Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tiểu luận tổng quan về hạn ngạch và thuế quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.99 KB, 29 trang )

TỔNG QUAN VỀ HẠN NGẠCH & THUẾ QUAN

1.

Hạn ngạch là gì

1.1.

Hạn ngạch là biện pháp quản lý của nhà nước qui định trực tiếp lượng hàng hoá
được phép nhập khẩu hoặc xuất khẩu nhằm thực hiện mục tiêu bảo hộ.
Hạn ngạch nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước, tăng thặng dư của người sản xuất
hàng hoá. Tuy vậy nó làm cho lượng hàng nhập khẩu nhỏ hơn lượng hàng nhập trong
thương mại tự do đẫn đến tổng phúc lợi xã hội giảm, giá của hàng hoá trong nước tăng
nhưng thực tế giá của hàng hoá nhập khẩu không tăng, tiêu dùng trong nước giảm, thăng
dư của người tiêu dùng giảm.
Cơ chế quản lý bằng hạn ngạch có tác động không giống với thuế quan ở chỗ nó
cho biết trước số lượng hàng hoá được nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Điều tiết hệ thống kinh
tế ngoại thương thông qua thuế quan sẽ làm tăng thu ngân sách của chính phủ nhưng điều
tiết bằng hạn ngạch chỉ làm tăng thu nhập cho cơ quan kinh doanh nhận được hạn ngạch.
Tuy vậy do trong tình hình kinh tế thế giới hiện nay có xu hướng tự do hoá thương mại
và xoá bỏ dần hàng rào thuế quan nên nhằm bảo hộ sản xuất trong nước các chính phủ
thường dùng hệ thống hạn ngạch.
Những căn cứ cho Chính phủ để xác định hạn ngạch nhập khẩu:
-

Nhu cầu trong nước (nhu cầu có khả năng thanh toán).
Trình độ sản xuất của mặt hàng nhập khẩu.
Cam kết của các Chính phủ : thực hiện qua các hiệp định ký kết với nhau Hạn
ngạch cũng dẫn tới sự lãng phí của cải xã hội.
Hạn ngạch là công cụ quan trọng để can thiệp điều tiết khối lượng hàng hoá xuất


nhập khẩu của một quốc gia, thông qua hạn ngạch cho phép chính phủ ước đoán tương
đối chính xác lượng hàng xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ. Trong khi đó thông qua thuế
1


quan chính phủ không thể dự báo trước được khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu vì nó
thay đổi phụ thuộc vào giá cả thị trường quốc tế.
Quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu dưới hình thức hạn ngạch có những đặc điểm
sau đây khác với hệ thống giấy phép xuất nhập khẩu:
-

Trong hạn mức khống chế mức tối đa lượng hàng (bằng hiện vật hoặc bằng giá trị)
được phép xuất khẩu hoặc được phép nhập khẩu.

-

Quy định thời gian có hiệu lực của hạn mức (năm, tháng, quý). Năm 2002 Việt
nam đựơc cấp hạn ngạch xuất khẩu may mặc sang thị trường EU với tổng giá trị
gần 950 triệu USD. Tuy nhiên vào năm 2005 chế độ hạn ngạch sẽ bị bãi bỏ, tuy
không còn hạn chế định lượng, nhưng đồng thời Việt nam cũng không được hưởng
ưu đãi GSP. Vì vậy đòi hỏi sản phẩm dệt may của Việt nam phải nâng cao khả
năng để duy trì trên thị trường này.

-

Dạng theo từng nước: Tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế của từng nước mà ta quy
định danh sách những hàng hoá xuất hoặc nhập khẩu quản lý bằng hạn ngạch.
Ngoài ra còn có ca loại hạn ngạch cấp cho các loại hàng hoá xuất hoặc nhập khẩu

được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan.

Thuế quan xuất nhập khẩu là gì

1.2.

Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc cho Nhà nước do Luật quy định đối với các
pháp nhân và thể nhân nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thuế ra đời và phát
triển gắn với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Nộp thuế được oi là quyền và nghĩa vụ
của công dân trong xã hội. Thuế là công cụ rất quan trọng để chính quyền can thiệp vào
sự hoạt động của nền kinh tế bao gồm cẩ nội thương và ngoại thương.
Thuế xuất – nhập khẩu hay thuế quan là tên gọi chung để gọi hai loại thuế trong
lĩnh vực Thương mại quốc tế. Thuế quan là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa
2


xuất hay nhập khẩu của một quốc gia. Thuế quan bao gồm thuế nhập khẩu và xuất khẩu.
Trong đó thuế nhập khẩu đánh vào hàng nhập khẩu còn thuế xuất khẩu thì đánh vào hàng
hóa xuất khẩu; thậm chí ở nhiều quốc gia còn không có thuế xuất khẩu.
(Import- export duty) là loại thuế gián thu, đánh vào các hàng hóa được phép xuất
nhập khẩu qua biên giới Việt Nam. Thuế xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng trong
chính sách ngoại thương của mỗi quốc gia. Đây là công cụ quan trọng trong việc kiểm
soát hàng hóa xuất nhập khẩu, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và bảo hộ sản xuất
trong nước. Về mặt lý luận có nhiều phương pháp tính thuế xuất nhập khẩu, mỗi quốc gia
có thể lựa chọn cho mình những phương pháp tính thuế thích hợp. Các quốc gia ngoài
công cụ thuế quan, còn có thể sử dụng hàng rào phi thuế quan (như hạn ngạch nhập khẩu,
tài trợ xuất khẩu, thu chênh lệch giá nhập khẩu, dùng bảng giá tối thiểu để áp dụng hàng
nhập khẩu...) để bảo hộ nền sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, một khi đã tham gia hội nhập kinh tế quốc tế thì về nguyên tắc các rào
cản phi thuế quan phải được loại bỏ. Trong tiến trình hội nhập, đòi hỏi các quốc gia phải
tuân thủ các nguyên tắc ràng buộc về thuế nhập khẩu và phải xác định lộ trình để thực
hiện các cam kết đó. Theo quan điểm của các nhà xuất nhập khẩu thì thuế quan được xem

như là một loại chi phí vận chuyển. Nếu việc đánh thuế quan bằng hoặc lớn hơn chênh
lệch giá giữa hai thị trường của hai nước thì sẽ không có việc vận chuyển hàng hóa từ
nước xuất khẩu đến nước nhập khẩu. Xét trong quá trình vận động của hàng hóa qua cửa
khẩu thì thuế quan có 2 loại:
-

Thuế xuất khẩu: thuế đánh trên hàng hóa xuất khẩu qua biên giới quốc gia.

-

Thuế nhập khẩu: thuế đánh trên hàng hóa nhập khẩu từ thị trường nước ngoài vào
thị trường trong nước.
Trong điều kiện nền kinh tế mở, các khái niệm: cửa khẩu, biên giới quốc gia, thị

trường trong nước, thị trường nước ngoài,... cần được hiểu theo nghĩa rộng bởi xuất hiện

3


các hình thức kinh tế như khu chế xuất, khu kinh tế mở... được hình thành và hoạt động
với các quy chế đặc thù, được hưởng các quyền lợi ưu đãi riêng.
Mục đích thực hiện chính sách thuế xuất – nhập khẩu:
-

Huy động nguồn lực tài chính cho ngân sách nhà nước.

-

Hạn chế xuất khẩu các mặt hàng cần thiết và những loại vật tư, nguyên liêu quý
hiếm để phát triển nền kinh tế trong nước, thỏa mãn nhu cầu thị trường hoặc bảo

vệ môi trường sinh thái.

-

Thúc đẩy sự phát triển của sản xuất nội địa.

-

Tăng cường hoặc hạn chế hàng hóa ra vào thị trường trong nước.

-

Thông qua công cụ thuế, Nhà nước khuyến khích và thu hút đầu tư nước ngoài.
Nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu.

-

Góp phần hướng dẫn tiêu dùng trong nước.

-

Góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hợp tác quốc tế.

Hạn ngạch

Thuế quan

Giống nhau

Đều bảo hộ nền sản xuất trong nước


Khác nhau

- Hạn ngạch tác động vào - Tác động vào giá hàng nhập
lượng

khẩu

- Mang lại đặc lợi cho người - Mang lại nguồn thu cho ngân
được phân bổ hạn ngạch

sách

- NK không tăng , sx và tiêu - Giá TG giảm – Giá trong
dùng nội địa không đổi
4

nước giảm – người tiêu dùng


- Người tiêu dùng bị ngăn
không chuyển sang hàng NK
được.
- Cho biết trước số lượng hàng
hóa ngoại nhập (chính phủ áp
đặt số lượng)
- Ít bị chi phối trong thương
mại quốc tế=>là biện pháp tự
vệ trong thương mại.


có lợi – chuyển sang sài hàng
ngoại – HNK tăng – SX trong
nước giảm.
- Khi DN tăng giá – người tiêu
dùng sẽ chuyển qua hàng NK.
- Không Cho biết trước số
lượng
- Dùng biểu thuế để điều chỉnh
- Bị chi phối trong thương mại
quốc tế

5


SỰ TÁC ĐỘNG CỦA HẠN NGẠCH NHẬP KHẨU VÀ THUẾ QUAN

2.

NHẬP KHẨU Ở CÁC NƯỚC.
SỰ TÁC ĐỘNG Ở NƯỚC LỚN

2.1.

2.1.1. Hạn ngạch nhập khẩu
2.1.1.1.Nhắc lại khái niệm

Hạn ngạch là việc hạn chế một số lượng hàng hoá xuất hoặc nhập khẩu thông qua
hình thức cấp giấy phép.
Hạn ngạch được chia làm 2 loại là : Hạn ngạch xuất khẩu (HNXK) và hạn ngạch
nhập khẩu (HNNK). Hạn ngạch xuất khẩu là Quy định xuất khẩu một lượng hàng hoá lớn

nhất định được phép xuất khẩu trong một thời gian nhất định. Hạn ngạch nhập khẩu là
quy định một lượng hàng hoá nhất định được nhập khẩu vào một thị trường nào đó trong
1 năm.
Hạn ngạch nhập khẩu thường được sử dụng phổ biến hơn hạn ngạch xuất khẩu và
được sử dụng cho một số hàng hoá nhập khẩu gây thiệt hại trong nước.
2.1.1.2.Tác động của hạn ngạch nhập khẩu

- Hạn ngạch nhập khẩu đưa ra sự hạn chế về số lượng nhập khẩu, gây ảnh hưởng
đến giá nội địa của hàng hoá.
- Hạn ngạch nhập khẩu tác động tương đối giống thuế nhập khẩu.
- Hạn ngạch nhập khẩu dẫn tới sự lãng phi nguồn lực của xa hội.
- Hạn ngạch không đem lại thu nhập cho chinh phủ, nhưng lại đem lại lợi nhuận
lớn cho người xin được giấy phép nhập khẩu theo hạn ngạch.
- Hạn ngạch co thể biến một doanh nghiệp trong nước thanh một nhà độc quyền.
Xét trên khía cạnh giữa nước xuất khẩu-nhập khẩu

6


Đối với các nước xuất khẩu
Đối với các nước nhâp khẩu
- Sản lượng hàng hoá ở các nước xuất - Hạn ngạch nhập khẩu làm cho giá hàng
khẩu giảm, do đó quy mô sản xuất trong nhập nội địa tăng lên => tạo điều kiện cho
nước giảm, làm gia tăng thất nghiệp, giảm các nhà sản xuất phát triển sản xuất
thu nhập người lao động

- Hạn ngạch nhập khẩu bảo vệ các ngành

- Lượng cung hàng hoá bị áp hạn ngạch sẽ công nghiệp còn non trẻ, chưa đủ khả
tăng lên


năng để cạnh tranh với thị trường quốc tế
- Tuy vậy, hạn ngạch nhập khẩu làm giảm
lượng hàng nhập khẩu => lượng tiêu dùng
trong nước giảm đi => giảm lợi ích của
người tiêu dùng do lựa chọn ít hơn và giá
cả đắt hơn

Trong trường hợp nước lớn (VD: Mỹ)

7


Hoa Kỳ là nước có nền kinh tế phát triển nhanh và mạnh nhất trên thế giới, là một
cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới, đồng thời cũng là một trong những thành viên sáng
lập của GATT (WTO ngày nay). Mặc dù phần lớn các ngành sản xuất của Mỹ có tiềm
năng rất lớn, hàng hoá của Mỹ cũng chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ hàng hoá của các
nền kinh tế khác như EU, Nhật Bản hay Trung Quốc, v.v… Do đó Chính phủ Mỹ cũng sử
dụng một số biện pháp để bảo vệ nền sản xuất trong nước cũng như nâng sức cạnh tranh
của hàng hoá mình trên thị trường thế giới, ví dụ như biện pháp sử dụng hạn ngạch nhập
khẩu.
Phần lớn hạn ngạch nhập khẩu của Mỹ do Cục Hải quan của nước này quản lý.
Hạn ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ được chia làm 2 loại chính:
Hạn ngạch thuế quan
Hạn ngạch thuế quan quy định số

Hạn ngạch tuyệt đối
Đây là hạn ngạch giới hạn về số

lượng của mặt hàng đó được nhập vào với lượng, tức là số lượng hàng hoá vượt

mức thuế giảm trong một thời gian nhất quá hạn ngạch cho phép sẽ không được
8


định. Không có hạn chế về số lượng nhập nhập vào Mỹ trong thời gian của hạn
vào đối với mặt hàng này, nhưng số lượng ngạch. Một số quota là áp dụng chung,
nhiều trên mức quota cho thời gian đó sẽ bị còn một số thì chỉ áp dụng riêng đối với
đánh thuế nhập khẩu cao hơn nhiều thậm một số nước. Hàng nhập quá số lượng
chí nhiều lần so với mức thuế trong hạn theo quota sẽ phải tái xuất hoặc lưu kho
ngạch. Trong đa số các trường hợp thì các trong suốt thời hạn của quota, cho đến
hàng hoá xuất khẩu của các nước thuộc khối khi bắt đầu thời hạn quota mới.
XHCN (trước đây) không được hưởng ưu
đãi của hạn ngạch theo mức thuế.

Các mặt hàng chịu hạn ngạch
tuyệt đối là:

Các mặt hàng chịu hạn ngạch thuế

-

Thức ăn gia súc có thành phần

-

sữa hoặc các sản phẩm sữa;
Sản phẩm thay thế bơ có chứa 45

quan bao gồm:
-


Sữa và kem không đặc hoặc không

% bơ béo theo HTS 2160.90.15

đường hay các chất ngọt khác, với
lượng chất béo theo trọng lượng vượt
-

quá 1% nhưng không quá 6%.
Ethyl alcohol
Olive
Satsuma (mandarin)
Cá ngừ
Bông
Lúa mỳ
Một số mặt hàng thuộc các nước

-

NAFTA (Mexico, Canada)
Một số mặt hàng theo quy định của

-

WTO
Một số mặt hàng nông sản theo hiệp

-


và bơ từ dầu ăn;
Bơ pha trộn, trên 55.5% nhưng
không quá 45% trọng lượng là bơ

-

béo;
Pho mát làm từ sữa chưa thanh
trùng để thời gian chưa quá 9

-

tháng;
Sữa khô theo HTS 9904.10.15;
Sữa khô chứa 505% hoặc ít hơn

-

trọng lượng là bơ béo;
Chocolate crumb và các sản phẩm
liên quan có chứa trên 505%

định Hoa Kỳ – Israel.
-

trọng lượng là bơ béo;
Chocolate crumb chứa 505%

-


hoặc ít hơn trọng lượng bơ béo;
Ethyl alcohol và các sản phẩm
dùng chất này trong nhiên liệu
nhập từ vùng Caribe và các vùng

9


lãnh thổ phụ thuộc Hoa Kỳ theo
-

HTS 9901.00.50;
Thịt từ Australia và New Zealand;
Sữa và kem dạng lỏng hay đông
lạnh, tươi hoặc chua (từ New
Zealand).

Thủ tục hải quan thông thường áp dụng cho các hàng hoá khác cũng được áp dụng
cho hàng hoá nhập khẩu theo hạn ngạch.
Mức thuế quan hạn ngạch thường được tính trên số lượng hàng hoá khác được
nhập từ đầu kỳ áp dụng hạn ngạch cho đến khi người ta thấy là lượng hàng nhập đã
chiếm gần hết hạn ngạch. Sau đó Giám đốc Hải quan quận sẽ được chỉ thị phải yêu cầu
chó dặt cọc số tiền thuế tạm tính với mức thuế dành cho lượng hàng vượt quá hạn ngạch
và phảo báo cáo thời gian nhập khẩu chính thức của mỗi lần nhập hàng. Sau đó sẽ có một
thông báo cuối cùng về ngày giờ mà hạn ngạch nhập khẩu đã dùng hết và tất cả các Giám
đốc Hải quan quận sẽ được thông báo về việc đó.
Một số hạn ngạch tuyệt đối thường hết ngay sau khi bắt đầu thời hạn áp dụng hạn
ngạch. Do đó, mỗi hạn ngạch thường được tuyên bố chính thức vào 12h trưa, hoặc vào
các khoảng thời gian tương ứng ở các múi giờ khác nhau vào một ngày ấn định. Khi tổng
số lượng hàng hoá nhập vào lúc bắt đầu thời hạn áp dụng hạn ngạch mà vượt quá hạn

ngạch, thì hàng hoá sẽ được giải phóng theo cách tính thuế trên cơ sở theo tỉ lệ giữa tổng
số hàng được nhập theo hạn ngạch và số lượng thực sự nhập khẩu. Điều này đảm bảo
việc phân bổ hạn ngạch công bằng.
Hàng hoá không được coi là nhập khẩu với mục đích xin ưu tiên theo hạn ngạch
cho đến tận khi hồ sơ tóm tắt việc nhập khẩu hoặc đơn xin rút lui hàng ra khỏi kho ngoại
quan để tiêu thụ được trình theo đúng thủ tục và hàng hoá đã nằm trong phạm vi cảng
khẩu.
2.1.2. Thuế quan nhập khẩu

10


2.1.2.1. Nhắc lại khái niệm và mục đích của thuế quan nhập khẩu

Khác với hạn ngạch, thuế nhập khẩu hay thuế quan (custom duty) là một biện pháp
tài chính mà các nước dùng để can thiệp vào hoạt động ngoại thương. Thực chất đây là
một loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá được phép nhập khẩu qua biên giới.
Mục đích quan trọng của thuế xuất - nhập khẩu là do yêu cầu bảo hộ nền sản xuất
trong nước. Đối tượng chịu thuế là hàng hóa được phép xuất nhập khẩu qua biên giới.
Thuế nhập khẩu là cơ sở để nhà nước kiểm soát được số lượng, chất lượng và tác động
của hàng hóa được nhập khẩu đối với thị trường trong nước. Ở mức độ khác nhau, các
nước đều sử dụng loại thuế quan này vào mục đích:
-

Chống lại các hành vi phá giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt hàng
phá giá lên tới mức giá chung của thị trường.

-

Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt, chẳng hạn nông nghiệp giống như các

chính sách về thuế quan của Liên minh châu Âu đã thực hiện trong Chính sách
nông nghiệp chung của họ.

-

Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để có thể
cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường quốc tế. Thuế nhập khẩu có tác dụng bảo hộ
nền sản xuất trong nước. Việc đánh thuế cao vào hàng hoá nhập khẩu sẽ giúp các
nhà sản xuất trong nước có thể cạnh tranh được với hàng hoá nhập khẩu

-

Không khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng có thể bị coi là xa xỉ phẩm hay đi
ngược lại các truyền thống văn hóa dân tộc. Thuế nhập khẩu sẽ hạn chế việc tiêu
dùng hàng hoá xa xỉ hoặc các loại hàng hoá không được khuyến khích sử dụng
như thuốc lá, rượu, bia…

-

Giảm nhập khẩu bằng cách làm cho chúng trở nên đắt hơn so với các mặt hàng
thay thế có trong nước và điều này làm giảm thâm hụt trong cán cân thương mại.
11


-

Thuế nhập khẩu có tác dụng giảm bớt nạn thất nghiệp vì việc đánh thuế nhập khẩu
cao thì hàng hoá nhập khẩu sẽ giảm; để bù vào lượng hàng hoá nhập khẩu đó nhà
nước ta phải mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho
người lao động từ đó góp phần giải quyết nạn thất nghiệp trong nước.

Thuế nhập khẩu cấu thành trong giá cả hàng hoá, làm tăng giá hàng hoá, do đó có

-

tác dụng điều tiết nhập khẩu và hướng dẫn tiêu dùng; bởi vì lượng hàng hoá nhập
khẩu phụ thuộc vào sức tiêu thụ hàng hoá, yếu tố này lại phụ thuộc vào giá cả. Giá
cả hàng hoá cao hay thấp sẽ quyết định việc giảm hoặc tăng sức cạnh tranh của
hàng hoá đó trên thị trường. Thông qua thuế nhập khẩu nhà nước điều tiết việc
nhập khẩu hàng hoá.
-

Trả đũa trước các hành vi dựng hàng rào thuế quan do quốc gia khác đánh thuế đối
với hàng hóa xuất khẩu của mình, nhất là trong các cuộc chiến tranh thương mại.
Thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nước thực hiện chính sách phân biệt đối xử
trong quan hệ thương mại đối với các nước. Chẳng hạn Mỹ đòi EU phải giảm từ
30 – 50% trợ cấp cho nông nghiệp, nếu không Mỹ sẽ tăng mức thuế đánh vào hàng
hoá nông sản của EU nhập khẩu vào thị trườngMỹ.
2.1.2.2.Tác động của thuế quan nhập khẩu đối với nước lớn như Mỹ

Trong nền kinh tế thị trường, thuế nhập khẩu có chức năng là công cụ rất quan
trọng để nhà nước thực hiện chính sách kinh tế của mình, quản lý hoạt động nhập khẩu;
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại; nâng cao hiệu quả của hoạt động ngoại thương. Căn
cứ vào từng giai đoạn lịch sử và điều kiện kinh tế – xã hội của mỗi nước mà thuế quan
được sử dụng với nhiều mục tiêu khác nhau. Thuế góp phần điều tiết kinh doanh và định
hướng tiêu dung, góp phần bảo hộ và phát triển nền sản xuất trong nước. Hơn nữa, nó
còn góp phần khuyến khích xuất khẩu và thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, giúp nhà
nước cân bằng cán cân thanh toán quốc tế.

12



Xét trên khía cạnh giữa nước xuất khẩu, nhập khẩu, đối với một “nước lớn”, thuế
quan làm tăng giá của hàng hóa ở nước nhập khẩu và làm giảm giá ở nước xuất khẩu. Do
sự thay đổi về giá này, người tiêu dùng ở nước nhập khẩu sẽ bị thiệt và người tiêu dùng ở
nước xuất khẩu sẽ có lợi. Các nhà sản xuất được lợi tại nước nhập khẩu và bị thiệt ở nước
xuất khẩu. Thêm vào đó, chính phủ ban hành thuế sẽ có thu nhập. Thuế quan làm cho đất
nước buôn bán ít hơn trong bất kỳ điều kiện mậu dịch được đặt ra nào.
Điều này cũng hàm ý rằng, nếu điều kiện mậu dịch được cải thiện, cái lợi có được
từ điều kiện cải thiện này có thể bù đắp sự lệch lạc trong sản xuất và tiêu thụ. Đối với
điều kiện mậu dịch “Trong nước”, thuế quan sẽ cải thiện điều kiện mậu dịch, làm giá
tương đối của hàng công nghiệp tăng cao. Đối với phúc lợi “Trong nước”, tác động của
thuế quan là không rõ ràng. Tùy thuộc vào điều kiện mậu dịch giống như trong phân tích
trong điều kiện nước nhỏ, nếu điều kiện mậu dịch không được cải thiện, thuế quan sẽ làm
giảm phúc lợi và ngược lại sẽ làm tăng phúc lợi.

13


Đối với nước phát triển như Mỹ, chính sách "Nước Mỹ trên hết" hiện nay của tổng
thống Donald Trump còn vấp phải khá nhiều ý kiến quan ngại. Theo bản tin Tài Chính
Kinh Doanh (VTV1; 2018), Tổng thống Mỹ Donald Trump vừa quyết định áp thuế lên tới
30% đối với tấm pin năng lượng mặt trời và 50% đối với máy giặt nhập khẩu.

Bloomberg trích dẫn số liệu từ Ủy ban Thương mại Quốc tế Mỹ cho thấy hơn 80%
tấm pin năng lượng mặt trời sử dụng tại Mỹ là hàng nhập khẩu, mà phần lớn là từ các
nước châu Á như Malaysia, Hàn Quốc, Trung Quốc và Thái Lan. Đây sẽ là những nước
chịu thiệt hại nặng nề nhất từ chính sách thuế mới của Chính quyền Trump.

14



Tờ New York Times nhận định, việc áp thuế mới sẽ làm gia tăng căng thẳng
thương mại với các nước khác, trong đó có Trung Quốc và có kéo theo các biện pháp trả
đũa đối với hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ. Trung Quốc và Hàn Quốc đều chỉ trích động thái
của chính quyền Trump và cảnh báo sẽ đưa vụ việc ra Tổ chức Thương mại Thế giới để
giải quyết. Với dòng title "Liệu có phải ông Trump đã châm ngòi cho một cuộc chiến
tranh thương mại với Trung Quốc?", trang CNN Money cho rằng khả năng này là không
cao bởi nếu xảy ra chiến tranh thương mại Trung Quốc sẽ là nước bị thiệt hại nhiều hơn.
Xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ hiện cao gấp 4 lần xuất khẩu của Mỹ sang Trung
Quốc.

New York Times trích dẫn ý kiến của Giám đốc Điều hành một nhà sản xuất tấm
pin năng lượng mặt trời có trụ sở tại California cho rằng việc tăng thuế sẽ khuyến khích
các doanh nghiệp chuyển về Mỹ sản xuất nhưng câu hỏi đặt ra là chi phí sản xuất sẽ là
bao nhiêu. Ông này lo ngại giá năng lượng mặt trời sẽ trở nên đắt đỏ hơn và khó cạnh
tranh với các loại năng lượng khác. Tương tự với trường hợp máy giặt, hai "ông lớn" của
Hàn Quốc là Samsung và LG cho rằng việc tăng thuế của Mỹ là một biện pháp bảo hộ
nhằm ngăn chặn sản phẩm của họ đến với người tiêu dùng Mỹ. Việc hạn chế này sẽ đẩy
giá lên cao và không ai khác, người tiêu dùng Mỹ chính là những người chịu thiệt thòi
đầu tiên.

Việc tăng thuế đối với tấm pin năng lượng mặt trời và máy giặt nhập khẩu là động
thái đầu tiên của chính quyền Trump sử dụng rào cản thương mại để bảo vệ các nhà sản
xuất trong nước. Như vậy, thuế nhập khẩu được coi là một công cụ hữu hiệu để các nước
sử dụng với mục đích trả đũa trong các cuộc chiến tranh thương mại.
2.2.

SỰ TÁC ĐỘNG Ở NƯỚC NHỎ

15



2.2.1. Hạn ngạch nhập khẩu
2.2.1.1. Nhắc lại khái niệm và mục đích hạn ngạch nhập khẩu

Hạn ngạch nhập khẩu là quy định của Nhà nước về số lượng hoặc giá trị một mặt
hàng nào đó được nhập khẩu nói chung hoặc từ một thị trường nào đó, trong một thời
gian nhất định (thường là 1 năm).
Hạn ngạch nhập khẩu thường là 1 hình thức hạn chế về số lượng và thuộc hệ thống
giấy phép không tự động. Khi hạn ngạch nhập khẩu được quy định cho 1 loại sản phẩm
đặc biệt nào đó thì Nhà nước đưa ra 1 định ngạch (tổng định ngạch) nhập khẩu mặt hàng
đó trong một khoảng thời gian nhất định không kể nguồn gốc hàng hoá đó từ đâu đến.
Khi hạn ngạch quy định cho cả mặt hàng và thị trường thì hàng hoá đó chỉ được nhập
khẩu từ nước (thị trường) đã định với số lượng bao nhiêu, trong thời gian bao lâu.
Thường hạn ngạch nhập khẩu được áp dụng bằng cách cấp giấy phép nhập khẩu cho một
số công ty. Mỗi doanh nghiệp được phép phân bổ một số lượng tối đa các mặt hàng trong
1 năm.
Tác động của hạn ngạch nhập khẩu.
a. Tác động tích cực.

Tác động tích cực của hạn ngạch nhập khẩu Bảo hộ sản xuất trong nước, ngăn
chặn hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào.
Sử dụng có hiệu quả quỹ ngoại tệ : cải thiện cán cân buôn bán hoặc cán cân thanh
toán. Thực hiện các cam kết của Chính phủ ta với nước ngoài. So với thuế quan, sự bảo
hộ bằng hạn ngạch mang lại hiệu quả chắc chắn hơn, bởi vì ảnh hưởng của việc tăng thuế
nhập khẩu đối với số lượng hàng hoá có thể nhập khẩu phụ thuộc vào sự co giãn về giá cả
của những hàng hoá này. Nhưng với chế độ hạn ngạch thì số lượng hoặc giá trị nhập khẩu
đã được khống chế, do đó không thể biến động, trừ khi có sự thay đổi về chính sách.
Nhận thấy được những mặt tích cực mà hạn ngạch nhập khẩu mang lại, các Chính phủ đã
áp dụng biện pháp này trong một thời gian nhất định để bảo vệ các ngành sản xuất của

nước mình.
b. Tác động tiêu cực
16


Làm tăng giá cả hàng hoá trong nước cao hơn so với giá quốc tế. Hạn ngạch giống
như thuế nhập khẩu luôn luôn nâng giá hàng nhập khẩu trên thị trường nội địa vì hạn
ngạch nhập khẩu ảnh hưởng đến mức cung nên giá cân bằng sẽ cao hơn trong điều kiện
thương mại tự do.
Tác động này của hạn ngạch cho phép các nhà sản xuất kém hiệu quả, sản xuất ra
một sản lượng cao hơn so với trong điều kiện thương mại tự do. Từ đó đưa đến hiện
tượng độc quyền kinh doanh và sự trì trệ của các doanh nghiệp trong nước. Hạn ngạch
mang tính hành chính, không có sự bình đẳng công khai nên tạo ra tính chất độc quyền.
Tính dự báo của hạn ngạch thấp.
2.2.1.2. Xu hướng áp dụng hạn ngạch nhập khẩu

Trước những tác động tiêu cực mà hạn ngạch nhập khẩu mang lại cho nền kinh tế
cũng như xã hội; ngày nay, các nước trên thế giới đều có xu hướng thôi không áp dụng
hạn ngạch nhập khẩu đối với các mặt hàng nhập khẩu nữa mà thay vào đó, xuất hiện một
xu thế mới đó là áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan khác.
Ví dụ như : hạn ngạch thuế quan, hàng rào kỹ thuật thương mại và các biện pháp
vệ sinh dịch tễ, v.v…
2.2.1.3. Hạn ngạch nhập khẩu ở Việt Nam
a. Tình hình chung

Những năm trước đây Việt Nam cũng đã sử dụng biện pháp hạn ngạch khá phổ
biến đối với cả hàng xuất và hàng nhập khẩu. Nhưng sau năm 1995, bắt đầu chuyển sang
biện pháp chỉ quản lý hàng nhập. Từ năm 2001, theo Quyết định số 46/2001/QĐ-TTg
ngày 4/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ, thì biện pháp mang tên là “hạn ngạch” coi như
không còn. Tuy nhiên trên thực tế những biện pháp tương đương hạn ngạch vẫn được sử

dụng đối với một số mặt hàng nhập khẩu. Một số biện pháp tương đương hạn ngạch Năm
Tên gọi
Danh mục mặt hàng:
Năm 1996, Các mặt hàng có liên quan đến các cân đối lớn của nền kinh tế quốc
dân: xăng dầu, phân bón, xi măng, đường, thép xây dựng.

17


Năm 1997 Các mặt hàng có liên quan đến các cân đối lớn của nền kinh tế quốc
dân: xăng dầu, phân bón. Các vật tư, hàng hoá được đáp ứng chủ yếu bằng nguồn sản
xuất trong nước: xi măng, đường ăn, sắt, thép, phôi thép.
Năm 1998 Hàng hoá, vật tư nhập khẩu có cân đối với sản xuất và nhu cầu trong
nước: xăng dầu, phân bón, thép xây dựng, các loại Xi măng, các loại Giấy viết, giấy in
các loại kính xây dựng, đường tinh luyện, đường thô Rượu
Năm 1999 Hàng hoá nhập khẩu có điều kiện (giấy phép của Bộ Thương mại):
xăng dầu, phân bón, xe 2 bánh, 3 bánh gắn máy và linh kiện lắp ráp đồng bộ Ô tô du lịch
dưới 15 chỗ. Một số chủng loại thép xi măng đen, đường tinh luyện, đường thô, giấy viết,
giấy in các loại, kính xây dựng, rượu
Năm 2000 Hàng hoá nhập khẩu có giấy phép của Bộ Thương mại Gạch ceramic
và granit có kích thước dưới 400x400mm Xi măng Poóclăng, clinker Kính màu, kính
trắng phẳng có độ dày từ 1,5-12mm, giấy in báo, giấy viết không tráng, một số chủng
loại thép xây dựng, dầu thực vật tinh chế dạng lỏng, đường tinh luyện, đường thô Xe 2
bánh, 3 bánh gắn máy và linh kiện lắp ráp đồng bộ, máy, khung xe Ô tô từ 16 chỗ ngồi
chở xuống
Hạn ngạch nhập khẩu Việt Nam đã áp dụng: mặt hàng Mức hạn chế số lượng áp
dụng năm 1997,mức hạn chế số lượng áp dụng từ 1999
- Ô tô chở khách dưới 12 chỗ 3.000 chiếc
- Cấm nhập (áp dụng với ô tô dưới 16 chỗ ngồi từ năm 2000) Xe tải, xe khách loại
khác 30.000 chiếc. Giấy phép nhập khẩu Xe 2 bánh gắn máy nguyên chiếc và linh kiện

lắp ráp xe 2 bánh gắn máy 350.000 chiếc
- Cấm nhập khẩu: Các doanh nghiệp trong nước có đầu tư sản xuất, lắp ráp xe 2
bánh gắn máy dạng IKD, theo năng lực sản xuất phù hợp với giấy phép kinh doanh đã
cấp Thép xây dựng 500.000 tấn…
b. Đánh giá những tác động của biện pháp quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch trong

một số ngành ở Việt Nam và khả năng cắt giảm
• Ngành mía đường

18


Ngành mía đường là một ngành có đặc thù là sử dụng nguyên liệu đầu vào của
ngành nông nghiệp, thu hút khá nhiều lao động và có tầm quan trọng trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp do đó cần có sự bảo hộ của Chính phủ. Việt Nam áp đặt
hạn ngạch nhập khẩu đối với đường thô, đường trắng và đường tinh luyện. Năm 1998, Bộ
Thương mại đã ra Thông tư số 01/1998/XNK quy định hạn ngạch nhập khẩu đường cho
cả năm là 80.000 tấn, trong đó có 60.000 tấn đường thô và 20.000 tấn đường tinh. Việc
nhập khẩu đường thô được phân bổ cho một số doanh nghiệp do Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn chỉ định và các lô đường nhập khẩu phải đến Việt Nam trước ngày 30-081998 (trước mùa thu hoạch mía). Quy định này đã góp phần không nhỏ trong việc bảo vệ
quyền lợi cho người trồng mía, tránh tình trạng “được mùa nhưng rớt giá”. Việc nhập
khẩu đường tinh chế do Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ nông nghiệp và
Phát triển nông thôn quản lý và chỉ được cho phép khi nhu câù trong nước tăng cao mà
sản xuất chưa đáp ứng được. Các biện pháp hạn chế định lượng như trên đã tạo ra hàng
rào bảo hộ cao cho ngành mía đường Việt Nam. Năm 1999, tỷ lệ bảo hộ của các biện
pháp phi thuế quan đối với ngành mía đường là 24%, v.v… Đến nay, ngành mía đường
Việt Nam đang dần khẳng định được chỗ đứng của mình, sản lượng hàng năm đủ khả
năng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và bước đầu đã xuất khẩu (năm 2000 xuất
khẩu khoảng 100.000 tấn, năm 2001 khoảng 120.000 tấn). Việt Nam đã có chương trình
cải tạo giống mía nhằm tăng năng suất, giảm giá nguyên liệu, nâng cao sức cạnh tranh

của đường mía. Trước tình hình đó, Chính phủ cũng đã có một số thay đổi về chính sách
nhập khẩu mặt hàng này như áp dụng hạn ngạch thuế quan thay thế cho biện pháp cấm
nhập khẩu và hạn ngạch nhập khẩu để có thể tiếp tục bảo hộ ngành mía đường nhưng phù
hợp với điều lệ và chính sách thương mại quốc tế.


Ngành thép và xi măng
Nhà nước áp dụng hạn ngạch nhập khẩu từ năm 1996 và 1997 với một số loại thép
xây dựng và xi măng đen. Nhờ việc Chính phủ áp đặt hạn ngạch nhập khẩu đối với một
số sản phẩm thép, các cơ sở sản xuất thép kém chất lượng đã tranh thủ kiếm được ít lợi
nhuận từ việc bán những sản phẩm thép chất lượng thấp này cho người tiêu dùng trong
nước. Trên thực tế, tiềm năng phát triển của ngành thép là khá thấp cho nên câu hỏi đặt ra
19


là liệu Chính phủ có nên dành cho ngành thép sự bảo hộ và những ưu đãi như vậy không
khi mà nó có thể đi ngược lại với những quy định của WTO? Trong tương lai, Việt Nam
nên dỡ bỏ hạn ngạch nhập khẩu đối với mặt hàng thép xây dựng mà thay vào đó là sử
dụng hạn ngạch thuế quan để bảo hộ hợp lý hơn. Biện pháp quản lý bằng hạn ngạch nhập
khẩu mà chúng ta sử dụng trong một thời gian dài với mục đích chủ yếu là bảo hộ các
nhà máy xi măng lò đứng (xi măng còn lẫn vôi nên không đạt tiêu chuẩn để sản xuất bê
tông, giá bán lẻ cao so với giá thế giới, công suất thấp…), song trên thực tế các nhà máy
sản xuất theo phương thức lò quay (xi măng sản xuất theo công nghệ hiện đại) cũng được
hưởng lợi khá nhiều từ biện pháp này. Việc áp dụng các biện pháp này là trái với quy
định của WTO nên ngày nay, Việt Nam đã dỡ bỏ gần hết việc sử sụng biện pháp này mà
thay vào đó là áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với xi măng nhập khẩu.
2.2.2. Tác động của thuế quan nhập khẩu
2.2.2.1. Nhắc lại khái niệm và mục đích thuế quan nhập khẩu

Trong thời đại ngày nay, các chính sách về thương mại, thuế và thuế quan thường

được xếp cùng nhau do ảnh hưởng chung của chúng đối với các chính sách công nghiệp,
chính sách nông nghiệp và chính sách đầu tư. Các khối thương mại là nhóm các quốc gia
liên minh thỏa thuận giảm thiểu hay loại trừ thuế quan đối với thương mại trong khối,
cũng như khả năng áp đặt thuế quan có hiệu quả lên hàng nhập khẩu từ ngoài khối hay
hàng xuất khẩu ra ngoài khối. Liên minh hải quan của khối thường có biểu thuế quan
ngoài chung, và theo các quy định đã thỏa thuận thì các quốc gia thành viên chia sẻ các
khoản thu nhập từ thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu vào trong khối.
Buôn lậu trong lĩnh vực thương mại quốc tế là hành vi mà một số tổ chức, cá nhân
thực hiện trái luật để trốn thuế xuất-nhập khẩu.
Mục đích thuế quan nhập khẩu:

-

Thuế nhập khẩu có thể được dùng như công cụ bảo hộ mậu dịch:
Giảm nhập khẩu bằng cách làm cho chúng trở nên đắt hơn so với các mặt hàng
thay thế có trong nước và điều này làm giảm thâm hụt trong cán cân thương mại.

20


-

Chống lại các hành vi phá giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt hàng

-

phá giá lên tới mức giá chung của thị trường.
Trả đũa trước các hành vi dựng hàng rào thuế quan do quốc gia khác đánh thuế đối

-


với hàng hóa xuất khẩu của mình, nhất là trong các cuộc chiến tranh thương mại.
Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then chốt, chẳng hạn nông nghiệp giống như các
chính sách về thuế quan của Liên minh châu Âu đã thực hiện trong Chính sách

-

nông nghiệp chung của họ.
Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để có thể

cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường quốc tế.
• Thuế xuất khẩu có thể được dùng để:
Giảm xuất khẩu do nhà nước không khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng sử dụng
các nguồn tài nguyên khan hiếm đang bị cạn kiệt hay các mặt hàng mà tính chất quan
trọng của nó đối với sự an toàn lương thực hay an ninh quốc gia được đặt lên trên hết.
Thuế xuất nhập khẩu có thể được dùng để tăng thu ngân sách cho nhà nước.
Tùy từng nhu cầu mà một hay vài mục đích nói trên được đề cao. Khi bị xác định
là có mục đích bảo hộ mậu dịch, thuế nhập khẩu có thể trở thành đối tượng bị nước ngoài
đòi cắt giảm.
2.2.2.2. Tác động của thuế quan nhập khẩu

Tác động của thuế nhập khẩu đến nền kinh tế:

21


Khi đánh thuế nhập khẩu, người sản xuất hàng trong nước được lợi nhưng người
tiêu dùng bị thiệt hại vì nó làm tăng giá của hàng nhập khẩu từ mức giá thế giới lên bằng
với giá thế giới cộng với thuế nhập khẩu. Đồ thị này chỉ ra tác động của thuế nhập khẩu:
-


Khi thực hiện thương mại tự do cân bằng thị trường như sau: người tiêu dùng
muốn mua một số lượng Qd hàng hoá ở mức giá thế giới trong khi những nhà sản
xuất trong nước chỉ sản xuất một số lượng Qs ở mức giá thế giới. Bằng cách nhập
khẩu phần thiếu hụt (chênh lệch giữa Qd và Qs) ở mức giá thế giới, người tiêu
dùng có thể thoả mãn toàn bộ nhu cầu ở mức giá này.

-

Khi có thuế nhập khẩu cân bằng thị trường như sau: giá hàng hoá trong nước bị
tăng lên đến mức bằng giá thế giới công với thuế nhập khẩu kích thích những nhà
sản xuất trong nước sản suất thêm, đẩy sản lượng sản xuất trong nước từ Qs lên
Qs'.

-

Tuy nhiên do giá tăng nên cầu của người tiêu dùng bị kéo từ Qd xuống Qd'. Rõ
ràng việc giá bị đẩy lên cao đã làm cho người tiêu dùng phải trả thêm một khoản
22


tiền bằng diện tích của hình chữ nhật CEGH để mua số lượng hàng Qd'. Khoản trả
thêm này một phần (bằng diện tích hình BCEF) được chuyển cho chính phủ dưới
dạng thuế nhập khẩu thu được, một phần (bằng diện tích hình AFGH) được
chuyển thành lợi nhuận của nhà sản xuất trong nước do vậy hai phần này không
làm thiệt hại lợi ích tổng thể của quốc gia.
-

Tuy nhiên phần diện tích hình ABF đã bị mất trắng, đây chính là tổn thất của xã
hội để chi phí cho sự yếu kém của những nhà sản xuất trong nước. Diện tích hình

ECD lại là một tổn thất nữa khi độ thoả dụng của người tiêu dùng bị giảm sút: thay
vì có thể tiêu thụ Qd hàng hoá, do có thuế nhập khẩu họ chỉ có thể tiêu dùng Qd'
mà thôi.
Tóm lại, thuế nhập khẩu dẫn đến cả thu nhập chuyển giao từ người tiêu dùng sang

chính phủ và nhà sản xuất trong nước đồng thời gây tổn thất lợi ích ròng của toàn xã hội.
Do những tác động ấy, nó khuyến khích sản xuất phi hiệu quả trong nước, làm cho người
tiêu dùng giảm sút độ thoả dụng do phải tiêu dùng ít đi nhưng nó tạo ra nguồn thu cho
chính phủ.

23


2.2.2.3. Xu hướng thuế quan nhập khẩu

Hiện tại, theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay, các FTA
được thành lập ngày càng nhiều, kéo theo đó là các quy định về hạn ngạch, thuế quan –
mà cụ thể xu hướng là cắt giảm tối đa thuế quan, tạo điều kiện trao đổi hàng hóa ngoại
thương thuận tiện hơn. Thực hiện các hiệp định thương mại tự do song phương, đa
phương mà Việt Nam đã ký kết, trong những năm tiếp theo, thuế suất thuế nhập khẩu
hàng loạt mặt hàng sẽ tiếp tục được cắt giảm.
Bộ Tài chính đang lấy ý kiến về các mức thuế này khi đăng tải công khai các dự
thảo nghị định về biểu thuế thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt cho các mặt hàng.
Các hiệp định mà Bộ Tài chính viện dẫn đợt này gồm hiệp định đối tác kinh tế
toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) giai đoạn 2018-2023; hiệp định khung về hợp tác
toàn diện ASEAN - Ấn Độ (AIFTA) 2018-2022; hiệp định thành lập khu vực tự do
24


ASEAN – Úc – New Zealand (AANZFTA) 2018-2022; hiệp định thương mại tự do Việt

Nam – Hàn Quốc (VKFTA) 2018-2022; hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN – Hàn
Quốc (AKFTA) 2018-2021; hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN – Trung Quốc
(ACFTA) 2018-2020 và hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN 2018-2022.
Theo đề xuất này, để thực hiện hàng loạt các hiệp định song phương và đa phương
mà Việt Nam đã ký trong các năm tiếp theo, từ 2018 đến 2023, các mặt hàng nhập khẩu
từ các thị trường nằm trong hiệp định sẽ được hưởng mức thuế suất thuế ưu đãi đặc biệt.
Các mức thuế này sẽ giảm ngay về bằng 0% từ 2018 hoặc giảm dần qua các năm.
Chẳng hạn, thuế nhập khẩu các mặt hàng dầu từ đầu năm sau, từ các thị trường có
hiệp định như Hàn Quốc, ASEAN sẽ ngay lập tức về 0% (lâu nay Hàn Quốc là 5%...).
Trong khi đó, mặt hàng xăng sẽ giữ nguyên như hiện tại trong ba năm tiếp theo. Sang đến
2021 thì sẽ đồng loạt về mức 8%, áp dụng cho tất cả các thị trường.
Tương tự, các mặt hàng thủy hải sản, cá từ thị trường ASEAN sẽ còn 0%. Riêng
thịt pha lóc hoặc đã sơ chế sẽ là 5%. Mức này áp dụng trong cả giai đoạn 2018-2022.
Các đề xuất của Bộ Tài chính nằm trong lộ trình về cắt giảm thuế của Việt Nam
khi thực hiện các hiệp định đã ký kết. Việc cắt giảm thuế cũng đã thực hiện trong những
năm qua, tùy theo hiệu lực của hiệp định.
Điều đó giúp cho giá nhiều mặt hàng nhập khẩu về Việt Nam có cơ hội rẻ hơn.
Đặc biệt, lượng hàng từ các nước có thuế ưu đãi tăng mạnh, vượt trội so với các thị
trường khác. Hàn Quốc là một ví dụ. Nước này đã trở thành quốc gia mà Việt Nam nhập
siêu nhiều nhất dù con số kim ngạch lớn nhất là từ thị trường truyền thống Trung Quốc.
Tuy nhiên, điều này cũng ảnh hưởng lớn đến số thu ngân sách. Đây cũng chính là
lý do, khi thuế suất thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng giảm theo cam kết, các sắc thuế khác
lại có xu hướng tăng lên để bù đắp.

25


×