Tải bản đầy đủ (.doc) (191 trang)

Phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân sự các nhà trường quân đội trong điều kiện biến đổi kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.55 KB, 191 trang )

2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích
dẫn trong luận án là trung thực và có nguồn
gốc xuất xứ rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Vũ Xuân Cảnh


3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14


15

Biến đổi cơ cấu giai cấp
Biến đổi kinh tế - xã hội
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Học viện Hậu cần
Học viện Khoa học Quân sự
Học viện Kỹ thuật Mật mã
Học viện Kỹ thuật Quân sự
Học viện Quân y
Kinh tế thị trường
Nhà xuất bản
Toàn cầu hóa
Tư bản chủ nghĩa
Xã hội chủ nghĩa
Ý thức chính trị

CHỮ VIẾT TẮT
BĐCCGC
BĐKT-XH
CNXH
CNH, HĐH
HVHC
HVKHQS
HVKTMM
HVKTQS
HVQY
KTTT
Nxb

TCH
TBCN
XHCN
YTCT


4

MỤC LỤC
Trang

TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài luận án
1.2. Khái quát kết quả các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến
đề tài luận án và những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết
Chương 2 PHÁT TRIỂN Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN DÂN
SỰ CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI TRONG ĐIỀU KIỆN
BIẾN ĐỔI KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NƯỚC TA - MỘT SỐ VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
2.1. Quan niệm ý thức chính trị và phát triển ý thức chính trị của sinh
viên dân sự các nhà trường quân đội trong điều kiện biến đổi kinh tế
- xã hội ở nước ta
2.2. Đặc điểm phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân sự các nhà trường
quân đội trong điều kiện biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay

Chương 3 PHÁT TRIỂN Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN DÂN SỰ
CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI TRONG ĐIỀU KIỆN BIẾN ĐỔI
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY - THỰC TRẠNG
VÀ MỘT SỐ MÂU THUẪN CẦN GIẢI QUYẾT
3.1. Thực trạng phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân sự các nhà
trường quân đội trong điều kiện biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta hiện
nay
3.2. Một số mâu thuẫn cần giải quyết để phát triển ý thức chính trị của sinh
viên dân sự các nhà trường quân đội trong điều kiện biến đổi kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay
Chương 4 PHÁT TRIỂN Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN
DÂN SỰ CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI TRONG ĐIỀU
KIỆN BIẾN ĐỔI KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY - NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP
4.1. Nhân tố tác động đến phát triển ý thức chính trị của sinh viên
dân sự các nhà trường quân đội trong điều kiện biến đổi kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay
4.2. Giải pháp phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân sự các nhà
trường quân đội trong điều kiện biến đổi kinh tế - xã hội ở nước
ta hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

5
10
10
25

31

31
57

77
77
102

116
116
125
159
161
162
170


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Các nhà trường quân đội ngoài nhiệm vụ chính trị trung tâm là đào tạo đội
ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự, quân y, cán bộ hậu cần… phục vụ cho
quân đội; hiện nay, đã kết hợp nhiệm vụ quốc phòng với dân sinh đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Trong quá trình đào tạo, các nhà trường quân đội luôn có sự đòi hỏi cao về ý thức
chính trị. Đó cũng là yêu cầu về bản lĩnh chính trị của sinh viên dân sự ngay từ khi
còn ngồi trên ghế nhà trường, sự vững vàng về bản lĩnh chính trị là một bảo đảm
quan trọng đối với sự trưởng thành của mỗi sinh viên khi ra trường, cũng như đối
với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội có vai trò quan trọng trong

việc định hướng về chính trị trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội. Trong
thời đại ngày nay, ý thức chính trị của giai cấp công nhân là loại hình ý thức chính
trị tiên tiến định hướng cho quá trình tồn tại và phát triển của xã hội chủ nghĩa. Đối
với sinh viên dân sự các nhà trường quân đội, ý thức chính trị là cơ sở hình thành,
phát triển phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và năng lực chuyên môn. Vì vậy,
cùng với quá trình đào tạo chuyên môn, các nhà trường quân đội phải phát triển ý
thức chính trị của sinh viên dân sự để đào tạo ra những con người “vừa hồng, vừa
chuyên”, đáp ứng yêu xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân sự các nhà trường quân
đội là kết quả tác động tổng hợp của nhiều yếu tố. Trong đó biến đổi kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay là một yếu tố có ảnh hưởng vô cùng quan trọng.
Vấn đề này xuất phát từ vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị nói
chung, biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay đến phát triển ý thức chính
trị của sinh viên dân sự các nhà trường quân đội nói riêng. Biến đổi kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay tác động to lớn đến mọi mặt ý thức chính trị, hoạt


6

động chính trị, hành vi chính trị của từng tổ chức, từng con người Việt Nam.
Sinh viên dân sự các nhà trường quân đội không nằm ngoài cái chung đó. Sự
ảnh hưởng của biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay đến sự phát triển ý thức
chính trị của sinh viên dân sự các nhà trường quân đội diễn ra theo cả hai chiều
hướng tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực, sinh viên an tâm, có ý chí quyết tâm cao,
khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ học tập và rèn luyện,
tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và đường lối đổi mới toàn diện đất
nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo chấp hành nghiêm đường lối chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, ra sức phấn đấu trở thành người sinh viên
“vừa hồng, vừa chuyên”. Bên cạnh những mặt tích cực đó, biến đổi kinh tế - xã
hội ở nước ta hiện nay cũng có ảnh hưởng tiêu cực, kìm hãm sự phát triển ý thức
chính trị của sinh viên, biểu hiện một số sinh viên ý thức học tập, rèn luyện chưa
cao, chất lượng hiệu quả học tập rèn luyện còn thấp, cá biệt có sinh viên còn vi

phạm kỷ luật. Do những điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan, đặc thù của
ngành nghề đào tạo tác động, dẫn đến ý thức chính trị của bộ phận sinh viên vẫn
còn những hạn chế. Nội dung, chương trình giáo dục ý thức chính trị trong các
nhà trường quân đội còn tồn tại những hạn chế nhất định, thiếu chiều sâu, chưa
thiết thực. Việc nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển ý thức
chính trị của sinh viên dân sự chưa được chủ thể giáo dục trong các nhà trường
quân đội quan tâm, nghiên cứu và thực hiện đồng bộ, đúng mức.
Hiện nay, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến
hòa bình” với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, nhằm biến quá trình “diễn biến
hòa bình” thành quá trình “tự diễn biến”. Ở Việt Nam, chúng lợi dụng những
ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi kinh tế - xã hội để tuyên truyền những tư tưởng
phản động, tác động tới tư tưởng, tình cảm, nhận thức chính trị của sinh viên
nhằm làm cho họ suy giảm niềm tin, ý chí cách mạng, dễ bị kích động, lôi kéo.
Đại hội Đảng lần thứ XII chỉ rõ: “Đấu tranh chống âm mưu, hoạt động
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phòng, chống “tự diễn biến, tự


7

chuyển hóa” còn bị động, hiệu quả chưa cao. Hệ thống chương trình đào tạo bồi
dưỡng lý luận chính trị còn nhiều bất hợp lý.” [20, tr. 193], cần “đẩy mạnh học tập
chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước phù hợp với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực” [20, tr. 200].
Đây là lý do để tác giả chọn vấn đề:“Phát triển ý thức chính trị của
sinh viên dân sự các nhà trường quân đội trong điều kiện biến đổi kinh tế - xã
hội ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp
phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân sự các nhà trường quân đội
* Nhiệm vụ: Tổng hợp các công trình khoa học tiêu biểu có liên quan

trực tiếp đến đề tài luận án; đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu và xác định
những nội dung đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết.
Phân tích, làm rõ thực chất và đặc điểm của phát triển ý thức chính trị của sinh
viên dân sự các nhà trường quân đội trong điều kiện biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta.
Đánh giá thực trạng, dự báo nhân tố tác động và những mâu thuẫn cần
giải quyết để phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân sự các nhà trường
quân đội trong điều kiện biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
Đề xuất giải pháp phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân sự các nhà
trường quân đội trong điều kiện biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
* Đối tượng nghiên cứu:
Thực chất, đặc điểm phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân sự các nhà trường
quân đội trong điều kiện biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân sự các nhà trường quân đội trong điều
kiện biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Số liệu khảo sát đối tượng là sinh


8

viên dân sự chính quy đang học tại Hệ Dân sự: Học viện Kỹ thuật Quân sự,
Học viện Kỹ thuật Mật mã, Học viện Quân y, Học viện Hậu cần, Học viện
Khoa học Quân sự từ năm 2010 đến nay.

4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
* Cơ sở lý luận của luận án:
Luận án dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Quân ủy Trung ương, Bộ
Giáo dục và Đào tạo, các nhà trường quân đội về giáo dục, rèn luyện, phát triển ý
thức chính trị của sinh viên dân sự các nhà trường quân đội trong điều kiện biến

đổi kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, tác giả vận dụng và kế thừa kết quả nghiên
cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài.
* Cơ sở thực tiễn:
Là tình hình biến đổi KT - XH của đất nước trong thời kỳ đổi mới và
thực trạng ảnh hưởng của nó đến phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân
sự các nhà trường quân đội; các báo cáo, tổng kết của một số nhà trường quân
đội trong những năm gần đây; kết quả khảo sát, điều tra xã hội học của tác giả
luận án về các vấn đề có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận án sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin kết hợp
với các phương pháp cụ thể như: Hệ thống - cấu trúc, điều tra xã hội học,
khảo sát thực tế, phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, khái quát hóa và trừu
tượng hóa, phương pháp chuyên gia,...
5. Những đóng góp mới của luận án
Xây dựng quan niệm về phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân sự các
nhà trường quân đội trong điều kiện biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta.
Khái quát những đặc điểm phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân sự


9

các nhà trường quân đội trong điều kiện biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta.
Đề xuất một số giải pháp phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân sự
các nhà trường quân đội trong điều kiện biến đổi KT - XH ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
* Ý nghĩa lý luận:
Luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về phát triển ý thức
chính trị của sinh viên dân sự các nhà trường quân đội trong điều kiện biến đổi
kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. Qua đó, cung cấp thêm luận cứ khoa học
trong nghiên cứu, giảng dạy nhằm phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân

sự ở các nhà trường quân đội.
* Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp cơ sở khoa học thực hiện các
giải pháp phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân sự các nhà trường quân
đội trong điều kiện biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu có liên quan
đến đề tài, 4 chương (8 tiết), kết luận, các công trình của tác giả đã được công
bố có liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


10

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu có liên quan đến biến đổi kinh tế - xã hội
Vấn đề biến đổi kinh tế - xã hội đã có nhiều công trình khoa học ở
nước ngoài đi sâu nghiên cứu phân tích và luận giải khá rõ, đạt được nhiều
thành tựu, trong đó, phải kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
Trong “Làn sóng thứ ba” AlvinTofler (1960), [94]; tác giả cho rằng,
vốn đặc trưng cho nền văn minh công nghiệp, do những đổi mới về công
nghệ, về kỹ thuật trong lĩnh vực hoạt động sản xuất và các lĩnh vực khác, sự
biến đổi thường xuyên của quan hệ xã hội và nếp sống đã hình thành một
phương hướng phát triển cùng với sự định hướng rõ nét vào tương lai. Cùng
với đó, sự phát triển văn hoá trong xã hội công nghiệp cũng đưa ra một sự
định hướng tương tự: những điều tốt đẹp hơn còn ở phía trước, trong tương
lai. “Tiến bộ” trong sự phát triển văn hóa này đã được đánh giá một cách tích
cực, còn “lý tưởng về tiến bộ” bắt đầu giữ một trong những vị trí tối cao trên

thước đo giá trị của nền văn minh công nghiệp. Một cái gì đó tương tự như
vậy đã không thể có trong xã hội truyền thống. Tư tưởng về tiến bộ với tư
cách một giá trị cũng không thể có trong xã hội truyền thống. Những chuyển
biến xã hội nhằm cải biến truyền thống thường bị đánh giá một cách tiêu cực.
Tư tưởng về tiến bộ xã hội và cải tạo cách mạng với tư cách cuộc vận động
hướng đến một trật tự xã hội tốt đẹp trong tương lai chỉ có thể phát triển trong
bản tính sâu xa của nền văn minh công nghiệp.
Tác động mang tính quyết định của sự phát triển kỹ thuật, công nghệ
sản xuất đến mọi mặt của đời sống xã hội đã thể hiện rõ ở giai đoạn phát triển
công nghiệp. Làm xuất hiện nền sản xuất đại cơ khí, cuộc cách mạng công
nghiệp đã cho thấy mối liên hệ khăng khít giữa phát triển sản xuất và những biến
đổi trong cơ cấu xã hội của xã hội. Ngày nay khi mà cuộc cách mạng khoa học


11

công nghệ ngày càng phát triển thì nền văn minh hậu công nghiệp càng bộc lộ rõ
những tính ưu việt của nó trong sự phát triển của lịch sử loài người.
AlvinTofler đã bước đầu phân tích và khái quát những tác động của
khoa học công nghệ đến đời sống tâm lý, gây nên những “cú sốc tương lai”,
những “phản ứng mới lạ”, bẻ gãy những mô hình xã hội truyền thống và hình
thành các giá trị mới mang tính toàn cầu. Những tiến bộ khoa học và công nghệ
được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất đang làm thay đổi quan hệ kinh tế, môi
trường làm việc, tính chất công việc, tác phong lao động của con người, làm thay
đổi cách con người thiết lập và duy trì quan hệ xã hội, thiết lập một dạng quyền
lực mới trong xã hội. Trong các tác phẩm của mình, AlvinTofler còn đưa ra
những giải pháp cho sự phát triển cả về mặt tinh thần và vật chất của xã hội, cả
về khoa học tự nhiên lẫn xã hội. Mặc dù phân tích và nhận định của các tác giả
về tác động của cách mạng khoa học và công nghệ đến toàn cầu hóa, đến cuộc
sống của con người khá thú vị, mới mẻ song vẫn còn nhiều luận điểm cần phải

xem xét cả về mặt thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận.
Công trình của tác giả Thomas L.Friedman (1991), “Thế giới phẳng tóm lược lịch sử thế giới thế kỷ XXI” [98]. Tác giả đã chuyền tải một thông
điệp quan trọng: Toàn cầu hóa là một hiện tượng khách quan, phổ biến, không
thể cưỡng lại của tất cả các quốc gia dân tộc. Ngoài ra, từ sự phân tích, khái
quát thực tiễn, tác giả tổng kết những nhân tố làm “phẳng thế giới”. Trong đó,
công nghệ thông tin được xem là một trong những nhân tố cơ bản. Công nghệ
thông tin cũng đang làm thay đổi sâu sắc cách thức và hiệu quả lao động sản
xuất của con người, làm thay đổi sâu sắc cách thức con người tìm kiếm thông
tin, con người nghỉ ngơi, thư giãn và tham gia các sinh hoạt văn hóa tinh thần
khác, thậm chí ảnh hưởng sâu sắc đến cả nền chính trị của một quốc gia.
Trong những công trình của mình Thomas L.Friedman còn đưa ra những
phỏng đoán tương lai thế kỷ 21 - thế kỷ của công nghệ hiện đại, thế kỷ của
biến đổi kinh tế xã hội, của toàn cầu hóa.


12

“Chiếc Lexus và cây Ôliu”, Thomas L.Friedman (2012), [97]. Được
biết đến nhiều với tư cách là một chuyên gia về toàn cầu hóa, tác giả cho
rằng: Nhân loại đang sống trong kỷ nguyên mà khoa học và công nghệ đã có
những tiến bộ vượt bậc và tính chất lao động của con người đã có rất nhiều
thay đổi so với các thế kỷ trước. Nhân loại đang chứng kiến việc máy móc
từng bước thay thế không ít những chức năng trí tuệ vô cùng phức tạp mà
trước đây vốn do con người đảm nhận. Lực lượng sản xuất, nhất là công cụ
sản xuất, của xã hội đã có những thay đổi căn bản với sự xuất hiện của nhiều
loại máy móc thay thế sức người, nhất là các máy móc thông minh (intelligent
machine). Đồng thời, sự hình thành nền kinh tế tri thức trong điều kiện toàn
cầu hoá mạnh mẽ ngày càng đòi hỏi ở người lao động trình độ chuyên môn,
trình độ học vấn, năng lực trí tuệ và khả năng sáng tạo cao hơn rất nhiều so
với bất cứ một giai đoạn nào trước đây trong lịch sử nhân loại.

Mọi người đều đã và đang chứng kiến, cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại bắt đầu từ giữa thế kỷ XX không chỉ đã làm thay đổi
mạnh mẽ về chất các ngành công nghiệp, mà còn làm thay đổi mạnh mẽ mọi
mặt của toàn bộ nền sản xuất, cả sản xuất vật chất lẫn sản xuất tinh thần, và
đời sống xã hội của con người. Quá trình toàn cầu hoá đang làm cho những tri
thức khoa học mới trở thành tài sản chung của toàn thể nhân loại; tất cả các
quốc gia đều có thể tự vươn lên nếu biết nắm bắt những cơ hội do nó tạo ra,
biết chắt lọc những gì là quý giá và thật sự cần thiết cho đất nước mình.
Chính nhờ cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại này mà xã
hội hiện đại đã có được một hệ thống các lực lượng sản xuất mới, trong đó tri
thức chuyển hoá thành lực lượng sản xuất trực tiếp - như C.Mác đã tiên đoán
từ thế kỷ XIX và chính tri thức là nguồn gốc sinh ra của cải và tạo ra giá trị.
Ngày nay, không còn nghi ngờ gì nữa, tri thức là một bộ phận quan trọng cấu
thành và thấm vào tất cả các yếu tố máy móc, vật liệu, công nghệ, tổ chức,
quản lý, nhất là vào lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là người lao động.


13

Sự phát triển và lớn mạnh nhanh chóng của lực lượng sản xuất mới đó
đã từng bước dẫn nhân loại vào nền kinh tế mới - nền kinh tế tri thức - ở các
mức độ khác nhau, trong đó động lực chủ yếu làm nên sự tăng trưởng kinh tế
và cả sự phát triển xã hội chính là tri thức. Tuy bước chuyển từ nền kinh tế
công nghiệp sang nền kinh tế tri thức là bước chuyển từ một nền kinh tế chủ
yếu sử dụng các nguồn tài nguyên do thiên nhiên ban tặng sang nền kinh tế
chủ yếu sử dụng tri thức; song, không có tri thức nào khác ngoài tri thức của
con người, do vậy, con người có tri thức vẫn là yếu tố quyết định trong nền
kinh tế mới. Do vậy, nếu trong kinh tế nông nghiệp, chủ thể của sản xuất, của
nền kinh tế và yếu tố quan trọng cấu thành xã hội chủ yếu là người nông dân

với cây oliu; trong nền kinh tế công nghiệp, chủ thể đó chủ yếu là người công
nhân thì trong nền kinh tế tri thức, vai trò này chủ yếu vẫn thuộc về công
nhân, nhưng đó là công nhân tri thức với chiếc lexus.
Vấn đề biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta đã có nhiều công trình khoa
học đã đi sâu phân tích và luận giải khá rõ, đạt được nhiều thành tựu. Trong
đó, phải kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
Công trình “Tác động của những biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta
hiện nay đến chất lượng chính trị đơn vị cơ sở của Quân đội nhân dân Việt
Nam” [31], tác giả Phan Trọng Hào (2001) đi sâu phân tích, làm rõ quan
niệm biến đổi kinh tế - xã hội, và quan niệm: “Biến đổi kinh tế - xã hội ở
nước ta hiện nay là quá trình thay đổi về số lượng và chất lượng các mặt,
các yếu tố, các bộ phận trong hệ thống cấu trúc KT - XH quá độ cùng các
mối quan hệ qua lại giữa chúng theo những xu hướng khác nhau, trong đó
xu hướng chủ đạo là làm thay đổi căn bản tình trạng KT - XH kém phát
triển của nước ta vốn là một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, với nền sản
xuất nhỏ, kinh tế nghèo nàn lạc hậu, trải qua nhiều năm bị chiến tranh tàn
phá, bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [31]. Nội dung của những


14

biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay là: Thứ nhất, biến đổi về chế độ
sở hữu và cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu các thành phần kinh tế và đi
liền với nó là biến đổi cơ cấu xã hội mà hạt nhân là cơ cấu XH - GC; thứ
hai, biến đổi trong cơ chế quản lý kinh tế và đi liền với nó là quá trình
"đánh thức" tính năng động xã hội của các chủ thể; thứ ba, sự biến đổi về
thu nhập của các cá nhân, đi liền với nó là sự phân tầng xã hội mà trước hết
là phân hóa giàu - nghèo; thứ tư, biến đổi định hướng giá trị xã hội [31].
Bàn đến sự biến đổi cơ cấu xã hội ở Việt Nam hiện nay, gần đây có

công trình “Một số vấn đề về biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam hiện nay” .
[71], tác giả Tạ Ngọc Tấn (2010), cho rằng, kinh tế - xã hội của đất nước
biến đổi làm cho cơ cấu xã hội ở nước ta có sự biến đổi sâu sắc, đặc biệt là
cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội - dân tộc, cơ cấu xã hội - nghề
nghiệp, cơ cấu xã hội - tôn giáo, đó là hệ quả tất yếu của quá trình vận
động, phát triển trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên,
các tác giả cũng cho rằng: “Sự biến đổi phù hợp với xu hướng vận động
của xã hội sẽ trở thành nhân tố tích cực thúc đẩy quá trình vận động, phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đồng thời, sự biến đổi không phù hợp
sẽ tác động tiêu cực đến đời sống xã hội và sự phát triển” [71]. Đối với
Quân đội ta, sự biến đổi không phù hợp ấy cũng đang đặt ra nhiều vấn đề
như: Sự không thuần nhất trong thành phần xuất thân, sự suy giảm nghiêm
trọng tình đồng chí, đồng đội... làm ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình xây
dựng sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Trong đề tài nghiên cứu “Tác động của những biến đổi kinh tế - xã
hội đến nhận thức chính trị, tư tưởng của cán bộ quân đội và một số vấn đề
đổi mới công tác tư tưởng, tổ chức trong quân đội ta hiện nay” (2000), [82],
khi bàn đến vấn đề biến đổi kinh tế - xã hội, tập thể các tác giả đều thống
nhất đi đến nhận định, đó là sự biến đổi: “Từ một nền kinh tế vận hành theo
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, một nền kinh tế hiện vật sang nền kinh


15

tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa đó là một sự chuyển hướng
rất cơ bản trong phát triển kinh tế ở nước ta trong những năm vừa qua” [82].
Theo các tác giả, chính đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước
ta đã đem lại những kết quả tích cực trong đời sống kinh tế - xã hội của đất
nước, làm cho đời sống vật chất - tinh thần của nhân dân được cải thiệt đáng

kể. Tuy nhiên, các tác giả cũng đặc biệt lưu ý về mặt trái tiêu cực của kinh tế
thị trường, bởi: “Thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị
trường cũng có nghĩa là chúng ta thừa nhận sự phát triển của sở hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa trong một phạm vi nhất định; thừa nhận cạnh tranh, chấp
nhận sự phân hóa giàu nghèo, sự khác nhau trong mức sống và cả lối sống,
chấp nhận quan hệ bóc lột trong một giới hạn nhất định”, trong khi đó:
“Hiệu quả quản lý của Nhà nước còn nhiều mặt yếu kém; một mặt chưa phát

huy được đầy đủ sức mạnh của cơ chế thị trường mặt khác, chưa hạn chế
khắc phục được nhiều mặt tiêu cực của cơ chế đó” [82].
Còn về mặt xã hội, theo các tác giả, hiện nay nước ta đang thực hiện chính
sách "mở cửa" đa dạng hóa và đa phương hóa trong quan hệ quốc tế,
mở rộng hợp tác, liên kết, liên doanh với nước ngoài... Chính vì vậy, tập thể tác
giả cho rằng, những biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta: "trực tiếp quy định sự biến
đổi của cơ cấu xã hội nói chung và cơ cấu xã hội - giai cấp nói riêng" [82]; "xã hội
Việt Nam hiện nay có một cơ cấu xã hội - giai cấp đa dạng và phức tạp" [82].
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu có liên quan đến ý thức chính trị
Vấn đề ý thức chính trị mang một nội dung vô cùng phong phú, phức tạp.
Các tác giả trong nước đã tiếp cận nghiên cứu ở các phương diện khác nhau. Trong
nội dung tổng quan của luận án tác giả đề cập tới một số công trình tiêu biểu:
Công trình“Lý tưởng xã hội chủ nghĩa và đại đoàn kết ở Viêt Nam”
của tác giả Nguyễn Đình Hòa (2008), [33]. Trong bài viết này, tác giả đã
luận chứng để làm rõ hai vấn đề: Sự hình thành và phát triển lý tưởng xã


16

hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Lý tưởng ấy phù hợp với nhu cầu, nguyện vọng
của toàn thể dân tộc, trở thành ngọn cờ tập hợp, kết nối quần chúng nhân
dân thành một khối thống nhất đấu tranh vì lợi ích chung; đại đoàn kết dân

tộc là một giá trị truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, nó đã được
nâng lên một chất lượng mới, trở thành phương thức, động lực cơ bản để
thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Theo tác giả, Việt Nam đã và đang
chứng minh cho ý nghĩa to lớn của đại đoàn kết dân tộc với tính cách một
giá trị văn hoá trong tiến trình phát triển. Tác giả muốn đề cập tới hai vấn
đề: Lý tưởng xã hội chủ nghĩa với tính cách ngọn cờ tập hợp khối đại đoàn
kết toàn dân tộc và đại đoàn kết toàn dân tộc là một phương thức thực hiện
lý tưởng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Công trình “Phát huy chủ nghĩa yêu nước trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam hiện nay”, của Dương Văn Duyên (2010), [12]. Tác giả đã nêu
một cách khái quát lịch sử và vai trò của chủ nghĩa yêu nước truyền thống
trong lịch sử đấu tranh giải phóng đất nước, bảo vệ nền độc lập và chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam. Theo tác giả, chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam cũng là một trong những động lực thúc đẩy và tạo nên những thành
tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước. Do vậy, để xây dựng một nước
Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, cần
tiếp tục phát huy mạnh mẽ hơn nữa chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Công trình, “Một số vấn đề về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản
Việt Nam”, Đào Duy Quát (2001), [68]. Tác giả khẳng định, giáo dục lý luận
chính trị là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng, là việc
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin cho quần chúng nhân dân, là quá trình tác
động vào các đối tượng cần giáo dục giúp họ nhận thức đúng đắn những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhất trí cao với quan điểm đường lối của Đảng


17

nâng cao phẩm chất cách mạng, năng lực hoạt động thực tiễn. Mục đích của

giáo dục lý luận chính trị là trang bị thế giới quan khoa học, phương pháp
luận đúng đắn, nhân sinh quan cộng sản nhằm nâng cao trình độ chính trị,
nhiệt tình cách mạng, củng cố ý chí niềm tin cách mạng cho nhân dân.
Công trình “Ý thức chính trị của công nhân trong một số doanh nghiệp ở
Hà Nội hiện nay” của tác giả Phan Thanh Khôi (2003), [61]. Một số vấn đề về
giai cấp công nhân nói chung và đội ngũ công nhân ở Hà Nội nói riêng; những
biểu hiện về ý thức chính trị của họ; những quan điểm và giải pháp để nâng cao
ý thức chính trị cho đội ngũ này được tác giả làm rõ. Giai cấp công nhân Việt
Nam không ngừng lớn mạnh về lực lượng. Thông qua Đảng Cộng sản Việt
Nam, giai cấp công nhân đã thể hiện được vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng - giai cấp của dân tộc, giai cấp có quyền lợi thống nhất với nhân dân lao
động. Bằng thực tiễn cách mạng đã cho thấy sức mạnh của “vũ khí tinh thần”
mà giai cấp công nhân có được - chủ nghĩa Mác - Lênin có sức mạnh vô địch
trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại
chủ nghĩa tư bản. Nhờ có Đảng Cộng sản và hệ tư tưởng tiên tiến cách mạng
triệt để, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng trưởng thành, vững mạnh về
chính trị, tư tưởng. Đó chính là tiền đề đưa cách mạng Việt Nam đi hết thắng
lợi này đến thắng lợi khác. Công cuộc đổi mới đất nước đang đặt ra nhiệm vụ
quan trọng trong phát triển ý thức chính trị của giai cấp công nhân nói chung và
trong các doanh nghiệp nói riêng để họ luôn là lực lượng tiên phong trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Công trình “Tăng cường giáo dục, rèn luyện chính trị, tư tưởng, đạo đức
cách mạng, nâng cao năng lực thực tiễn cho cán bộ đảng viên trong tình hình mới”
của các tác giả Phạm Quang Định, Phạm Bá Toàn, Nguyễn Đức Hùng (2007), [21].
Giáo dục, rèn luyện chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng, nâng cao năng lực thực
tiễn cho cán bộ đảng viên là nhiệm vụ cơ bản có tầm đặc biệt quan trọng, là vấn đề có


18


tinh qui luật trong công tác xây dựng Đảng; đồng thời là nội dung trọng yếu trong
công tác cán bộ của Đảng ta. Công tác này đã góp phần quan trọng trong xây dựng
đội ngũ cán bộ vừa hồng vừa chuyên đủ năng lực, phẩm chất để giải quyết các nhiệm
vụ khác nhau của cách mạng. Đặc biệt trong quá trình đổi mới xây dựng đất nước,
công tác này phải dược coi trọng toàn diện, xây dựng được một đội ngũ cán bộ đảng
viên ngang tầm nhiệm vụ trong điều kiện biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
Đạo đức của cán bộ đảng viên là nền móng cho ý thức chính trị xã hội
chủ nghĩa. Người đảng viên có ý thức chính trị tốt phải là người có đạo đức
cách mạng mẫu mực. Học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, có
công trình của tác giả Nguyễn Văn Thế (2012):“Tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh và việc xây dựng đạo đức của cán bộ, đảng viên hiện nay” [79]. Trong
công trình này, tác giả đã tiếp tục đi sâu phân tích, làm sáng rõ hơn giá trị to
lớn của tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cùng với việc khẳng định, xây
dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong tình hình hiện nay là
hết sức khó khăn, phức tạp và lâu dài, tác giả cho rằng: “Cuộc đấu tranh này
sẽ thắng lợi khi mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đoàn kết, quyết tâm xây
dựng đạo đức cách mạng, giương cao ngọn cờ đạo đức Hồ Chí Minh, ra sức
học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người” [79].
1.1.3. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan tới vấn đề ảnh
hưởng của biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay đến phát triển ý
thức chính trị của sinh viên dân sự các nhà trường quân đội
Hiện nay, vấn đề ảnh hưởng của biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta đến
phát triển ý thức chính trị của sinh viên đã có nhiều đề tài nghiên cứu ở những
góc độ khác nhau tiêu biểu là:
Trần Thanh Giang (2017), “Tăng cường giáo dục ý thức chính trị cho sinh
viên Việt Nam hiện nay” [29]. Trên cơ sở luận giải và làm rõ tầm quan trọng
của việc tăng cường giáo dục cho sinh viên hiện nay, tác giả phân tích quan
niệm về ý thức chính trị, giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên. Tác giả



19

khẳng định: “Giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên là quá trình tác động,
truyền đạt và lĩnh hội, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, chủ trương và đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chính sách và pháp luật của nhà nước, các giá trị truyền thống của dân tộc và
tinh hoa văn hoa thời đại nhằm hình thành thế giới quan khoa học, nhân sinh
quan cách mạng, phương pháp tư duy biện chứng và phương pháp hành động
khoa học cho sinh viên” [29]. Như vây, giáo dục ý thức chính trị là một bộ phận
quan trọng của giáo dục và đào tạo ở bậc đại học, là yêu cầu khách quan hình
thành nhân cách cho sinh viên...tác động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm, đạo
đức, lối sống và khả năng thực hành công việc của mỗi sinh viên, góp phần phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và hành động tích cực của sinh viên. Đồng
thời chỉ rõ: “Đảng ta coi giáo dục ý thức chính trị là một bộ phận quan trọng
trong công tác tư tưởng của Đảng trong khi đó ở một số trường việc dạy và học
các môn lý luận Mác - Lênin chưa được coi trọng đúng mức, một số giảng viên,
sinh viên thậm chí phụ huynh coi đây là môn học phụ, không cần thiết” [29]. Do
đó, việc dạy và học chưa tạo được sự hứng thú cho người học, chưa đạt được
hiệu quả như mong muốn. Nội dung chương trình, phương thức giáo dục chậm
đổi mới, khô cứng, chưa thật gắn kết, chưa phù hợp, thiếu hấp dẫn, chưa lôi cuốn
sinh viên. “Nhiều trường còn thiếu những nguồn lực đảm bảo cho sinh viên học
tập lý luận chính trị. Đội ngũ làm công tác giáo dục lý luận chính trị còn thiếu
về số lượng, yếu về chất lượng, nhiều cơ sở đào tạo có nguy cơ hụt hẫng về
đội ngũ kế cận.” [29].
Trong sự vận động, biến đổi liên tục của kinh tế - xã hội, xu thế toàn
cầu hóa, cách mạng khoa học và công nghệ tác động mạnh mẽ đến ý thức
chính trị của sinh viên, tác giả cho rằng: “Ngày nay, cách mạng khoa học và
công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ cùng với xu thế toàn cầu hóa đã tác động
đến mọi mặt của đời sống xã hội” [29]. Những tác động đó làm cho mỗi cá
nhân trở nên nhạy bén, năng động hơn và thích ứng nhanh chóng với những



20

biến động phức tạp của xã hội hiện đại đặc biệt là sinh viên - đối tượng vốn
nhạy cảm với cái mới, ham thích cái mới, dễ tiếp thu cái mới. Vì vậy sự nhạy
cảm của sinh viên, nếu không được định hướng đúng thì rất dễ bị kích động
lôi kéo. Khái quát kết quả đạt được cũng như hạn chế trong việc giáo dục ý
thức chính trị cho sinh viên trong thời gian qua cũng như những nguyên nhân
của nó, tác giả đề xuất một số giải pháp mang tính định hướng nhằm tăng
cường giáo dục thức chính trị cho sinh viên Việt Nam trong hiện nay.
Công trình “Phát triển ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa trong xã hội
và quân đội thời kỳ đổi mới” của Lê Văn Quang (2001), [65]. Tác giả đã phân
tích, khái quát và luận chứng một cách sâu sắc, toàn diện về sự phát triển ý
thức chính trị xã hội chủ nghĩa trong xã hội và quân đội thời kỳ đổi mới; về
sự cần thiết phải xác lập ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa với tư cách là hạt
nhân của hệ tư tưởng và cho rằng: Ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa là một
loại hình đặc thù của ý thức chính trị nói chung, song có bản chất và đặc
điểm riêng. Nó phản ánh xu hướng phát triển tất yếu của xã hội, phản ánh
lĩnh vực chính trị của một hình thái ý thức xã hội khác về chất so với các
xã hội trước đó. Đồng thời, ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa còn có vai trò
tiên tiến trong định hướng về chính trị cho quá trình phát triển và hoàn
thiện tồn tại xã hội chủ nghĩa. Ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa có nguồn
gốc từ phong trào đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản, được học thuyết
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường nhằm chống lại ách áp bức
bóc lột của giai cấp tư sản.
Ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa là một loại hình đặc thù của YTCT, có
bản chất, đặc điểm vai trò riêng, khác hẳn về chất so với YTCT trong các chế
độ xã hội khác. Theo Lê Văn Quang, ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa là một
loại hình đặc thù của ý thức chính trị nói chung, song có bản chất và đặc điểm

riêng; nó có vai trò tiên tiến trong định hướng về chính trị cho quá trình phát
triển và hoàn thiện tồn tại xã hội chủ nghĩa.


21

Bàn đến giải pháp phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay có Đề tài KX.04.30/06-10
do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức thực hiện năm 2010. Đề tài khẳng
định: Tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là nền tảng và động lực tinh thần
để phát triển xã hội. Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, tình hình suy thoái và
công tác phòng, chống suy thoái trong lĩnh vực này, đề ra các giải pháp và
điều kiện phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay. Trong chuyên đề “Quan niệm về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của người cộng sản và quan niệm về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống cần có của cán bộ, đảng viên trước yêu cầu mới
của cách mạng Việt Nam”, tác giả Trần Văn Bính nhấn mạnh, tư tưởng chính
trị, đạo đức cách mạng phải là cái gốc của người cán bộ, đảng viên, “phải
thông qua giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên để xây dựng
nền tảng tinh thần đạo đức cho xã hội” [1].
Công trình “Vấn đề toàn cầu hóa và thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay”, của
tác giả Đặng Cảnh Khanh (2000), [60]. Theo tác giả, thanh niên, sinh viên
Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập cần giáo dục, định hướng,
xây dựng lớp sinh viên, thanh niên giàu lòng yêu nước, biết đặt lợi ích của
mình trong lợi ích thống nhất của quốc gia, dân tộc; có lý tưởng cách mạng và
bản lĩnh chính trị vững vàng; có tri thức, chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng
lao động giỏi; thành thạo ngoại ngữ và tin học; có văn hoá và lối sống tình
nghĩa; có sức khoẻ thể chất và tinh thần lành mạnh; giàu nhiệt huyết sáng tạo
và tinh thần tình nguyện vì cộng đồng; biết giữ gìn và phát huy các giá trị

truyền thống tốt đẹp của dân tộc, biết làm giàu văn hoá dân tộc bằng những
giá trị và những tinh hoa văn hoá nhân loại.
Công trình: “Một số giải pháp phát triển ý thức chính trị xã hội chủ
nghĩa cho sinh viên dân sự các trường Học viện Quân sự đáp ứng yêu cầu


22

của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, của tác giả Phạm
Thái Hòa (2014), [34]; tác giả đã chỉ ra các nhân tố khách quan tác động đến
tư tưởng chính trị của sinh viên bao gồm những điều kiện tồn tại xã hội,
những biến động của tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, đạo đức xã hội
trong nước và quốc tế làm cho định hướng giá trị của xã hội có những đảo lộn
nhất định. Đó là sự tăng lên của các nhân tố thực dụng; coi nhẹ công tác chính
trị - tư tưởng… Xu thế này chỉ đạo hành vi thực dụng của sinh viên trong lựa
chọn nghề nghiệp, chỗ làm việc sau khi ra trường và các hoạt động xã hội
khác. Sinh viên sẽ thờ ơ về chính trị do quan tâm đến lợi ích kinh tế hơn,
đồng thời tạo ra tâm lý bỏ bê các môn khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt
là lý luận Mác - Lênin.
Vì vậy, cần phải giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên nhằm định
hướng cho đội ngũ này nhận thức đúng trong quá trình phát triển để trở
thành con người xã hội chủ nghĩa. Việc giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo
đức, ý thức chính trị cho họ là hết sức cần thiết. Bởi đây là cơ sở cho định
hướng phát triển con người mới xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời, tác giả đã đưa ra một số giải
pháp cơ bản nhằm phát triển ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa cho sinh
viên các trường Học viện Quân sự đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Công trình “Tác động của những biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta
đến phát triển đạo đức cách mạng của sỹ quan cấp phân đội Quân đội nhân

dân Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Anh Tú (2015), [83]; đã khảo sát
phân tích đánh giá toàn diện tác động của biến đổi kinh tế xã hội ở nước ta
đến phát triển đạo đức cách mạng; dự báo xu hướng tác động và những vấn đề
đặt ra cần giải quyết, đưa ra hệ thống giải pháp có tính khả thi trong quá trình
phát triển đạo đức cách mạng của sỹ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay dưới tác động của biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta.


23

Biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta tác động tới tất cả các mặt các bộ
phận cấu thành của ý thức đạo đức cách mạng của sỹ quan cấp phân đội,
thông qua đó mà tác động đến quá trình phát triển đạo đức của họ. Những tác
động tích cực của biến đổi kinh tế - xã hội góp phần củng cố hoàn thiện ý
thức đạo đức cách mạng và những chuẩn mực đạo đức của sỹ quan cấp phân
đội cả về tri thức đạo đức, tình cảm đạo đức, niềm tin đạo đức và được phát
triển lên tầm cao mới. Những tác động tiêu cực của biến đổi kinh tế - xã hội ở
nước ta, đặc biệt là mặt trái của kinh tế thi trường, toàn cầu hóa... đang hằng
ngày, hằng giờ làm xói mòn, băng hoại các giá trị đạo đức cách mạng, làm
ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển ý thức đạo đức của sỹ quân cấp phân đội
nói riêng và đạo đức của xã hội nói chung.
Trong công trình “Ý thức dân tộc trong hành trình hội nhập toàn cầu”,
Đặng Lê Thanh (2000), [72]; tác giả khẳng định: Ý thức dân tộc là nội dung
vô cùng quan trọng trong quá trình hội nhập. Trong đó, nội dung giáo dục lý
tưởng cách mạng cho thanh niên trong thời kỳ hội nhập cần tập trung chủ yếu
vào các giá trị đạo đức cách mạng là lòng trung thành với sự nghiệp xây dựng
CNXH, tinh thần tập thể XHCN, tinh thần lao động tự giác sáng tạo, lòng yêu
nước XHCN và tinh thần nhân đạo cộng sản cùng những giá trị truyền thống
tốt đẹp khác của dân tộc.
Ngoài ra, nội dung giáo dục đạo đức cần chú ý tư tưởng kế thừa trong sự

phát triển, nghĩa là phải bổ sung kịp thời những giá trị đạo đức mới, do tiến
trình văn minh nhân loại, công cuộc đổi mới. Đó là tính độc lập tự chủ, lòng
tự hào, tự tôn dân tộc, sáng tạo, đề cao học vấn, sức khỏe, mạnh dạn đi tắt,
đón đầu và dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Công trình “Một số ý kiến về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh
viên hiện nay” của tác giả Lương Văn Cừ (2003), [9]; tác giả đã chỉ rõ, ngày nay
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện đại, tình hình thế
giới diễn biến mau lẹ, nếu sinh viên không học tập nắm bắt thời cuộc sẽ tụt hậu so


24

với sự phát triển của xã hội, dẫn đến bi quan thiếu tin tưởng vào bản thân, dao
động trước những biến đổi của xã hội. Cần phải tạo cho họ ý thức tự học tập, rèn
luyện không những là nhu cầu cần thiết cho bản thân, mà còn đòi hỏi tất yếu, nếu
sinh viên muốn không bị đứng ngoài dòng chảy khách quan của lịch sử.
Vì vậy chúng ta cần chăm lo bồi dưỡng ý thức chính trị cho sinh viên để
hình thành con người mới. Đó là con người có ý thức làm chủ, ý thức trách
nhiệm công dân; có tri thức có sức khỏe và lao động giỏi; sống có văn hóa và
nghĩa tình; giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính. Qua đó ta
thấy rằng, sinh viên Việt Nam trong thời kỳ mới, mỗi sinh viên là một nhân
cách, là một chủ thể chính trị độc lập. Xã hội càng phát triển, vai trò của mỗi
cá nhân trong xã hội ngày càng tăng lên. Trong xã hội mới, mỗi sinh viên tự
xây dựng ý thức chính trị cho mình; thực hiện mỗi sinh viên là một chủ thể tự
giáo dục, tự hình thành giá trị nhân cách là cội nguồn sức mạnh để xây dựng ý
thức chính trị, ý thức xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong công trình: “Tác động của khoa học công nghệ hiện đại đến lối
sống của con người Việt Nam hiện nay” Lê Thị Thắm (2012), [75]; tác giả chỉ
rõ: Trong những năm gần đây, Việt Nam đầu tư khá bài bản và đồng bộ vào
việc nâng cấp hạ tầng thông tin viễn thông. Nhờ vậy mà người Việt Nam được

tiếp cận thông tin một cách nhanh chóng, chính xác, đa chiều hơn, điều này
giúp cho các quyết định trong hoạt động kinh tế nhanh chóng hơn, chính xác
hơn. Sự phát triển của công nghệ thông tin và lợi ích thực tế của việc cập nhật
thông tin còn hình thành ở nhiều người Việt thói quen cập nhật thông tin, tra
cứu và phân tích thông tin trước mỗi quyết định kinh tế.
Hiện nay với người Việt Nam, việc xem ti vi, đọc sách báo, lướt web,
kiểm tra email trở lên phổ biến. Nhờ đó, họ am tường các chính sách kinh tế,
tình hình chính trị, văn hóa thậm chí là tình hình môi trường, thời tiết, dịch
bệnh..., trong nước, ngoài nước. Đồng thời, hình thành lối sống tự tin,
chủ động biểu hiện rõ nét nhất trong thế hệ trẻ. Hầu hết giới trẻ Việt Nam hiện


25

nay không an phận thủ thường, cam chịu đói nghèo. Do được tiếp cận những
tri thức khoa học hiện đại được rèn luyện trong môi trường lao động công
nghiệp đầy tính cạnh tranh nên nhiều người đã chọn cho mình những công
việc đòi hỏi hàm lượng tri thức khoa học cao, đòi hỏi sự sáng tạo lớn. Ở đó,
họ được sống, được làm công việc họ yêu thích, được phát huy tối đa trí tuệ
và bản lĩnh của mình.
Nhiều bạn trẻ không còn ngủ yên trong sự bao bọc của cha
mẹ và xã hội, sẵn sàng sống cho những đam mê, những ước vọng của mình
dù con đường họ lựa chọn đầy trông gai, thách thức. Điều này góp phần tạo
nên một lối sống năng động, sáng tạo, dám thử nghiệm, cạnh tranh ở người
Việt Nam hiện nay.
Công trình:“Bồi dưỡng lý tưởng cách mạng tạo nguồn phát triển Đảng
viên trong thanh niên” của tác giả Đào Trọng Dung (2006), [11]. Tạo nguồn
phát triển đảng viên trong thanh niên, theo tác giả việc cấp thiết nhất chính là
bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho đối tượng này. Cần phải xây dựng ở họ ý
thức chính trị vững vàng, kiên định với lý tưởng xã hội chủ nghĩa; có sự trung

thành tuyệt đối với sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi sướng và lãnh đạo. Họ
phải luôn nỗ lực phấn đấu học tập tri thức khoa học công nghệ để phục vụ cho
công cuộc CNH, HĐH, hội nhập quốc tế và phải luôn trau rồi chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm bắt mọi chủ trương chính sách của Đảng
để trở thành con người vừa hồng vừa chuyên.
1.2. Khái quát kết quả các công trình khoa học đã công bố có liên
quan đến đề tài luận án và những vấn đề luận án cần tập trung giải quyết
1.2.1. Khái quát kết quả các công trình khoa học đã công bố có liên
quan đến đề tài luận án
Thành công của các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về ý
thức, ý thức chính trị, ý thức chính trị của sinh viên trong điều kiện biến đổi kinh
tế - xã hội ở nước ta hiện nay có liên quan đến đề tài luận án:


26

Có thể khẳng định, cho đến nay đã có nhiều công trình của các tác giả trong
và ngoài nước nghiên cứu về vấn đề ý thức, ý thức chính trị, ý thức chính trị của
sinh viên. Mặc dù tiếp cận nghiên cứu, luận giải dưới nhiều góc độ khác nhau
song, hầu hết các công trình đều làm nổi bật lên được nội dung vấn đề nghiên cứu
theo mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Đó là những đóng góp quý báu, có giá trị lớn về
mặt khoa học, giúp tác giả luận án có thể nghiên cứu, tham khảo và kế thừa trong
quá trình thực hiện đề tài luận án “Phát triển ý thức chính trị của sinh viên dân sự
các nhà trường quân đội trong điều kiện biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta hiện
nay”. Qua nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố ở trong và ngoài
nước tác giả luận án có một số nhận xét sau:
Thứ nhất, các công trình khoa học dù tiếp cận nghiên cứu ở những góc độ
khác nhau song đều đã luận giải và khẳng định vị trí quan trọng, vai trò quyết
định của ý thức chính trị đối với sự phát triển nhân cách, phẩm chất đạo đức
cách mạng của con người cũng như việc xây dựng con người mới xã hội chủ

nghĩa phát triển toàn diện “vừa hồng vừa chuyên”. Các quan niệm về ý thức
chính trị được nêu ra còn chưa thống nhất do góc độ nghiên cứu song về cơ bản
là thống nhất ở cách tiếp cận các yếu tố cấu thành ý thức chính trị. Đồng thời
đã có nhiều công trình khoa học đi sâu nghiên cứu về ý thức chính trị đặc biệt
là các công trình của các tác giả ở trong nước. Ở Việt Nam, phát triển ý thức
chính trị rất quan trọng đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả
đặc biệt là từ sau năm 1991. Với góc độ tiếp cận riêng, các công trình khoa học
đều đã nghiên cứu một cách công phu và làm nổi bật được nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn về ý thức, ý thức chính trị, ý thức chính trị.
Thứ hai, bên cạnh các công trình nghiên cứu về ý thức chính trị nói
chung, đến nay cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về ý thức
chính trị trong quân đội. Các công trình đều luận giải, làm nổi bật vai trò
quyết định của ý thức chính trị trong xây dựng sức mạnh chiến đấu của


×