Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Các bài văn nghị luận văn học học kì 1 lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.46 KB, 14 trang )

Hồ Xuân Hương là một trong những nữ sĩ tài danh của nước ta vào nửa cuối thể ky
XVIII, đầu thế ky XIX. Dù là người con gái tài danh nhưng cuộc đởi truân chuyên, hồng nhan
bạc mệnh như bao người phụ nữ sống dưới xã hội phong kiến đầy bất công. Bà đã rất nhiều
lần mang cái thân phận nhỏ bé ấy của người phụ nữ sống dưới chế độ cũ vào trang thơ của
mình. Tự tình là một trong những sáng tác hay của Hồ Xuân Hương khi thể hiện nỗi đau đớn,
buồn tủi trước những tình cảnh éo le của mình, đồng thời thể hiện khát khao mãnh liệt về
hạnh phúc cuộc đời.
Mở đầu bài thơ là hai câu đề giới thiệu không gian và thời gian của nhân vật trữ tình:
“Đêm khuya văng vẳng bóng canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Khung cảnh được hiện lên là một đêm khuya, không gian văng vẳng, khi con người chìm sâu vào
giấc ngủ, thời điểm khiến con người dễ rơi vào cung bậc tình cảm nhưng cũng chính là lúc người
ta đối diện với chính mình và đây cũng là lúc Hồ Xuân Hương nhận ra được cảnh đáng thương
của mình. Sự cô đơn, lẻ bóng một mình gắn liền với thời gian, tạo cho người ta một cảm giác
thật đáng thương cho thân phận người phụ nữ. Tiếng trống canh đang dồn dập kia chính là thông
báo về thời gian tâm trạng của nàng. Nó thể hiện nỗi chờ mong khắc khoải, thảng thốt thiếu tự
tin, đầy lo âu và tuyệt vọng của người đàn bà. Là một người phụ nữ có nhan sắc, nhưng lại được
miêu tả “ trơ với nước non. “Trơ” ở đây có thể được hiểu là tủi hổ, bẽ bàng. Tiếp theo nó là “cái
hồng nhan” ý nói đến dung nhan của người phụ nữ, thường được dùng trong xã hội xưa. Nhưng
điều đáng chú ý ở đây, một nhân phẩm, vẻ đẹp của người phụ nữ lại gọi là “cái” gợi cho người
đọc thấy được sự rẻ rúng, mỉa mai. “Cái hồng nhan” trơ với nước non không chỉ là sự cay đắng,
tủi hổ mà còn là nỗi xót xa, thấm thía, càng ngẫm càng thương thân.
Trước không gian buồn vắng, nhà thơ tiếp tục nói lên hoàn cảnh eo le và nỗi đau cho
thân phận của mình trong hai câu thực:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Mỗi khi có chuyện gì đó sầu muộn, người xưa thường tìm đến trăng đến rượu chỉ muốn uống
thật say, hương rượu thật nồng để quên đi tất cả, nhưng thật đau lòng khi đã quên trong cơn say
thì lúc tỉnh dậy cũng chính là lúc người ta lại phải đối đầu với 1 sự thật, 1 nỗi đau đớn vô cùng.
Không chỉ có rượu mà trong câu còn xuất hiện vầng trăng như một người bạn. Nhưng vầng trăng
ấy lại “khuyết chưa tròn”, bà nhìn lên vầng trăng cũng chỉ thấy một vầng trăng “khuyết”. Đó là


hình ảnh ẩn dụ cho sự dang dở trong hạnh phúc cuộc đời bà. Tuổi xuân, cái tuổi đẹp nhất của
người con gái đã trôi qua mà nhân duyên vẫn chưa trọn vẹn. Là người tài giỏi nhưng duyên phậm
hẩm hiu chưa một lần trọn ven.

Từ những nỗi phẫn uất trong lòng, tâm trạng nhà thơ thêm dồn nén như muôn tức
nước vỡ bờ:


“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Cảnh vật xơ xác, hoang tàn không một sức sống mà chỉ thấy một màu u ám, cứng nhắc. Rêu và
đá là hai hình ảnh được hiện lên là những vật yếu mềm, không chịu chấp nhận sự thấp bé ấy, đã
vươn lên bằng mọi cách, vượt qua những cản trở (mặt đất, chân mây) để chứng tỏ mình. Thiên
nhiên như cũng mang nỗi niềm phẫn uất của con người. Những sinh vật nhỏ bé mà hèn mọn, còn
hèm mọn hơn cả “cỏ nội hoa hèn” như đám rêu kia mà cũng không chịu mềm yếu. Nó phải mọc
xiên, mà là “xiên ngang mặt đất”. Đá đã rắn chắc lại phải rắn chắc hơn. lại phải nhọn hoắt lên để
“đâm toạc chân mây”. Biện pháp đảo ngữ trong hai câu luận đã làm nổi bật lên sự phẫn uất của
thân phận đất đá. Bên cạnh đó, những động từ mạnh “xiên”, “đâm” được kết hợp với bổ ngữ
“ngang”, “toạc” độc đáo đã thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh. Rêu xiên mặt đất, đá đâm toạc
chân mây như vạch đất, vạch trời hờn oán, không chỉ là phẫn uất mà còn là sự phản kháng. Cách
sử dụng bổ ngữ xuất sắc của Xuân Hương làm cho cảnh vật lúc nào cũng sinh động, tràn đầy sức
sống ngay cả khi ở tình huống thê thảm nhất.
Hai câu kết là tâm trạng chán chường, buồn tủi:
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con

“Ngán” là chán ngán, ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương ngán lắm rồi nỗi đời bạc bẽo, éo
le. Xuân đi rồi lại lại, tạo hóa là một vòng luẩn quẩn. Từ “xuân” mang hai nghĩa, vừa là mùa
xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân trôi đi rồi lại quay trở lại với thiên nhiên, với muôn nghìn cỏ
cây, hoa lá, nhưng với con người thì tuổi xuân đi qua không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” thứ nhất

nghĩa là thêm lần nữa, từ “lại” thứ hai nghĩa là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự
ra đi của tuổi xuân. Nghệ thuật tăng tiến làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: Mảnh tình - san sẻ
- tí - con con. Mảnh tình đã bé còn san sẻ ra thành ít ỏi, chỉ còn “tí con con” trở nên xót xa, tội
nghiệp.
Đặc sắc nhất về nghệ thuật của bài thơ là sử dụng những từ ngữ và hình ảnh gây ấn
tượng mạnh. Tác giả chủ yếu sử dụng các từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét với
sắc thái đặc tả mạnh, bằng những động từ chỉ tình thái: dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc, đi, lại
lại, san sẻ, ... và tính từ chỉ trạng thái: say, tỉnh, khuyết, tròn... để miêu tả những cảm nhận về sự
đời và số phận.
Tự Tình là một bài thơ đặc sắc của nhà thơ Hồ Xuân Hương. Bài thơ đã thể hiện sâu sắc nỗi
buồn đau, tủi hổ và cô đơn của thân phận người phụ nữ trước tình cảnh éo le trong tình duyên.
Qua đó cũng thể hiện niềm khát khao mãnh liệt muốn vùng lên vượt khỏi bi kịch cuộc đời ấy
nhưng vẫn chưa tìm ra lối thoát. Bài thơ điển hình cho nỗi đau chung của người phụ nữ sống
trong xã hội cũ, để lại những ấn tượng sâu lắng trong trái tim độc giả.


Trần Tế Xương là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có lẽ là nhà thơ trào phúng đặc sắc
nhất trong nền văn học nước nhà. Trong các sáng tác của ông, có hẳn 1 đề tài về vợ
gồm cả thơ, văn tế, câu đối. Trong đó tác phẩm “ Thương vợ” là 1 tác phẩm tiêu
biểu nhất, nói về hình ảnh của người phụ nữ như người vợ , người mẹ lam lũ, hi
sinh tất cả vì chồng con. Đáp lại tình yêu thương đó, người chồng đã viết lại những
lời thơ thật ý nghĩa nhưng mang đậm tính nhân văn để nói về người vợ tuyệt vời
của mình.
Quanh năm buôn bán” là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác,
từ tháng này qua tháng khác... không được một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú “Buôn bán ở
mom sông”, nơi cái mảnh đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước; nơi làm ăn là cái
thế đất chênh vênh. Hai chữ “mom sông” gợi tả một cuộc đời nhiều mưa nắng một
cảnh đời cơ cực, phải vật lộn kiếm sống, Địa thế “mom sông” rất trắc trở, đầy rẫy
những hiểm nguy khôn lường bởi lẽ đó chỉ là một doi đất nhô ra phía lòng sông nơi
người làng chài thường tụ tập buôn bán nên những khi tiết trời khắc nghiệt, địa thế

chênh vênh mỏng manh kia sẽ dễ sạc lỡ gây nhiều khó khăn cho bà Tú. Khó khăn,
gian nan là thế nhưng bà Tú vẫn mạnh mẽ vượt qua, luôn luôn cố gắng để cho gia
đình được ấm no:
“Nuôi đủ năm con với một chồng.”
Trong câu thơ trên, ông Tú tự coi mình là một đứa con đặc biệt để bà Tú phải nuôi. Tú
Xương đã không gộp mình với con để nới mà tách riêng rặch ròi là để ông tự riêng tri ân
vợ. Nhà thơ không chỉ cảm phục biết ơn sự hi sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách
mình, tự lên án bản thân “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Một gánh gia đình đè

nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Đôi vai của bà Tú đã nặng nay còn nhân lên
bội phần khi bà “bất đắc dĩ” trở thành trụ cột chính trong gia đình “Đủ” nghĩa là
không thiếu thốn, không rách rưới, không đói khát hay thèm thuồng thứ gì. Theo
một nghĩa khác sâu xa hơn, “đủ” ở đây còn có nghĩa là cuộc sống ấm no, đủ đầy và
hạnh phúc. Công việc nhọc nhằn, thu nhập ít ỏi nhưng bà Tú lại phải lo lắng cho cả


1 gđ 6 miệng ăn. Hơn nữa, không phải là 6 mà “5 con với 1 chồng”, “năm con” là
số nhiều nhưng dù sao cũng chịu được , lo cho chúng chỉ cần bát cơm, manh áo.
Nhưng ông chồng là “ một” nhưng được đặt ngang hàng với lũ con kia. cấu trúc
“năm” – “một” cùng liên từ “với” chất chứa bao nỗi hổ thẹn, buồn bã đã khắc họa
nên chiếc đòn gánh mà ở giữa là đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của người phụ nữ chịu
thương chịu khó còn hai bên đều trĩu nặng với “năm con” và “một chồng” Có lẽ,
hình ảnh bà Tú cũng chính là hình ảnh của bao nhiêu người phụ nữ cùng thời khác.
Nhưng trong số đó, có mấy ai được chồng thấu hiểu và thương xót như Tế Xương
thương vợ mình? Một người vợ tảo tần, đảm đang, giàu đức hi sinh. Một người mẹ
cam chịu và yêu thương gia đình hết lòng:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.

Tú Xương dùng một hình tượng quen thuộc trong văn chương dân gian nói về

người phụ nữ lao động ngày xưa: Con cò lặn lội bờ sông... nhưng ông không so
sánh mà đồng nhất thân phận bà Tú với thân cò. Tấm thân mảnh dẻ, yếu đuối của
bà Tú mà phải chịu dãi nắng dầm sương thì đã là gian nan, tội nghiệp, vậy mà bà
còn phải lặn lội sớm trưa. Tấm thân cò ấy lại lặn lội trên quãng vắng đường xa. Nói
quãng vắng là tự nhiên nổi lên cái lẻ loi, hiu quạnh, lúc cần không biết nương tựa
vào đâu, chưa nói đến những hiểm nguy bất trắc đối với thân gái dặm trường. “Eo
sèo” là từ láy tượng thanh chỉ sự rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai dẳng: gợi tả
cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đò đông”. Một cuộc đời
“Lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật
cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm, manh áo nhà bà Tú kiếm được “Nuôi đủ năm
con với một chồng” phải “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo", phải
trả giá bao mồ hôi, nước mắt , nỗi gian truân đó chưa 1 giây phút 1 khoảnh khắc
nào
được
thoát
khỏi.
Sang hai câu luận, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời
độc thoại của người vợ:
“Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Ông bà đến với nhau vì duyên thì ít mà vì nợ thì nhiều. Phải chăng đó là số phận,
là ý trời? Dù có là gì đi chăng nữa, người phụ nữ ấy cũng vẫn là một người vợ đảm


đang, giàu đức hi sinh và nhẫn nại. Dẫu “năm nắng mười mưa”, dẫu bão bùng ngập
trời ngập đất, vì cuộc sống mưu sinh, vì chồng vì con, bà vẫn chẳng “quản công”,
vẫn âm thầm chịu đựng bao vất vả lo toan. Bên cạnh đó, cách sử dụng hai thành
ngữ xưa song song với nhau “Một duyên hai nợ” – “năm nắng mười mưa” vừa đối
nhau về từ: “một” – “hai”, “năm” – “mười”, vừa đối nhau về ý đã không những
khiến cho nhạc thơ bỗng trầm lắng trước nỗi khổ tâm chồng chất ngày một dâng

lên theo cấp số nhân của bà. Có thể nói, dẫu có khó khăn muôn trùng, chông gai
trước mắt, “nợ” nghiêng về mình nhưng bà Tú chưa một lần chùn bước mà chỉ
cam chịu chấp nhận không 1 lời than vãn. Quả là một người mẹ, người vợ giàu đức
hi sinh !
Nhưng càng thương vợ bao nhiêu, nhà thơ lại càng thấy hổ hẹn cho bản thân mình
bấy nhiêu:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Tế Xương tự cảm nhận được sự hờ hững của bản thân đã làm cho bà Tú phải khổ.
Ông đã thay bà lên tiếng oán than. Ông trách “thói đời” và cũng trách cả mình nữa.
Chửi thói đời vì hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ là thời phong kiến, lạc hậu, trọng
nam khinh nữ. Chế độ ấy đã đẩy những người phụ nữ đáng thương như bà Tú vào
cuộc sống cơ cực, lam lũ, vất vả. Mặt khác, cái xã hội ấy cũng đã không trọng
dụng một nhà nho như ông khiến ông là trụ cột gia đình mà không làm được gì
giúp vợ con, ngược lại còn phải để vợ nuôi. Chửi chính mình vì ông tự cảm thấy
mình không giúp được gì cho vợ. Có chồng như mình, bà không những không
được đỡ đần mà còn khổ cực hơn. Thêm vào đó, ít ai biết được rằng đằng sau tiếng
chửi đầy dứt khoát ấy lại là một bi kịch của một con người chất chứa bao niềm
phẫn uất, đau xót và tê tái: “Có chồng hờ hững cũng như không.” Tú xương coi
mình như kẻ vô tâm, “ăn ở bạc” với vợ con, luôn luôn “hờ hững” trong trách
nhiệm và vai trò của một kẻ làm cha, làm chồng. Thật là “có chồng hờ hững cũng
như không” ! Thế nhưng nếu nhìn nhận lại sự việc một cách lạc quan thì Tú Xương
không hề đáng trách mà lại rất đáng thương bởi suy cho cùng, chính xã hội lem
luốt kia đã đẩy ông, một tài năng xuất chúng vào bước đường cùng khiến cho
người vợ vốn thuộc dòng dỏi cao quý phải chịu khổ.
Như vậy, với tình cảm thương yêu, quý trọng, tác giả đã ghi lại một cách xúc động,
chân thực hình ảnh người vợ tảo tần, giàu đức hi sinh. Mặt khác, Thương vợ còn là
bài thơ tiêu biểu cho thơ trữ tình của Trần Tế Xương: cảm xúc chân thành, lời thơ
giản dị mà sâu sắc. Qua đó ta thấu hiểu được thân phận nổi trôi của người phụ nữ



trong xã hội xưa, họ tuy vất vả nhưng giàu tình yêu thương. Chính tình cảm ấy đã
giúp họ vượt lên trên tất cả bao đau thương của cuộc đời ngang trái, bất công.

1
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà Nho yêu nước cuối thế kỉ XIX. Cuộc đời của ông đầy những bất
hạnh. Nhưng bằng nghị lực phi thường, ông trở thành tấm gương sáng về nhiều mặt... "Với Văn
tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên bức tượng đài bi tráng về người nông
dân nghĩa sĩ đánh Pháp cuối thế kỉ XIX. Lời đánh giá trên rất xứng đáng với thành công của tác
phẩm. Hơn một thế kỉ qua, đọc lại bài văn tế ấy, ai không dạt dào xúc động, bởi “nước mắt anh
hùng” có bao giờ ráo khô?
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã cất lên tiếng than:
Hỡi ôi! Súng giặc đất rèn; lòng dân trời tỏ!
Đây chính là hoàn cảnh, là cái nền mà trên đó, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên bức tượng đài bất hủ.
Đất nước bị xâm lăng. Súng giặc đã rền khắp núi sông. Kẻ thù hung hãn đã tới. Xã tắc chao đảo trước
“tàu sắt, tàu đồng, súng nổ”. Phải chăng, đây là lúc:
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Cũng chính là lúc:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy


Mất ổ bầy chim dáo dát bay
(Chạy Tây - Nguyễn Đình Chiểu)
Từ hoàn canh khốc liệt, tan tác, đau thương này, tấm lòng của người dân đã rực sáng giữa trời xanh!
Họ là ai?
Họ không phải là những sĩ phu, những chí sĩ, cũng không phải những đại gia từng được ơn vua lộc nước
hậu hình. Họ chỉ là những người:
Côi cút làm ăn, lo toan nghèo khó...
... Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó
Họ hoàn toàn là nông dân, nông dân 100% những con người quanh năm chưa từng bước ra khỏi lũy tre
làng! Hơn thế, họ còn là những nông dân nghèo, nghèo lắm. Hai chữ “côi cút” của cụ Đồ mới xót xa làm
sao! Có nghĩa là ngày thường, những tháng năm dài dặc lúa, họ chẳng được “chăn dắt” như mạo nhận
của bọn vua quan. Một đời, nhiều đời thui thủi bán mặt cho đất, bán lưng cho trời! Thế nhưng, chính
những con người bị bỏ rơi ấy lại là những người đầu tiên đúng lên, cho dù chẳng phải quân cơ, quân vệ.
Họ chỉ vì nghĩa lớn mà tập hợp dưới cờ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Với hai câu văn trên, cụ Nguyễn Đình Chiểu dã cho ta thấy họ quả là những nghĩa sĩ, những con người
có trách nhiệm lớn với non sông, những con người mang trong mình dòng máu bất khuất. Cho nên,
chính họ đã quyết “Phen này xin ra sức đoạn kình... Chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Đó chính là tư tưởng của những Triệu Thị Trinh, Bố cái Đại vương Phùng Hưng từng chém cá kình ở
biển Đông, bắt hổ dữ ở rừng sâu trong lịch sử dân tộc.
Nhưng Cụ Đồ Bến Tre vẫn không quên chính họ là những người chán đất có tấm lòng căm thù giặc tới
tận xương tủy:
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ!
Chính sự căm thù này khiến họ vượt qua khó khăn thiếu thốn, không đợi trang bị vũ khí, ăn mặc, không
đợi luyện tập quân sự, không sợ kẻ địch mạnh, có vũ khí tối tân, có lính đánh thuê hung hãn, có bọn Việt
gian thâm hiểm... nhất quyết ngay một lúc vào trận với những vũ khí tự tạo thô sơ: “Hỏa mai đánh bằng
rơm con cúi/ Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay", nghĩa là có gì đánh nấy, miễn là giết được giặc! Nếu
không có tấm lòng vì nghĩa lớn, làm sao có được cái gan ấy?
Và, khi vào trận, họ quả là phi thường:


Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng
Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ni hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt,

tàu đồng súng nổ.
Quả là một trận chiến dũng mãnh, quyết liệt đến liều mạng của lòng căm thù! Các động từ mạnh như
“đạp - lướt - xô - xông - đâm ngang - chém ngược...” khiến cho người đọc hàng trăm năm sau còn như
thấy trước mắt khí thế vũ bão ào ào của nghĩa quân. Trong ánh lửa bập bùng, loang loáng những bắp tay
trần, loang loáng ánh thép dao phay, rầm rập những bước chân, ầm ầm tiếng thét giết tươi kẻ thù…
Trong văn học Việt Nam đến thời điểm ấy, hiếm có một bức tranh công đồn nào hiện thực sinh động như
thế! Không một chút ướt lệ, ngòi bút, kí sự, đặc tả của nhà Nho mới quý giá biết bao! Vì sao một người
“quanh mình chỉ có bóng đêm” mà lại nhìn sáng tỏ đến như thế? Tài năng hay tấm lòng? Có lẽ là tất cả!
Chính tinh thần quyết chiến ấy của người nghĩa sĩ đã làm nên những chiến công rất đáng ca ngợi. Họ đã
tiêu diệt được tên chỉ huy ác ôn, đã đốt cháy ổ gián điệp, tức là kẻ thù nổi, kẻ thù chìm, kẻ thù bằng
xương bằng thịt, kẻ thù tư tưởng (nhà dạy đạo)... Càng có ý nghĩa lớn khi những chiến công ấy được lập
lên từ những vũ khí rất thô sơ! Bức tượng đài hoành tráng ấy càng lẫm liệt.
Xót xa thay! Họ đã ngã xuống! Sự hi sinh anh dùng của họ đã làm đau xót cả đất trời Nam Bộ:
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trưởng Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Đất trời mờ mịt! Người người khóc thương! Nỗi sầu thảm này biết mây xót xa! Đằng sau cái chết của
người anh hùng sẽ là:
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm
chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Có thể nói, Nguyễn Đình Chiểu đã hòa máu và nước mắt để viết nên những câu văn não lòng như thế!
Mặc dù Nguyễn Đình Chiểu đã gạt lệ để ngợi ca tấm gương hi sinh oanh liệt của người chiến sĩ với tấm
lòng son vằng vặc ánh trăng rằm, “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ linh, muôn
kiếp nguyện được trả thù kia”, nghĩa là những con người ấy chết mà vẫn sống! Nhưng lòng chúng ta vẫn
không sao ngăn được ngậm ngùi xót thương đau đớn!
Bức tượng đài bi tráng mà Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên bằng ngòi bút cùa mình sẽ mãi mãi tồn tại
cùng non sông đất Việt! Đây là bức tượng đài đầu tiên về người nông dân đánh giặc! Chúng ta đều biết,
người Việt ta từ khi biết dùng cành cây chọc lỗ gieo hạt cũng là lúc biết vót nhọn ngọn tầm vông, nhọn
mũi chông tre để chống lại mọi kẻ thù bốn chân và kẻ thù hai chân! Họ thực là chủ nhân của đất nước.
Nhưng trong văn học chính thống trước thời Nguyễn Đình Chiểu, họ chưa một lần trở thành nhân vật
trung tâm! Nay Nguyễn Đình Chiểu đã trả lại địa vị chính đáng cho những người chân lấm tay bùn này.

Nguyễn Đình Chiểu đã trở thành ngôi sao sáng trên bầu trời văn học nước ta cuối thế kỉ XIX có phần
đóng góp xứng đáng của “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ! “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” mãi mãi là “bài ca về
những người anh hùng thất thế'’ (Phạm Văn Đồng).
Xin được thắp một nén tâm hương tưởng nhớ, hai lần tưởng nhớ, tưởng nhớ người anh hùng liệt sĩ,
tưởng nhớ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.


2
Năm 1859, giặc Pháp tấn công thành Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu viết bài thơ "Chạy giặc”, hai
câu kết nói lên niềm mong ước thiết tha:
"Hỏi trong dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này ”
Và mấy năm sau, nhà thơ viết bài “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" - đỉnh điểm nghệ thuật và tư tưởng trong
sự nghiệp thơ văn của ông. Có thể coi bài văn tế là tấm lòng trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu trang
trải đối với những nghĩa sĩ anh hùng của nhân dân ta trong buổi đầu chống Pháp xâm lược. Nhà thơ lỗi
lạc đất Đồng Nai đã dựng nên một “tượng đài nghệ thuật’’ mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu
nước chống ngoại xâm.
Sau khi chiếm đóng ba tỉnh miền Đông, giặc Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Bộ. Năm 1861, vào
đêm 14-12 nghĩa quân đã tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc, thuộc tỉnh Long An ngày nay. Trận đánh diễn
ra vô cùng ác liệt “làm cho mã tà, ma ní hồn kinh”. Gần 30 chiến sĩ nghĩa quân đã anh dũng hi sinh.
Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn này - bài ca về người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang.
“Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc" là một “tượng đài nghệ thuật’’ hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất của
tượng đài nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung chiến
đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ tượng đài
được dựng lên giữa một bối cảnh thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc. Hoành
tráng về quy mô, nó không chỉ khắc họa một nghĩa quân, một anh hùng mà là đông đảo những "Dân ấp,
dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ" dưới ngọn cờ "Bình Tây” của Trương Công Định. Tính chất, quy
mô hùng tráng, hoành tráng ấy lại gắn liền với bi ai, đau thương, thống thiết. Cái “ tượng đài nghệ thuật”
về người nông dân đánh giặc Pháp giữa thế kỉ XIX đã được dựng lên trong nước mắt. Trong toàn bài văn
tế, đặc biệt trong phần thích thực và ai vãn, ta cảm nhận sâu sắc tính chất bí tráng này.

Mở đầu bài văn tế là một lời than qua cặp câu tứ tự song hành. Hai tiếng “Hởi ơi!” vang lên thống thiết,
đó là tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ ”
Tổ quốc lâm nguy. Súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương xứ sở. “Tan chợ vừa nghe tiếng súng
Tây...” (“Chạy giặc”). Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử,
đánh giặc để cứu nước cứu nhà. Tâm lòng yêu nước, căm thù giặc của nhân dân, của những người áo
vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. Có thể nói cặp câu tứ tự này là tư tưởng chủ đạo của
bài văn tế, nó được khắc trên đá hoa cương, đặt ở phía trước, chính diện của tượng đài nghệ thuật.
Hình ảnh trung tâm của tượng đài nghệ thuật “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là những chiến sĩ nghĩa quân.
Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo, sống cuộc đời “cui cút” sau lũy tre xanh. Chất phác và hiền lành,
cần cù và chịu khó làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa
lạ với "cung ngựa trường nhung”:
“Nhá linh xưa
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;


chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ”
Họ là lớp người đông đảo, sống gần gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông "chưa hề
ngó tới’’ việc binh và vũ khí đánh giặc:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa
từng ngó.”
Thế nhưng khi đất nước bị giặc Pháp xâm lăng, những “dân ấp dân lân” ấy đã anh dũng đứng lên “Mến
nghĩa làm quân chiêu mộ". Đánh giặc để cứu nước cứu nhà, để bảo vệ “bát cơm manh áo ở đời" là cái
nghĩa lớn mà họ “mến" và đeo đuổi. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câu cách cú hay nhất (giản dị
mà chắc nịch) ca ngợi lòng yêu nước căm thù giặc của người nghĩa sĩ:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muôn tới ăn gan;
ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có một thái độ “ăn gan” và “cắn cổ”, chỉ có một chí khí:
“Phen này xin ra sức đoạn kình... chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.

Hình ảnh người chiến sĩ nghĩa quân ra trận là những nét vẽ, nét khắc, hùng tráng nhất, hoành tráng nhất
trong "tượng đài nghệ thuật" bài văn tế. Bức tượng đài có hai nét vẽ tương phản đối lập: đoàn dũng sĩ
của quê hương với giặc Pháp xâm lược. Giặc cướp được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn
đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tù, mã ní" thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân hết
sức thô sơ. Quân trang chỉ là “một manh áo vải”. Vũ khí chỉ có "một ngọn tầm vông" hoặc “một lưỡi dao
phay", một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. Thế mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong
nhà dạy đạo kia" và “chém rớt đầu quan hai họ”.
“Tượng đài nghệ thuật” đã tái hiện những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc
Pháp:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục,đạp rào lướt tới,
coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào,
liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà,ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ".
Đây là những câu gối hạc tuyệt bút. Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, có “bọn hè
trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng với tiếng súng nổ. Các chiến sĩ của ta coi cái chết nhẹ tựa lông
hồng, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa đồn giặc: "đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào", "đâm ngang
chém ngược”, “hè trước, ó sau”... Giọng văn hùng tráng, phép đối tài tình, các động từ mạnh được chọn
lọc và đặt đúng chỗ... đã tô đậm tinh thần chiến đấu quả cảm vô song của các chiến sĩ Cần Giuộc.
Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho các chiến sĩ nghĩa quân những tình cảm đẹp nhất: ngợi ca, khâm phục,
tự hào. Qua đó ta thấy, trước Nguyễn Đình Chiểu chưa có nhà văn nào viết về người nông dân đánh giặc
hay và sâu sắc như thế.


Trong bài “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” còn có những giọt lệ, lời than khóc, một âm điệu thống thiết, bi ai
được thể hiện ở phần ai vãn. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người anh
hùng: “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ”. Đất nước vô cùng tiếc thương. Một
không gian rộng lớn bùi ngùi, đau đớn:
“Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ “

Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ được nói đến vô cùng xúc động. “Hàng trăm
năm sau chúng ta đọc Nguyễn Đình Chiểu có lúc như vẫn còn thấy ngòi bút nhà thơ nức nở trên từng
trang giấy” (Hoài Thanh): “Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
"Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ".
Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Tấm gương chiến đấu và hi sinh của họ là “Tấm lòng son
gửi lại bóng trăng rằm" đời đời bất diệt, sáng rực mãi, trường tồn cùng sông núi. Rất đáng tự hào:
“Ôi! Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”.
Bài học lớn nhất của người chiến sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về sống và chết, sống
hiên ngang, chết bất khuất. Tâm thế ấy đã tô đậm chất bi tráng tượng đài nghệ thuật về người nông dân
đánh giặc:
"Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh,
muôn kiếp nguyện được trả thù kia... ”
Dám xả thân vì nghĩa lớn "cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm”, các nghĩa sĩ nghĩa quân trong “Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta.
Tóm lại, "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” khẳng định văn chương lỗi lạc, tấm lòng yêu nước thương dân
mãnh liệt, thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. Đúng là “Người thư sinh dùng bút đánh giặc” (Miền Thẩm).
Một giọng văn vừa hùng tráng vừa thống thiết bi ai. Nguyễn Đình Chiểu đã dựng nên một “tượng đài
nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm. "Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc” là một kiệt tác trong văn tế cổ kim của dân tộc. Nhà văn Hoài Thanh có viết: “Nhà văn nghèo ấy
đã sống cuộc sống của quần chúng, thông cảm sâu sắc với quần chúng, và đã cùng quần chúng phấn
đấu gian nan. Chính quần chúng cần cù, dũng cảm đã tiếp sức cho Nguyễn Đình Chiểu, cho trí tuệ, cho
tình cảm, cho lòng tin và cho nghệ thuật của Nguyễn Đình Chiểu”.

3.
Cuộc xâm lược của thực dân Pháp lan ra sáu tỉnh Nam Bộ. Đến ngày 14-2-1861, bọn
chúng chiếm được cả ba xứ cần Giuộc, Tân An và Gò Công. Hai ngày sau, quân ta đánh
úp giặc ở cần Giuộc trên đất Gia Định (Long An ngày nay) đốt nhà đạo, giết chết tên
quan hai Pháp và một số binh lính. Sau đó giặc phản công, nghĩa quân thất bại, hi sinh
đến vài chục người. Lúc này, tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang nhờ Nguyễn Đình Chiểu
làm bài văn tê để truy điệu những nghĩa quân đà liều thân vì nước. Bài văn đã lan ra tận



Huế, phô biến rất sâu rộng trong nhân dân, có tác dụng khơi dậy lòng căm thù giặc và
tuyên truyền, động viên quần chúng giết giặc, đuổi giặc ra khỏi đất nước.
Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc từng được Tùng Thiện Vương Miên Thẩm sánh ngang với sách
Quốc Ngữ của Tả Khâu Minh, thiên Quốc Thương (Sở từ) của Khuất Nguyên thời Đông
Chu bên Trung Quốc. Gần đây, Và tất nhiên, không thể nào khác được, người nông dân
căm thù bọn cướp nước, lòng căm thù này mang đậm tính quá trình. Lúc đầu, họ chí
ghét chúng là loài dị độc tanh hôi ‘mùi tinh chiên vấy vá‘. Nhà thơ đã cụ thể hóa cái
ghét ấy bằng hình ảnh so sánh: ‘ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ ‘ đúng với tâm lí
của nông dân. Dẫu sao, cái ghét lúc này vẫn còn có mức độ. Nhưng rồi do bữa bữa, ngày
ngày, giặc thù hiện ra ngang nhiên như gai đâm vào mắt với ‘bòng bong che ‘, ‘ổng
khói chạy ‘. Vốn căm ghét bọn chúng nên người nông dân chỉ thấy một màu nhức nhôi,
gay gắt ‘trắng lốp ‘, ‘đen sì ‘. Và trạng thái của sự căm ghét đến đây cũng đã chuyển
sang căm thù mãnh liệt: ‘muốn tới ăn gan ‘, ‘muốn ra cắn cổ ‘. Tuy vậy, sự căm thù ở
đây cũng mới chỉ là cái căm thù cảm tính. Phải đến câu sau:
Một mối xa thư đồ sộ, há dế ai chém rắn đuổi hươu.
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lủ treo dê, bán chó.
Thì sự căm thù mới chính là sự căm thù lí tính. Hai vế câu 8 thật trang trọng với nhiều từ
ngữ Hán Việt, điển tích, điển cố nhằm thể hiện một điều hết sức cao cả thiêng liêng đó
là ý thức về sự thống nhất của TỔ quốc, về trách nhiệm trước công lí, lẽ phải. Đặc biệt
với thành ngữ nôm na dân dã: ‘treo dê bán chó ‘, Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng định sự
sáng suốt, tinh tường của nhân dân nói chung và người nông dân nghèo khổ nói riêng.
Cái mặt nạ ‘khai hóầ ‘, ‘truyền đạo ‘ của giặc Pháp đã bị phá vỡ, lôi ra trọn ven cái đã
tâm xâm lược của bọn chúng.
Hiểu được điều đó, người nông dân dã tự nguyện ra đánh giặc. Họ trở thành nghĩa sĩ:
Nào đợi ai đời, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình. Chẳng ai thèm trôn ngược, trốn
xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Một loạt các động từ làm vị ngữ chỉ hành động: xin – ra sức – doạn, dốc ra tay – bộ thể
hiện khí thế hào sảng, hăm hở và tự tin của người dân binh mộ nghĩa.



Rủ bùn đứng dậy sáng lòa (Nguyễn Đình Thi), hình ảnh người chiên sĩ chiên đấu trong
trận công đồn được tái hiện tài tình trong các câu còn lại của đoạn 2:
Khá thương thay!
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ theo vòng ở lính diễn binh.
Chẳng qua là dân ấp, dân lăn mến nghĩa làm quân chiêu mộ (10).
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư không chờ bày bổ (11).
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn
tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ (12).
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy dạo kia, gươm deo dùng bằng
lưỡi dao phay, củng chém rớt đầu quan hai nọ (15).
Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
nào sợ thằng Tây bấn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có (14).
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó
sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ (15).
Một lần nữa, Nguyễn Đình Chiểu nhắc lại nguồn gốc nông dân của người nghĩa sĩ, hơn
nữa, họ là người nông dân nghèo khó, là ‘dân ấp dân lân ‘. Bởi vậy, đi vào chiến đâu, họ
nào được chuẩn bị gì đâu. Không được chuẩn bị từ những hiểu biết tối thiểu về kỹ thuật
tác chiến: ‘Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư không chờ
bày bố ‘. Họ xa lạ với việc binh đao, chưa hề luyện tập về đội ngũ: ‘Vốn chẳng phải
quân cơ, quân vệ theo vòng ở lính diễn binh ‘. Không phải là lính chính quy của triều
đình nên họ không có cả những trang bị thô sơ nhất ‘bao tấu ‘, ‘bầu ngòi ‘, ‘dao tu ‘,
‘nón gõ ‘. Tuy thế, họ rất chủ động ‘không chờ ‘, ‘không đợi ‘ mà cũng ‘chẳng nài ‘ vì
‘bát cơm manh áo ‘ mà đánh giặc, người nghĩa sĩ tự trang bị thô sơ nhất cho mình: Áo
mặc chỉ là một manh áo vải. Vũ khí là ngọn tầm vông, lưỡi dao phay và rơm con cúi. Thế
mà họ đã dũng cảm xông vào chống lại mã tà, ma ní, thằng Tây với đạn nhỏ, dạn to, có
tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Hai câu 14, 15 là bức tranh chân thực và sinh động đặc tả hình ảnh người dân binh mộ
nghĩa trong phút công dồn:



Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc củng như
không; nào sợ thằng Tây bắn dạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ni hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó
sau, trối kệ tàu thiếc tàu dồng súng nổ.
Hàng loạt các động từ, giới từ, hàng loạt yếu tố trùng lặp và câu văn như bị ngắt vụn ra
đã tạo nên một không khí hết sức căng thẳng, quyết liệt nhể(t của trận đánh. Người đọc
như hình dung được hình ảnh của người nghĩa sĩ trong tiếng súng rền vang của kẻ thù
đã hăm hở xông lên nhưbão táp ‘xổ cửa xông vào ‘, ‘đạp rào lướt tới‘… họ chống đỡ,
công thủ mọi nơi, mọi hướng ‘hè trước, ó sau ‘, ‘đâm ngang ‘, ‘chém ngược ‘. Xem
thường súng, đạn tối tân của lũ giặc, họ xông xáo lập nên bao chiên công vang dội ‘đốt
xong nhà dạy đạo kia ‘, ‘chém rớt đẩu quan hai nọ ‘,
Như vậy, bằng lốì dùng các từ ngữ diễn tả hoạt động nhanh, mạnh, dứt khoát, với một
giọng văn hăm hớ, dồn dập và với các tình tièt chân thực, sinh động, Nguyễn Đình Chiểu
dựng lên một hình tượng người nghĩa sĩ nông dân lam lũ mà cao đẹp, bình thường mà vĩ
đại. Đây là hình tượng người nông dân vào loại đẹp nhất trong lịch sử văn học Việt Nam
từ trước đến nay.



×