Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về đạo đức vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh các trường phổ thông trung học ở hà nội hiện nay luan van thac si

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.82 KB, 111 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu rất
to lớn có ý nghĩa lịch sử: kinh tế tăng trưởng, đời sống nhân dân được cải
thiện, quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội được giữ vững, đất nước đang trên
đà phát triển.
Bên cạnh những thành quả đạt được, chúng ta còn có những khuyết
điểm, yếu kém cần khắc phục trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó
có vấn đề đạo đức xã hội.
Trước những tác động mặt trái của kinh tế thị trường, của hội nhập
kinh tế quốc tế, đạo đức xã hội đang có xu hướng xuống cấp nghiêm trọng.
Đánh giá về tình hình này, Đảng ta đã khẳng định rằng: "Tình trạng suy thoái,
xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo
ngại, nhất là lớp trẻ" [11, tr. 172-173]. Tình trạng đáng lo ngại đó trong xã hội
đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống đạo đức của các trường phổ thông
trung học, đến lứa tuổi học sinh phổ thông trung học.
Hiện tượng tiêu cực trong học tập: trốn học, bỏ học, thiếu trung thực
trong học tập, gian lận trong thi cử... có nguy cơ lây lan, với những hình thức
ngày càng tinh vi. Những tệ nẹn xã hội như: rượu chè, cờ bạc, ma túy cũng đã
ảnh hưởng không nhỏ đến trường học, gây hư hỏng không ít học sinh - hiện
tượng thô bạo với thầy cô, với bạn bè xảy ra nhiều nơi.
Trường học là nơi bồi dưỡng đạo đức, lý tưởng, nhân cách, hoài bão,
trí tuệ cho học sinh, nhưng đã xuất hiện trong một bộ phận học sinh tình trạng
"nhạt Đảng, xa Đoàn, phai lý tưởng". Nói về tình trạng này, Đảng đã nhấn
mạnh: Đặc biệt đáng lo ngại là trong một bộ phận học sinh, sinh viên có tình
trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài
bão, lập thân, lập nghiệp vì tương lại của bản thân và đất nước.



2

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có nhiều, song trước hết là do
thời gian qua chúng ta chưa quan tâm đúng mức tới việc giáo dục đạo đức cho
học sinh. Nhiều gia đình hầu như "khoán trắng" việc giáo dục đạo đức con em
cho nhà trường. Nhiều trường học coi nhẹ giáo dục đạo đức, chỉ "lo" các môn
văn hóa, chạy theo thành tích, hình thức chủ nghĩa.
Để khắc phục tình trạng xuống cấp, suy thoái đạo đức ở một bộ phận
học sinh, đáp ứng nhiệm vụ và mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ phát triển toàn
diện Đức - Trí - Thể - Mỹ, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm, tăng cường và nâng
cao hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân
nói chung và đặc biệt cho thanh, thiếu niên ở lứa tuổi học sinh nói riêng.
Giáo dục đạo đức cho lứa tuổi học sinh cần phải xem xét ở những góc
độ, phương diện khác nhau. Trong đó việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức và vận dụng một cách sáng tạo trong giáo dục đạo đức có một ý
nghĩa vô cùng to lớn.
Ý thức được điều đó, ngày 7-11-2006, Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 06/CT/TW về việc tổ chức cuộc vận động
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Mục đích của cuộc vận động lớn này như chỉ thị đã nêu ra là:
Làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những
nội dung cơ bản và có giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội. Đặc biệt là
trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, học sinh... Nâng cao đạo đức
cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy
thoái về chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội, góp phần
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng [10].
Cuộc vận động này đã được triển khai rộng khắp trong các địa
phương, ban ngành, trường học. Là một giáo viên giảng dạy môn Giáo dục



3

công dân (môn liên quan trực tiếp đến giáo dục đạo đức) ở một trường phổ
thông trung học Hà Nội, đã được trang bị một cách có hệ thống về chuyên
ngành Hồ Chí Minh học, tôi chọn đề tài: "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức vào việc giáo dục đạo đức cho học sinh các trường phổ thông
trung học ở Hà Nội hiện nay" làm luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, với hy
vọng góp một phần nhỏ vào giải quyết vấn đề đang bức xúc hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Năm 1991, công tác nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng,
Nhà nước quan tâm chỉ đạo. Chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước
KX.02 giai đoạn 1991 - 1995 gồm 13 đề tài, nhưng chưa có đề tài nào nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên.
Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết đã có một số cuộc hội thảo và một số công
trình được xuất bản gần đây có liên quan đến đề tài là:
- Năm 1985, Bảo tàng Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học: Bác
Hồ với công tác giáo dục thanh niên. Một số tham luận sau đó đã được chỉnh
lý, biên tập và xuất bản thành sách Bác Hồ với sự nghiệp bồi dưỡng thế hệ
trẻ, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1985.
- Trong dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Viện
Khoa học Giáo dục Việt Nam, Viện Nghiên cứu Thanh niên, Học viện Thanh
thiếu niên, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức hội thảo khoa học: Chủ
tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục - đào tạo; các bản tham luận đã
được tập hợp thành cuốn sách kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1990.
- Vân Tùng: "Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Đoàn Nam Đàn: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên",

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.


4

- Trần Quy Nhơn: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên
trong cách mạng Việt Nam", Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2003.
- Đặng Quốc Bảo, Tuổi trẻ cống hiến và trưởng thành, Nxb Thanh
niên, Hà Nội, 1997.
- Vũ Oanh, Tập hợp đoàn kết rộng rãi thanh niên vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Nxb Thanh niên, Hà
Nội, 1995.
- Vũ Quang, Đảng giáo dục và rèn luyện thanh niên ta, Nxb Thanh
niên, Hà Nội, 1990.
- Vấn đề thanh niên và dự báo (2 tập), Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1994.
- Hồ Đức Việt, Thanh niên với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1996.
...
Các công trình trên đã đề cập tới một số khía cạnh của tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức trong việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên.
Tuy nhiên, các công trình đó mới chỉ nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên nói chung và hầu như chưa có
công trình nào trực tiếp nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh vào việc giáo dục đạo đức cho đối tượng là học sinh phổ thông trung
học. Song những công trình, đề tài khoa học và những bài viết trên là tài liệu
quý để tác giả tham khảo trong quá trình viết luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và vấn đề
giáo dục đạo đức cho học sinh lửa tuổi phổ thông trung học, khảo sát thực

trạng đạo đức và việc giáo dục đạo đức cho đối tượng này ở Hà Nội thời gian


5

qua, luận văn luận giải về sự vận dụng tư tưởng đó của Người nhằm nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho học sinh trong các trường phổ thông
trung học ở Hà Nội hiện nay.
Nhiệm vụ
- Khảo sát và đánh giá thực trạng đạo đức và công tác giáo dục đạo
đức cho học sinh các trường phổ thông trung học ở Hà Nội trong những năm
đổi mới.
- Đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh các trường phổ thông
trung học ở Hà Nội trong điều kiện hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ đề tài, luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức thể hiện trong những bài nói, bài viết của Người; tình
hình công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên các trường phổ thông trung
học ở Hà Nội, để từ đó vận dụng vào thực tiễn trong công tác quan trọng này
cho các trường phổ thông trung học ở Thủ đô.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ.
Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp văn bản học và
điều tra xã hội học, phương pháp phân tích và tổng hợp.
5. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn



6

- Hệ thống hóa được tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về đạo đức,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên
học sinh phổ thông trung học ở Hà Nội hiện nay.
- Khái quát tình hình đạo đức và công tác giáo dục đạo đức ở các
trường phổ thông trung học ở Hà Nội hiện nay; sự cấp thiết phải tăng cường
đổi mới công tác giáo dục đạo đức cho học sinh phổ thông trung học.
- Những giải pháp vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vào giáo
dục đạo đức cho học sinh các trường phổ thông trung học ở Hà Nội hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp một tiếng nói nhỏ vào công tác giáo dục đạo đức cho thanh
thiếu niên trong các trường phổ thông hiện nay.
- Kết quả của luận văn có thể dùng tham khảo trong giảng dạy về tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức trong các trường học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương, 7 tiết.


7

Chương 1
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO THANH NIÊN

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ VAI TRÒ CỦA THANH NIÊN VÀ VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH

MẠNG CHO THANH NIÊN

Hệ thống các quan điểm trong tư tưởng của một vĩ nhân là sản phẩm
của nhận thức trong quá trình hoạt động của chính vĩ nhân đó, với những ảnh
hưởng và tác động khách quan và do yêu cầu của thực tiễn.
Ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, hành trang tư tưởng
của người thanh niên Nguyễn Tất Thành là truyền thống yêu nước, chống
ngoại xâm của quê hương và dân tộc qua hàng ngàn năm lịch sử. Truyền
thống ấy không đơn thuần là động lực tinh thần, là tình cảm mà được đúc kết
thành chủ nghĩa yêu nước đậm nét đặc trưng của dân tộc Việt Nam, đã trở
thành yêu cầu hàng đầu trong chuẩn mực đạo đức của mọi người Việt Nam
yêu nước.
Sự thống trị, áp bức của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai,
cảnh dân tộc bị đắm chìm trong nô lệ, mất nước là nhân tố thúc giục người
thanh niên Nguyễn Tất Thành trong những thập niên đầu thế kỷ XX. Đó cũng
là yếu tố quan trọng chi phối những hoạt động sau này, tạo nên những nhân tố
hình thành tư tưởng nói chung, tư tưởng về đạo đức và vấn đề giáo dục đạo
đức nói riêng trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng đạo đức, chúng ta thấy Người vừa mang
dáng dấp cốt cách của nhà hiền triết phương Đông, vừa có cốt cách của văn
hóa đạo đức phương Tây. Tư tưởng đạo đức của Người vừa mang dấu ấn đậm
nét truyền thống văn hóa đạo đức dân tộc Việt Nam, vừa gần gũi với văn hóa,


8

đạo đức của các dân tộc khác. Từ truyền thống văn hóa Việt Nam, trong đó
nổi bật là tinh thần yêu nước, đoàn kết cộng đồng và lòng nhân ái vị tha,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại
và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX. Đó là

bước ngoặt cơ bản trong quá trình phát triển tư tưởng của Người, nhất là quá
trình bổ sung, phát triển tư tưởng đạo đức. Những quan điểm của Người về
cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với những quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về cách mạng vô sản; đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, Người sớm khẳng định độc lập dân
tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân tộc trong mối liên quan với quốc
tế.
Khó có thể nói chính xác Hồ Chí Minh bắt đầu đọc những tác phẩm
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin ở thời gian nào, nhưng như Hồ Chí Minh
đã cho biết, khi được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của Lênin đăng trên báo L'Hummanité giữa tháng 71920, Người đã tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người
"mừng đến phát khóc lên". Ngồi một mình trong buồng, Người nói to lên
như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau
khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng
ta". Kể từ thời điểm đó, Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ
ba và chắc chắn rằng cũng kể từ đây, Người đã rất chú trọng việc tìm hiểu,
nghiên cứu các quan điểm của Mác, Ăng ghen, Lênin để xác định thế giới
quan và phương pháp luận khoa học, đúng đắn, nhằm hoạch định đường lối
cứu nước, giải phóng dân tộc và sau này là đường lối bảo vệ Tổ quốc, xây
dựng đất nước.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử của sự kế tục các thế
hệ nối tiếp nhau. Trong quá trình phát triển ấy, vai trò có ý nghĩa quyết định
của tri thức, của việc giáo dục, bồi dưỡng tri thức cho các thế hệ kế thừa là
điều không ai có thể phủ nhận. Một trong những nhân tố dẫn tới thành công


9

của cách mạng, của công cuộc dựng nước và giữ nước ở mỗi quốc gia - dân
tộc là thành quả của công tác giáo dục thế hệ trẻ nói chung, của công tác giáo

dục văn hóa đạo đức nói riêng. C.Mác có lý và có cơ sở lịch sử khoa học khi
nói rằng "giai cấp công nhân là bộ xương của mỗi cơ thể dân tộc", rằng
"thanh niên là cội nguồn sức sống của dân tộc". Và, luận điểm nổi tiếng của
C.Mác là: "Tương lai của giai cấp công nhân và do đó, tương lai của nhân loại
phụ thuộc vào công tác giáo dục các thế hệ công nhân đang lớn lên" [17, tr.
118]. C.Mác nói rõ: Thanh niên không thể đứng ngoài chính trị, không bao
giờ thờ ơ trước những biến đổi của xã hội, không bao giờ thỏa mãn với lý
tưởng mà thế hệ đi trước truyền lại mà hơn thế, họ muốn tự do hành động và
vươn tới cái mới và sẵn sàng hiến dâng thân mình vì cái mới, vì sự tiến bộ. Vì
vậy thanh niên là nguồn sinh lực chiến đấu của cách mạng, là nguồn bổ sung
dồi dào nhất cho Đảng Cộng sản.
Đánh giá cao khả năng tìm tòi, sáng tạo của thanh niên, V.I. Lênin
khẳng định rõ, thanh niên là thế hệ kế tiếp và sẽ hoàn thành xuất sắc những
nhiệm vụ của cách mạng, phấn đấu vươn tới mục tiêu cuối cùng của cách
mạng mà các thế hệ đi trước chưa kịp hoàn thành. Vấn đề cực kỳ quan trọng
là đảng cộng sản phải tổ chức giáo dục, bồi dưỡng để thanh niên luôn có ý
thức rèn luyện, phấn đấu vươn tới lý tưởng cách mạng cao đẹp, trong sáng;
biết đấu tranh chống lại những gì là biểu hiện của tư tưởng lạc hậu, phản động.
V.I. Lênin viết: "Là người cộng sản tức là phải tổ chức và đoàn kết toàn thể
thế hệ thanh niên, phải làm gương mẫu về giáo dục và lý luận trong cuộc đấu
tranh. Lúc đó, các đồng chí mới có thể bắt đầu và hoàn thành công cuộc xây
dựng lâu dài của xã hội cộng sản chủ nghĩa". Theo Lênin, việc định hướng chính
trị cho thanh niên là điều kiện cực kỳ quan trọng nhằm chuyển hóa năng lực
của thanh niên từ tiềm tàng trở thành hành động cách mạng thực tiễn. Đối với
thanh niên và các tổ chức cách mạng của thanh niên do đảng lãnh đạo, Lênin
yêu cầu:


10


Phải tổ chức hoạt động thực tiễn của mình thế nào để khi
học tập, khi tập hợp nhau lại, khi đấu tranh, các tầng lớp thanh niên
tự giáo dục mình đồng thời cũng giáo dục cho tất cả những ai đã
công nhận họ là người dẫn đường chỉ lối để trở thành những người
cộng sản. Phải làm cho toàn bộ sự nghiệp giáo dục, rèn luyện, dạy
dỗ thanh niên ngày nay trở thành sự nghiệp giáo dục đạo đức cộng
sản trong thanh niên [17, tr. 244].
Từ giữa những năm 20 của thế kỷ trước, tại lớp đào tạo bồi dưỡng cán
bộ do Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tổ chức ở Quảng Châu (Trung
Quốc), Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin" [21, tr. 268]. Tuy nhiên, quá trình tiếp thu, vận dụng lý luận
Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh không hề giáo
điều, máy móc, kinh viện mà vận dụng một cách rất sáng tạo và có những
phát triển hết sức độc đáo. Những vấn đề lý luận trừu tượng, phức tạp được
Người dẫn giải rất giản dị, dễ hiểu, dễ thực hiện. Đặc trưng của Hồ Chí Minh
trong tư duy là luôn gắn lý luận với thực tiễn, thực tiễn hóa những vấn đề lý
luận trừu tượng; các quan điểm về văn hóa đạo đức của Mác, Lênin được
người gắn kết chặt chẽ với truyền thống văn hóa đạo đức của phương đông,
của dân tộc Việt Nam. Người từng nói: học chủ nghĩa Mác - Lênin là để xác
định rõ lập trường tư tưởng, học để tìm ra phương pháp luận; "phải học tập
tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin; học tập lập trường quan điểm và phương
pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường và phương pháp ấy mà
giải quyết tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng..." [27, tr. 497].
Với quan điểm chỉ đạo ấy, trong suốt cuộc đời hoạt động, Hồ Chí Minh luôn
đề cao vấn đề độc lập trong tư duy, tự do về tư tưởng. Người thường xuyên
quán triệt yêu cầu cao nhất đối với cán bộ, đảng viên, với các tầng lớp nhân
dân yêu nước là phải có tinh thần hết lòng vì tổ quốc, vì nhân dân; tự kiêu, tự
mãn, tự tư tự lợi, tham ô lãng phí quan liêu là trái với chủ nghĩa Mác - Lênin.



11

Người cũng nhiều lần nói rõ chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là khoa học, là
tinh hoa văn hóa, lý trí... mà còn là tình cảm, lòng nhân ái. Đó là tính giai cấp,
tính cộng đồng dân tộc, tình làng nghĩa xóm, tình đồng chí anh em, tình đoàn
kết quốc tế, tình nhân loại. "Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có
nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được". Tìm hiểu quan điểm
của Hồ Chí Minh về đạo đức và vấn đề giáo dục đạo đức, chúng ta thấy rất rõ
nét điều này. Trong lời mở đầu tác phẩm Đường kách mệnh, Người nêu 23
điểm về Tư cách của một người cách mệnh. Đó là nội dung khái quát về đạo
đức, phong cách ứng xử, thái độ và trách nhiệm của người cán bộ cách mạng;
là những yêu cầu chung đối với mọi người dân yêu nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là sự phản ánh của đời sống xã hội
Việt Nam, nếu không đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với truyền thống đạo
đức dân tộc nói riêng và truyền thống văn hóa đạo đức phương Đông nói
chung thì không thể hiểu được tư tưởng đạo đức của Người chứ chưa nói tới
việc học tập, vận dụng.
Vì đề cao đạo đức, trọng đạo đức nên người dân Việt Nam đều tôn
vinh những người có công trong việc giữ làng, giữ nước và coi đó là những
tấm gương sáng về đạo đức. Người Việt Nam có truyền thống uống nước nhớ
nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây và đòi hỏi mọi người phải thường xuyên
tu dưỡng đạo đức để phục vụ việc giữ nước, giữ làng, giữ gìn thuần phong,
mỹ tục và nền nếp trong cuộc sống đời thường. Nói đến truyền thống văn hóa
đạo đức phương Đông phải nói tới học thuyết của Khổng Tử về chính trị - đạo
đức, những quan niệm về đạo đức của Nho giáo, Phật giáo. Tuy các quan
niệm này có hạn chế là thuộc hệ tư tưởng phong kiến, phục vụ bộ máy thống
trị của chính quyền phong kiến, nhưng đề cao việc tu thân - tu dưỡng đạo đức
cá nhân, đề cao tinh thần yêu quý con người, cần cù, giản dị, tiết kiệm... Đó là
mặt tích cực mà các thế hệ cần kế thừa, phát triển.



12

Trong những năm tháng hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh có hơn
chục năm sống ở các nước tư bản lớn như Pháp, Anh, Mỹ... Người không chỉ
tiếp thu những tinh hoa văn hóa phương Tây mà còn chịu ảnh hưởng của
những quan điểm tư tưởng về đạo đức, trong đó nổi bật nhất là tư tưởng
khoan dung, nhân ái, thương người của Cơ đốc giáo. Người từng nói: "Tôn
giáo Giêsu có ưu tiên là lòng nhân ái cao cả". Những quan điểm nhân văn của
thời kỳ Phục hưng, dân chủ của thế kỷ Ánh sáng; những quan điểm về dân
chủ, dân quyền và công dân quyền của cách mạng tư sản Anh, cách mạng tư
sản Pháp - những bước phát triển của chủ nghĩa nhân văn phương Tây đã
được Hồ Chí Minh tiếp thu, chắt lọc và nâng lên tầm cao mới khi Người đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin. Tình thương yêu con người, quý trọng con người
được Người chuyển hóa, nâng lên thành tình thương yêu đoàn kết của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động quốc tế, thương yêu đồng bào mình, dân tộc
mình. Từ khát vọng giải phóng đồng bào mình khỏi sự áp bức bất công được
nâng lên thành giải phóng dân tộc, tiến tới giải phóng con người và loài
người.
Rõ ràng là tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức không chỉ là sự kế thừa
truyền thống văn hóa đạo đức dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
nhân loại, cả phương Đông và phương Tây mà còn vận dụng phép biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin để bổ sung, phát triển, thực tiễn hóa trong
cách mạng Việt Nam. Người đã nêu lên thành hệ thống các quan điểm đạo
đức mới cho từng đối tượng cụ thể, phù hợp với tâm lý truyền thống, làm
thăng hoa truyền thống văn hóa đạo đức, tính nhân văn, nhân ái của dân tộc
Việt Nam.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA THANH NIÊN
TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG


1.2.1. Về vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng và dân tộc


13

Tổ chức nào, giai cấp nào lôi kéo được thanh niên, tổ chức được thanh
niên chiến đấu dưới ngọn cờ của mình, tổ chức ấy, giai cấp ấy sẽ giành chiến
thắng. Đó là bài học kinh nghiệm không bao giờ cũ, là điều có tính quy luật.
Trong bản Di chúc lịch sử, viết về "đoàn viên và thanh niên ta", Hồ
Chí Minh căn dặn:
Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng
hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ, Đảng cần phải
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những
người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất
quan trọng và rất cần thiết [31, tr. 510].
Không phải trước khi về với thế giới người hiền Hồ Chí Minh mới
khẳng định vấn đề này, mà Người nhận thức rõ vai trò của thanh niên, ý nghĩa
và tầm quan trọng của việc thức tỉnh thanh niên, giáo dục và bồi dưỡng thế hệ
thanh niên từ rất sớm.
Từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã viết: "Hỡi
Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất nếu đám thanh niên già cỗi
của Người không sớm hồi sinh" [21, tr. 133]. Tạm biệt các bạn cùng hoạt
động ở Pháp (1923), Hồ Chí Minh nói rõ: Nhiệm vụ của tôi là trở về nước, đi
vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, tổ chức và huấn luyện họ, đưa họ
ra đấu tranh. Và trước hết, Người nhằm vào thanh niên. Cuối năm 1924, Hồ Chí
Minh tới Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người đã cải tổ Tâm Tâm xã một tổ chức của thanh niên cấp tiến Việt Nam đang hoạt động ở miền Nam
Trung Quốc và lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Trên cơ sở đó,

từng bước một tiến lên thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến hành xây dựng,
tổ chức, chuẩn bị lực lượng, tiến tới giành lại nền độc lập dân tộc trong Cách
mạng tháng Tám 1945, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc Việt Nam.


14

Rõ ràng là trong tư tưởng chỉ đạo, trong tổ chức hoạt động thực tiễn,
quan điểm của Hồ Chí Minh là: Muốn thức tỉnh dân tộc thì trước hết và trọng
tâm là thức tỉnh thanh niên, phải tổ chức, giáo dục và bồi dưỡng thanh niên.
Đây là quan điểm tư tưởng rất nhất quán của Người trong các thời kỳ cách
mạng sau đó và trở thành một bộ phận cực kỳ quan trọng trong tư tưởng của
Người về "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau".
Theo Hồ Chí Minh, vai trò quan trọng, to lớn của thanh niên trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc thể hiện ở một số điểm lớn sau đây:
Thứ nhất, thanh niên là lực lượng quyết định vận mệnh của dân tộc,
tương lai của đất nước.
Đánh giá cao vị trí, vai trò của họ đối với vận mệnh của dân tộc và
cách mạng, từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra nhận định rất sắc sảo và
khoa học về vai trò của thanh niên khi Người viết: "Chủ nghĩa dân tộc đã hiện
đại hóa khi chuyển từ giới thượng lưu này sang giới thượng lưu khác. Chính
thanh niên Việt Nam ngày nay đang chỉ đạo nó". Chỉ ít ngày sau Tuyên ngôn độc
lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong Thư gửi học sinh nhân
ngày khai trường, Người viết: "Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay
không, dân tộc Việt Nam có được vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu
hay không, chính là nhờ một phần rất lớn ở công học tập của các em" [23, tr. 33].
Năm 1947, giữa lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đang
diễn ra khốc liệt, Người lại khẳng định: "Thanh niên là người chủ tương lai
của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn
là do các thanh niên" [24, tr. 185]. Vấn đề cốt tử như Người đã chỉ rõ là ở chỗ

Đảng, Nhà nước phải hiểu thanh niên, tin thanh niên, chăm lo giáo dục và dìu
dắt họ. Hồ Chí Minh cũng yêu cầu thanh niên phải tự mình phấn đấu học tập,
rèn luyện để nắm lấy tri thức, bồi dưỡng ý chí, nghị lực và tinh thần cách
mạng. Trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ác liệt, rất
nhiều khó khăn khi tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng là


15

xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng miền Nam, nhưng bằng
sự nhìn nhận đánh giá khả năng cách mạng to lớn và quyết định của thanh
niên, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lạc quan và vững tin vào thắng lợi của cách
mạng Việt Nam: Với một thế hệ thanh niên hăng hái và kiên cường, chúng ta
nhất định thành công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc. Với một thế hệ như vậy thì tương lai của đất nước, tiền
đồ của dân tộc sẽ "vô cùng vững chắc và vẻ vang".
Thứ hai, thanh niên là lực lượng to lớn trong sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước.
Trong những hoàn cảnh gian nan, thử thách của dân tộc và cách mạng,
các thế hệ thanh niên nước ta đã sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ hy sinh,
đảm nhận những nhiệm vụ nặng nề, khó khăn nhất trên mặt trận chiến đấu
cũng như xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Hồ Chí Minh nhiều lần nói rõ:
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và trong sự nghiệp cách mạng do Đảng
lãnh đạo, đã có hàng triệu thanh niên hăng hái xung phong ở tuyến đầu của
cuộc chiến đấu, nhiều thanh niên đã trở thành cán bộ trung kiên của Đảng;
nhiều anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh anh dũng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
đều ở tuổi đời còn rất trẻ như: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Lý Tự
Trọng, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ v.v... Các đồng chí là những
tấm gương sáng chói cho mọi thế hệ thanh niên sau này học tập và noi theo.
Trong thư gửi Hội Nhi đồng cứu quốc các địa phương tháng 10 năm

1945, Hồ Chí Minh khen ngợi các cháu Thiếu nhiên nhi đồng đã nhịn ăn quà
để góp tiền vào Quỹ độc lập: "Tôi thay mặt cho đồng bào lớn tuổi mà cảm ơn
các cháu. Các cháu đã tỏ ra là những cháu chắt rất xứng đáng của tổ tiên
Hồng Lạc, và rất xứng đáng là "tiểu chủ ông" của nước nhà" [23, tr. 51].
Tại lễ kỷ niệm lần thứ 35 ngày thành lập Đoàn Thanh niên lao động
Việt Nam, tháng 3 năm 1966, Hồ Chí Minh đã nói rõ niềm tin tưởng của mình
vào thế hệ thanh niên: "Ngày nay trông thấy có hàng triệu đoàn viên thanh


16

niên, hàng triệu cháu bé nhi đồng phát triển mơn mởn như hoa nở mùa xuân.
Với một thế hệ thanh niên hăng hái và kiên cường, chúng ta nhất định thành
công trong sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc" [31, tr. 66-67].
Thứ ba, thanh niên là đội quân xung kích trên các mặt trận
Theo Hồ Chí Minh, thanh niên là đại biểu cho tinh thần tự tôn, tự lập
của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, là "chủ lực quân", là "lực lượng cơ bản
trong bộ đội, công an và dân quân tự vệ đang hăng hái giữ gìn trật tự, trị an,
bảo vệ Tổ quốc" [30, tr. 504]. Trong mọi công việc, thanh niên là lực lượng
luôn thực hiện khẩu hiệu: "Đâu Đảng cần thì thanh niên có, việc gì khó thì có
thanh niên làm" [30, tr. 504]. Vì vậy, Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm tới
thanh niên, biểu dương những việc làm tốt, những hành động anh hùng, dũng
cảm, sáng tạo của họ. Người nói rõ: "Khắp thành thị, nông thôn, miền xuôi, miền
núi, thanh niên ta ngày nay đã thành một đội quân to lớn, hăng hái tiến lên,
quyết tâm phấn đấu, hy sinh vì Tổ quốc thân yêu, vì tiến bộ xã hội" [30, tr. 504].
Từ năm 1946, Hồ Chí Minh đã giao nhiệm vụ cho "Liên đoàn thanh niên Việt
Nam" là động viên tất cả mọi tầng lớp thanh niên hăng hái tham gia phong
trào toàn quân giết giặc, đánh du kích, tăng gia sản xuất và thực hành tiết
kiệm. Theo yêu cầu của cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh sớm đề ra chủ trương

thành lập các Đội Thanh niên xung phong phục vụ chiến trường. Người yêu
cầu nhiệm vụ của Đội Thanh niên xung phong là: "Xung phong mọi việc bất
kỳ việc khó, dễ và phục vụ cho đến kháng chiến thành công" [26, tr. 162].
Tháng 4 năm 1951, Người viết thư khen ngợi thanh niên quân đội,
thanh niên công nhân, thanh niên nông dân, thanh niên học sinh, thanh niên
xung phong, nêu rõ nhiệm vụ của thanh niên: "Huy hiệu của thanh niên ta là
"Tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên". Ý nghĩa của nó là thanh niên phải xung
phong làm gương mẫu trong công tác, trong học hỏi, trong tiến bộ, trong đạo


17

đức cách mạng. Thanh niên phải thành một lực lượng to lớn và vững chắc
trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc" [25, tr. 197].
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò xung kích đi đầu của thanh niên
trong hành động cách mạng. Vai trò xung kích trước hết phải được thể hiện:
"Việc gì khó có thanh niên, ở đâu khó có thanh niên" [27, tr. 94]. Người hiểu
rõ, sự nghiệp cách mạng càng phát triển thì càng đòi hỏi thanh niên thực hiện
tốt hơn vai trò xung kích của mình. Người khẳng định: "Thời đại này là thời
đại vẻ vang của thanh niên. Mà thanh niên phải là đội xung phong trên các
mặt trận chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật" [29, tr. 390].
Để đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi , Hồ Chí Minh kêu
gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước dũng cảm tiến lên, hăng hái thi đua sản xuất
và chiến đấu. Người kêu gọi thanh niên thực hiện tốt hơn vai trò xung kích
của mình; thanh niên gái cũng như trai hãy thực hiện tốt "ba sẵn sàng", xung
phong hiến dâng tất cả tinh thần và lực lượng của tuổi trẻ cho sự nghiệp
chống Mỹ cứu nước, cho Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, ở miền Bắc, thanh niên hăng hái thi
đua trên mọi mặt trận sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng, khoa
học kỹ thuật, văn hóa, y tế... Ở miền Nam, hàng triệu thanh niên sôi nổi tham

gia phong trào "Năm xung phong", với tinh thần dũng cảm, mưu trí, các nữ
thanh niên đã đóng góp tích cực vào những cuộc đấu tranh của "đội quân tóc
dài", thanh niên là học sinh, sinh viên luôn là lực lượng châm ngòi cho các
phong trào đấu tranh chính trị... Những cống hiến to lớn của thanh niên đã
đóng góp một phần làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975.
Thứ tư, thanh niên là đội hậu bị, cánh tay phải đắc lực của Đảng.
Người nói rõ: Thanh niên luôn luôn đi đầu trong việc thực hiện đường
lối do Đảng đề ra, là nguồn bổ sung cho đội ngũ của Đảng những người trẻ,
khỏe ngày càng đông, càng mạnh. Theo Người: "Trong mọi công việc thanh


18

niên ta luôn luôn hăng hái xung phong vào họ xứng đáng là cánh tay đắc lực
của Đảng" [29, tr. 271].
Nói về chức năng, nhiệm vụ của Đoàn, Người chỉ rõ: "Đoàn thanh
niên là cánh tay và đội hậu bị của Đảng, là người phụ trách dìu dắt các em nhi
đồng" [31, tr. 65]. Đoàn thanh niên là tổ chức gần gũi Đảng, lại là lực lượng
tích cực, gương mẫu trong mọi việc thực hiện những chủ trương, chính sách,
là lực lượng kế thừa sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, là người bổ
sung thường xuyên đảng viên trẻ cho Đảng, là người trực tiếp giúp Đảng giáo
dục chủ nghĩa cộng sản cho thanh niên, vận động thanh niên đi theo lý tưởng
của Đảng, đồng thời lôi cuốn, tập hợp đông đảo thanh niên xung phong vào
những nơi khó khăn gian khổ nhất. Đoàn là người chịu trách nhiệm chính
giúp Đảng trong việc phụ trách, dìu dắt thiếu niên nhi đồng.
Đoàn kết, tập hợp thanh niên là một công tác rất lớn, một nhiệm vụ rất
quan trọng của Đoàn mà Hồ Chí Minh luôn căn dặn phải thực hiện cho tốt.
Người chỉ ra rằng muốn xây dựng và phát triển Đoàn thanh niên thành một
lực lượng vững chắc trước hết phải đoàn kết, tập hợp rộng rãi các tầng lớp
thanh niên, tránh cô độc, hẹp hòi.

Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, Đoàn thanh niên cần thường
xuyên quan tâm công tác xây dựng Đoàn vững mạnh. Người nêu rõ: "Tổ chức
của Đoàn phải rộng hơn Đảng" [29, tr. 284]. Đoàn phải được tổ chức chặt chẽ
từ Trung ương xuống các cơ sở, phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn
có đủ phẩm chất và năng lực vì muôn việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém. Muốn tập hợp rộng rãi, thu hút đông đảo thanh niên, Đoàn
phải nghiên cứu tìm ra nhiều hình thức và phương pháp thích hợp để đoàn kết
và tổ chức thanh niên một cách rộng rãi và vững chắc.
Hồ Chí Minh đề cao vai trò của Đoàn thanh niên cộng sản trong việc
tổ chức, tập hợp, đoàn kết, giáo dục thanh niên, đồng thời, Người chủ trương
tập hợp lớp trẻ trong nhiều tổ chức đa dạng, nhằm thu hút lôi cuốn đông đảo


19

thanh niên thuộc nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội tham gia
hoạt động chính trị, xã hội, thông qua đó để thanh niên được giác ngộ, được
giáo dục, được cống hiến và trưởng thành. Mặt khác, thông qua các tổ chức đó,
Đảng nắm được lực lượng thanh niên, phát huy tốt vai trò thanh niên trong sự
nghiệp cách mạng, chống lại âm mưu của các thế lực thù địch tìm mọi cách
phá hoại phong trào thanh niên, muốn đẩy thanh niên xa rời Đảng, xa rời cách
mạng.
1.2.2. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng và thường xuyên chăm lo
việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên và vấn đề bồi dưỡng
"thế hệ cách mạng cho đời sau"
Vai trò, sức mạnh, khả năng của thanh niên như Hồ Chí Minh khẳng
định đã được thực tiễn lịch sử cách mạng minh chứng: Thanh niên đã được
thử thách trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc, xây dựng đất nước và có những đóng góp cực kỳ to lớn trong sự nghiệp
cách mạng do Đảng lãnh đạo. Nhưng, như Hồ Chí Minh đã khẳng định: Các

thế hệ trẻ sau này có thể kế thừa, tiếp nối và phát huy thành quả cách mạng
mà các thế hệ cha anh đã giành được hay không còn phụ thuộc rất nhiều ở
việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau về lý tưởng mà Đảng đã lựa
chọn, ở việc làm gương của các thế hệ đi trước.
Sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc là lâu dài, gian khổ mới
đạt tới, nhưng cuộc đời mỗi con người thì có hạn. Người thường nói: "Theo
quy luật tự nhiên, già thì phải yếu, yếu thì phải chết. Nếu không có cán bộ
mới vào thì ai gánh vác công việc của Đảng". Vì vậy, chăm lo "bồi dưỡng thế
hệ cách mạng cho đời sau" được Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng trong suốt
cuộc đời hoạt động của mình.
Để chuẩn bị đội ngũ cán bộ cách mạng, năm 1925, Người lập ra Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên, chọn thanh niên ở trong nước để mở lớp tập


20

huấn họ tại Quảng Châu (Trung Quốc). Người cũng đã cử một số thanh niên
ưu tú gửi vào học Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở
Mátxcơva, Trường Quân sự Hoàng Phố. Một số đồng chí sau này đã trở thành
những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà
Huy Tập - các Tổng Bí thư của Đảng khi tuổi đời còn rất trẻ.
Theo Hồ Chí Minh, đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cách mạng
cho thanh niên không phải là nói những điều lý thuyết chung chung. Người yêu
cầu: Đạo đức cách mạng phải được thể hiện trong hành động cách mạng của
thanh niên. Giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên là làm cho thanh niên
thấm nhuần những quy tắc, chuẩn mực đạo đức của xã hội mới; phải biến những
quy tắc, chuẩn mực đó thành niềm tin, thành hành động cách mạng thực tiễn.
Hồ Chí Minh lưu ý việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên
phải là một quá trình thường xuyên từ thấp đến cao. Giai đoạn sau phải biết
kế thừa có chọn lọc những phẩm chất đạo đức tốt đẹp đã được hình thành từ

giai đoạn trước, biết tìm cách khắc phục, ngăn chặn những thói hư tật xấu khi
vừa chớm nở. Việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên còn thể hiện ở
chỗ, mỗi giai đoạn cách mạng đòi hỏi phải có những nội dung và biện pháp
giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm lý, tính cách của thanh niên; phải được
tiến hành thông qua các hoạt động của phong trào thanh niên, thông qua việc
học tập, lao động, công tác xã hội, vui chơi, văn nghệ, thể dục thể thao... trong
tập thể, ở gia đình và nhà trường. Người đã từng chỉ rõ: "Đạo đức cách mạng
không phải là từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng
ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong" [28, tr. 293].
Điều có tính quy luật trong lịch sử phát triển xã hội là sự kế tục của
các thế hệ nối tiếp nhau, là kết quả tổng hợp của các thế hệ, mỗi thế hệ một mặt
tiếp tục những kinh nghiệm và tri thức của thế hệ đi trước, mặt khác làm thay
đổi nó bằng tri thức mới và hoạt động mới nhằm đáp ứng đúng yêu cầu,


21

nhiệm vụ của thế hệ mới và thời kỳ mới. Thanh niên Việt Nam đã thể hiện rõ
là thế hệ luôn kế tục truyền thống lịch sử của dân tộc, kế thừa xứng đáng
những thành tựu của các thế hệ cha ông để lại. Đó là nền độc lập dân tộc thành quả của sự hy sinh biết bao xương máu; là truyền thống văn hóa, đạo
đức nhân văn. Trong Thư gửi Chiến sĩ cảm tử quân Thủ đô, Hồ Chí Minh đã
khẳng định:
Các em cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu
cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái
tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt,
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng
Hoa Thám, truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái
tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời
về sau [24, tr. 35].

Trong tiến trình cách mạng Việt Nam từ năm 1930 trở lại đây, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, các thế hệ thanh niên Việt Nam đã thể hiện rõ vai trò to
lớn, đã có biết bao hy sinh, phấn đấu. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã nhiều lần khen
ngợi: Thanh niên Việt Nam là thế hệ anh hùng của dân tộc Việt Nam anh
hùng, của thời đại anh hùng.
Trong thực tế, không phải không có một số thanh niên chưa thực sự
coi trọng việc học lịch sử truyền thống dân tộc. Vì vậy, Hồ Chí Minh thường
xuyên nhắc nhở mọi người, nhất là thanh niên phải tích cực học lịch sử truyền
thống của ông cha. Người nhận xét: Sau ngày nước nhà độc lập, có một bộ
phận thanh niên dường như sao lãng việc tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử dân tộc,
không hiểu rõ về lịch sử đấu tranh anh hùng dựng nước và giữ nước của các
thế hệ cha ông. Người quan niệm, việc kế thừa, phát huy truyền thống trước
hết phải dựa trên sự hiểu biết về lịch sử đất nước và con người Việt Nam.
"Dân ta phải biết sử ta" như Người đã dạy còn bao hàm ý nghĩa đó.


22

Dân tộc ta trong quá trình dựng nước và giữ nước đã phải đương đầu
với nhiều "thiên tai, địch họa", không thể kể hết số người đã ngã xuống để
bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc qua các thời kỳ dựng nước và
giữ nước. Trong quá trình ấy, nổi lên những truyền thống tiêu biểu như: tinh
thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết, cần cù, hiếu học... Những
truyền thống đó được kết tinh và lưu truyền lại cho các thế hệ người Việt
Nam. Mặc dù mỗi thế hệ đi vào cuộc sống, hướng theo sự phát triển chung
của nhân loại và dân tộc, nhưng không thể không mang theo mình những giá
trị của quá khứ, truyền thống của dân tộc, tinh hoa của nhân loại mà thế hệ
trước đã tạo dựng và truyền lại. Trong dòng phát triển của lịch sử dân tộc, các
thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau đã biết kế thừa sáng tạo những di sản
quý báu của các thế hệ ông cha để tiến lên.

Hồ Chí Minh từng nói: Truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta là lòng yêu
nước, ý chí quật cường. Đó là các thứ của quý, "có khi được trưng bày trong
tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo
trong rương, trong hòm" [25, tr. 172], nhiệm vụ của chúng ta là phải phát hiện
ra các thứ của quý ấy, đem ra thực hành vào sự nghiệp cách mạng. Muốn vậy,
truyền thống dân tộc và cách mạng không những phải được kế thừa và phát
huy, mà còn được nâng lên một trình độ mới, chất lượng mới theo yêu cầu của
cách mạng trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: muốn giành độc lập cho dân tộc, đem lại độc
lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân không có con đường nào khác con
đường cách mạng. Còn đường ấy đầy chông gai, hy sinh và phải trường kỳ.
Cách mạng là sự nghiệp của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Việc chuẩn bị thế hệ
cách mạng kế tục là một quy luật đảm bảo cho cách mạng giành thắng lợi
trong mọi thời kỳ, thúc đẩy xã hội phát triển không ngừng.
Người xác định: trẻ em là măng non của Tổ quốc, là niềm hạnh phúc
của gia đình; thanh niên "là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên


23

già" [29, tr. 488]. Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, thế hệ trước phải có
trách nhiệm chuẩn bị lực lượng kế tục, đó chính là thế hệ thanh niên.
Việc chuẩn bị lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng cũng có nghĩa là
phải chăm lo giáo dục thanh niên thành lớp người kế tục trung thành, xuất sắc
của lớp trước. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh giáo dục đạo đức cách mạng cho
thanh niên là công việc quan trọng hàng đầu trong chiến lược đào tạo, bồi
dưỡng "thế hệ cách mạng cho đời sau". Người nói rõ: "Vì lợi ích mười năm
thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người" [28, tr. 222]. Việc
"trồng người" phải vì nhiệm vụ phục vụ lợi ích cách mạng, phải nhằm đạt tới
mục tiêu xây dựng con người hoàn thiện, đạt tới chân thiện mỹ. Đó chính là

nhân tố then chốt quyết định sự thành công của cách mạng, sự tiến bộ xã hội
và là tiền đề cho sự nghiệp chấn hưng đất nước, vì sự nghiệp giải phóng con
người và loài người.
Giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên là một bộ phận quan
trọng trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh - Vì con người, cho con người
bởi lẽ bao giờ Hồ Chí Minh cũng nói đến những đối tượng cụ thể. Tư tưởng
về con người của Hồ Chí Minh luôn luôn thể hiện rõ trong những quan điểm
của Người về cách ứng xử với con người, vì con người. Tin tưởng, quý trọng
con người, thương yêu con người; hướng con người vào những việc thiện cụ
thể như giúp người, cứu người hướng tới giải phóng con người là những quan
điểm chủ yếu trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh từng khẳng định: "Trong bầu trời không có gì quý bằng
nhân dân" [27, tr. 276]. Nói một cách khác - cái quý nhất trên đời là con
người. Đó là điều có tính chân lý. Tổng kết điều có tính chân lý ấy, Hồ Chí
Minh luôn thể hiện sự tin tưởng, quý trọng con người. Người nói rõ: "Trừ
bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân là những ác quỷ mà ta phải
kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý,
kính trọng, giúp đỡ" [24, tr. 644]. "Trọng nhân" theo Hồ Chí Minh trước hết


24

là "trọng nhân cách" con người. Vì mỗi con người đều có cái "thiện", cái
"ác" ở trong lòng; ai cũng có thể mắc khuyết điểm, sai lầm và đều phải "tự
phê bình" và "được phê bình" để sửa chữa, để "gột bỏ cái ác". Tuy nhiên, khi
"phê bình", Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "phê bình việc làm, chứ không phê
bình người" [23, tr. 48]. Đó là cho tính nhân văn cao cả trong quan điểm
"trọng nhân" của Hồ Chí Minh được thực hiện khá đầy đủ và trọn vẹn.
Phải làm gì để việc "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau" theo
tấm gương và lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh có hiệu quả hơn là vấn

đề cực kỳ quan trọng mà Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đặc biệt quan tâm.
Khi mà Liên Xô, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tan rã, phong trào cách mạng
đang ở thời kỳ thoái trào, những giá trị của chủ nghĩa xã hội hiện thực đang bị
xuyên tạc, bóp méo; sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán
bộ, đảng viên có chức có quyền... đã làm suy giảm niềm tin của thế hệ trẻ, đặc
biệt là của thanh niên vào tương lai của chủ nghĩa xã hội đang đặt ra những
vấn đề cực kỳ quan trọng mà Đảng, Nhà nước và toàn xã hội phải tìm ra đáp án.
Kiên trì con đường đổi mới định hướng theo chủ nghĩa xã hội, khẩu
hiệu "Tất cả vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh" là định hướng phấn đấu, định hướng và yêu cầu hàng đầu trong
chuẩn mực đạo đức cho mọi người dân Việt Nam yêu nước, đặc biệt là thanh
niên. Phải kiên quyết phê phán đấu tranh với việc hay "khuyến khích" việc lập
thân, lập nghiệp, làm giàu bằng mọi giá trên cơ sở bản năng tư hữu, ích kỷ,
tham lam trong mỗi con người mà cơ chế thị trường, nền kinh tế nhiều thành
phần đang kích thích hàng ngày, hàng giờ trỗi dậy.
Kế thừa và phát triển quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo
đức cách mạng cho thanh niên, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục khẳng định vị
trí, tầm quan trọng của giáo dục đạo đức cho thanh niên. Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) đã nêu rõ:


25

Đối với thế hệ trẻ, thường xuyên giáo dục chính trị, truyền
thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao
động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Khuyến khích thanh niên tự lực, tự nâng cao tay nghề,
tự tạo việc làm. Chú trọng bồi dưỡng người cán bộ, đào tạo thanh
niên trong lực lượng vũ trang có nghề khi hết hạn nghĩa vụ quân sự.
Tạo cơ hội cho thanh niên có tài năng đi học ở nước ngoài về phục

vụ đất nước. Thu hút rộng rãi thanh niên, thiếu niên và nhi đồng vào
các tổ chức do Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng
cốt và phụ trách [11, tr. 120].
...Phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học
sinh, sinh viên. Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát
vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp
bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học
sinh, sinh viên bản lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt
Nam hiện đại [11, tr. 207].
Văn kiện đã thể hiện sự nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc
chăm lo, bồi dưỡng thế hệ tương lai của dân tộc, một lực lượng xã hội to lớn
và là vốn quý của đất nước để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.3. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG CHO THANH NIÊN

1.3.1. Bồi dưỡng, đào tạo để thanh niên trở thành những người kế
tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc là mục đích, mục tiêu hàng
đầu của công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên
Loài người đã tổng kết những vấn đề lớn về việc dạy và học. Theo đó,
dạy tức là giúp người học có sự hiểu biết; trên cơ sở của sự hiểu biết, người


×