DUYÊN NỢ PHÙ SINH
Tác giả
Á Nam Trần Tuấn Khải
Ngôn ngữ
Tiếng Việt
Lĩnh vực
Văn học Việt Nam
Đơn vị xuất bản
Khác
Số trang
-1
Đưa vào danh sách yêu thích
Chia sẻ
Giới thiệu cho bạn bè
Giới thiệu sách
Sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp thực hiện cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai,
thay chính sách đồng hoá (politique d’assimilation) bằng cái gọi là chính sách hợp tác (politique
d’association), mở ra những lỗ thoát hơi cần thiết (soupapes nécessaires) về chính trị, kinh tế, xã hội,
giáo dục, văn hoá, trong đó có việc cho những nhân viên văn hoá cổ động “xây đắp nền quốc văn”
như một thứ “chủ nghĩa ái quốc bằng quốc ngữ”, mơn trớn, lôi kéo cả cựu học lẫn tân học, lái thanh
niên, trí thức chỉ vào một nẻo đường: “Các nước Âu Mỹ trọng các nhà văn sĩ hơn các bậc đế vương
vì cái công nghiệp tinh thần còn giá trị quý báu và ảnh hưởng sâu xa hơn là những sự nghiệp nhất
thời về chính trị” [1]. Một cuộc thay đổi mà bất cứ một cuộc bể dâu nào trước đây cũng không thể so
sánh đã xảy ra ở Việt Nam.
Tình hình như vậy trong những năm 1920 thúc đẩy mạnh mẽ việc hiện đại hoá văn học nước nhà
theo hai con đường – con đường thay đổi dần dần văn học trung đại Việt Nam để tiến đến văn học
hiện đại và con đường xây dựng ngay nền văn học hiện đại; trên hai con đường hiện đại hoá văn học
đó văn học Việt Nam đều thu được những thành tựu.
Trong những năm 1920 hồi quang rực rỡ của văn học các nhà chí sĩ soi sáng, dẫn dắt dư luận xã hội
xung quanh các sự kiện: đả kích Khải Định; ca tụng Phạm Hồng Thái; chống những luận điệu lừa mị,
có lợi cho trật tự của chế độ thuộc địa, rằng “vấn đề quan trọng bậc nhất trong nước ta hiện nay là
vấn đề văn quốc ngữ” và rằng “chữ quốc ngữ ấy chính là cái bè từ cứu vớt bọn ta trong bể trầm luân
vậy” [2] , đưa thanh niên, trí thức ra khỏi ảo mộng “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, “Pháp Việt đề huề”; đấu tranh
đòi ân xá Phan Bội Châu và để tang Phan Châu Trinh. Hồi quang rực rỡ của văn học các nhà chí sĩ
đã kích hoạt sự trỗi dậy mạnh mẽ của dòng văn học yêu nước…
Trong những năm 1920, những văn phẩm của Nguyễn Ái Quốc được viết bằng tiếng Pháp “chọc
thủng lưới sắt” của thực dân về Việt Nam. Một lớp thanh niên, trí thức giác ngộ tư tưởng cách mạng
xã hội chủ nghĩa sáng tác thơ ca không chỉ để thể hiện cái tôi trữ tình tươi mới, mãnh liệt của mình,
mà còn để thuận lợi truyền bá một đường lối cứu nước tất thắng vào công nông, vào nhân dân đông
đảo. Trong bối cảnh chính trị, xã hội, văn hoá, văn học nhiều chiều và phức tạp như vậy, thanh niên,
trí thức, trong đó có những người cầm bút sáng tác văn chương, phân hoá theo nhiều ngả, “người
sang Pháp, người sang Liên Xô, người chui vào bí mật, người xoay ra làm ăn theo lối bình
thường” [3] .
Đặt Á Nam Trần Tuấn Khải trong bối cảnh như đã trình bày ở trên, nhà nghiên cứu có thể hiểu rõ và
đánh giá đúng sáng tác thơ của ông trong những năm 1920: Duyên nợ phù sinh I (in lần đầu, 1921;
Hương Ký xuất bản, Hà Nội, 1928); Duyên nợ phù sinh II (Chân Phương xuất bản, Hà Nội,
1923); Bút quan hoài I (tức Duyên nợ phù sinh III, được viết từ năm Nhâm Dần 1926; Hương Ký xuất
bản, Hà Nội, 1934); Bút quan hoài II (được viết trong những năm 1926, 1927; in năm 1927); Hồn tự
lập I, 1926; Hồn tự lập II, 1927; Trường thán thi (10 khúc, được viết năm 1926; in trong Sách chơi
năm Nhâm Thân, 1932) [4] .
Sáng tác thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải nằm trong dòng văn học yêu nước những năm 1920 mà đội
ngũ của nó hết sức đông đảo: Đoàn Như Khuê, Tản Đà, Bùi Kỷ, Nguyễn Phan Lãng, Nguyễn Can
Mộng, Võ Liêm Sơn, Phạm Tuấn Tài, Trần Huy Liệu, Phạm Tất Đắc, Nguyễn Xuân Lãm, Đạm
Phương, Nguyễn Trung Khuyến, Vị Bắc, Giang Hồ Du Tử, Vũ Khắc Tiệp, Tao Đàn, Sầm Phố, Trần
Ngọc Hoàn, Nguyễn Văn Áng, Nguyễn Hi Chu, Dương Bá Trạc, Đông Bình, Phạm Văn Cung, Lê Hoa,
Giả Ẩn, Nguyễn Thúc Khiêm, Nguyễn Tử Siêu, v.v... và v.v... “Ông già bến Ngự” cũng hoà giọng của
mình trong dòng văn học yêu nước này.
Trên văn đàn lúc ấy nổi lên những bài thơ vịnh sử ngợi ca những anh hùng chống xâm lăng; những
bài thơ vịnh vật phê phán bọn bán nước cầu vinh; những bài thơ phơi bày nỗi nhục nhã của người
dân vong quốc nô; những tiểu thuyết lịch sử: Tiếng sấm đêm đông, Vua Bố Cái, Đinh Tiên Hoàng, Lê
Đại Hành.
Trong phong trào rộng lớn sáng tác văn chương yêu nước như vậy, Á Nam Trần Tuấn Khải đã viết
trên chục bài thơ vịnh sử, như “Chơi thành Cổ Loa”, “Qua nhà Giám”, “Đề đền vua Hùng”, “Thăng
Long hoài cổ”, “Đề tượng vua Lê”, “Trường thán thi”, “Hai chữ nước nhà”… Đọc những bài thơ này
của ông, độc giả ghi vào lòng những câu thơ gan ruột của thi nhân:
Xẻ yếm may cờ dù thoả chí,
Kiếp này khỏi phụ với cha ông
(“Trường thán thi”)
Tuốt gươm thề với thương thiên,
Phải đem tâm huyết mà đền cao sâu.
Gan tráng sĩ vững sau như trước,
Chí nam nhi lấy nước làm nhà.
Tấm thân xẻ với sơn hà,
[…]
Nữa mai mốt giết xong thù nghịch,
Mũi Long Tuyền rửa sạch máu tanh.
Làm cho động đất trời kinh,
Bấy giờ quốc hiển gia vinh có ngày.
(“Hai chữ nước nhà”)
Á Nam Trần Tuấn Khải truyền cho người đọc, người nghe niềm tự hào về thắng cảnh, danh lam của
đất nước, truyền cho ngươi đọc, người nghe cả niềm tin nữa:
Rủ nhau thăm cảnh Kiếm hồ,
Thăm cầu Thê Húc, thăm chùa Ngọc Sơn.
Đài Nghiên, Bút Tháp chưa mòn,
Hỏi ai tô điểm nên non nước này?
(“Phong dao”)
Viết “Con hoàng anh”, “Mắng bù nhìn”, “Hỡi cô bán nước”, ông phê phán, cảnh tỉnh bọn người làm
tay sai cho giặc. Ông nói lên nỗi nhục của người dân mất nước:
Nô nức đua nhau hội với hè,
Văn minh Nam Việt tiến mau ghê!
Nhảy đầm, ăn tiệc, ông Tây sướng,
Liếm chảo, leo đu, đứa trẻ mê!!!
Trời nắng lợi riêng phường bán nước,
Bụi lầm khổ chết lũ buôn xe.
Anh mù nỏ biết trò chi cả,
Cứ bập bùng bung, cứ cò ke...
(“Xem hội Tây”)
Hồi ấy những bài thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải, như “Gánh nước đêm”, “Tiễn chân anh Khoá xuống
tàu”, “Mong anh Khoá”, là những bài thơ quen thuộc với công chúng ở thành thị và cả ở nông thôn,
bởi những bài thơ này đã theo chân những người hát sẩm đến các nhà ga, bến xe, bến tàu và về các
vùng quê. Cùng với Bể thảm của Đoàn Như Khuê, những bài thơ ấy của ông đã gieo vào lòng người
nỗi buồn “quốc phá gia vong”, tương lai mờ mịt, anh hùng tận lộ, nhưng đồng thời cũng vì vậy mà
nhắc nhở mọi người Việt Nam không quên nước, thấm thía nỗi nhục mất nước...
Đọc Á Nam Trần Tuấn Khải, độc giả bắt gặp trong thơ ông cái tôi nội cảm (le moi intérieur). Cái tôi nội
cảm này man mác trong những bài thơ thể hiện lòng yêu nước của thi nhân và nổi rõ trong những bài
thơ bộc lộ cái nhìn ái ân phong tình của ông đối với con người và những hiện tượng trong thực tại,
như trong bài thơ:
Hiu hắt phòng thu nhớ cố nhân!
Nhớ cô hàng quạt chợ Đồng Xuân.
Tờ mây phong kín lời sơn hải,
Tin gió bay tàn lửa ái ân.
Hương hoả ba sinh tình khắc cốt,
Can tràng trăm đoạn lúc rời chân.
Thói đời nóng lạnh coi mà ngán,
Hiu hắt phòng thu nhớ cố nhân.
(“Nhớ cô hàng quạt”) [5]
và trong những bài phong dao, chẳng hạn
Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Nhớ ai dãi nắng dầm sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao!
Như vậy, cái tôi nội cảm ấy của Á Nam Trần Tuấn Khải vừa là “bút quan hoài”, vừa là “duyên nợ phù
sinh”.
Thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải là sự thể hiện tràn đầy quan niệm nghệ thuật của ông:
Đời không duyên nợ thà không sống,
Văn có non sông mới có hồn.
Lúc bấy giờ Á Nam Trần Tuấn Khải, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và nhiều thi sĩ Việt Nam khác “đua
nhau viết những bài thơ, bài ca thể thức dân gian: sa mạc, bồng mạc, hát sẩm, hát điên, những bài
lục bát hay song thất lục bát… song song với những bài thơ theo lối cổ phong hay luật Đường” [6] .
Thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải và thơ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu man mác một hồn thơ dân
gian, một tình điệu Việt Nam.
Trong những năm 1920, thơ của Á Nam Trần Tuấn Khải và thơ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu đang
đi trên con đường biến đổi dần dần thơ truyền thống Việt Nam; con đường ấy và con đường hiện đại
hoá thơ Việt Nam của trí thức Tây học là cùng một hướng…
Đà Lạt, 6/2006
Nam
phong
tạp
chí, số
10,
décembre
1919.
Thượng Chi văn tập, Editions Alexandre de Rhodes, Hanoi, 1943, tr. 55-56.
[3]
Trần Huy Liệu, “Nhớ lại ông già bến Ngự” trong sách Nhà yêu nước và nhà văn Phan Bội
Châu, Nxb.
Khoa
học
Xã
hội,
Hà
Nội,
1970.
[4]
Á Nam Trần Tuấn Khải còn là tác giả của các tiểu thuyết Gương dâu bể I, 1922; Hồn hoa, 1925. Ông
đã dịch Thủy hử, 1925, Hồng lâu mộng, 1934. Vở kịch của ông Mảnh gương đời từng được công diễn
ở
Hà
Nội,
Hải
Phòng.
[5]
Đọc “Nhớ cô hàng quạt” của Á Nam Trần Tuấn Khải, độc giả nghĩ đến “Nhớ chị hàng cau” của Tản
Đà
Nguyễn
Khắc
Hiếu:
Ngồi
buồn
đâm
nhớ
chị
hàng
cau,
Khoảng
mấy
năm
trời
ở
những
đâu?
Khăn
vải
chùm
hum
lâu
vắng
mặt,
Chiếu
buồm
che
giữ
có
tươi
màu?
Ai
đương
độ
ấy
lăm
dăm
mắt,
Tớ
đã
ngày
nay
lún
phún
râu.
Bèo
nước
hợp
tan
người
mỗi
nẻo,
Cậy
ai
mà
nhắn
một
đôi
câu.
[6]
Đặng Thai Mai, Trên đường học tập và nghiên cứu, tập III, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1973, tr. 118.
[1]
[2]
Nguồn: Tham luận tại Hội thảo Á Nam Trần Tuấn Khải do Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức năm 2006.
Mưỡu:
Trời Nam biển Á bao la
Nực cười vơ vẩn là ta với mình
Ham chi duyên nợ phù sinh
Nghìn thu luống để vương tình nước non
Hát nói:
Nợ duyên, duyên nợ
Kiếp phù sinh xoay trở biết bao xong
Chiếc thuyền con chất nặng gánh tang bồng
Đâu đã biết nước đời trong với đục
Tự thị hành tàng quan thế cục
Nhãn tương mộng huyền tống kim sinh
Gẫm nghìn xưa, ai anh hùng, ai chí sĩ, ai cao khiết, ai tài tình
Trong khổ hải lênh đênh ai cũng thế
Thôi thế sự vui buồn chi sá kể
Nước non này tri kỷ dễ làm thinh ?
Sa chân xuống cõi phù sinh
Một duyên, hai nợ, ba tình, ai ơi
Yêu nhau xin nhớ lấy lời
Nguồn: />
Đỉnh cao thơ trữ tình yêu nước của Trần Tuấn Khải là ở Hai chữ
nước nhà. Có thể nói, một đời ông khắc khoải, bồi hồi, tha thiết với
khát vọng về đất nước, dân tộc.
Á Nam Trần Tuấn Khải (1895 – 1983) là nhà thơ cận đại chính thức
bước chân vào văn đàn 1921. Tác phẩm chính gồm: Duyên nợ phù
sinh I (1921), II (1922) –Bút quan hoài I (1924), II (1927) – Hồn tự lập I
(1924), II (1927) – Với sơn hà I (1935), II (1949). Ngoài ra còn có một
số sáng tác văn xuôi (tiểu thuyết, kịch…) và tác phẩm dịch thuật truyện
võ hiệp, các bộ tiểu thuyết Trung Quốc cổ điển.
Trần Tuấn Khải là người quê Nam Định, từng lưu lạc ở đất Bắc rồi vào
Nam từ 1954 đến cuối đời như ứng với bút danh Lâm Tuyền Khách,
Giang Hồ Khách của ông.Đi nhiều, thấy nhiều cảnh và người cũng thêm
nhận thức cuộc đời và cảm hứng văn thơ.
Là người Hán học nhưng cấp tiến chuyển sang học “chữ mới”, viết báo,
làm thơ quốc ngữ. Nổi tiếng chủ yếu trong các thập niên 20, 30, ông
được “điểm danh” trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu của Dương
Quảng Hàm và lọt vào “mắt xanh” của Vũ Ngọc Phan trong bộ Nhà văn
hiện đại.
Làm thơ trang trọng cổ kính thể Đường luật và viết phong dao, dân ca,
Trần Tuấn Khải nhanh chóng trở thành thi sĩ của quần chúng. Thơ ông
gây tiếng vang trên thi đàn và thành tiếng hát nơi bãi chợ, bến xe của
những người bình dân. Từ đó là sự lan truyền mạnh mẽ âm hưởng “non
sông” qua hồn văn.
Trần Tuấn Khải là người của một thời còn để dấu ấn khó phai mờ đến
ngày nay.
1/NHÀ THƠ NHƯ DẤU ẤN BUỔI GIAO THỜI LỊCH SỬ
Trần Tuấn Khảilà nhà thơ nổi danh từ thời tiền chiến. Ông xuất hiện
trong thời điểm giao thời của lịch sử, cũng là giai đoạn văn học có tính
chất giao thời – giai đoạn cận đại, là khoảng trung gian giữa trung đại và
hiện đại.
Đầu thế kỷ XX, cuộc “bình định” bắt đầu thành công, thực dân Pháp
thực hiện chính sách khai thác xứ Đông Dương. Chế độ thực dân nửa
phong kiến hình thành, tiếp tục kìm hãm sự phát triển của đất nước ta.
Tuy nhiên, mặt khác, chính điều này cũng gây ra những biến đổi lớn tới
tình hình trì trệ lâu đời của xã hội phương Đông.
Việc phát triển kinh tế, mở mang giao thông buôn bán,… tạo ra những
biến động xã hội lớn trong kết cấu xã hội. Nông thôn và nhất là thành thị
đổi thay theo hướng xã hội hiện đại, nhưng là hướng tư sản hóa kém
lành mạnh nhất.
Cuộc đấu tranh giữa cũ và mới diễn ra ngày càng gay gắt qua những
vấn đề xã hội là những tâm trạng xã hội.
Vấn đề cứu nước và vấn đề duy tân được đặt ra. Tầng lớp nho sĩ cấp
tiến và một phần trí thức mới nhận ra rằng, phải duy tân mới giành được
độc lập, nhưng đó không phải là một điều dễ dàng.
Giai đoạn 1900 – 1930 có nhiều sự kiện văn học, nhiều tác giả,tác phẩm
thể hiện sự phấn đấu từng bước của quá trình đấu tranh, phát triển,
cũng là sự tranh chấp giữa hai nền văn học cũ và mới. Đó cũng là giai
đoạn có tính chất giao thời của văn học.
Trước thế kỷ XX, trong lịch sử văn học nước ta, có hai dòng chủ đạo:
văn học bác học và văn học bình dân. Mỗi dòng đều có những người
sáng tác mang những quan niệm, khuynh hướng nghệ thuật, những lý
tưởng thẩm mỹ và những phương tiện thể hiện khác nhau.
Thông thường, hai giới sáng tác thường ít quan tâm tới nhau. Nhà nho
xem thường văn học bình dân, ngược lại dân chúng cũng “kính nhi viễn
chi” với văn chương bác học xa lạ.
Tuy nhiên, hai dòng văn chương này cũng có những điểm giao nhau,
cũng có sự giao thoa, phối hợp trong chừng mực nào đó ở những nhà
nho tiến bộ có tư tưởng nhân văn. Họ có quan điểm nhân dân đúng đắn
và quan tâm tới thực tế đời sống, cũng như tác dụng hiệu quả nghệ
thuật của văn học. Đó là hiện tượng xuất hiện một loại văn chương
“lưỡng tính” là dấu nối giữa hai loại văn học. Đây là văn chương bác học
được “đại chúng” hóavà văn chương bình dân được “bác học” hóa, thực
chất là nghệ thuật hóa.
Thơ văn Trần Tuấn Khải, mà chủ yếu là thơ đã đáp ứng được một loại
văn chương mới, có tính chất giao thời với những tính chất như vậy. Một
lớp nhà văn thức thời đã đáp ứng được yêu cầu đó, mà chủ yếu là
những người cấp tiến có tinh thần dân tộc và lòng yêu nước mạnh mẽ.
Phan Bội Châu, Tản Đà là đại diện tiêu biểu, Trần Tuấn Khải cũng là một
người “cùng hội cùng thuyền”, tuy nhiên ông có nét đặc sắc riêng khi đi
sâu vào việc phát huy và cải biên, đổi mới những thể loại, tình điệu cũ
thấm đẫm nét dân gian.
Thực chất, đây là những con chim đầu đàn, góp sức chuyên chở một
dòng văn học cổ truyền sang khuynh hướng hiện đại bằng một hướng
bay mới. Phương tiện ở đây cũng rất đặc biệt: ngôn ngữ mới – chữ
quốc ngữ.
Thực ra, dân tộc hóa và hiện đại hóa là một xu thế tất yếu. Hiện đại hóa
kết hợp dân tộc hóa mà không phải là tư sản hóa, không chịu sự chi
phối của văn học tư sản. Khuynh hướng này vừa hiện đại, vừa dân tộc,
nhưng tính dân tộc được nâng lên một tầm cao mới: dân tộc trong thời
đại. Hướng đi này sẽ nhập được vào hướng đại lộ văn học cách mạng
và có sự thích hợp với thời đại mới.
Xuân Diệu đã khẳng định rất xác đáng về vai trò, vị trí của Trần Tuấn
Khải trong một giai đoạn văn học:
“Có một thời kỳ phôi thai của thơ viết bằng chữ Quốc ngữ từ đầu thế kỷ
đến khi xuất hiện phong trào Thơ mới(1932 – 1945) còn đứng lại được
Nguyễn Khắc Hiếu và Trần Tuấn Khải. Não, cân, da thịt, xương cốt và
hồn vía văn thơ của hai thi sĩ này bền bỉ, trường tồn lắm đấy chứ, thơ
của hai vị đã đứng thế trong thời gian. Á Nam bổ sung cho Tản Đà, và
Tản Đà lại bổ khuyết cho Á Nam. Cả hai thi sĩ là cái gạch nối quý báu
của thơ của Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương sang thơ thật là mới của
các nhà Thơ mới1932 – 1945”. Đó là lời đánh giá quan trọng trong bài
giới thiệu công phu Đọc thơ Á Nam Trần Tuấn Khải dày 47 trang,
của Tuyển thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải – một tuyển tập mới nhất
xuất hiện cho tới nay (1984).
2/NHÀ NHO YÊU NƯỚC THỨC THỜI
Trần Tuấn Khải được sinh ra trong bối cảnh lịch sử đặc biệt. Đó là buổi
giao thời giữa thời cận đại và hiện đại.
Là thế hệ sinh sau Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh nhưngTrần Tuấn
Khải vẫn tiếp nối được chí khí yêu nước và ý tưởng duy tân. Ông viết
văn, làm báo, sáng tác thơ và tự xem là một con đường cải tổ luân lý,
phát huy tính dân tộc, gìn giữ và chuyển tiếp ngọn lửa yêu nước thiêng
liêng. Quan niệm về con đường nghệ thuật của Trần Tuấn Khải thể hiện
minh bạch lý tưởng của người cầm bút:
Đời không duyên nợ thơ không sống
Văn có non sông mới có hồn
Nhàn bút – Với Sơn hà I
Ngay từ tập thơ đầu tiên – Duyên nợ phù sinh, ông đã dựng hình ảnh
ẩn dụ về người phụ nữ Gánh nước đêm. Phạm Quỳnh nhận ra cái ẩn ý
sâu xa: “Ở đời chẳng thiếu những người có chí khí khác thường, cũng
từng nặng lòng vì gánh nước non…”.
Trần Tuấn Khải là một người dám viết, mặc dù biết có những hiểm
nguy: Hồn tự lập ra đời vào khoảng 1926 – 1927. Mới in được sáu ngày
thì bị cấm.
Bút quan hoài với giọng điệu bi tráng và tình cảm về nỗi niềm dân
nước được dư luận hoan nghênh. Khi xuất bản thì thực dân Pháp ra
lệnh cấm lưu hành và tàng trữ (1927).
Ưu thời, mẫn thế, Trần Tuấn Khải còn là một nhà nho yêu nước và thức
thời.
Hưởng ứng phong trào Đông Du, Trần Tuấn Khải đã mấy lần định xuất
dương nhưng không thành (1915 – 1916 qua Trung Quốc, 1927 dự định
sang Pháp,…). Do liên hệ với các chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu,
Huỳnh Thúc Kháng,… ông bị mật thám Pháp theo dõi và lùng bắt, buộc
lòng phải trốn tránh. Tác phẩm Chơi xuânnăm NhâmThân, xuất bản
vào 1932 bị Pháp ra lệnh tịch thu ngay sau đó. Ông bị khám nhà, bị bắt
– tù giam và tù án treo gần 5 tháng vì tội viết sách “phá rối trị an”, “xúi
dân nổi loạn”.Thời gian bị giam cầm ,ông viết Ngục trung vịnh tỏ nỗi
bất bình có xen buồn tủi nhưng vẫn giữ niềm tin và hy vọng vào ngày
mai “Phải chăng kia cái vừng đông?”. Ra tù, ông lại tiếp tục viết báo,
làm thơ, in sách Với sơn hà I (1935), Với sơn hà II (1949),…
Từ 1954, Trần Tuấn Khải di cư vào Nam. Đây là một bước ngoặt trong
cuộc đời. Với sở trường văn hóa, ông vào làm ở Thư viện Quốc gia,
Viện Khảo cổ, làm chuyên viên Hán học tại Nha Văn hóa và viết bài cho
các báo Đuốc nhà Nam, Văn hóa nguyệt san,…với khuynh hướng tiến
bộ của tri thức yêu nước.
Trần Tuấn Khải luôn nung nấu trong lòng Hai chữ nước nhà. Trong
hoàn cảnh bị bủa vây bởi những thế lực phản động, ông vẫn giữ vững
khí tiết thanh cao của nhà văn hóa yêu nước.
Năm 1966, ông cùng một số nhà trí thức ký tên yêu cầu chính quyền
Việt Nam Cộng hòa trực tiếp thương lượng với Mặt trận Dân tộc giải
phóngMiền Nam nhằm vãn hồi hoà bình, nên bị buộc thôi việc.
Từ 1966 – 1967, ông là Chủ tịch danh dự Lực lượng bảo vệ văn hóa
dân tộc. Với cương vị này, ông được nhà văn Vũ Hạnh đánh giá là một
nhân cách “tuyệt vời”
trong một buổi lễ tưởng niệm sau này.
Sau 30/4/1975, ông giữ chức Cố vấn Hội Văn nghệ Thành phố Hồ Chí
Minh cho đến khi mất.
Nhìn chung lại, Trần Tuấn Khải là người có tư tưởng thức thời, biết vượt
thoát quá khứ nặng nề, tù túng để sống thực tế với đất nước, và tìm
cách thể hiện lòng yêu nước. Ông còn truyền bá tư tưởng thiết tha vận
nước, thiết tha với độc lập dân tộc. Ông đã giữ vững ngòi bút chân
chính trên mặt trận văn hóa dân tộc.
Nhiều đánh giá xác đáng về giá trị thơ Trần Tuấn Khải đã được đưa ra.
Đương thời có các tác phẩm Việt Nam thi nhân tiền chiến(Sống Mới –
Sài Gòn, 1969) nhận xét: “Những tư tưởng đã thành châm ngôn và cũng
không ngoài việc gieo vào lòng người một ý chí bất khuất, một hùng khí
ngùn ngụt, một nghĩa vụ thiết yếu của con người, đúng với danh nghĩa
“làm người””. Từ điển văn học(Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984) nói tới
cái thần thái,chủ yếu là nếp sống, cũng là đạo đức truyền thống của dân
tộc: “Thơ Trần Tuấn Khải thường nói đến tình cha con, nghĩa vợ chồng,
tình làng nghĩa nước, nghĩa đồng chủng, lòng thủy chung, nhân ái”. Có
sự cắt nghĩa, sự yêu thích, tán thưởng của quần chúng: “Và thơ ông
đều có ngụ ý nhắc nhở về non sông đất nước. Đấy là cái nhìn ưu thời
mẫn thế của tác giả, đồng thời đấy cũng chính là tình cảm phổ biến của
nhiều người lúc bấy giờ thiết tha với độc lập dân tộc…”.
Thơ Trần Tuấn Khải có tác dụng đặc biệt với người đọc từ thuở thanh
thiếu niên cho tới sau này.
Kể lại những kỷ niệm về tiếp nhận thơ một thời, Trần Tuấn Kiệt – soạn
giả bộ Thi ca Việt Nam hiện đại (Việt Nam thi nhân tiền chiến
– Quyển hạ) trải lòng: “Không hiểu vì sao chúng tôi cảm thấy sung sức
với những vần thơ đó: “Chốnải Bắc mây sầu ảm đạm/ Cõi trời Nam gió
thảm đìu hiu”…“Thơ ông đã gieo vào lòng chúng tôi một mối cảm thông
hoàn cảnh đất nước. Như một ánh sáng chói lọi mở cho con mắt trẻ
trung của chúng tôi cảnh điêu tàn quê hương”, Nguyễn Vỹ đọc Bút
quan hoài từ lúc còn nhỏ tuổi cũng cảm thấy chỉ qua hai bài thơ về
“nước” (Hỡi cô hàng nước, Gánh nước đêm) “chứa đựng tư tưởng
thâm trầm và bi thương về Nước, của người dân mất Nước, tự nhiên
chiêm ngưỡng tác giả như một thần tượng” (Văn sĩ tiền chiến, Văn học,
2007).
Nhà thơ lớn Xuân Diệu tìm thấy tiếng nói tri âm từ tuổi thiếu thời. Từ
năm 14 tuổi, học lớp Nhì, mượn được Bút quan hoài, Xuân Diệu đã
chép vào quyển vở mới một số đoạn thơ thích nhất: “Quyển vở thơ Trần
Tuấn Khải quý báu của tôi như là tiếng gọi của lương tâm!”.
Sau này, tình cảm thủy chung ấy được kể lại trong bài Đọc thơ Á Nam
Trần Tuấn Khải (Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải, Văn học,Hà Nội,
1984). Xuân Diệu có phần nhấn mạnh phân tích nội dung yêu nước
trong một số bài tiêu biểu: Nỗi chị khuyên em, Bà Trưng tế chồng,
Trường thán thi, Hai chữ nước nhà.
3/NGƯỜI VIẾT HIỆN ĐẠI HÓA THƠ QUỐC NGỮ BUỔI ĐẦU
Trần Tuấn Khải không chỉ thức thời về chính trị, tư tưởng mà còn là
người có nhận thức phù hợp về tiến bộ nghệ thuật, chủ yếu là thơ ca
trên một bối cảnh văn hóa mới.
Hán học đi vào cuối mùa với những khóa thi cuối cùng (1919) trong sự
ngán ngẩm của giới Nho sĩ: “Nào có ra gì cái chữ nho” (Tú Xương).
Người ta “quẳng bút lông đi” để cầm bút sắt. Phan Kế Bính viết Hủ nho
tự trào đăng trên Đông Dương tạp chí(5/1924)như hồi chuông cáo
chung cho một lớp người.
Chữ mới – “chữ Quốc ngữ” lên ngôi.
Khởi đầu với công trình của Alexandre De Rhodes vào năm 1651 – Từ
điển An Nam – Bồ Đào Nha – La tinh, cuốn từ điển đầu tiên về tiếng
Việt. Tiếp theo là cuốn được chỉnh lý, phát triển mà người kết thúc
chặng đầu là cố Tabert với tác phẩm Nam Việt Dương hiệp từ
vựng (1838).
Chữ Quốc ngữ có dạng thức tương đối ổn định và nhanh chóng được
ứng dụng rộng rãi trong học đường và ở trong lĩnh vực báo chí, trước
hết và chủ yếu ở Nam Kỳ. Gia Định báoxuất hiện từ 1865 và tiếp đó là
hàng loạt báo như cầu nối văn thông tấn và văn chương nghệ thuật.
Thơ ca được đăng trên báo và in thành tập như Thơ dạy làm
dâu(1882), Phú bần truyện diễn ca (1885)… Nhiều tập thơ đã có sự
gia công nghệ thuật như của Thiên Đào – Nhân trung tạp vịnh (1907),
Nguyễn Liêng Phong – Nam Kỳ phong tục nhân vật diễn ca (1909)…
Phong trào Duy tân, nổi bật là Đông Kinh nghĩa thục (1907 – 1908) đã
coi Quốc ngữ là “văn tự nước nhà”. Với kế sách “mở mang dân trí”, chữ
Quốc ngữ được tăng mạnh với gia tốc lịch sử.
Trần Tuấn Khải là người gốc Nho học, đã từng dịch nhiều bộ tiểu thuyết
Trung Hoa – Thủy hử (1925), Hồng lâu mộng (1934), Đông Chu liệt
quốc (1934),… Tuy nhiên, ông đã sớm thức tỉnh kịp thời để đón nhận
một luồng gió mới về văn hóa, mà khởi đầu có tính chất tiên quyết là
ngôn ngữ văn tự.
Trước ông, các nhà thơ của thập kỷ 20 như Đoàn Khuê, Tương Phố,
Đông Hồ đã khá nhuần nhị trong thơ Quốc ngữ. Nhưng nói một cách
công bằng thì Á Nam Trần Tuấn Khải và Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu mới
là những nhà tiên phong nhập cuộc một cách mạnh mẽ và hiệu quả.
Đây là hai nhà thơ có công lớn trong thành tựu buổi đầu hiện đại hóa
thơ Quốc ngữ.
Các nhà Thơ mới đã chính thức mở rộng và khẳng định tiến trình hiện
đại hóa thơ ca Việt Nam. Đó là những người xuất thân “Tây học”, có
trình độ Quốc ngữ phát triển và cả phần nào tiếng Pháp và văn học
phương Tây – tức được trang bị một hành trang tri thức ngôn ngữ thi ca
mới, khác hẳn thế hệ cũ.
Điều quan trọng nhất là chọn một định hướng phát triển. Trần Tuấn Khải
đã chọn được đường hướng chính xác, có tính quyết định lịch sử.
Thơ ca chữ Hán đã hết thời, thơ Quốc âm chữ Nôm trong quá khứ cũng
không còn triển vọng. Không thể nệ cổ trong tiến trình phát triển, nhưng
tìm về ngọn nguồn tinh thần dân tộc là công trình có ý nghĩa.
Khai thác kho tàng văn học dân gian, đổi mới thi pháp cùng với phát huy
những yếu tố dân tộc của văn học Trung đại là đúng đắn. Đây cũng
chính là sự thể hiện lòng yêu nước trong văn chương.
Trần Tuấn Khải đã góp phần tích cực để giải phóng thơ Quốc ngữ bị gò
bó, kìm kẹp bởi những luật lệ thời Trung đại.
Xét một cách tổng thể, từ khuynh hướng, quan niệm viết đến xây dựng
thế giới nghệ thuật, thi tứ, thi ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu,… Trần Tuấn
Khải có tư cách một Nhà cách tân thi ca Quốc ngữ buổi giao thời.
Nhà thơ quan niệm rằng, văn chương mang một sứ mệnh lớn lao: “Hai
vai thân thế, một gánh giang sơn, cuộc đời văn chương dẫu đến khi tàn,
mà ngòi bút quan hoài biết bao giờ cho ráo mực” (Hồn lụy). Từ đó suy
ra: “Văn có non sông mới có hồn”. Vì thế, cái tôi nghệ sĩ nguyện: “Gửi
với sơn hà một áng văn” (Với sơn hà). Đó chính là ý tưởng “chủ đạo”
của văn học truyền thống (Nguyễn Đình Chiểu), cũng là quan điểm của
nhà thơ đương thời Tản Đà (Cùng bạn văn học).
Thơ trữ tình Trần Tuấn Khải thể hiện một cái tôi yêu nước, luôn trăn trở
khôn nguôi trước cảnh nước mất, nhà tan. Đó là cái tôi “hồn lụy”, “cái tôi
sầu” trong nhân cách thơ. Nhà Nho cầm bút đã ký thác tâm sự yêu
nước qua cái tôi ấy. Mật độ từ “non nước”, “giang san”, “núi sông”, “sơn
hà” là dày đặc trong thơ gắn với hình ảnh, giọng điệu thơ tha thiết. Nhớ
bạn là nhớ: “Lưng thúng giang san vai gánh lẻ (Nhớ ai), thương con
ve: “Nghĩ căm thù để rầu cây cỏ/ Mà gọi xuân về với nước non” (Con
ve), ngắm trăng: “Khối tình xoay mãi với giang san” (Lời chị Nguyệt)…
Tiếng Việt hồn nhiên mà kỳ diệu trong hình ảnh Tổ quốc là thế: đất
nước, núi sông,… Nhiều khi chỉ một từ nước cũng là một ẩn dụ gợi cảm
thức sâu xa. Chính vì vậy, qua tâm trạng của người đàn bà vất vả với
gánh nước đêm khuya là sự bày tỏ nỗi lòng của một chủ thể trữ tình đầy
trách nhiệm với đất nước (Gánh nước đêm). Cái tôi yêu nước Trần
Tuấn Khải thường thể hiện rõ trong các mối tâm giao tri kỷ với bạn bè
(Nhớ bạn, Gửi bạn, Biên giới gặp bạn). Nhà thơ còn nhập vai vào
người phụ nữ có chồng đi xa qua chùm thơ anh Khóa gồm bốn
bài: Tiễn chân anh Khóa xuống tàu (1914), Mong anh
Khóa (1915), Gửi thư cho anh Khóa (1922) và bài cuối cùng Mừng
anh Khóa về (1975). Thực chất, như tâm sự, bộc bạch của nhà thơ, đó
là tình cảm tiễn chân các chí sĩ ra hải ngoại tìm đường cứu nước. Lời
nhắn nhủ của tình yêu cũng chính là lời giục giã của đất nước qua bức
“tâm thư”:
… Ngọn gió năm châu dào dạt sóng duy tân
Tình nhà nỗi nước, chiếc thân anh lo nghĩ trăm chiều
… Anh nghĩ làm sao cho danh nghĩa vẹn toàn
Để treo gương hào hùng với giang san sau này?
Sau giải phóng 1975, thống nhất đất nước là nỗi niềm hân hoan khôn
xiết – Mừng anh Khóa vềnhư một khúc vĩ thanh.
Cảm hứng lịch sử trong thơ Trần Tuấn Khải thật mạnh mẽ. Đó cũng là
cảm hứng của Phan Bội Châu, Tản Đà,… Chơi thành Cổ Loa là những
giọt lệ khóc người xưa lắng lại trong lòng người hôm nay. Trong khi Kỷ
niệm Đức Hưng Đạo Vương lại gợi nhớ chiến công oai hùng một thuở.
Đỉnh cao thơ trữ tình yêu nước của Trần Tuấn Khải là ở Hai chữ nước
nhà. Có thể nói, một đời ông khắc khoải, bồi hồi, tha thiết với khát vọng
về đất nước, dân tộc.
Bên cạnh cái tôi trữ tình yêu nước còn là cái tôi đạo lý. Nhà thơ đề cao
tình bạn, tình anh em, lòng thủy chung, ân nghĩa như cốt cách con
người dân tộc: “Trăm năm nghĩa nặng ân dài”. Đó là vì có tình trạng đạo
lý suy đồi trong hoàn cảnh xã hội đầy nhiễu nhương: “Năm người quen
cũ, ba người nghiện/ Mười trẻ sinh sau, chín đứa hư… Cửa chiền đủng
đỉnh vài cô thõa/ Đám hát ra vào mấy bác sư”. Đó là nỗi đau nhân tình
thế thái của nhà thơ có trách nhiệm cao với đời.
Thể loại thơ rất phong phú. Mạnh nhất là loại phong dao mới. Đây là nét
thành công mới, nổi bật so với lớp nhà thơ cùng thế hệ như Tản Đà,
Đoàn Như Khuê, Đặng Trần Phất,… Nhìn chung, ông vận dụng các thể
thơ truyền thống một cách điêu luyện và sáng tạo.
Theo một thống kê, từ Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khảivới 184 bài thơ,
không kể phong dao có 76 bài thất ngôn bát cú, 28 bài thất ngôn tứ
tuyệt và trường thiên, 2 bài từ khúc, 2 bài ngũ ngôn, 14 bài lục bát, 4 bài
song thất lục bát, 8 bài thi ca liên hành, 12 bài hát nói, 19 bài hát vặt, 3
bài ngâm khúc, 9 bài ca lý mới và 7 bài hát xẩm. Quá nửa là thơ Đường
luật, còn lại là thơ dân tộc gắn với dân chúng.
Tuy nhiên, phần thành công nhất là mảng phong dao. Số lượng trong
tuyển tập là 91 bài, nhưng riêng trong Với sơn hà là 49. Các nhà nghiên
cứu đều nhất trí tách ra mảng sáng tác đặc sắc này. Đó là lối nói, tình
điệu dân tộc qua tâm hồn quần chúng. Câu hát vặt là những câu hát rất
bình dân. Điệu ngâm sa mạc đã chắp cánh cho thơ bay bổng. Đó là một
lối văn chương đặc biệt như lời nhận xét của Vũ Ngọc Phan: “Gánh
nước đêm, Con hoàng anh, Nỗi chị khuyên em, Ca lý mới theo các
điệu Hành vân, Nam ai,… tức điệu ca Huế có yếu tố nhạc thấm sâu vào
tâm tình quần chúng:
Một đôi lời (một đôi lời)
Nhắn bạn tình ơi!
Thề non nước giao ước kết đôi
Ở đây, cũng như Tản Đà, Trần Tuấn Khải đã gặp mảnh đất phóng túng
của tâm hồn lãng mạn.
Hội văn bút miền Nam thăm và tặng bức hoạ chân dung cụ Á Nam nhân
sinh nhật nhà thơ năm 1974
Ca dao hay phong dao giản dị mà khó làm cho hay. Đây là một sáng tác
có vẻ “trái khoáy” với nhà thơ theo khuôn thướcniêm luật của thơ bác
học. Vậy nên, hàng trăm bài đã mang tính dân gian thực thụ. Đến mức
người ta lẫn lộn phong dao mới của nhà thơ như sản phẩm vàng, ngọc
của kho tàng ca dao truyền thống:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống,nhớ cà dầm tương
Nhớ người dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao
Hoặc
Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh, nước bạc ta đừng quên nhau
Trong thơ, nổi bật ở phong dao Trần Tuấn Khải có nhiều địa danh chính
là những địa điểm trữ tình.Về mỹ cảm đó không đơn thuần là địa lý mà
là hình ảnh không gian nghệ thuật.Tâm hồn thơ bao quát những vùng
miền và qua đó là những cảm hứng lịch sử,nhân sinh: “Anh đi anh nhớ
Non Côi/Nhớ sông Vị Thuỷ,nhớ người tình chung”.Tình riêng thường
gắn nỗi niềm chung: “Bắc Nam một mối chung tình/Nhớ công tiên tổ
sinh thành chăng ai?”.Không gian lịch sử thường mang tính bi tráng
“gió thảm”, “mâysầu”.Bức tranh thời cuộc mang đậm màu xám(Trường
thán thi).
Cũng vậy,có một thời gian nghệ thuật trong cảm nhận nhà thơ.Cái tôi nỗi
niềm thường trăn trở về đêm. Đêm như thời khắc trải nỗi buồn ( Buồn
đêm mưa, Đêm thu, Gọi đò đêm, Đêm không ngủ…).Luôn luôn là sự
khắc khoải lo lắng cho thời gian trôi chảy và ngậm ngùi nghĩ đến
cái “nợ” với đất nước, dân tộc ( Đời người, Nỗi đời…).Có hoài niệm về
quá khứ lịch sử qua đó là những dấu tích nuối tiếc và niềm tự hào dân
tộc như : “ Khí thiêng phảng phất núi non cao”. Đó là điểm tựa để con
người hiện tại hướng tới tương lai.Mừng Xuân Ất Mão 1975, thơ Trần
Tuấn Khải đã sôi nổi một không khí thời đại hướng tới ngày mai tươi
đẹp: “Gắng công lên, hạnh phúc quyết về ta/Tự do, độc lập, thái hoà”.
Giọng điệu thơ có nhiều biến hoá theo sắc thái cảm xúc.Tâm tình thời
thế thường được gửi vào câu ca, tiếng hát thiết tha, trầm lắng trong kết
cấu trò chuyện, tâm sự. Có khi là khuyên nhủ, thức tỉnh thân thiết nhưng
nghiêm khắc (Hỡi cô hàng nước), lại có lúc khích bác, mỉa mai, phê
phán (Mắng bù nhìn).Đôi khi lại là giọng thúc giục hào sảng: “Anh hùng
càng trải cơn chìm nổi/Càng vững gan xoay,há chịu đời”(Thuyền
đánhcá).Rõ nhất ở các bài Giọt lệ anh hùng, Tráng sĩ hành.
Hệ thống hình ảnh,ngôn ngữ là yếu tố quan trong làm nên thành công
của lời thơ.
Hình ảnh trong phong dao rất gần gũi,thân thuộc,ngụ tình: “con
nghé”, “con sáo”…giống “con cò”, “cái kiến”, rồi đường đi, đồng bãi như
cảnh tượng quê hương muôn đời. Ngôn ngữ mộc mạc trong sáng kết
tinh lời ăn tiếng nói quần chúng.Từ láy nhiều khi rất dày đặc trong một
đoạn thơ; “Ai làm nước vỡ ngang trời/ Để anh lẽo đẽoquê người đường
xa/ Thương em thui thủi quê nhà/ Thờ kính mẹ già nuôi nấng đàn con”.
Tuy nhiên,trên lĩnh vực ngôn ngữ thơ,Trần Tuấn Khải bên cạnh những
dấu vết cũ cũng có những mạnh dạn đổi mới,đặc biệt là lối diễn đạt mới
phù hợp tâm tình con người thời thế hiện đại.Chất liệu ngôn ngữ cổ
giảm dần.Hình thức lối nói được đưa vào thơ như mầm mống của loại
thơ văn xuôi sau này được khai thác từ hát nói.Khẩu ngữ có chọn lọc
gia tăng (Nhàn bút,Ngẫu đời…).Đó cũng là dấu hiệu chuyển biến quá
trình điệu ngâm sang điệu nói của thơ hiện đại.
***
Trần Tuấn Khải là một nhà thơ danh tiếng đã được định vị trong lịch sử
văn học.
Một thời thơ của ông đã là đề tài giao lưu của tao nhân mặc khách chốn
thi đàn trang trọng. Đặc biệt đã trở thành trao đổi của tâm tình quần
chúng. “Anh Khoá” đã là “người của công chúng” khắp “non sông”. Đó là
vinh dự cũng là hạnh phúc lớn lao của một người viết.
Ở Trần Tuấn Khải đã có bóng dáng của một nhà thơ hiện đại. Đó là nhà
thơ biết hướng về tiến bộ nghệ thuật phía trước. Phong vị dân gian từ
Nguyễn Bính đến Nguyễn Duy…như là một sự tiếp nối tự nhiên. Vấn đề
hiện đại hoá và giữ gìn bản sắc dân tộc vẫn có ý nghĩa thời sự của văn
nghệ.
Trần Tuấn Khải, nhà thơ yêu nước như đang nói chuyện với chúng ta.
Dù đã đi xa nhưng ta vẫn thấy ông gần gũi, người xưa nhưng còn in rõ
bóng dáng hôm nay.
Đương thời, thơ Trần Tuấn Khải hấp dẫn từ lớp thanh thiếu niên. Ngày
nay, tiếng thơ ông vẫn được lưu truyền trên trang giấy học trò, nơi học
đường từ phổ thông trung học tới đại học.
Tuy nhiên, tới nay, nhiều công việc sưu tầm, nghiên cứu còn đang đặt ra
phía trước nhằm đánh giá đầy đủ, chính xác, toàn vẹn sự nghiệp một
nhà thơ lớn trong dòng văn học yêu nước của dân tộc
TÀI LIỆU THAM KHẢO