trồng mận thu hái, đưa ra bán
tại thị trấn Bắc Hà từ 6.000 - 7.000 đồng/kg, cao gấp 5 đến 7 lần giá bán chính vụ.
Huyện Bắc Hà hiện còn khoảng hơn 700 ha mận tam hoa, tập trung chủ yếu ở
các xã Bản Phố, Na Hối, Tà Chải và thị trấn. Thời tiết thuận lợi, mận tam hoa đậu sai,

- 20 -


quả to và chín sớm hơn, ước tính sản lượng thu hoạch khoảng 7.500 - 8.000 tấn quả.

Từ mấy năm nay, người nông dân H’Mông của huyện được hướng dẫn cách chăm sóc,
sử dụng các loại phân ka li, phân lân thay thế cho phân đạm truyền thống, được hướng
dẫn phương pháp trẻ hóa vườn mận, loại bỏ những cành khô, sức sống yếu, không có
khả năng cho quả, duy trì kiểu tán cây hình phễu để các cành cây nhận được ánh sáng
đều cho nhau. Với cách làm này, năng suất mận được tăng cao, quả mận có độ cứng,
độ giòn, mẫu mã đẹp hơn và chín sớm, có khả năng bảo quản được lâu hơn.
1.2.2. Thực trạng sản xuất mận tam hoa của huyện Kỳ Sơn
Nhờ mô hình đưa cây mận tam hoa vào trồng ở xã Mường Lống đem lại kết quả
tốt, tạo ra sản phẩm hàng hóa và nguồn thu nhập cho người nông dân có một thời hệ
lụy vào cây thuốc phiện. Nên cây mận tam hoa được nhân rộng ra trồng ở một số xã
của huyện Kỳ Sơn mà có điều kiện tự nhiên, khí hậu và đất đai tương tự như “cổng
trời” Mường Lống. Nhưng diện tích mận tam hoa được trồng ở các xã như Tây Sơn,
Na Ngoi, Huồi Tụ, Đoọc Mạy, Nặm Cắn, Nặm Cạn còn rất ít. Và xã Mường Lống vẫn
là xã dẫn đầu về diện tích trồng mận tam hoa của cả huyện Kỳ Sơn.
Qua bảng 1, cho thấy trong vòng 3 năm, diện tích trồng mận tam hoa của toàn
huyện Kỳ Sơn có sự biến động không lớn. Năm 2007, tổng diện tích mận tam hoa của
toàn huyện đạt 50 ha, đến năm 2009 diện tích mận tam hoa chỉ tăng lên 1 ha. Diện tích
được tăng thêm này là do xã Nặm Càn bắt đầu đưa cây mận tam hoa vào trồng thử
nghiệm với diện tích là 1 ha. Ở xã Mường Lống, là một xã có diện tích mận tam hoa
lớn nhất của cả huyện nhưng diện tích mận qua 3 năm cũng không có sự thay đổi, vẫn
duy trì ở con số 30 ha.
Tuy diện tích mận tam hoa trong 3 năm (2007 – 2009) không có sự biến động
nhưng năng suất mận có sự biến động nhiều nên dẫn đến tổng sản lượng mận tam hoa
của cả huyện Kỳ Sơn có sự thay đổi. Năm 2007, tổng sản lượng mận của toàn huyện
đạt 2.500 tạ, đến năm 2008 giảm xuống còn 2.000 tạ nhưng đến năm 2009 sản lượng
lại tăng lên đạt mức 2.422,4 tạ. Sự biến động về sản lượng mận tam hoa của toàn
huyện qua các năm có nguyên nhân chính là do thời tiết ảnh hưởng đến năng suất của
cây mận.

- 21 -



Bảng 1: Diện tích, năng suất và sản lượng mận tam hoa của vùng triển khai dự án “Đưa cây mận tam hoa vào thay thế cây thuốc
phiện” qua 3 năm (2007 – 2009)

STT
1
2
3
4
5
6
7

Tên xã
DT (ha)
Tây Sơn
Na Ngoi
Huồi Tụ
Mường Lống
Đoọc Mạy
Nặm Cắn
Nặm Càn
Tổng

3
3
7
30
3

4
0
50

Năm 2007
NS ( tạ/ha)
50,0
50,0
50,0
50,0
50,0
50,0
0

SL (ta)
150
150
350
1.500
150
200
0

DT (ha)
3
3
7
30
3
4

0

2.500

50

Năm 2008
NS ( tạ/ha)
40,0
40,0
40,0
40,0
40,0
40,0
0

SL (ta)
120
120
280
1.200
120
160
0

DT (ha)
3
3
7
30

3
4
1

Năm 2009
NS ( tạ/ha)
60,0
50,0
28,5
45,0
70,3
70,5
50,0

2.000

51

374.3

SL (ta)
180
150
199,5
1.350
210,9
282
50
2.422,4


Nguồn: Phòng NN&PTNT huyện Kỳ Sơn

- 22 -


1.2.3. Thực trạng sản xuất mận tam hoa của toàn xã Mường Lống
Cây mận tam hoa, chính thức bén rễ trên mảnh đất được mệnh danh là “thủ phủ
cây thuốc phiện” của miền Tây xứ Nghệ từ năm 1996. Đến năm 1999, cây mận tam
hoa ở xã Mường Lống bắt đầu cho thu hoạch lứa quả đầu tiên.
Trong vòng 3 năm trở lại đây (2007 – 2009), diện tích mận tam hoa của xã
Mường Lống không thay đổi, duy trì ở mức 30ha. Năng suất có sự biến động do thời tiết
thay đổi qua các năm: năm 2007, năng suất mận tam hoa bình quân của cả xã đạt 50
tạ/ha; năm 2008, đạt 40 tạ/ha; năm 2009, đạt 45 tạ/ha. Do năng suất biến động nên sản
lượng mận tam hoa của toàn xã cũng có sự thay đổi, năm 2007 sản lượng mận tam hoa
đạt 1.500 tạ thì đến năm 2009 chỉ còn 1.350 tạ. Mặc dù sản lượng có giảm đôi chút
nhưng do giá bán ngày càng tăng nhờ đường giao thông được nối từ trung tâm huyện
lỵ vào đến xã Mường Lống được xây dựng và hoàn thành vào năm 2007, vì thế giá trị
thu từ cây mận tam hoa của toàn xã cũng có sự tăng lên: năm 2007, giá trị đạt khoảng
375.00.000đ, đến năm 2009, giá trị cây mận tam hoa đạt 405.000.000đ.
Bảng 2: Diện tích, năng suất và sản lượng mận tam hoa của toàn xã Mường Lống
qua 3 năm (2007 – 2009)
Chỉ tiêu
1. Diện tích
2. Năng suất
3. Sản lượng
4. Giá bán bình quân
5. Giá trị của cây mận tam hoa

ĐVT
ha

tạ/ha
tạ
đ/tạ
1000đ

Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
30
30
30
50
40
45
1.500
1.200
1.350
250.000
300.000
300.000
375.000
360.000
405.000
Nguồn: Phòng NN&PTNN huyện Kỳ Sơn

- 23 -


CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA XÃ MƯỜNG LỐNG


2.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý

Xã Mường Lống được hình thành cách đây hơn 300 trăm năm, khi đồng bào dân
tộc H’Mông di cư từ nước Lào sang lập làng trải khắp một vùng thung lũng nằm giữa

- 24 -


những ngọn núi cao nhất trên dãy Trường Sơn. Người ta ví đây như đường lên cổng
trời, vì quanh năm mây mù che phủ.
Mường Lống là xã nằm ở vị trí cao nhất của huyện Kỳ Sơn, có độ cao so với mặt
nước biển hơn 1.800m, với:
- Phía Bắc, giáp với xã Mỹ Lý
- Phía Nam, giáp với xã Bảo Nam và Bảo Thắng
- Phía Tây, giáp với xã Huổi Tụ
- Phía Đông, giáp với huyện Tương Dương
Xã Mường Lống, nằm cách trung tâm huyện lỵ (thị trấn Mường Xén – huyện Kỳ
Sơn) khoảng 50km. Giao thông nối từ trung tâm huyện lỵ với xã Mường Lống chỉ có
một lối đi độc đạo với hai bên là vách đá sừng sững và vực thẳm sâu hút.
2.1.2. Điều kiện khí hậu, thời tiết và thủy văn
Hầu hết các huyện thuộc miền Tây của Nghệ An đều chịu ảnh hưởng rất lớn
của gió Lào. Mặc dù nằm trên địa bàn “càn quét” của những trận gió Lào, nhưng khí
hậu ở Mường Lống vào mùa hè mát mẻ chẳng khác các khu nghỉ mát Đà Lạt hay Sa
Pa. Các đỉnh núi nơi đây quanh năm mây mù bao phủ, một ngày có đủ 4 mùa xuân, hạ,
thu, đông. Mường Lống nhờ vào sự khác biệt của khí hậu vào mùa hè so với các nơi
trên địa bàn huyện Kỳ Sơn nên có thể nói, Mường Lống là một “thiên đường nghỉ
dưỡng”. Nhờ môi trường trong lành, khí hậu mát mẻ nên Mường Lống là nơi duy nhất
trên cả nước có số đông các cụ già sống trên 100 tuổi.
2.1.3. Đất đai và địa hình

Xã Mường Lống thuộc vùng núi cao, địa hình biến thiên từ 1.000 - 1.800m so
với mặt nước biển.
Cấu tạo bề mặt phức tạp, núi non chia cắt thành nhiều tiểu vùng khác nhau. Với
độ dốc lớn, trung bình 350m.
Phần lớn diện tích đất tự nhiên của xã Mường Lống là núi, có một số ít diện tích
đất bằng phẳng ở chân núi, ven các con suối được người dân tận dụng khai hoang để
trồng lúa nước và dựng nhà ở.

- 25 -


×