Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

LUẬN VĂN: THÔNG TIN KHOA HỌC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 152 trang )












LUẬN VĂN:


THÔNG TIN KHOA HỌC
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
















MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thứ nhất: Xem xét dưới góc độ lý luận TTKH, cần tìm ra cách thức tối ưu để
gắn TTKH với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong thời đại ngày nay, khái niệm "thông tin" đã mang tính phổ biến có ý
nghĩa toàn cầu, toàn nhân loại, phổ cập trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các
thuật ngữ: "thời đại thông tin", "xã hội thông tin", "ưu thế thông tin" v.v đang được
lưu truyền rộng rãi, thậm chí có một số nhà lý luận còn cho rằng có cả "nền kinh tế
thông tin". Thực vậy, ở Tây Âu, trong những năm gần đây, ngành công nghệ thông tin
phát triển với tốc độ nhanh gấp 2 - 3 lần các ngành khác. Ngay từ năm 1993, khối
lượng giá trị được tạo ra từ thông tin (bao gồm công nghệ thông tin và cả hoạt động
dịch vụ mang tính thông tin) đã bằng khoảng 50% giá trị sản xuất công nghiệp của Tây
Âu. Hiện nay, ở Mỹ người ta ước tính giá trị khu vực thông tin chiếm khoảng 60 -
70% GDP. Còn trên phạm vi toàn cầu, năm 2005, tốc độ tăng trưởng của thị trường
công nghệ thông tin đạt 7,1%, cao gấp hơn 2 lần tăng trưởng bình quân GDP của toàn
thế giới
1)
.
Dưới góc độ lý luận, thông tin đã được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu
nhưng chủ yếu là nghiên cứu về bản chất thông tin, vai trò của thông tin, vai trò xã hội
của thông tin, còn đi sâu vào lĩnh vực hẹp là TTKH (TTKH) thì chưa được đề cập thỏa
đáng, có thể nói là rất ít, chỉ thoáng qua. Đặc biệt là vai trò chức năng của TTKH đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, tác động của TTKH đối với với sự phát
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam chưa được nghiên cứu thấu đáo. Do vậy, khía cạnh
lý luận về vận dụng TTKH vào lĩnh vực kinh tế - xã hội cần được nghiên cứu tiếp.
Ngày nay, TTKH là một hoạt động quan trọng không thể thiếu không chỉ đối
với lĩnh vực nghiên cứu khoa học và giáo dục - đào tạo, mà cũng rất cấp thiết đối với
hoạt động thực tiễn kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa v.v Thí dụ, xử lý dữ liệu về biến

động thị trường thế giới: như giá vàng, các ngoại tệ mạnh, về giá dầu thế giới hiện nay

1)
Xem:Báo cáo toàn cảnh Công nghệ thông tin Việt Nam năm 2006, Hội tin học Thành phố
Hồ Chí Minh, tr.2.



v.v đòi hỏi một sự phân tích tổng hợp về kinh tế chính trị, về kinh tế - kỹ thuật, về
chính trị và xã hội thế giới, phải phân tích các dữ liệu có căn cứ khoa học, để có chính
sách ứng phó quốc gia. Nếu nối mạng được toàn bộ các dữ liệu thông tin về tài chính,
ngân hàng, đầu tư, xuất - nhập khẩu, công nghiệp - nông nghiệp, cũng như có đầy đủ
thông tin về kinh tế đối ngoại, về chính trị thế giới, về các điều kiện tự nhiên và xã hội
khác v.v thì chúng ta sẽ có các biện pháp phát triển kinh tế nói chung, cũng như góp
phần đối phó với khó khăn kép của nền kinh tế nước ta như vừa lạm phát cao lại vừa
tăng trưởng chậm và hiệu quả kém. Có TTKH từ sự nghiên cứu của các cơ quan
nghiên cứu trong nước cũng như nghiên cứu quốc tế, nắm bắt và xử lý kịp thời các
thông số kinh tế - xã hội, xử lý linh hoạt các biện pháp điều chỉnh về đầu tư, xuất -
nhập khẩu, về lãi suất tín dụng ngân hàng, về tài chính và ngân sách v.v chúng ta sẽ
kìm hãm được lạm phát cao hiện nay và có khả năng kéo lạm phát xuống mức một con
số, để rồi kéo về mức lạm phát tối ưu. Nói chung, nếu nắm được những TTKH, những
dữ liệu có tính chính xác, được xử lý một cách khoa học, đảm bảo độ tin cậy thì chúng
ta sẽ giải quyết được các vấn đề, trong đó vấn đề trung tâm là kinh tế - xã hội một cách
hiệu quả.
TTKH là nhân tố không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hơn thế còn là tăng
trưởng có hiệu quả, nâng cao chất lượng tăng trưởng, gắn phát triển kinh tế với phát
triển xã hội một cách tối ưu.
TTKH là phạm trù riêng trong tập hợp chung của hai phạm trù lớn là thông tin
và khoa học. Nó vừa nằm ở lĩnh vực thông tin, lại đồng thời nằm ở lĩnh vực khoa học,
vừa mang nội dung thông tin, vừa mang bản chất khoa học.

Còn nhiều khía cạnh TTKH cần được đi sâu nghiên cứu về phương diện lý luận,
chẳng hạn như: phân biệt thông tin với tri thức, phân biệt thông tin với truyền thông và
tuyên truyền, phân biệt thông tin nói chung với TTKH; xác định những dấu hiệu riêng
của phạm trù TTKH; nghiên cứu vị trí TTKH trong hoạt động nghiên cứu khoa học và
với đời sống chính trị, kinh tế và xã hội; nghiên cứu chức năng đặc thù của TTKH và
quan hệ giữa các chức năng đó với kinh tế - xã hội nước ta, đặc biệt là trong thời kỳ
đổi mới, với thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay. Việc sử dụng có hiệu quả nguồn
lực thông tin (tri thức) để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội nước ta



trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu rất cấp bách. Đó cũng chính là yêu cầu đối với
TTKH - thu nhận được nhiều thông tin (tri thức), xác định rõ các đối tượng thông tin,
đồng thời quản lý được thông tin để đáp ứng các nhu cầu về TTKH khác nhau, mà
trọng tâm là phát tỉển kinh tế - xã hội.
Phạm trù TTKH là sự thống nhất biện chứng của hai phương diện: thông tin và
khoa học, cùng nằm trong một chu trình vận động của tri thức. TTKH chính là sự
truyền bá khoa học, là thông qua những công cụ nhất định (các công cụ và phương
pháp truyền tin) để phổ cập tri thức, đưa tri thức vào các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội (khoa học, kinh tế, chính trị, văn hóa, nghệ thuật, quân sự v.v ).
Nếu chúng ta coi toàn bộ hoạt động khoa học (xét về bản chất, nội dung của hoạt
động khoa học) gồm hai khâu cơ bản: 1) Sản xuất (nghiên cứu), sáng tạo tri thức (khoa
học); 2) Đưa tri thức vào sử dụng, phục vụ cho các đối tượng sử dụng, là khâu lưu
thông và tiêu dùng tri thức. TTKH vì thế có vai trò, chức năng riêng đối với khoa học và
đối với đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. TTKH là bộ phận không thể thiếu, bộ phận
cơ bản vừa độc lập tương đối với nghiên cứu khoa học, đồng thời lại nằm ngay trong
tiến trình nghiên cứu: thông tin dữ liệu để chuẩn bị cho ý tưởng.
Có thể nói rằng, TTKH chính là xử lý một cách khoa học về nội dung các thông
tin, tức là xác định, thẩm định giá trị tin và tổ chức sử dụng các giá trị tin. Vì thế
TTKH khác với thông tin nói chung và các hình thức cụ thể khác của thông tin, TTKH

là việc tìm ra bản chất của tin và đưa ra hệ thống tin phản ánh được bản chất của sự
vật, hiện tượng chính trị, kinh tế, xã hội v.v phục vụ cho các đối tượng với những
nhu cầu tương ứng. Trong muôn vàn biểu hiện các thông tin khác nhau thì giá trị nội
dung đích thực chỉ có một. Vì thế phải xác định tin nào đúng, tin nào sai, cần có cách
xử lý để đi đến kết luận tính chân lý. TTKH chính là xử lý, thẩm định nội dung (giá trị
tin), hệ thống các nội dung thông tin để giúp cho người nắm thông tin có điều kiện tìm
ra tính chân lý hoặc chí ít cũng tiến gần nhất đến chân lý.
Đối tượng nghiên cứu của TTKH cũng là một khía cạnh mới, là nghiên cứu về
nội dung, bản chất của tin. Trong đời sống có rất nhiều tin, xác định tính chính xác của
thông tin, mức độ khoa học của tin, xác định ý nghĩa xã hội của tin và phương pháp sử
dụng thông tin cụ thể v.v Đó cũng là đối tượng nghiên cứu của TTKH. Trong trường



hợp này TTKH lại như là một phân ngành khoa học hẹp. Đây là một ‘‘khoảng trống”
còn chưa được nghiên cứu thấu đáo.
Mục tiêu cao nhất của TTKH là đưa tri thức, góp phần đắc lực để tri thức được
ứng dụng vào đời sống một cách có hiệu quả, mà trong đó trọng tâm là phát triển kinh
tế - xã hội. Tri thức là một nguồn lực, một nguồn vốn vô cùng to lớn mà chi phí để sử
dụng nó nói chung là không lớn (không tương xứng với chi phí tạo ra tri thức), nhiều
trường hợp nhờ TTKH mà sử dụng tri thức không phải chi trả, nó chỉ phụ thuộc vào
khả năng nắm nguồn lực tri thức. Một trong các yếu tố để nắm nguồn lực đó là TTKH.
Hiện nay sử dụng TTKH phục vụ cho đời sống, trước hết phục vụ cho phát triển kinh
tế, đang là một vấn đề cấp thiết. Vì vậy đề tài này hy vọng góp phần giải quyết những
vấn đề thực tiễn, trong việc sử dụng TTKH phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển kinh
tế xã hội của nước ta hiện nay.
TTKH cũng là khái niệm bao gồm hai nghĩa cơ bản, khi xét về phương diện vận
hành:
- Hoạt động xử lý tri thức, khía cạnh nội dung khoa học của thông tin.
- TTKH là hình thức xử lý nội dung thông tin một cách có tổ chức, có quy chế

hoạt động theo hệ thống, là lĩnh vực thông tin trong hoạt động khoa học, gắn với
nghiên cứu khoa học và phục vụ xã hội về lưu thông và cung ứng tri thức.
Tuy nhiên, trong thực tế, chủ yếu người ta mới chỉ đề cập đến thông tin nói
chung, chưa chú ý phân biệt thông tin với TTKH. Thậm chí, chỉ coi thông tin, TTKH
như là một hoạt động bên ngoài, có quan hệ chứ không phải có cấu tạo hữu cơ về nội
dung trong hoạt động khoa học, nằm trong hệ thống khoa học. Hơn thế, thông tin trong
hoạt động kinh tế và xã hội được sử dụng ở cấp độ "tin tức", "thông báo", còn TTKH
nghĩa là thông tin ở cấp độ lý tính, quy luật, bản chất của thông tin thì chưa được chú ý
đến mức cần thiết phải có.
Thứ hai: Xem xét sự cần thiết nghiên cứu đề tài dưới góc độ sử dụng TTKH
phục vụ cho sự phát triển kinh - xã hội nước ta hiện nay (nói cách khác là xem xét nhu
cầu về TTKH trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội).
Theo tinh thần nghị quyết Đại hội X của Đảng, chúng ta phải nỗ lực phấn đấu để



đến năm 2020, về cơ bản, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp. Điều đó đòi hỏi
chúng ta phải sử dụng nhiều biện pháp, trong đó khoa học là một nhân tố quan trọng
hàng đầu, phải đi trước nhiều bước. TTKH cũng là một nhân tố trong hệ thống khoa
học. Nó là nhân tố tri thức, một nguồn lực để phục vụ cho quá trình đẩy nhanh sự phát
triển này và đặc biệt là để phát triển hài hòa, đảm bảo cân đối giữa các mặt: kinh tế với
xã hội, kinh tế với an toàn sinh thái, vật chất với tinh thần, hiện tại với tương lai. Ngay
cả trong thời điểm hiện nay đang có mâu thuẫn căng thẳng giữa tăng trưởng với khó
khăn về tài chính - ngân hàng và đời sống của đa số người dân bị giảm sút, đặc biệt là
người có thu nhập thấp, người nghèo gặp khó khăn. Những thành tựu của đổi mới đang
bị đe dọa do hạn chế của chất lượng tăng trưởng. Trước tình hình đó, TTKH phải góp
phần tích cực và có hiệu quả thiết thực để đáp ứng đòi hỏi cấp bách của cuộc sống.
Hiện nay, nhu cầu xã hội về TTKH là rất lớn, TTKH đang phải trả lời, phải
tham gia giải quyết nhiều vấn đề do thực tiễn kinh tế - xã hội đất nước đặt ra, ví dụ:
- Làm thế nào để có thông tin với chất lượng, hàm lượng tri thức khoa học cao

cho sự phát triển, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển với tốc độ và hiệu quả kinh tế cao,
vừa thỏa mãn được nhu cầu xã hội (với những qui chế, hạn định nào đấy), hay nói cách
khác là kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội, đáp
ứng phát triển toàn diện hài hòa, có hiệu quả các nguồn lực.
- TTKH góp phần cung cấp những tri thức khoa học cho việc giải quyết hài hòa
giữa kinh tế và chính trị, giữa phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN với xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
- TTKH phải cung cấp tri thức khoa học cho đổi mới và phát triển kinh tế trong
điều kiện hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa.
- TTKH phải cung cấp những luận cứ lý luận và thực tiễn cho việc phát triển
kinh tế với tốc độ cao nhưng đồng thời phải thu hẹp dần khoảng cách về thu nhập và
đặc biệt là nâng cao nhanh hơn mức sống cho các nhóm, bộ phận dân cư có thu nhập
thấp, chú trọng xóa đói và giảm nghèo, cải thiện nhiều hơn mức sống cho người nghèo
và tầng lớp dân cư yếu thế, phát triển kinh tế với giải quyết các nhu cầu xã hội của
cộng đồng.



- TTKH phải cung cấp cứ liệu để phát triển bền vững về xã hội, về sinh thái, tiết
kiệm tài nguyên.
- TTKH phải cung cấp cứ liệu để phát triển kinh tế có hiệu quả, đồng thời tạo cơ sở
thúc đẩy phát triển nền văn hóa Việt Nam XHCN, dân tộc, đại chúng và tiên tiến, phát triển
kinh tế đi đôi với xây dựng con người Việt Nam, xây dựng một nền kinh tế giàu tính văn
hóa và nhân văn Việt Nam v.v
- TTKH phải đáp ứng được nhu cầu tri thức cho lãnh đạo - quản lý về phát
triển, về tư duy kinh tế - xã hội cũng như phổ cập tri thức cho người dân, để người dân
hình thành tư duy kinh tế - xã hội hợp lý, lành mạnh nhất.
- TTKH phải tạo được dữ liệu để dự báo chính xác xu thế của kinh tế thế giới,
đặc biệt là phương diện xã hội của sự phát triển này v.v
Như vậy, xem xét từ góc độ TTKH phục vụ cho hoạt động kinh tế - xã hội hiện

nay, với nền kinh tế nước ta đã đến lúc phải chú trọng nhiều hơn đến khía cạnh đồng
bộ, hài hòa của sự tăng trưởng và hội nhập sâu hơn với kinh tế thế giới, việc nghiên
cứu để gắn kết đề TTKH đối với phát triển kinh tế - xã hội là cần thiết, vì TTKH là
phương tiện của sự phát triển và ngược lại, sự phát triển kinh tế - xã hội luôn có nhu
cầu nhiều hơn, cao hơn về TTKH:
- Nhu cầu tri thức khoa học, nhu cầu trí tuệ của sự phát triển ngày càng lớn,
vừa mang tính cơ bản, vừa mang tính cấp bách trước mắt. Để đảm bảo cho đất nước
phát triển đúng quỹ đạo XHCN, cần có đường lối đúng, chính sách khoa học và biện
pháp hợp lý, linh hoạt. Nhu cầu TTKH trở nên cấp bách, nó đảm bảo cho việc cung
cấp tri thức để đề ra đường lối, chính sách có tính khoa học hơn, chính xác hơn.
- Nhu cầu cập nhật để hiện đại hóa: nền kinh tế thế giới đang chuyển từ kinh tế
công nghiệp sang kinh tế tri thức, kinh tế thông tin. Vì vậy, TTKH như là một phương
tiện, phương thức hữu hiệu để thúc đẩy tiến trình đó. Việt Nam chỉ mới ở giai đoạn
đầu của công nghiệp hóa, vừa phải đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, lại đồng thời
kết hợp với hiện đại hóa (ở qui mô, trình độ và lĩnh vực nào có thể) nền kinh tế và xã
hội, vì vậy càng phải cập nhật tốt nhất kiến thức trên các lĩnh vực: khoa học, kỹ thuật -
công nghệ, kinh tế, chính trị, văn hóa và cả tư tưởng phát triển, cũng như cả các lĩnh



vực tinh thần khác v.v để phục vụ có hiệu quả cho tiến trình phát triển của đất nước.
Ở đây, TTKH được xem như một phương tiện, một yếu tố tiên phong trực tiếp của lực
lượng sản xuất.
- Nhu cầu TTKH về các vấn đề xã hội gắn với sự phát triển kinh tế còn ít được
quan tâm giải quyết thỏa đáng. Thí dụ: xử lý thông tin về tính chính trị, tính nhân văn -
văn hóa - dân trí- tâm lý - đạo đức của sự phát triển kinh tế, về quản lý nội bộ của các
công ty trên thế giới, chống tội phạm và tham nhũng ở các công ty cổ phần và công ty
tư nhân (thường chúng ta chỉ hay nhấn mạnh ở khu vực nhà nước), nội dung của xã hội
dân sự và sự phát triển của nó ở Phương Tây, ở Phương Đông cũng như ở Việt Nam
hiện nay, vấn đề bảo hiểm xã hội và an sinh cho các đối tượng và trường hợp khác

nhau, thông tin về các vấn đề xã hội mang tính chính trị như an ninh xã hội, dân chủ
trong đời sống của thời mở cửa và hội nhập với thế giới bên ngoài v.v , đều cần có
những phân tích, xử lý khoa học về phương pháp và nội dung.
- Nhu cầu TTKH về an ninh kinh tế ngày càng cấp thiết, sự hòa quyện an ninh
kinh tế với an ninh xã hội ngày càng tăng lên.
- Nhu cầu TTKH về khía cạnh kinh tế của các lĩnh vực văn hóa tinh thần, khoa
học, nghệ thuật, thể thao, chính trị - xã hội và ngược lại, cần có TTKH về khía cạnh
văn hóa (xã hội) trong kinh tế.
- Nhu cầu đánh giá thực trạng sử dụng TTKH, vai trò chức năng của nó đối với
sự phát triển kinh tế xã hội. Công tác này hiện còn nhiều bất cập và hạn chế cần được
khắc phục. Nguồn lực TTKH chưa thực sự được phát huy. Đây cũng là một phương
diện lý luận và thực tiễn có tính liên ngành: thông tin, khoa học, kinh tế và xã hội cần
được nghiên cứu.
Trên các phương diện lý luận và thực tiễn phát triển của đất nước về kinh tế - xã
hội, cũng như gắn với lĩnh vực chuyên môn hẹp (TTKH), đang đặt ra nhu cầu nghiên
cứu đề tài: TTKH với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
Như vậy, sự cần thiết nghiên cứu đề tài này xuất phát từ hai phương diện cơ
bản: 1) Cần nghiên cứu rõ hơn những vấn đề về lý luận TTKH, để TTKH gắn với thực
tiễn kinh tế - xã hội; 2) Sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta đang ngày càng đòi hỏi,



càng có nhu cầu lớn hơn về tri thức, do đó có nhu cầu cao hơn về TTKH, đòi hỏi nhiều
hơn về TTKH.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ngoài đã có nhiều tác giả nổi tiếng nghiên cứu về lĩnh vực thông tin, ví
như: A. Toffler và D. Bell ở Mỹ, A. Eliacov, B.L. Inozemsev ở Nga, Paul A. David,
Domonique Foroy ở Pháp v.v
Dưới góc độ nghiên cứu quan hệ giữa thông tin với kinh tế - xã hội, có thể nêu
ra một số tác giả và công trình tiêu biểu:

- Afanasev V.G. Thông tin xã hội và quản lý xã hội, Hà nội, 1979.
- Jashin G.E. Thông tin kinh tế là gì? Tài liệu dịch, ký hiệu TC2210, Thư viện
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Rezman L.Đ. Xã hội thông tin và vai trò của viễn thông trong sự hình thành
xã hội thông tin
2)
. Nội dung đề cập đến ảnh hưởng của công nghệ thông tin và sự hình
thành khái niệm xã hội thông tin, sự tác động xã hội của thông tin.
- Inozemsev B.L. Kinh tế hậu công nghiệp và xã hội hậu công nghiệp
3)
. Nội
dung đề cập đến kinh tế và xã hội hậu công nghiệp, đến xu thế gia tăng vai trò của
thông tin.
- Eliacov A. Ưu thế thông tin của Mỹ và Nga
4)
. Tác giả nêu lên ưu thế thông tin
của Mỹ so với Nga. Do vậy, xét từ góc độ đóng góp vào nền kinh tế, thì thông tin ở
Mỹ có vai trò lớn hơn nhiều so với ở Nga.
- Tikhovovich E.A. Thời đại thông tin và những vấn đề cấp thiết của nền kinh
tế
5)
. Tác giả xem thông tin như là một điều kiện của phát triển kinh tế, coi kinh tế
mang bản chất thông tin.
- Meitus. V. Doanh nghiệp ảo trong xã hội thông tin
6)
. Ở đây đề cập đến một
khía cạnh mới của kinh tế: hình thành xí nghiệp mới (ảo) do tác động của thông tin.

2)
T/c: "Những vấn đề triết học”( tiếng Nga), số 3/2001, tr.3-9.

3)
T/c: "Khoa học và xã hội”(tiếng Nga), số 3/2001, tr.140-152.
4)
T/c: "Đối thoại”(tiếng Nga), số 11/2005.
5)
T/c: "Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”( tiếng Nga), số4/2005.
6)
T/c: "Các vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý”(tiếng Nga), số 4/2006.



- Meliansev B. Cuộc cách mạng thông tin của nền kinh tế mới
7)
. Tác giả chỉ ra
vai trò biến đổi mang tính cách mạng của kinh tế do ảnh hưởng của cách mạng thông
tin.
- Eliacov A. Cuộc cách mạng thông tin đang tiếp tục
8)
. Tác giả chứng minh sự
phát triển tiếp tục nhanh hơn của cách mạng thông tin và nền kinh tế phải thích ứng.
- Sapra G. Nền kinh tế thông tin
9)
. Ở đây tác giả đã đưa một khái niệm hoàn
toàn mới hẳn: nền kinh tế thông tin.
Nói chung, những vấn đề lý thuyết chung về thông tin đã được nghiên cứu từ
lâu và khá nhiều ở nước ngoài.
Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về thông tin hoặc liên quan
đến thông tin kinh tế - xã hội, ví dụ:
- Nguyễn Nhâm. Thông tin kinh tế và quản lý kinh tế ở cơ sở, Nxb Sự Thật, Hà
Nội, 1987. Tài liệu đề cập về cung cấp dữ liệu trong quản lý kinh tế.

- Lê Xuân Hòa. Điều tra và xử lý thông tin trong quá trình quản lý, Nxb Thống
kê, 1999. Tài liệu đề cập về nghiệp vụ xử lý tin một cách cụ thể ở dạng đơn giản.
- Viện TTKH xã hội. Những thách thức trong xã hội thông tin (Tập tài liệu
tham khảo nội bộ, năm 2001). Tài liệu này đề cập nhiều về các khía cạnh chung của
thông tin với sự phát triển nói chung.
- Hàn Viết Thuận (chủ biên). Giáo trình Hệ thống thông tin kinh tế (Đại học
Kinh tế Quốc dân), Nxb Lao động - xã hội, 2004. Tài liệu hướng dẫn tra cứu, tìm tin,
dữ liệu kinh tế.
- Nguyễn Hữu Hùng. Thông tin từ lý luận tới thực tiễn, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội, 2005. Tác giả nêu phương pháp luận về sử dụng thông tin, chủ yếu dưới góc
độ thông tin học để phục vụ cho nghiên cứu về các vấn đề khác.
- Vũ Đình Hòe, Tạ Ngọc Tấn, Vũ Hiền. Truyền thông đại chúng trong công tác
lãnh đạo quản lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Các tác giả đã nêu lên vai trò

7)
T/c: "Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”(tiếng Nga), số 2/2001.
8)
T/c: "Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”(tiếng Nga), số 8/2006.
9)
T/c: "Nhà kinh tế”(tiếng Nga), số 10/2005.



truyền thông phục vụ cho lãnh đạo, quản lý.
- Đường Vinh Sường: Thông tin kinh tế với quản lý nền kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay. Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004. Tác giả chủ yếu đề cập đến vai
trò của thông tin để chế định đối với những khuyết tật của kinh tế thị trường. (Công
trình này về thực chất là công bố kết quả đề tài cấp bộ của Học viện chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh: ‘‘Thông tin kinh tế với việc khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị
trường” do chính tác giả chủ nhiệm đã được nghiệm thu năm 2000. Nội dung cơ bản

của nó là thông tin kinh tế phải giúp cho việc quản lý nhà nước chủ động chế ngự
những khuyết tật bẩm sinh của kinh tế thị trường.
- Hoàng Ngọc Kim. TTKH với công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đề tài cấp cơ sở
của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002. Nội dung chủ yếu là nêu lên khía
cạnh thông tin nói chung với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không nghiên
cứu TTKH độc lập, đúng nghĩa cần có.
Đã có một số công trình nghiên cứu thực tiễn có liên quan đến thông tin, ví dụ
như:
- ThS. Đoàn Thị Hải Yến và cộng sự. Nghiên cứu phương pháp xây dựng Báo
cáo tổng quan kinh tế quí (Đề tài khoa học cấp bộ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm
2008).
- Một số tài liệu khác như: Cẩm nang báo cáo kinh tế quí, Cẩm nang xây dựng
bản tin ngoại thương (tài liệu của Trung tâm Thông tin và Dự báo Quốc gia - Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, 2000) v.v
Cũng cần khẳng định rằng việc cập nhật và đưa thông tin về kinh tế - xã hội thì
rất nhiều và thường xuyên, nhưng ít có những công trình mang tính chuyên nghiệp
dưới góc độ TTKH ở các cơ quan kinh tế, các cơ quan nghiên cứu, hoạt động thông
tin. Về phương diện này ít có những công trình nghiên cứu tương xứng.
Tất cả các công trình nghiên cứu nêu trên chưa đề cập đến hoặc chưa đạt
đến độ cần có về phạm vi và chiều sâu, còn nặng về thông tin và nhẹ về khoa học,
còn thiên về mô tả mà chưa đi sâu nghiên cứu bản chất vấn đề dưới góc độ TTKH.
Do vậy cần có những công trình đi sâu nghiên cứu một số nội dung sau:



- Khu biệt rõ phạm trù TTKH.
Các công trình đã có mới giải quyết thuần túy lý luận thông tin (các công trình
nước ngoài), hoặc nặng về mô tả thông tin nói chung (công trình trong nước). Nhiều
công trình vẫn chưa tách biệt được TTKH với thông tin nói chung. Trong thực tiễn ít
tác giả khu biệt, phân định rõ điều này.

- Mối quan hệ giữa TTKH (chứ không phải thông tin nói chung) với tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.
- Làm rõ hơn các chức năng cơ bản của TTKH đối với kinh tế - xã hội, định vị
TTKH trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Khảo sát đánh giá khách quan thực trạng tác động của TTKH đối với tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời gian vừa qua, tổng kết những bài học kinh
nghiệm để sử dụng có hiệu quả TTKH phục vụ quá trình phát triển này. Cũng đã có
một số đề xuất, nhưng vì những lý do khác nhau, nay mới có điều kiện để nghiên cứu
tốt hơn.
- Đưa ra được các giải pháp mới, có tính khả thi cao và hiệu quả để TTKH phục
vụ tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Nền kinh tế nước ta đang đứng trước yêu cầu phải phát triển với tốc độ cao để
khắc phục sự tụt hậu so với khu vực và thế giới, đồng thời phải đảm bảo chất lượng
tăng trưởng, phải phát triển theo đúng quĩ đạo XHCN, phải giải quyết tốt yêu cầu kết
hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội, phát triển theo nguyên tắc tái
sản xuất mở rộng bền vững (về xã hội và sinh thái). Điều đó đòi hỏi mọi lực lượng xã
hội phải nỗ lực, trong đó TTKH là một yếu tố - một lực lượng tiền phong của sự phát
triển.
Như vậy, việc nghiên cứu đề tài này sẽ khỏa lấp được "những lỗ hổng” khoa
học và thực tiễn, do các nghiên cứu trước đó để lại.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu
Nghiên cứu để tạo ra được một công trình lý luận có tính hệ thống về TTKH,



tìm ra cơ chế, phương thức để TTKH gắn nhiều hơn, chặt chẽ hơn với thực tiễn kinh tế
- xã hội, để TTKH vừa có được ý nghĩa khoa học lại vừa mang ý nghĩa thực tiễn thiết
thực, nâng cao tính hiệu quả của TTKH, để TTKH trở thành một trong những nhân tố
tích cực hàng đầu của sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, đóng góp cụ thể

vào việc nâng cao tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, đồng thời kinh tế hài hòa
với khía cạnh xã hội và các khía cạnh khác của sự tăng trưởng.
Nhiệm vụ
* Làm rõ phạm trù TTKH:
- Phát hiện, khái quát và bổ sung những nét mới, hoàn chỉnh hơn về nội hàm,
đặc trưng của phạm trù TTKH.
- Bổ sung những điểm mới, nêu bật các vai trò, chức năng chung của TTKH
(trong mối liên hệ trực tiếp với phát triển kinh tế - xã hội).
* Làm rõ ý nghĩa thực tiễn của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
Việt Nam hiện nay:
- Đưa ra được một đánh giá mới (đầy đủ và thuyết phục hơn so với các công
trình đã được nghiên cứu có liên quan đến chủ đề này) về vai trò, chức năng của
TTKH trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta trong thời kỳ đã qua.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm về sử dụng TTKH phục vụ cho phát triển
kinh tế - xã hội.
* Tìm ra các giải pháp cụ thể hóa chức năng của TTKH để TTKH phục vụ một
cách hiệu quả cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong giai
đoạn hiện nay, để đảm bảo cho kinh tế nước ta vừa có tốc độ tăng trưởng cao, đồng
thời nâng cao chất lượng tăng trưởng và giải quyết tốt các vấn đề xã hội:
- Về quan điểm, phương thức chung để thực hiện vai trò, chức năng của TTKH
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay.
- Về những vấn đề cụ thể hóa vai trò, chức năng của TTKH (gắn với kinh tế -
xã hội), để TTKH phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH và hội nhập sâu hơn với kinh tế thế giới.



4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
TTKH ứng dụng, tức là nghiên cứu bản chất khoa học của thông tin trong mối

liên hệ với sự phát triển kinh tế - xã hội, nghiên cứu một lĩnh vực độc lập của sự gắn
kết 2 phạm trù với nhau: thông tin khoa học và kinh tế - xã hội. Nghiên cứu cấu trúc
của TTKH phục vụ cho yêu cầu tổng thể về đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội ở nước
ta.
Phạm vi nghiên cứu
- Lý thuyết: khảo sát những vấn đề cơ bản liên quan đến nội hàm của phạm trù
TTKH, nghiên cứu thêm và bổ sung để làm rõ hơn vai trò, chức năng thực tiễn kinh tế
- xã hội của TTKH.
- Thực tiễn: những vấn đề nằm trong giới hạn kinh tế và xã hội, những vấn đề
TTKH liên quan đến kinh tế và xã hội. Không chỉ coi TTKH tác động đến các vấn đề
kinh tế, các vấn đề xã hội của kinh tế mà xem thông tin các vấn đề xã hội tác động
ngược lại đối với kinh tế, đặc biệt kinh tế tác động lại chính TTKH.
- Thời gian và không gian: từ năm 1986 đến nay, trong không gian kinh tế và xã
hội Việt Nam, đặc biệt chú ý giai đoạn từ 2001 đến nay và dự báo trong tương lai.
Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào
nghiên cứu lý luận, nghiên cứu kinh tế - xã hội. Đặc biệt lưu ý: tư duy lôgic gắn với
lịch sử; coi thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý, thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội là thước
đo, là tiêu chuẩn cơ bản nhất để đánh giá về tính đúng đắn của lý luận, của tư tưởng,
của một đường lối, chính sách, biện pháp nào đó;
- Phương pháp tư duy lý luận: nghĩa là phải trừu tượng hóa một cách khoa học.
Phải đúc kết thực tiễn bằng tư duy lý luận, khái quát lý luận phải dựa vào hệ thống các
phạm trù nhất định làm công cụ tư duy. Để nghiên cứu về thực tiễn đa dạng, tư duy về
một vấn đề phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và hướng về thực tiễn nhưng khám phá
thực tiễn phải bằng tư duy khoa học (lý luận);



- Phương pháp nghiên cứu liên ngành (phương pháp nghiên cứu thông tin với
phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội, khoa học kinh tế). Ở đây là đề cập đến việc

phải vận dụng các công cụ của thông tin học để xử lý tư liệu, vận dụng những kiến
thức triết học xã hội để áp dụng vào tư duy về thông tin và các vấn đề kinh tế và xã
hội, vận dụng tư duy kinh tế chính trị để giải quyết những khía cạnh sở hữu và lợi ích,
quan hệ giai cấp và giai tầng xã hội, quan hệ phân phối lợi ích , từ quan điểm lợi ích
để xem xét mục đích, nội dung và ý nghĩa của thông tin, thông tin vì ai và bằng cách
nào v.v Như vậy không chỉ có tư duy hệ thống mà còn phải có tư duy liên hoàn, tư
duy tổng thể.
- Phương pháp khảo cứu, điều tra - thống kê, phân tích - tổng hợp, đối chiếu và
so sánh giữa lý luận với lý luận, giữa lý luận với thực tiễn, giữa thực tế này với thực tế
khác v.v ;
- Phương pháp kế thừa: Trên cơ sở nghiên cứu tổng quát toàn bộ những giá trị
khoa học của các công trình (có thể nắm được) đã có để tránh lặp lại, kế thừa và lựa
chọn những kết luận đã có (mà tác giả thừa nhận) rồi mới có thể suy nghĩ và sáng tạo
mới.
5. Nội dung nghiên cứu
Kết cấu nội dung cơ bản gồm lời mở đầu, 3 chương, kết luận:
Mở đầu: Khái quát về lý do, mục đích, phương pháp, nội dung, ý nghĩa nghiên
cứu
Chương 1: Vai trò, chức năng của TTKH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Chương 2: Thực trạng TTKH phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta
Chương 3: Những giải pháp để TTKH đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới
KT-XH ở nước ta hiện nay
Kết luận chung
Danh mục tài liệu tham khảo
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài là một công trình độc lập, có giá trị khoa học mang bản sắc riêng và giá



trị thực tiễn rõ rệt: bổ sung và phát triển thêm một bước lý luận về TTKH và gắn

TTKH với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội; nó vừa có tính thời sự của việc nghiên
cứu, phản ánh nhu cầu cấp bách của thực tiễn, vừa gắn lý luận với thực tiễn, phát huy
vai trò tiền phong của lý luận để tác động chủ động, tích cực, có hiệu quả vào sự phát
triển kinh tế - xã hội.
* Về lý luận
- Tạo ra một sản phẩm khoa học có tính liên ngành: thông tin và kinh tế, thông
tin và xã hội, phản ánh tính đặc trưng của thời đại: thời đại thông tin và kinh tế tri
thức;
- Sẽ "vẽ” được hình hài mới về phạm trù TTKH, làm cho nó có "da thịt” đầy
đủ hơn; nét riêng mà các tác giả sẽ thực hiện trong nghiên cứu là đưa ra một phương
pháp tiếp cận chính xác hơn đối với phạm trù TTKH, tránh sự đồng nhất TTKH với
thông tin nói chung. Đưa ra cách hiểu, cách vận dụng lý luận thông tin vào thực tiễn
của một vấn đề phức hợp;
- Bổ sung và phát triển rõ hơn về vai trò, chức năng, tác động của TTKH đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội, làm rõ TTKH là một yếu tố - một lực lượng hàng đầu
của lực lượng sản xuất trực tiếp đối với sự phát triển kinh tế xã hội hiện nay;
- Đây là một sản phẩm gắn kết hai nội dung: khoa học ở lĩnh vực thông tin và
kinh tế - xã hội, gắn kết TTKH với phát triển kinh tế xã hội, một bước tiến về sự
thống nhất biện chứng giữa khoa học - lý luận với thực tiễn;
- Nêu rõ TTKH như là dòng sông chuyên chở tri thức, kinh nghiệm, lý luận
khoa học phục vụ cho xã hội nói chung và sự phát triển kinh tế - xã hội nói riêng;
- Đề tài cũng khám phá những nét mới về chức năng TTKH để đáp ứng nhu
cầu về tri thức;
- Khái quát, tổng kết, đúc kết mới về lý luận thông qua nghiên cứu các tài liệu,
thông tin mới và nghiên cứu thực trạng TTKH trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, rút ra
được các bài học kinh nghiệm về ứng dụng TTKH để phát triển kinh tế - xã hội;
- Tầm quan trọng của TTKH cần được nhận thức tốt hơn;




- Đề tài phản ánh được chức năng thực tiễn của thông tin.
* Về thực tiễn, có thể vận dụng những kết quả nghiên cứu vào việc phát triển
kinh tế - xã hội hiện nay
+ Tác động vào các chủ thể của xã hội, các chủ thể nhận thức đúng tầm quan
trọng của TTKH là một nguồn vốn đặc biệt - nguồn vốn tri thức, khoa học, lực lượng
to lớn mà trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta còn chưa được chú trọng
đúng mức. (Các ngành, các cấp, các địa phương, các đơn vị khoa học và kinh tế cần
phải sử dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả hơn);
+ Giúp cho các cơ quan quản lý khoa học và kinh tế đánh giá đúng, mới về thực
trạng, vai trò, chức năng của TTKH thời gian qua trong lĩnh vực phát triển kinh tế - xã
hội nước ta. Gợi ý cho các cấp, các ngành và đặc biệt là các nhà quản lý sử dụng
TTKH như là lực lựng xung kích, đi tiên phong (thậm chí phải đi trước nhiều bước),
mở đường cho việc giải quyết các vấn đề (về khoa học, về thực tiễn nói chung và kinh
tế - xã hội nói riêng);
Giúp cho các cơ quan nghiên cứu, quản lý và các cơ quan đang trực tiếp vận
hành, sử dụng, cán bộ khoa học cũng như người lao động có cách hiểu, cách tiếp cận
tốt hơn về TTKH, có được hệ giải pháp mới để sử dụng TTKH vào công cuộc phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay;
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là luận cứ mới giúp cho các cơ quan quản lý
khoa học và hoạch định chính sách về TTKH;
- Làm tài liệu mới với những nội dung mới nhất định để phục vụ cho các cán bộ
khoa học kinh tế và hoạt động thông tin, cho các đối tượng có nhu cầu tìm hiểu về
TTKH gắn với thực tiễn kinh tế - xã hội.
7. Sản phẩm của đề tài
- Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài dày 170 trang đánh máy A4);
- Báo cáo tóm tắt 25 trang;
- Bản kiến nghị (khoảng 10 - 15 trang A4);
- Sản phẩm trung gian: Kỷ yếu gồm




+ Các chuyên đề;
+ Các bài viết, bài tổng hợp, các nghiên cứu nhỏ và chi tiết.
- Đĩa CD ghi toàn bộ kết quả nghiên cứu.


Chương 1

VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA THÔNG TIN KHOA HỌC
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

1.1. KHÁI NIỆM THÔNG TIN VÀ THÔNG TIN KHOA HỌC
1.1.1. Khái niệm thông tin
Khái niệm thông tin dưới các góc độ sinh học, triết học, điều khiển học quản lý,
kinh tế học, xã hội học v.v được đề cập khác nhau nhưng đều có những nét chung.
Khái niệm thông tin liên quan đến các khái niệm tri thức. Tri thức là những hiểu
biết có hệ thống về sự vật, hiện tượng tự nhiên hay xã hội
10)
.
Thuật ngữ "Thông tin" theo tiếng Anh: information (có nguồn gốc từ tiếng
Latinh), là sự giải thích, sự trình bày. Theo quan niệm của chúng tôi, thông tin là sự
truyền tin. Thông tin chính là sự truyền tải tri thức trong xã hội. Thông tin là các kiến
thức, tri thức được làm thành các dữ liệu, tin tức để lưu chuyển, phổ biến và sử dụng
giữa những cá nhân hay tập thể và cộng đồng xã hội với các qui mô và trình độ khác
nhau.
Như vậy, ta có thể hiểu khái niệm thông tin có bản chất chung như sau:
- Thông tin là một phạm trù của nhận thức, nó thông qua việc sử dụng các công
cụ biểu hiện đặc trưng để nhận thức thế giới khách quan.
- Nội dung thông tin là tri thức bao gồm tri thức cũ và tri thức mới, được vật thể


10)
Từ điển Tiếng Việt, Nxb Hà Nội - Đà Nẵng, 1997, tr 998.



hoá bởi các công cụ lao động và sản phẩm lao động, các công cụ đặc thù của thông tin
như sách báo, các phương tiện truyền thanh, truyền hình, các thiết bị điện tử v.v… và
đặc biệt là chính con người - con người có tích luỹ tri thức ở các mức độ khác nhau.
Đó là sự phản ánh thế giới hiện thực được con người thu nhận bằng hình thức thông
tin. Thông tin chính là sự chuyển tải (dịch chuyển) tri thức giữa con người với con
người. Tri thức là nội dung đích thực của thông tin, là sản phẩm của ý thức - nhận thức
của chúng ta. Vì thế, thông tin phụ thuộc vào hoạt động ý thức của con người.
Thông tin được truyền tải bằng những hình thức và công cụ đặc trưng của quy
trình nhận thức, dưới dạng các dấu hiệu có tính lôgic bằng ngôn ngữ riêng, có vật
mang tin cụ thể để chứa đựng thông tin như sách, báo, truyền hình, truyền thanh v.v
và biểu hiện dưới dạng tiếng nói, cử chỉ, ngôn ngữ, chữ số, bảng biểu, sơ đồ v.v gọi
là các dữ liệu.
- Các thành tố cơ bản của thông tin gồm:
+ Tri thức là nội dung thông tin, là dữ liệu để được xử lý, truyền tải, lưu thông.
+ Đối tượng dùng tin: gắn liền với nhu cầu cá nhân hay tổ chức cụ thể nào đó,
phục vụ cho hiểu biết, cho đời sống kinh tế - xã hội hay cho cá nhân, cho học tập hoặc
nghiên cứu, giảng dạy v.v
+ Chủ thể xử lý thông tin là con người (cá nhân hay tập thể, tổ chức) với các
công cụ, phương tiện để làm tin, thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền tải tin theo các cấp
độ và qui mô khác nhau.
- Đặc điểm về giá trị của thông tin: khác với các sản phẩm vật chất, của giá trị
thông tin không bị tiêu dùng hết, không bị hao mòn, không bị mất đi do tiêu dùng,
ngược lại nó dễ dàng được sao chụp lại và truyền tải. Nhiều khi người dùng tin không
phải trả chi phí vì tin đã được đăng tải, công bố rộng rãi. Nó được làm giàu và phong
phú thêm không ngừng do quá trình lưu thông và sử dụng tri thức. Do vậy, thông tin

tiết kiệm được nhân trí rất lớn cũng như các lượng vật chất và tài chính để sáng tạo ra
tri thức mới, mà nhiều khi không thể sáng tạo lại được những tri thức mà người khác
đã tạo ra.
- Sở hữu giá trị trong thông tin: Trong quá trình sản phẩm thông tin được



chuyển đưa cho người khác tiêu dùng thì người chủ sở hữu giá trị tri thức vẫn không
mất quyền sở hữu (càng được khẳng định rõ hơn khi Luật sở hữu trí tuệ ra đời);
- Lưu trữ sản phẩm thông tin: tương đối độc lập về thời gian, tuỳ theo nhu cầu
và giá trị của tin, cũng như trình độ hiểu biết của người làm thông tin; về không gian
cũng rất linh hoạt và nhiều khi rất dễ dàng, thí dụ: có thể lưu trữ thông tin bởi các thư
viện khác nhau, nhưng cũng có thể lưu trữ thông tin bằng chính đời sống xã hội hiện
thực hàng ngày, bằng con người thông qua văn hoá và sản xuất, thông qua sinh hoạt xã
hội.
- Chi phí bảo quản: Nói chung, không cần chi phi lớn để bảo quản, xử lý, lưu
chuyển giá trị thông tin, nếu so sánh với chi phí để sáng tạo ra giá trị thông tin.
- Thông tin là sản phẩm sạch đối với môi trường.
- Thông tin có ưu điểm liên kết, vì thế mà thu hẹp khoảng cách không gian và
thời gian của những đối tác liên kết với nhau
11)
.
Bản chất tự nhiên của thông tin
Dưới góc độ sinh học và triết học, nhiều người cho rằng mô hình thông tin là cơ
sở tồn tại của toàn bộ giới tự nhiên
12)
.
Đi xa hơn nữa, nhiều nhà nghiên cứu cũng có chung một quan điểm rằng, thông
tin là thực thể phát triển của tự nhiên và xã hội. Theo Giáo sư I. Iuzvisin (Nga):
"Thông tin - đó là tất cả ngọn nguồn của những nguyên nhân đầu tiên của các hiện

tượng và quá trình trong các cấu trúc vĩ mô và vi mô của toàn thế giới"
13)
.
Bản chất đặc biệt của thông tin chính là quan hệ lợi ích. Đây là vấn đề tưởng
như cách xa với nhau nhưng thực ra, đó mới là điểm nhấn trong nội dung thông tin.
Trong tự nhiên thông tin là hình thức phản ánh, phản xạ tự nhiên giữa các tế bào
của mỗi thực thể sinh vật, là sự phản ứng của sinh thái, sự sống. Thí dụ, cảm giác nóng
lạnh thì bộ não con người phải thông báo cho bộ phận cơ thể tìm cách xử lý việc nóng

11)
Xem: A.Eliacov, T/c: "Đối thoại" (tiếng Nga) số 11/2001.
12)
Xem: I. Freigenberg, R. Rovinxki. Mô hình thông tin của tương lai với tính cách là một
chương trình phát triển. T/c: "Những vấn đề kinh tế” (tiếng Nga), số 5/2000.
13)
Dẫn theo: E.A.Tikhonovich, T/c:"Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế”(tiếng Nga), số
4/2005.



hay lạnh, cái bụng đói thì phải có sự thông báo cho bộ phận nạp nguồn năng lực. Một
người đàn ông nhờ con mắt của mình trông thấy một người phụ nữ đẹp thì lập tức con
mắt có sự thông báo cho bộ phận trí não và xúc cảm cần phải tỏ thái độ ra sao cho phù
hợp. Như vậy, thông tin tự nhiên là mối liên hệ tự nhiên giữa các tế bào các bộ phận nhỏ
nhất của sinh vật với nhau. Thông tin xã hội là mối liên hệ xã hội giữa các đơn vị cá thể
hay tập thể xã hội với cấp độ và quy mô khác nhau. Thông tin của xã hội loài người là
một hình thức hoạt động mang tính tri giác, là thông tin xã hội ở các cấp độ và phạm vi
khác nhau. Thông tin xã hội là một dạng khác của thông tin nói chung. Thông tin xã hội
loài người bao gồm 2 cấu tử hợp thành: dạng thông tin tự nhiên (thông tin sinh vật) và
thông tin riêng có của xã hội loài người (thông tin loài người).

Thông tin xã hội là sự nhận thức tự giác của con người. Đương nhiên nó vẫn
mang những đặc điểm do phản ánh vật chất làm cơ sở cho phản ánh xã hội. Thông tin
xã hội là mối liên hệ xã hội ở các cấp độ khác nhau do sinh hoạt xã hội mà có thể nảy
sinh ra ở phạm vi nhỏ nhất là giữa 2 cá nhân với nhau và ở cấp độ lớn nhất là thông tin
toàn cầu với rất nhiều những sự đan xen và mâu thuẫn của tầng tầng lớp lớp các sự
kiện tự nhiên và xã hội phức tạp. Ngày nay, bên cạnh khái niệm thông tin đã xuất hiện
khái niệm xã hội thông tin. Ở đây xin lưu ý, rằng khái niệm xã hội thông tin được hiểu
không chỉ về phương diện kỹ thuật - công nghệ và cả phương diện xã hội của thông
tin, là sự tác động và lan toả mạnh mẽ, nhanh chóng của thông tin đối với các quan hệ
xã hội.
Tốc độ tăng của sản xuất tri thức mang tính "bùng nổ". Theo A.Toffler (Mỹ),
13 thế kỷ đầu công nguyên loài người chỉ xuất bản được 1.000 loại sách, riêng thế kỷ
XIV sách được xuất bản được bằng tổng cộng của 13 thế kỷ trước, hiện nay cứ 1 giờ
xuất bản hơn 1.000 loại. Theo Jamas Martin, một nhà xã hội học nổi tiếng Anh, rằng
để tăng tri thức lên 2 lần, ở thế kỷ XIX là mất 50 năm, đầu thế kỷ XX là 30 năm, đến
những năm 1950 là 10 năm, hiện nay khoảng 3 năm. Có 90% tri thức được tạo ra trong
50 năm gần đây, gấp 19 lần tổng lượng tri thức của xã hội loài người có được trong
gần 10.000 năm trước
14)
.

14)
Dẫn theo Shu Yongqing. Xã hội loài người đi về đâu - Tài liệu phục vụ nghiên cứu của
Viện TTKH xã hội, số 2002 - 76 và 77, tr. 3.



Ở các nước kinh tế phát triển, lĩnh vực dịch vụ chiếm khoảng trên 50% tổng số
việc làm, mà trong đó dựa vào sự phát triển của thông tin. Nhật Bản và Mỹ, đã đi tiên
phong trong việc xây dựng xã hội thông tin, sau đó Châu Âu nhanh chóng nhập cuộc.

Năm 1994 Ủy ban cộng đồng Châu Âu đã đưa ra kế hoạch hành động: "Con đường đi
vào xã hội thông tin của Châu Âu", năm 1995 Phần Lan đưa ra chương trình: "Con
đường đi vào xã hội thông tin của Phần Lan", năm 1996 Đức đưa ra chương trình:
"Đường vào xã hội thông tin của Đức", và ngay sau đó đã được các nước khác như:
Anh, Đan Mạch, Nga đồng loạt hưởng ứng.
Trong báo cáo kinh tế của Tổng thống Mỹ B. Clinton tháng 1/2001, có nói
rằng: "Lĩnh vực công nghệ thông tin đang biến thành chủ đạo của nền kinh tế Mỹ, nên
ở nền kinh tế mới việc sản xuất và phổ biến công nghệ thông tin có thể đặt dấu ngang
bằng, nghĩa là về thực chất, hai cái đó là một"
15)
.
Bản chất của quan hệ kinh tế cũng là thông tin
Thông tin là điều kiện và là máu thịt của đời sống kinh tế. Nền kinh tế là tổng
hòa toàn bộ các yếu tố, các bộ phận, tức là tổng hòa toàn bộ các quan hệ cung - cầu với
hàng tỉ hành vi giao tiếp về cung - cầu; mua - bán, hàng hóa - tiền tệ. Sự phân công của
nền kinh tế chính là nội dung vật chất của thông tin, đó là thông tin của trao đổi vật
chất - xã hội. Nó có cội rễ từ sinh hoạt vật chất, từ nhu cầu trao đổi chất trong tự nhiên
của loài người. Ở đây khía cạnh thông tin là ở chỗ: mọi hành vi trao đổi mua - bán
chính là thông tin vật chất. Các mối liên hệ cơ bản như sản xuất - phân phối - trao đổi
và tiêu dùng trong quá trình tái sản xuất xã hội là những khâu thông tin kinh tế cơ bản,
những khâu đảm bảo cho sự vận hành liên tục, đổi mới và phát triển không ngừng.
Có nhận định rất mạnh dạn, rằng thông tin không chỉ là một trong những nguồn
lực kinh tế quan trọng nhất mà còn là sản phẩm cuối cùng của toàn bộ nền kinh tế.
Hơn thế, một số nhà kinh tế còn khẳng định, cần phải nghiên cứu của cải vật chất trên
phương diện bản chất thông tin của chúng. Điều đó có nghĩa là, ý nghĩa kinh tế của
việc sở hữu các yếu tố vật chất bị quy định hoàn toàn bởi giá trị của thông tin được

15)
Economic Report of the President, 2001. Wash. 2001 - P. 10 - Dẫn theo GS,TS. A. Eliacov.
Cuộc cách mạng thông tin đang tiếp tục, T/c: “Kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế”(tiếng

Nga) số 5/2006.



chứa đựng trong chúng
16)
.
Thông tin với thị trường
Nội dung khái niệm thông tin trong thời đại kinh tế thị trường mang yếu tố thị
trường.
"Thị trường là một hệ thống thông tin phức tạp mà trong tiến trình phát triển,
tiến hóa có thể hình thành cơ chế độc đáo về sự đơn giản và tính hiệu quả bằng công
cụ truyền thông tin đến mọi người tham gia thị trường là giá cả. Nhờ đó mà đưa ra
những quyết định đúng đắn và thực hiện những dự tính, do đó con người tham gia vào
hệ thống thì phải nắm được thông tin đầy đủ về hệ thống kinh tế nói chung. Họ cần
phải biết giá sản phẩm mà họ sản xuất, biết hết các nguồn lực cần thiết để sản xuất"
17)
.
Và "Như vậy, thị trường đã tìm được một công cụ có hiệu quả để tập trung và truyền
tải thông tin về tình trạng của nền kinh tế để mỗi người tham gia hệ thống đó khi đưa
ra các quyết định. Sự độc đáo của cơ chế đó là ở chỗ khi ra các quyết định cá nhân vì
lợi ích riêng của mỗi người tham gia vào đời sống kinh tế, cơ chế đó cho phép đảm
bảo phân bố có hiệu quả các nguồn lực ở quy mô toàn cầu. Đó cũng chính là "bàn tay
vô hình" của thị trường"
18)
.
Nền kinh tế được vận hành, hoạt động chính là nhờ có hệ thống thông tin chằng
chịt giữa cung và cầu, giữa các hành vi kinh tế. Các tiếp xúc, liên hệ kinh tế từ các cấp
độ thấp nhất, nhỏ hẹp nhất đến cấp độ cao nhất đều mang bản chất thông tin. Nội hàm
thông tin ở đây được hiểu là sự trao đổi qua lại giữa hai hoặc nhiều đơn vị, bộ phận

kinh tế với nhau. Thí dụ, trong một gia đình nông dân, mọi quan hệ nội bộ trong gia
đình là quan hệ kinh tế có tính khép kín, là những hành vi hợp tác với nhau giữa các
thành viên trong gia đình. Trong đó, có vai trò điều khiển của người chủ đơn vị kinh tế
gia đình, đồng thời có quan hệ hưởng ứng (chịu sự chỉ huy, phân công) của các thành
viên hoặc một thành viên tự sắp xếp công việc của mình từ đầu đến cuối. Đó là quan

16)
Xem: B. Meljansev. Cuộc cách mạng thông tin của nền kinh tế mới; R. Svulev. Sự biến đổi
của nền kinh tế công nghiệp, vấn đề đo lường kinh tế. T/c: “Kinh tế thế giới và các quan hệ
quốc tế”(tiếng Nga), số 2/2001.
17)
A. Movsesian - Dẫn theo I. Shiscov. Chủ nghĩa tự do quá khứ, hiện tại và tương lai,
T/c:“Kinh tế thế giới và các quan hệ quốc tế" (tiếng Nga), số 11/2004.
18)
I. Shiscov. Chủ nghĩa tự do quá khứ, hiện tại và tương lai, T/c: "Kinh tế thế giới và các
quan hệ quốc tế" (tiếng Nga), số 11/2004.



hệ thông tin kinh tế cục bộ nhỏ nhất. Theo cách gọi của một số nhà nghiên cứu hiện
nay, gọi hành vi kinh tế của cá nhân như vậy là kinh tế nanô. Về thực chất, đó là
những quan hệ trao đổi hoạt động giữa các thành viên trong đơn vị kinh tế cấp nhỏ
nhất. Quan hệ kinh tế vi mô là toàn bộ những vấn đề liên quan đến hoạt động của
doanh nghiệp như giá cả, khối lượng nguồn lực mà doanh nghiệp thu được và phân bổ,
tức là các quan hệ kinh tế chi phối mang tính tuyến tính. Như vậy, quan hệ thông tin
kinh tế ở đây là thông tin theo tuyến tính, ví như sự biến động giá cả thị trường làm
cho các cấp, các ngành, các khu vực và toàn bộ nền kinh tế cũng như kinh tế thế giới
phải điều chỉnh giá cả thay đổi. Còn như quan hệ giữa các chủ thể với nhau trong khu
vực, chẳng hạn như trong một địa phương cấp tỉnh, đấy là quan hệ thông tin hỗn hợp.
Đó là mối liên hệ (thông tin) giữa các ngành, các doanh nghiệp trong vùng tạo thành

một liên kết kinh tế khu vực, đó là quan hệ thông tin kinh tế tổng hòa khu vực, liên hệ
ngang (phi tuyến tính). Trên thực tế quan hệ kinh tế đồng thời diễn ra trên phạm vi
chiều ngang và chiều dọc ở cấp vĩ mô, tức là nền kinh tế mỗi nước. Xét trên bình diện
thế giới là nền kinh tế siêu vĩ mô, kinh tế toàn cầu. Mối liên hệ kinh tế luôn là liên hệ
kinh tế toàn cầu, quan hệ thông tin toàn cầu, có thể ảnh hưởng nhiều ít, trực tiếp hay
gián tiếp với kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô, kinh tế vùng, kinh tế mini (kinh tế doanh
nghiệp), kinh tế nanô.
Như vậy, bản chất của các quan hệ kinh tế cũng là một quan hệ thông tin đặc
biệt, đó là sự trao đổi, phối hợp, phân phối lợi ích giữa các cá nhân hay tập thể trên
những bình diện và các cấp độ khác nhau, cũng là những quan hệ lợi ích. Thông tin
nằm trong bản chất của các hành vi kinh tế, nó như là tế bào máu thịt của mọi quan hệ
kinh tế, trong mua và bán, trong quan hệ giữa các doanh nghiệp cũng như nội bộ với
nhau, trong quan hệ thị trường v.v
Một số nhà khoa học đã đưa ra khái niệm nền kinh tế thông tin, có thể kể tên họ
như: Manschk (1898 - 1977), các nhà kinh tế được giải thưởng Nôben như: G. Stigler,
J. Stigletz, G. Akerfof, A. Spens và nhiều người khác nữa. Họ có những luận chứng
cho rằng: xã hội hiện đại dựa vào nền kinh tế thông tin, trên cơ sở đó mà hình thành
nên xã hội thông tin. Nền kinh tế thông tin được hiểu theo nghĩa: nền kinh tế này dựa
vào thông tin làm nền tảng, yếu tố thông tin đóng vai trò tiên phong của sự phát triển
nói chung và trước hết là KH - CN, đóng vai trò chính trong đời sống kinh tế - xã hội,



giá trị do khu vực thông tin tạo ra chiếm tỷ trọng lớn trong tổng GDP của quốc gia,
công nghệ thông tin và các ảnh hưởng dây chuyền của nó có ý nghĩa rất lớn đối với
toàn xã hội và nền kinh tế, sản phẩm thông tin là sản phẩm tiêu biểu của nền kinh tế,
hay nói cách khác thì sắc màu thông tin đã bao phủ lên nền kinh tế và đời sống xã hội.
Đi xa hơn nữa, nhiều nhà khoa học đã sử dụng khái niệm thời đại thông tin với
ý nghĩa là thông tin có vai trò quan trọng mang tính tự nhiên và máu thịt trong đời
sống xã hội, với sự lan toả của thông tin dưới nhiều hình thức. Cũng tương tự như vậy,

một số nhà xã hội học đã sử dụng phạm trù xã hội thông tin, coi xã hội đó như một
giai đoạn phát triển của thời kỳ hậu công nghiệp (A. Toffler).
Trong khi một số ít dự báo khẳng định cuộc cách mạng thông tin đã chấm dứt,
thì nói chung nhiều nhà nghiên cứu lại chứng minh tiềm năng to lớn của cuộc cách
mạng thông tin và nó đang phát huy mạnh mẽ (A. Eliacov).
Điều này cũng đòi hỏi tư duy kinh tế phải tương đồng với thông tin, TTKH và
với các dự báo khoa học. Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chính cuộc cách
mạng thông tin đòi hỏi phải có tư duy khoa học mới, rằng tư duy khoa học không theo
kịp với TTKH. Thí dụ, cách đây gần 50 năm nhà khoa học S. Lem đã dự báo, có nguy
cơ khoa học - kỹ thuật bị tụt hậu. Những dự báo về cải tiến mạnh mẽ chế tạo động cơ
và năng lượng nhưng thực tế thì không có sự tiến triển đáng kể. Từ đầu những năm
1960 đã có các dự báo: cuối những năm 1960 nhân loại sẽ chế tạo ra động cơ tên lửa i-
ôn và nguyên tử, đến đầu những năm 1990 sẽ có những thí nghiệm động cơ quang tử.
Nhưng hiện nay, tốc độ máy bay và sự an toàn cũng không cao, nhiên liệu dầu mỏ vẫn
là chủ yếu. Nguyên nhân là do không chấp nhận sự cảnh báo của TTKH, không kết
hợp được với tư duy kinh tế. Có ý kiến khá xác đáng rằng, phải lập một môn khoa học
mới nghiên cứu về thông tin theo nghĩa rộng nhất, nó chỉ rõ bản chất của thông tin, các
quy luật ảnh hưởng và tác động của nó đối với xã hội và áp dụng vào kinh tế - xã hội.
Do đó, cần có mô hình tư duy thông tin có tính toàn cầu, trao đổi giữa tất cả mọi nhà
khoa học các ngành, các lĩnh vực. Vì vậy, tư duy kinh tế phải dựa trên mô hình tư duy
thông tin. Có như vậy, mới có cơ sở khoa học chung để đưa ra các hướng phát triển có
hiệu quả.
Có ý kiến đánh giá rằng, một lý do khiến cho kinh tế Liên Xô bị tụt hậu là do

×