Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

ôn tập ngữ văn 11 học kì 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.45 KB, 14 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC KÌ I
Môn: Ngữ Văn

Phần đọc – hiểu
 TỰ TÌNH: (Hồ Xuân Hương)
I. Giới thiệu chung:

1. Tác giả:
- Hồ Xuân Hương sống nửa cuối thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX.
- Quê ngoại ở Quỳnh Đôi – Nghệ An, quê nội ở Bắc Ninh, cha là Hồ Phi Diễn.
- Hồ Xuân Hương là người thông minh, giao thiệp rộng, tính tình phóng khoáng, cá tính mạnh
mẽ, táo bạo. Nhà thơ trữ tình trào phúng – một hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam.
- Yêu đời, giàu tình cảm, khao khát hạnh phúc lứa đôi nhưng cuộc đời, tình duyên gặp nhiều éo
le ngang trái.
2. Tác phẩm:
- Hồ Xuân Hương để lại tập lưu hương kí được phát hiện năm 1964 gồm 26 bài thơ chữ Nôm
và 24 bài thơ chữ Hán.
- Hồ Xuân Hương được mệnh danh là Bà Chúa Thơ Nôm. Phong cách thơ Nôm của Hồ Xuân
Hương: ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, hình ảnh quen thuộc trong văn học dân gian. Nhịp thơ
uyển chuyển tùy vào cảnh tình.
- Đề tài quen thuộc, gắn liền với cuộc sống, sinh hoạt của người phụ nữ: đánh đu, dệt cửi,
chồng chết, chồng chung.
II. Đọc – hiểu văn bản:
1. Hai câu đề: nỗi buồn tủi trong đêm khuya

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
- Thời gian: đêm khuya – thời điểm con người đối diện với chính mình.
- Không gian: tĩnh lặng.
- Âm thanh: trống canh dồn – bước đi dồn dập của thời gian và sự rối bời của tâm trạng.
- Đảo ngữ: “trơ cái hồng nhan” nhấn mạnh sự cô đơn, tủi hổ, bẽ bàng của một người phụ nữ


bất hạnh trong tình duyên.


- Từ “cái” đặt cạnh “hồng nhan” thể hiện sự rẻ rúng, mỉa mai đầy khinh bạc, đồng thời là lời
oán trách định kiến xã hội bất công.
- Nhịp thơ: 1/3/3 kết hợp đảo ngữ, kết hợp cách dùng từ “trơ” đặt cạnh hồng nhan càng khoét
sâu sự bẽ bàng của duyên phận.
2. Hai câu thực: cảnh và tình

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vằng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
- “Say lại tỉnh” gợi cái vòng lẩn quẩn, tình duyên trở thành trò đùa của tạo hóa.
- Hình ảnh trăng sắp tàn “bóng xế” mà vẫn “khuyết chưa tròn”, gợi thân phận nhà thơ hai lần
làm lẽ, tuổi xuân trôi qua mà nhân duyên không trọn vẹn. Câu thơ mượn ngoại cảnh để thể
hiện tâm trạng tạo nên sự đồng nhất giữa trăng và người. Bởi thế sự xót xa lên đến tột đỉnh.
3. Hai câu luận: niềm phẫn uất trở thành sự phản kháng mạnh mẽ:

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn
- Cảnh vật có sự hoạt động mạnh mẽ: “xiên ngang”, “đâm toạc”, động từ mạnh thể hiện sự vận
động mạnh mẽ, ngang ngạnh của vạn vật – một sức sống nội tại mạnh mẽ.
- Đảo ngữ làm nổi bật sự vươn dậy của thiên nhiên cũng là sự phẫn uất, phản kháng của tâm
trạng của Hồ Xuân Hương, đồng thời cho thấy khát vọng sống hạnh phúc ở bà, muốn vượt lên
nghịch cảnh.
4. Hai câu kết: tâm trạng chán trường:

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
- “Ngán”: chán ngán, ngán ngẫm thói đời bạc bẽo, éo le.
- “Xuân đi xuân lại lại” mùa xuân đi qua sẽ trở lại với vạn vật nhưng tuổi xuân con người thì

không bao giờ trở lại→nghệ thuật hoán dụ đã nói lên nỗi niềm xót xa của Xuân Hương, gợi
cái vòng lẩn quẩn của tạo hóa.
- Câu thơ cuối với nghệ thuật tăng tiến nhấn mạnh sự bé nhỏ dần, gợi nghịch cảnh éo le, nỗi xót
xa tội nghiệp của thân phận làm lẽ.
⇒ Đau buồn, thách thức, gắng gượng vươn lên nhưng rơi vào bi kịch bế tắc.
5. Nghệ thuật:

- Sử dụng từ ngữ độc đáo, sắc nhọn.
- Tả cảnh linh hoạt.


- Đưa ngôn ngữ đời thường vào thơ
- Sử dụng biện pháp tu từ: đảo ngữ, hoán dụ, tăng tiến.
 Ý nghĩa văn bản: bản lĩnh của Hồ Xuân Hương được thể hiện qua tâm trạng đầy bi kịch, vừa
buồn tủi phẫn uất trước tình cảnh éo le, vừa cháy bỏng khao khát được sống hạnh phúc.
 CÂU CÁ MÙA THU: (Nguyễn khuyến)
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Nguyễn Khuyến hiệu Quế Sơn, xuất thân trong một gia đình nhà nho.
- Ông đỗ tú tài 3 kì thi liên tiếp nên được gọi là Tam Nguyên Yên Đỗ.
- Ông là người có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, quyết không hợp tác với thực dân Pháp.
2. Tác phẩm:
- Sáng tác cả chữ Hán lẫn chữ Nôm.
- Nội dung thơ văn:
+ Bộc bạch tâm sự của bản thân.
+ Viết về cảnh vật con người, cuộc sống ở làng quê.
+ Chế giễu, đả kích những kẻ tham lam, thời sự.
II. Đọc – hiểu văn bản:
1. Bức tranh mùa thu:
- Điểm nhìn: gần→cao xa, cao xa→gần. Từ chiếc thuyền câu nhìn ra mặt ao, nhìn lên bầu trời,

đến ngõ trúc rồi thu mắt về ao thu, thuyền câu→từ khung ao hẹp, không gian mùa thu, cảnh
sắc mùa thu mở ra nhiều hướng thật sinh động.
- Bức tranh mùa thu:
+ Không khí mùa thu: khí trời se lạnh, gió khẽ đưa.
+ Bầu trời mùa thu: xanh ngắt, cao vút.
+ Ao thu: nước trong veo, sóng gợn tí, lạnh lẽo.
+ Ngõ trúc: vắng teo, quanh co.
⇒ Bức tranh mùa thu có đường nét hài hòa, gam màu sáng là biểu tượng đẹp của mùa thu đồng bằng
Bắc Bộ nhưng buồn bởi không gian vắng lặng mang đến sự trống trải cô đơn.
2. Tâm trạng của nhà thơ:


Người đi câu tựa gối buông cần: hình ảnh con người mang đầy tâm trạng nên đi câu chỉ là cái cớ, ẩn
sâu bên trong là tâm trạng thời thế bởi tác giả là người thiết tha với quê hương đất nước, lo lắng cho dân.
3. Nghệ thuật:
- Cách gieo vần “eo” tài tình, gợi không gian như thu nhỏ lại.
- Ngôn ngữ giản dị, trong sáng, âm thanh màu sắc rất gợi cảm.
- Lấy động tả tĩnh, tả cảnh ngụ tình.
 Ý nghĩa văn bản: Vẻ đẹp của bức tranh mùa thu, tình yêu thiên nhiên đất nước và tâm trạng thời
thế của tác giả.
 THƯƠNG VỢ: (Trần Tế Xương)
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
- Trần Tế Xương (1870 – 1907), quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định.
- Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo nhưng đỗ tú tài (sau 8 lần thi trượt).
- Lập gia đình sớm lúc 18 tuổi.
- Tú xương chỉ sống 37 tuổi nhưng để lại 150 bài thơ chủ yếu là thơ Nôm đủ các thể loại: thơ
đường luật, lục bát, văn tế.
- Ông có cá tính phóng khoáng, không chịu bó mình trong khuôn khổ trường thi.
2. Tác phẩm:

- Sáng tác chủ yếu là thơ Nôm:
+ Thơ Tú Xương gồm 2 mảng: trào phúng và trữ tình.
+ Đề tài: bà Tú trong thơ Tú Xương.
- Nội dung: thơ bộc lộ lòng nhân đạo, yêu nước sâu sắc.
II. Đọc – hiểu văn bản:
1. Nỗi vất vả gian truân của bà Tú:

- “Quanh năm”: thời gian có tính lặp lại, khép kín→làm nổi bật nỗi vất vả, nhọc nhằn của bà
Tú.
- “Mom sông”: không gian mua bán, chênh vênh nhiều nguy hiểm→nhấn mạnh sự khó khăn,
tăng cảm giác về sự nhỏ bé, yếu ớt của bà Tú.
- Sử dụng số từ “năm, một” kết hợp quan hệ từ “với”, kết hợp lượng từ “đủ” →thấy được gánh
nặng chồng con đè lên đôi vai của bà Tú, từ đó cho thấy ông Tú ghi công vợ một cách chi tiết,


bởi bà rất đảm đang, tháo vác, chu đáo với chồng con, đồng thời tự trách mình góp thêm gánh
nặng cho vợ.
- “Thân cò”: dùng hình ảnh, ngôn ngữ văn học dân gian sáng tạo:“con cò lặn lội”, kết hợp đảo
ngữ để nhấn mạnh nỗi vất vả, gian truân của bà Tú→gợi nỗi đau thân phận.
- Sử dụng từ chỉ thời gian kết hợp từ chỉ không gian “quãng vắng” →để thấy cái rợn ngợp của
thời gian và sự nguy hiểm của không gian từ đó độc giả vừa nhận biết nỗi nhọc nhằn, vất vả
của bà Tú, vừa thấy tấm chân tình, quan tâm, lo lắng của ông Tú dành cho vợ.
- “Eo sèo”: sự kì kèo, ngã giá, bớt một thêm hai→bà Tú vất vả khi phải gánh trên vai chồng
con lại gặp cảnh khách hàng khó tính thì sự khó khăn vất vả càng tăng thêm.
- “Buổi đò đông”: cảnh chen chút, bươn chảy trên sông nước với bao sự chen lấn, xô đẩy chứa
đầy bất chấp.
- Nghệ thuật đối: “khi quãng vắng”, “buổi đò đông” →nổi bật sự vất vả, gian truân của bà Tú.
2. Đức tính cao đẹp của bà Tú:
- “Nuôi đủ” thể hiện gánh nặng đặt lên đôi vai bà Tú, cho thấy đây là người phụ nữ đảm đang,
tháo vác, chu đáo với chồng con.

- Thành ngữ: “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” kết hợp với số từ “một, hai” cùng
cách sử dụng từ cổ “âu đành phận” →Tú Xương muốn cho người đọc biết ông thật hạnh phúc
và may mắn khi có được một người vợ vẫn lặng lẽ, vẫn một mình gánh chịu vất vả lao động,
tự xem đó là nợ là số phận không chối bỏ, luôn chấp nhận hi sinh không lời oán trách.
⇒ Bà Tú là hình ảnh điển hình cho người phụ nữ Việt Nam tần tảo, giàu đức hi sinh, thủy chung.
3. Tấm lòng và nhân cách của ông Tú:
- Yêu thương, quý trọng, tri ân vợ, thấu hiểu nỗi vất vả nhọc nhằn của vợ.
- Tự trách mình là gánh nặng, là món nợ đời để vợ phải gánh chịu.
- Tự phán xét, tự lên án bản thân đã hờ hững trước sự nhọc nhằn vất vả của vợ.
- Lời chửi trong hai câu cuối là Tú Xương tự chửi mình, nhưng cũng chính là chửi định kiến xã

hội bạc bẽo – là nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ.
4. Nghệ thuật: Vận dụng sáng tạo, ngôn ngữ thi liệu, văn học dân gian kết hợp chất trữ tình và

chất trào phúng.
 Ý nghĩa văn bản: Chân dung người vợ trong cảm xúc yêu thương cùng tiếng cười tự trào và một
cách nhìn về thân phận người phụ nữ của nhà thơ.
 \

Phần tập làm văn

 Phân tích hình tượng nhân vật Huấn Cao:


Bài làm:
Nguyễn Tuân (1910 – 1987) sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn. Ông là một
nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Vì vậy, trong sáng tác của ông, các nhân vật thường
được miêu tả và nhìn nhận như một nghệ sĩ. “Chữ người tử tù” là một điển hình, có lẽ ai đọc xong tác
phẩm đều cảm phục và rung động trước vẻ đẹp của một anh hùng và người anh hùng đó không ai khác –
Huấn Cao.

Trước hết để xây dựng hình tượng Huấn Cao, tác giả đã lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá
Quát ngoài đời – một anh hùng mà tác giả hằng yêu mến, kính trọng. Cao Bá Quát đã từng sống một
cuộc đời tung hoành ngang dọc, là người có tài có đức, văn hay chữ đẹp, dám đứng lên chống lại bọn
thực dân phong kiến và được người đời tôn là Thánh Quát. Một mặt, Nguyễn Tuân mượn hình tượng
nhân vật Huấn Cao để ngợi ca Cao Bá Quát; mặt khác, dựa vào Cao Bá Quát để khái quát lên hình
tượng một anh hùng Huấn Cao mà cái đẹp của tài hoa hòa quyện với cái đẹp của khí phách.
Khi nói về Huấn Cao, Nguyễn Tuân không đi vào miêu tả lai lịch xuất thân mà bằng một cách
gián tiếp để dựng lên chân dung nhân vật. Cái tài viết chữ đẹp của Huấn Cao thể hiện qua đoạn đối thoại
của viên quản ngục với thầy thơ lại. Khi nhận được phiến trát, viên quản ngục vừa mừng vừa lo “có
phải cái người mà vùng tỉnh Sơn ta có tài viết chữ nhanh và đẹp đó không?”, thầy thơ lại trả lời “giả thử
tôi là đao phủ phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy tiêng tiếc”. Quản ngục biết chữ Huấn
Cao “đẹp lắm, vuông lắm” và “có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”. Qua đó, ta
thấy được thái độ trân trọng của tác giả với những bậc tài hoa và nghệ thuật thư pháp cổ truyền của dân
tộc.
Bên cạnh tài viết chữ đẹp, Huấn Cao còn có tài bẻ khóa vượt ngục để trở về với cuộc sống tự do.
Vì như vậy mà Huấn Cao trở thành mối đe dọa cho bất kì trại nào giam giữ ông. Qua đó cho ta thấy, một
con người khát khao tự do, hoài bão tung hoành. Tất cả những tài năng đó làm thành một Huấn Cao đi
vào lòng độc giả như một nghệ sĩ đa tài, một anh hùng đầy khí phách.
Thế nhưng, trong xã hội phong kiến mục nát lúc bấy giờ, Huấn Cao hiện lên là một anh hùng đã
“sa cơ lỡ vận”. Mặc dù vậy, người anh hùng này không giống những người anh hùng “sa cơ lỡ vận” tầm
thường khác, sống những ngày cuối cùng với khí phách hiên ngang của một đấng trượng phu, một anh
hùng. Điều đó được bộc lộ qua hành động “chúc mũi gông” để đánh rệp khi mới được dẫn đến nhà giam
này. Hành động đó vừa thể hiện cái uy của ông với những người bạn tù, vừa thể hiện sự khinh bạc đối
với bọn lính áp giải.
Ngoài ra, cái đẹp của Huấn Cao còn thể hiện ở cái “thiên lương” trong sáng. Trước sự quan tâm,
biệt đãi của viên quản ngục. Huấn Cao chỉ đáp lại bằng một câu nói “ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn
một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Cách nói ngang tàng đầy ngạo nghễ thể hiện thái độ
khinh bạc của Huấn Cao đối với viên quản ngục, đồng thời Huấn Cao còn cố ý sỉ nhục qua cách xưng
hô “ta – nhà ngươi”. Bởi vì, ông đã sẵn sàng chờ đợi một trận báo thù, một trận đòn roi hay là những
thủ đoạn tàn bạo của viên quản ngục – những trò đánh đập của các trại giam thời bấy giờ. Qua hành

động đó, ta mới thấy được, người anh hùng Huấn Cao coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Thế nhưng, câu
chuyện lại làm cho độc giả bất ngờ khi viên quản ngục lại lễ phép lui ra qua “xin lĩnh ý”, sau đó còn biệt
đãi Huấn Cao và những người bạn của ông hơn trước. Chính vì thế, nó làm cho Huấn Cao luôn suy nghĩ
về động cơ làm điều đó của viên quản ngục “hắn muốn gì ở ta, muốn biết thêm điều gì, tất cả ta đó khai
hết rồi mà”. Nhưng khi biết rõ về động cơ của viên quản ngục, Huấn Cao chỉ mỉm cười rồi nói “nào ta


có biết đâu, một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta
đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, rồi ông quyết định cho chữ viên quản ngục.
Và một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã diễn ra, Huấn Cao tay cầm bút, “cổ đeo gông, chân
vướng xiềng” đang vẽ từng nét như “rồng múa phượng bay” bằng cách dồn hết tinh hoa và khí phách
vào đôi tay. Chính khí phách đó đó làm viên quản ngục cảm thấy nhỏ bé và khúm núm còn thầy thơ lại
thì run run đứng cạnh. Khí phách ấy xóa bỏ mọi rào cản về địa vị và thân phận của ba con người đó, xóa
bỏ luôn cảnh ngục tù đầy mạng nhện, phân gián, phân chuột mà thay vào đó là mùi thơm của giấy lụa,
nghiên mực, ánh sáng phát ra từ nét chữ – ánh sáng của cái thiện, cái tâm.
Còn một phẩm chất khác nữa của một Huấn Cao. Tuy theo học đạo Nho – “trung quân” một
cách mù quáng, nhưng vì thương người dân nghèo khổ, bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị mà đứng
lên đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội với phần trăm thành công rất bé nhỏ, còn phải bị
ghép vào tội “phản nghịch” nhưng ông không hề bận tâm. Qua đó, ta thấy Huấn Cao – một con người có
lòng nhân ái bao la. Qua bút pháp đối lập, tương phản, tác giả đã miêu tả thành công một Huấn Cao
hoàn chỉnh, một nhân vật huyền thoại.
Kết thúc truyện, Huấn Cao đã dành cho viên quản ngục lời khuyên chân thành “Ta nghĩ thầy
Quản nên thay chốn ở đi, thầy nên tìm về nhà quê mà ở rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó
giữ thiên lương cho lành vững, rồi đến một ngày cũng nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Qua đó
làm nổi bật việc “cái thiện, cái đẹp” có thể tồn tại trong “cái xấu, cái ác” nhưng không thể cùng ở chung
một nơi được.
Với Nguyễn Tuân, cái tâm luôn là gốc rễ của nhân cách và là điểm xuất phát cũng là nơi đi đến
của khí phách con người. Đồng thời còn có giá trị gợi lại bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được đứng
trước nguy cơ bị mai một và khẳng định phẩm chất trong sáng của con người “bần tiền bất năng di/phú
quý bất năng dâm/uy vũ bất năng khuất”. Nói tóm lại, Huấn Cao là một con người mang đầy đủ những

phẩm chất tốt đẹp. Tuy bị cầm tù về thể xác nhưng hoàn toàn tự do về tinh thần, tâm hồn. Hay nói khác
đi, Huấn Cao dưới ngồi bút của Nguyễn Tuân là biểu tượng cho cái đẹp trong hoàn cảnh lịch sử đầy rẫy
xấu xa, biểu tượng cho thiên lương cao quý. Con người sống vượt lên hiện thực tầm thường để tỏa sáng
và bất tử trong mọi hoàn cảnh. Đồng thời, Nguyễn Tuân còn thể hiện niềm cảm thương sâu sắc đối với
những anh hùng dám xả thân vì nghĩa lớn…“Chữ người tử tù” xứng đáng là một áng văn chương một
thời vang bóng.
 Phân tích hình tượng nhân vật viên quản ngục:

Bài làm:
Năm 1940, tập truyện "Vang bóng một thời" của nhà văn Nguyễn Tuân ra đời thể hiện một bút
pháp tài hoa, độc đáo, giàu màu sắc lãng mạn. Nó gồm có 12 truyện, nhân vật chính phần lớn là các nhà
nho, những kẻ sĩ một thời "vang bóng" và có khi nhân vật phụ cũng để lại những ấn tượng không thể
quên trong lòng độc giả. "Chữ người tử tù" là một ví dụ.
Nếu như nhân vật Huấn Cao là biểu tượng về cái đẹp, cái thiện, khí phách của một người anh
hùng thì nhân vật viên quản ngục được sáng tạo ra để hiện thực hóa sức mạnh ấy. Một tình huống đầy
kịch tính được mở ra: giữa chốn ngục thất, người mà y luôn ngưỡng mộ giờ đây lại là một tử tù, còn y là
cai ngục. Ở bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch nhau ; ở bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm, tri
kỉ của nhau. Kẻ cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình lại là một nghệ sĩ tài hoa tầm cỡ “thiên hạ


đệ nhất thư pháp”, kẻ đại diện cho luật pháp của triều đình lại là người có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”
ngưỡng mộ tài thư pháp ấy. Cuộc “kì ngộ” khiến cho lòng yêu cái đẹp trong quản ngục sống dậy mãnh
liệt tới mức ông có thể bất chấp cả tính mạng và địa vị, mong sao có được chữ ông Huấn.
Thú chơi chữ tao nhã thanh lịch thật đối nghịch với hoàn cảnh công việc của viên quản ngục. Sự
tương phản gây gắt đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng, cao quý của viên quản ngục. Điều này cho thấy
viên quản ngục là người “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Khi nhận được phiến trát trong sáu tên tử tù có Huấn Cao, y vừa mừng vừa lo, tìm hiểu suy nghĩ
đến không ngủ được, trong lòng y có ý nể trọng và cảm thấy thương tiếc vô cùng. Chuẩn bị đón một tử
tù “đặc biệt”, y sai lính quét dọn buồng giam và điều lạ nhất khiến độc giả suy nghĩ là khi y nhận tù sao
lại nhìn sáu tên tử tù với cặp mắt “hiền lành” và có biệt đãi đối riêng với Huấn Cao làm bọn lính nghi

ngờ. Đó là sự trân trọng tài năng, nhân cách và sự kính nể một tài năng như Huấn Cao của viên quản
ngục.
Mấy ngày Huấn Cao bị giam ở nhà ngục này, quản ngục luôn sống trong tình trạng vô cùng căng
thẳng, hồi hộp. Y thừa biết “tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Thế nhưng, y
không dừng lại cái việc bất chấp nguy hiểm mà biệt đãi Huấn Cao và những người bạn tù của ông. Y
không phải là kẻ tiểu nhân dùng những thủ đoạn như thế nhằm “dụ dỗ” Huấn Cao mà y làm điều đó đơn
giản vì y muốn đối xử tốt với người y ngưỡng mộ. Vào buồng giam để gặp Huấn Cao nhưng bị đuổi
khỏi buồng giam một cách thẳng thừng “ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một điều là nhà người
đừng đặt chân vào đây”. Đến lúc này, độc giả nghĩ rằng, viên quản ngục sẽ nổi nóng mà bỏ ra ngoài hay
có thể sẽ đánh đập Huấn Cao cho đỡ tức và sẽ không biệt đãi Huấn Cao như thế nữa. Nhưng, độc giả lại
phải ngạc nhiên khi viên quản ngục lễ phép lui ra ngoài “xin lĩnh ý” và từ ngày đó thì viên quản ngục lại
biệt đãi Huấn Cao và những người bạn của ông hơn trước. Điều này cho thấy viên quản ngục là người
có tâm hồn cao quý với cách cư xử điềm đạm, đúng mực.
Ngoài ra, viên quản ngục còn có một phẩm chất khiến người đối diện không thể không suy nghĩ
là y không dùng quyền thế, tiền bạc mà “mua” chữ của Huấn Cao mặc dù điều đó viên quản ngục thừa
sức để làm. Ngược lại, y dùng “thiên lương” để cảm động một anh hùng khí phách ngang trời. Và chính
những điều đó đã làm cho Huấn Cao nhận ra cái sở thích cao quý của viên quản ngục mà chấp nhận cho
chữ.
Và, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đó diễn ra. Trong cảnh tượng đó, viên quản ngục thể
hiện sự kính cẩn, khúm núm, run run khi đứng trước một “nghệ sĩ đa tài” và có lẽ cũng bởi vì sắp được
nhận một “báu vật” hiếm có trên đời. Về bản chất, đó là sự ngưỡng mộ trước cái đẹp một cách hoàn
toàn tự nguyện. Hành động biệt đãi ông Huấn cũng là xuất phát từ lòng say mê đó. Nhưng đến cuối tác
phẩm thì không còn là chuyện say mê, tôn thờ mấy cái chữ đẹp nữa, mà cao hơn thế, đó là sự trân trọng,
tôn thờ nhân cách cao quý của một bậc tài danh. Bị cái đẹp và nhân cách cao thượng của ông Huấn
thuyết phục, viên quản ngục thực sự cảm động cũng giống như ông Huấn Cao đã cảm động trước “sở
thích cao quý” và tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” của viên quản ngục. Đó là điểm gặp gỡ để trở thành tri
âm, tri kỉ của hai con người cách nhau quá xa về vị thế xã hội. Sự tri kỉ ấy được đánh dấu bằng tiếng nói
nghẹn ngào : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” và kèm theo một cái vái lạy. Vì vậy, ông được coi là “một
thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”.
Nhân vật viên quản ngục là một sáng tạo rất mực sinh động của Nguyễn Tuân, để vừa tô đậm vẻ

đẹp lí tưởng của nhân vật Huấn Cao, lại vừa thể hiện vẻ đẹp của một con người được cái thiện dẫn


đường. Ngoài ra, nhân vật viên quản ngục còn hội đủ phong cách của truyện: lãng mạn mà vẫn hiện
thực, là tiếng nói của thiên lương, của tinh thần dân tộc.
 Phân tích hình tượng nhân vật hai đứa trẻ:

Bài làm:
Thạch Lam (1910 – 1942) xuất thân trong một gia đình công chức gốc quan lại. “Hai đứa trẻ” –
một truyện ngắn thắm thía niềm xót thương, một trái tim giàu lòng trắc ẩn của Thạch Lam đó gợi ra
tính nhân văn cao cả. Cả truyện ngắn bao trùm là cuộc sống quẩn quanh, cơ cực, tối tăm ở phố huyện
nghèo. Hai đứa trẻ là hai nhân vật chính của câu chuyện, mọi biến chuyển của vạn vật đều hiện lên qua
ánh nhìn nhạy cảm của cô bé Liên. Không gian phố huyện được “nhìn thấy” qua tâm trạng của Liên và
đến với người đọc.
Liên và An là hai đứa trẻ từng sống ở Hà Nội, rồi gia đình sa cơ nên trở về quê ngoại – một phố
huyện nghèo hẻo lánh. Hai chị em trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Liên khoảng 9 tuổi, An
khoảng 7 – 8 tuổi. Tuy còn nhỏ nhưng Liên đó có những toan tính cho cuộc sống. Có lẽ vì thế mà trong
sâu thẳm tâm hồn cô bé này đã có những xúc cảm về mọi mặt, mọi việc ở phố huyện này.
Bức tranh thiên nhiên trong phố huyện khi ngày tàn được hiện lên qua điểm nhìn nhạy cảm, tinh
tế của Liên. Đó là “một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng theo gió
nhẹ đưa vào. Trong của hàng hơi tối, muỗi đó bắt đầu vo ve”. Trong bức tranh ấy có sự hòa trộn giữa
hai loại hình ảnh: hình ảnh êm đềm, lãng mạn và hình ảnh gợi sự nghèo khổ, bần cùng. Phải chăng do
cảnh chiều tàn mà gợi cho Liên nỗi buồn: “đôi mắt chị đầy bóng tối”, “chị thấy lòng buồn man mác
trước giờ khắc ngày tàn”. Thật khó để phân định rạch ròi nỗi buồn ngoại cảnh thấm vào tâm cảnh hay
nỗi buồn tâm cảnh lan tỏa ra, nhuốm vào ngoại cảnh. Ta chỉ thấy ở đây là một nỗi buồn sâu sắc trong
tâm trạng. Chỉ có sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm như Liên mới thấu hiểu nó.
Không gian phố huyện còn được hiện lên qua hình ảnh: “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của
ban ngày lẫn với mùi cát quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương
này”. Vậy là đủ thấy tình yêu quê hương trong Liên như một mạch nguồn len lõi trong tâm hồn. Có lẽ
bắt nguồn từ đó mà trong Liên luôn có sự xót thương những kiếp người nghèo khổ nơi phố huyện.

Liên thực sự có một tấm lòng thương cảm vô hạn đối với những con người nghèo khổ, lam lũ, tù
túng của phố huyện. Liên thương những đứa trẻ con nhà nghèo nhưng chính chị cũng chẳng có tiền cho
chúng. Hình ảnh những đứa trẻ đã gợi sự xót thương của Liên đối với cảnh sống nghèo khổ của chúng.
Liên thương cho chị Tí, bởi vì cuộc sống của chị cũng khó khăn. Dường như trong lời hỏi thăm ân cần
của Liên có tiếng nấc khe khẽ. Liên thương cho cụ Thi hơi điên, “chị lẳng lặng rót đầy chai rượu ti” và
“hai chị em Liên đứng nhìn theo cụ đi lần vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng”.
Nhịp sống ở phố huyện cứ lặp đi, lặp lại, quanh quẩn, đơn điệu, tẻ nhạt. Những cảnh đời bế tắc, cuộc
sống của những con người ngèo khó. Họ đang gồng mình lên để sống hay nói cách khác họ đang sống
lay lắt cho qua ngày. Dường như tất cả cảnh phố huyện đều được cô bé thu vào tầm mắt. Với trái tim đa
cảm giàu lòng thương xót, Liên đã có những cảm nhận tinh tế về cuộc đời mờ nhạt, quanh quẩn. Chính
sự quan tâm, niềm cảm thương ấy của Liên đã làm nên tình người khắp thiên truyện. Cái nhìn nhân hậu
cùng niềm xót thương đã tạo nên giá trị nhân văn cho “Hai đứa trẻ”. Những kiếp người xuất hiện trong
đêm tối, từ bóng tối đi ra rồi lại đi dần vào bóng tối chỉ được gợi lên qua cái nhìn của Liên hay chính
Thạch Lam? Bởi theo Thế Lữ nhận xét : “Thạch Lam là người sống hết cả từng ý văn, từng câu văn anh


đã viết ra trên trang giấy. Sự thực của tâm hồn mà Thạch Lam diễn trong văn chương phức tạp, nhiều
hình vẻ, nhưng bao giờ cũng đầm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình
thương.”
Hai đứa trẻ dù cho già dặn trong suy nghĩ thì vẫn chỉ là hai đứa trẻ. Chúng vẫn thèm hòa nhập
vào những cuộc chơi của bao đứa trẻ khác. Đó là điều hết sức tự nhiên trong tâm hồn trẻ thơ. Rồi Liên
và An ngồi trên chổng mà ngước mắt lên bầu trời để khám phá, “vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm
hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ”. Chính sự khám phá tự nhiên ấy đã làm “mỏi trí nghĩ” của cả
hai đứa trẻ. Hai đứa trẻ như ấp ủ bao hi vọng mơ ước của nhà văn được thay đổi thực tại tù túng kia, để
những đứa trẻ như Liên và An được hưởng trọn vẹn trong vòng tay yêu thương, đùm bọc của cuộc đời.
Hai đứa trẻ - hai niềm hi vọng được nhen nhóm lên như ánh sáng của đoàn tàu làm bừng sáng cả
không gian phố huyện, ánh lên nỗi khao khát về sự thay đổi. Sự khao khát, hi vọng mãnh liệt của Liên
về sự thay đổi được thể hiện trong cảnh Liên và An cố thức để đợi chuyến tàu đêm. Đoàn tàu hiện ra
trong bóng tối với “ngọn lửa xanh biếc”, với tiếng còi kéo dài, với “làn khói bừng sáng”. Con tàu hiện
lên bằng một thứ ánh sáng khác hẳn với ngọn đèn con của chị Tí, gánh phở của bác Siêu. âm thanh

“rầm rộ” làm xao động cả không gian phố huyện. Trong sâu thẳm tâm hồn những con người nơi đây,
đoàn tàu còn mang lại ánh sáng giàu sang, no ấm, hạnh phúc, ánh sáng mà “chừng ấy người trong bóng
tối “ đang chờ đợi chăng?. Đoàn tàu xuất hiện chỉ làm thay đổi không gian phố huyện trong khoảnh
khắc nhưng cũng để mọi người thèm khát. Đặc biệt là Liên, Liên đã càng hiểu thấu sự khao khát đó do
chính cô bé cũng đã từng là người Hà Nội, từng có cuộc sống ấm no như thế. Khi tàu tới “Liên lặng
theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vì vui vẻ và huyên náo”. Con tàu như đã đem đến một
chút thế giới khác, một thế giới khác hẳn đối với Liên, một thế giới hạnh phúc, giàu sang khác xa với
cuộc sống nghèo khổ, tù túng hiện giờ nơi phố huyện. Đoàn tàu đi từ kí ức tới hiện tại, mang đến ước
mơ và khát vọng và đem chúng đi trong sự nuối tiếc của Liên. Phố huyện lại trở về với sự yên tĩnh, tịch
mịch và sự bủa vây của bóng tối, nguyên vẹn một cuộc sống tù túng, nghèo khó của bao kiếp người. Dù
có khó khăn nhưng họ vẫn khao khát, vẫn mơ ước về một tương lai tươi sáng. Đó chính là niềm tin sâu
sắc của Thạch Lam, là giá trị nhân đạo của tác phẩm. Nhưng đó chỉ là ý niệm mà không thể thay đổi
được thực tế. Đoàn tàu đến, đi qua nhưng chỉ làm Liên thanh thản, yên tĩnh chứ không thể thay đổi được
thực tại về cuộc sống “tịch mịch và đầy bóng tối” của Liên. Không thấm được một tấm lòng nhân ái sâu
xa, không hiểu lòng của những đứa trẻ, không có một tâm hồn nhạy cảm thì Thạch Lam không thể diễn
tả tinh tế đến thế nỗi thèm khát ánh sáng của những con người trong bóng tối mà đặc biệt là hai đứa trẻ.
Dòng suối mát lành ấy cứ thấm dần rồi thẩm thấu vào trái tim mỗi người đọc về sự xót
thương, về tình yêu nồng nàn đối với những con người nghèo khổ. Thạch Lam rất đỗi tinh tế trong việc
miêu tả sự biến đổi của cảnh vât và nhân vât mà cụ thể ở đây là cô bé Liên. Một cô bé mới 9 tuổi nhưng
đã phải già dặn trong cuộc sống khó khăn, vất vả, tù túng, biết cảm thương cho những mảnh đời khốn
khổ khiến người đọc xúc động. Với truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam đã làm được giá trị đích thực
của văn chương, giá trị thanh cao tâm hồn con người.
 Phân tích nhóm nhân vật trong “hạnh phúc của một tang gia”:
Bài làm:
“Số đỏ” là cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết theo khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Tác
phẩm đã phát huy cao độ tài năng châm biếm, đả kích sắc sảo của Vũ Trọng Phụng trước những thói xấu
xa, giả dối của xã hội thực dân, phong kiến nửa đầu thế ki XX. Dưới ngòi bút kì tài của Vũ Trọng


Phụng, chương nào, đoạn nào cũng thú vị, hấp dẫn như một màn hài kịch trọn vẹn. Đặc biệt gây ấn

tượng là chương “hạnh phúc của một tang gia”.
Ý nghĩa châm biếm gửi cả trong cái tên của chương truyện. Một gia đình có tang, thậm chí đại
tang ắt phải tiếc thương, sầu não đến chừng náo, ấy vậy mà lại hạnh phúc. Mới nghe có vẻ ngược đời
nhưng trong hoàn cảnh cụ thể của gia đình này thì điều ấy lại chân thực, hợp lí. Ở đám tang cụ Tổ, mọi
người đều vui như “tết”: con cái, cháu chắt, họ hàng thân thích, người quen biết… ai cũng thấy đây là
một dịp may hiếm có để thoả mãn một nguyện vọng, một ý đồ nào đó.
Vũ Trọng Phụng vạch rõ chân tướng nhố nhăng, lố bịch của những hạng người mang danh là
thượng lưu, quý phái, văn minh, tân tiến nhưng thực chất lại là những cặn bã, quái thai của cái xã hội dở
Tây dở ta buổi ấy.
Trong chương này, tác giả đã xây dựng thành công những tình huống điển hình để bộc lộ những
tính cách đặc sắc. Trước hết, phải nói đến thái độ của những kẻ có quan hệ ruột rà với cụ Tổ.
Cái chết của cụ chẳng làm cho đứa con, đứa cháu nào tiếc thương bởi đã từ lâu, họ mong cụ chết
cho nhanh để chia gia tài. Thay vào sự tiếc thương, cái chết của cụ đã đem đến cho họ niềm vui to lớn
không che giấu nổi – một “hạnh phúc”: Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con
cháu vô tâm ai cũng vui sướng thoả thích… Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi phường
kèn, thuê xe đám ma… Tang gia ai cũng vui vẻ cả…
Cậu tú Tân, cháu nội cụ Tổ hào hứng, phấn khởi thật sự vì cậu có dịp trổ tài sử dụng cái máy ảnh
mà mãi cậu không được dùng đến. Vợ Văn Minh (cháu dâu) mừng rỡ vì sẽ được mặc đồ xô gai tân
thời… để quảng cáo cho một kiểu đồ tang mới lạ của cửa hàng Âu hoá vừa mới chế ra.
Còn người con trai cả của cụ Tổ thì sung sướng vì một lí do khác lớn hơn “cụ cố Hồng mơ màng
đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu để cho thiên hạ bình phẩm,
ngợi khen: úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa”. Văn Minh (cháu nội), đã từng du học tận bên
Tây bao năm, về nước không có lấy một mảnh bằng, chỉ nhăm nhăm nghĩ tới chuyện chia gia tài thì
thích thú ra mặt vì cái chúc thư kia đã vào thời kì thực hành chứ không còn là lý thuyết viển vông nữa.
Riêng người cháu rể (Phán mọc sừng) lại khấp khởi, sướng rơn trong bụng vì đã được bố vợ nói nhỏ vào
tai rằng sẽ chia cho thêm một số tiền vài nghìn đồng. Chính ông không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu
vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế!
Không khí của đám ma là không khí của một ngày hội. Đây cũng chính là mâu thuẫn trào phúng
gây cười ra nước mắt xuyên suốt hoạt cảnh này. Đám ma rất to, to chưa từng thấy ở đất Hà Thành xưa
nay., Có đủ cả kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, vài ba trăm câu đối, bức trướng, vòng hoa phúng điếu,

vài trăm người đưa đám nghiêm nghị, thành kính đi sát ngay sau linh cữu cụ Tổ, trong đủ thứ tiếng kèn
huyên náo: kèn ta, kèn Tây, kèn Tàu, có cả âm thanh chói tai, rộn rã của lốc bốc xoảng và bu-dích…
Đám ma cụ Tổ trở thành dịp may hiếm có để trưng bày và quảng cáo các mốt quần áo Âu hoá
mới nhất của tiệm may vợ chồng Văn Minh – sản phẩm độc đáo của nhà thiết kế mĩ thuật Typn. Cô
Tuyết cháu gái cụ Tổ với bộ y phục ngây thơ khá hở hang và nét mặt cố tạo ra một vẻ buồn lãng mạn,
rất đúng mốt một nhà có đám, khiến cho bao nhiêu vị khách đàn ông khi trông thấy làn da trắng thập thò
trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết phải xúc động còn hơn nghe tiếng kèn… ai oán, não
nùng. Bộ đồ tang đã được cách tân của vợ Văn Minh cũng làm cho mọi người phải xuýt xoa, trầm trồ…


Ngoài những thân nhân của người quá cố phải nói đến đám bạn bè, quan khách của tang chủ, đi
đưa đám không phải để chia buồn mà là cốt khoe ngực đầy những huy chương như: Bắc Đẩu bội tinh,
Long bội tinh, Vạn Tượng bội tinh…. trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen
hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm …Đám phụ nữ quý phái, đám trai thanh gái lịch đang theo
đuổi, học đòi phong trào Âu hoá, vừa đi đưa ma vừa cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau,
hẹn hò nhau… Và mỉa mai thay, họ làm tất cả những chuyện ấy bằng vẻ mặt buồn rầu của những người
đi đưa ma. Điều đó chứng tỏ họ hoàn toàn dửng dưng với người chết, tất cả đều thản nhiên, vui vẻ và
dối trá.
Người dân hai bên đường đổ xô ra xem đám ma như xem một sự lạ. Đám ma to đến nỗi những
người trong tang gia cảm thấy hết sức sung sướng và hàng phố nhốn nháo cả lên khen đám ma to. Nhà
văn lạnh lùng bình luận: “đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm
cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu”. Thật là mỉa mai, chua chát!
Đằng sau sự phô trương, cố làm ra vẻ long trọng, danh giá ấy là sự rởm đời đến mức lố lăng, là
thói háo danh đến trơ trẽn của bọn người giàu sang, hãnh tiến và bao trùm lên tất cả là thói đạo đức giả,
tự lừa mình và lừa người.
Song song với việc mô tả hình thức đám ma với đủ các nghi thức trọng thể, Vũ Trọng Phụng
không quên đi sâu thể hiện, phanh phui mặt trái của nó. Ngòi bút sắc sảo của nhà văn trưng lên liên tiếp
những bức biếm hoạ trước mắt người đọc, để rồi giúp người đọc nhận ra rằng cái đám ma to tát ấy chỉ
thiếu một cái duy nhất mà cũng quan trọng nhất của đám ma – đó là tình người. Thiếu lòng thương tiếc
chân thành đối với người đã khuất thì tất cả những hình thức loè loẹt, om sòm kia đều trở thành vô

nghĩa, thành trò cười cho thiên hạ. Những kẻ có mặt trong đám ma giống nhau ở chỗ đều giả dối và vô
đạo đức.
Xuân Tóc Đỏ xuất hiện, đẩy sự lố lăng, dị hợm của đám ma cụ Tổ lên tới đỉnh cao. Hắn chọn
đúng lúc để có mặt, trước sự chú ý của mấy trăm con người và gây ấn tượng mạnh với hai vòng hoa đồ
sộ, sáu chiếc xe kéo sang trọng và một đám sư, cùng loại sư của báo Gõ mõ. Điều này khiến cho bà cố
Hồng càng thêm sung sướng: “ấy, giả không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã
nghĩ hộ tôi”. Còn cô Tuyết, người yêu của Xuân Tóc Đỏ cũng phải cảm động mà liếc mắt đưa tình với
hắn.
Mấy chi tiết tả cảnh hạ huyệt càng mỉa mai, trào phúng. Vũ Trọng Phụng tả nó như một vở kịch
mà bàn tay dàn dựng của đạo diễn quá ư lộ liễu, trắng trợn: cậu Tú Tân bắt từng người phải chống gậy,
gục đầu, cong lưng, lau mắt… để cậu chụp ảnh, trong khi bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi
mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau. Chất bi hài của cảnh khiến người đọc cười ra nước mắt.
Chỉ có một tiếng khóc lớn nhất bật lên là của ông Phán mọc sừng: “ông oặt người đi, khóc mãi không
thôi và tiếng khóc của ông thật đặc biệt: Hức! Hức! Hức”. Ông thương cho người đã khuất chăng?
Không phải! Ông đang đóng kịch trước mặt mọi người. Thực ra, cụ Tổ chết…ông ta rất mừng vì được
chia phần khá nhiều, kể cả cái giá của bộ sừng mà cô vợ ông đã cắm lên đầu ông. Miệng khóc, tay ông
Phán dúi nhanh vào tay Xuân Tóc Đỏ một cái giấy bạc năm đồng gấp làm tư… để trả công hắn đã gọi
ông là Phán mọc sừng trước họ hàng nhà vợ, nhờ đó mà ông ta có thêm được một món tiền lớn.
Qua chương “hạnh phúc của một tang gia” Vũ Trọng Phụng bộc lộ xuất sắc tài kể chuyện của
mình. Bút pháp của Vũ Trọng Phụng giỏi ở chỗ phóng đại mà như không phóng đại, làm cho mọi việc
đều như thật và hơn thật, ông chú ý đến các mâu thuẫn giữa hiện tượng và bản chất, khai thác triệt để


nhằm gây nên những tràng cười có ý nghĩa phê phán sâu sắc. Cảnh đám ma hiện ra như một màn hài
kịch sinh động, một bức biếm hoạ khổng lồ và chi tiết về cái xã hội tự xưng là thượng lưu, sang trọng ở
Hà Nội thời đó đang phơi bày tất cả cái bản chất lố lăng và đồi bại trước mắt mọi người.
 Phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo:

Bài làm:
Giữa lúc dòng văn học hiện thực phê phán tưởng như chấm dứt thời kỳ vàng son của mình thì

Nam Cao xuất hiện như một ngôi sao lạ trên bầu trời đầy sao. Với tác phẩm “Chí Phèo” (1940), Nam
Cao đã đóng góp cho dòng văn học hiện thực một điển hình nông dân mới lạ, sâu sắc, độc đáo với tấn bi
kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo.
Chí Phèo ra đời thật là thê thảm: “Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh sương đã thấy
hắn trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh cái lò gạch bỏ không, anh ta rước lấy
và đem cho người đàn bà goá mù.Người đàn bà goá mù này bán hắn cho bác phó không con và khi bác
phó cối chết thì hắn bơ vơ”. Thân phận của đứa con hoang thật là bi thảm. May thay, xã hội cũng còn
chút tình thương nên Chí mới có thể tồn tại mà trưởng thành. Nếu ở trong một xã hội bình thường thì
Chí vẫn có thể trở thành người lương thiện. Năm 20 tuổi hắn đã là một thanh niên khoẻ mạnh làm canh
điền cho Bá Kiến, “hắn ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng
lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Nhưng mơ ước nhỏ nhoi
như vậy cũng không thành.
Hắn cũng có lòng tự trọng. Khi bị bà Ba nhà cụ Bá gọi lên bóp chân, bóp đùi gì đó thì “ hắn chỉ
thấy nhục chứ yêu đương gì”. Nhưng bản chất lương thiện trong sáng ấy của Chí đã bị xã hội huỷ diệt.
Bá Kiến ghen với Chí nên đẩy Chí đi ở tù. Sau bảy – tám năm tù, Chí trở về thành một tên lưu manh côn
đồ. Nhà tù đã cướp đi bộ mặt lương thiện của hắn, biến hắn trở thành “ con quỷ dữ của làng Vũ Đại”,
“Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông
gớm chết”. Bá Kiến và nhà tù thực dân đã xô đẩy Chí Phèo vào con đường lưu manh tội lỗi. Từ đấy, Chí
đối với đời là một cơn say. Những cơn say của hắn tràn từ cơn này đến cơn khác. Hắn ăn trong lúc say,
ngủ trong lúc say và thức dậy hãy còn say, dập đầu, rạch mặt trong lúc say…để rồi say nữa, say vô tận.
Hành vi lưu manh côn đồ của hắn có mấy biểu hiện: hắn đập đầu, rạch mặt, đe doạ, ăn vạ, tống tiền bọn
cường hào mà tiêu biểu là Bá Kiến.
Đối với dân làng, hắn là con quỷ dữ giết người không gớm tay. Dân làng ai cũng sợ hắn. Hắn lại
bị bọn cường hào lợi dụng để thanh trừng lẫn nhau. Bá Kiến có lần đã sai Chí đi đòi nợ Đội Tảo. Chí
làm được việc, vênh váo ra về “anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Với hình tượng Chí Phèo,
Nam Cao đã nêu lên một hiện tượng khá phổ biến, có tính quy luật ở nông thôn Việt Nam xưa. Những
người lao động lương thiện bị xã hội đẩy vào con đường cùng đã quay lại chống trả bằng con đường lưu
manh để tồn tại. Trước Chí Phèo, làng Vũ Đại đã có Năm Thọ rồi Binh Chức. Sau khi Chí Phèo chết,
hiện tượng đó chắc gì đã chấm đứt. Biết đâu lại có một Chí Phèo con ra đời trong cái lò gạch cũ?
Điều chắc chắn là còn bọn cường hào ức hiếp dân lành, không cho họ đựoc sống lương thiện thì

họ phải rơi vào con đường lưu manh, giành lấy miếng ăn, tức là bị huỷ diệt nhân tính và bị xã hội cự
tuyệt quyền làm người. “Chí Phèo” đã làm nổi bật cái quy luật tàn bạo đó của xã hội cũ. Nhưng nếu
truyện dừng lại ở đó thì Nam Cao không có gì mới hơn các nhà văn hiện thực phê phán đi trước. Nét đặc
sắc và độc đáo của Nam Cao là đã rọi ánh sáng vào tâm hồn đen tối ấy để thấy rằng Chí Phèo vẫn còn
một chút lương tri. Nhưng rọi bằng cách nào, Nam Cao đã rọi bằng ánh sáng của tình thương, tình yêu,


chỉ có những tình cảm ấy mới có thể rọi vào tâm hồn của một con quỷ. Trong một cơn say, dưới đêm
trăng ngoài bãi vắng, hắn vừa la làng vừa cưỡng ép Thị Nở, người đàn bà xấu “ma chê quỷ hờn” ở cái
làng Vũ Đại này. Nhưng điều kì diệu là nếu như lúc đầu Thị Nở chỉ khơi dậy bản năng sinh vật ở người
đàn ông say rượu trong Chí Phèo, thì sau đó sự chăm sóc đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc chân
thành của Thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện của người nông dân lao động . Sau khi ăn bát
cháo hành của Thị Nở thì Chí tỉnh hẳn. Hắn bâng khuâng tỉnh dậy sau một cơn say rất dài “lần đầu tiên
từ ngày về làng, sáng dậy hắn nghe tiếng chim kêu, hắn nghe rõ tiếng cười nói của người đi chợ, anh
thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói của những người đàn bà đi chợ về…”. Những âm thanh
bình thường quen thuộc ấy đã trở thành tiếng gọi của sự sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí. Cuộc
gặp gỡ Thị Nở đã loé sáng như một tia chớp trong cuộc đời tối tăm dằng dặc của Chí. Chí bỗng nhận ra
tất cả tình trạng bi đát của số phận mình. Tình yêu thương đã thức tỉnh Chí. Chí “bỗng thấy thèm lương
thiện, muốn làm hoà với mọi người biết bao”. Chí khao khát được mọi người nhận trở lại vào cái xã hội
bằng phẳng của những người lương thiện. Tình yêu của Thị Nở sẽ mở đường cho hắn trở lại làm người.
Nhưng tội nghiệp cho Chí Phèo, Chí mà cầu cứu vào Thị Nở để trở lại làm người lương thiện thì chẳng
khác nào người sắp chết đuối vớ phải mảng bèo.Thị Nở là một phụ nữ u mê, đần độn, không tự định
đoạt được vận mệnh của mình. Đã ở với Chí Phèo năm ngày năm đêm trong túp lều bên bờ sông, mà khi
bà cô ngăn cản, thị lập tức chạy sang nhà Chí Phèo: “Thôi! Dừng yêu”. Cuộc đời Chí Phèo bị tường cao
bao bọc chỉ còn một ngõ ngách để trở về cuộc sống lương thiện. Bà cô Thị Nở đứng ở đó và ngăn chặn.
Chúng ta cũng không trách bà cô Thị Nở bởi bà cũng như dân làng Vũ Đại đã quen coi Chí là tên lưu
manh, là con quỷ dữ rồi. Hôm nay, linh hồn hắn trở về nhưng không ai nhận ra. Thế là Chí Phèo thật sự
rơi vào một bi kịch tinh thần đau đớn. Chí Phèo thật sự đã bị xã hội cự tuyệt. Chí vật vã quằn quại trong
cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn lại uống, lại uống, nhưng càng uống càng tỉnh ra, không nghe mùi rượu mà
chỉ nghe mùi cháo hành. Hắn càng thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình. Rồi hắn ôm mặt khóc

rưng rức. Rồi lại uống say mèm. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng. hắn lẩm bẩm “ tao phải đâm
chết nó”. Hắn định vào nhà Thị Nở thì lại vào đúng nhà Bá Kiến. Đây là một tình tiết của thiên tài, vì
trong tiềm thức, trong vô thức Bá Kiến mới là kẻ thù chính của Chí, vả lại cũng thuộc đường, thuộc ngõ.
Bá Kiến đang nằm ngủ trưa. Hắn đang nằm ngủ trưa. Hắn đang bực mình với bà Tư, không biết đi đâu
mà lâu quá “sao bà ấy còn trẻ quá, gần bốn mươi tuổi mà trông cứ phây phây, càng phây phây quá đi
nữa! Mà thấy ghét những thằng trai trẻ…Cụ chỉ muốn cho tất cả những thằng trai trẻ ở tù ”. Thì chính
lúc đó, con người trai trẻ bị hắn đẩy vào tù năm hai mươi tuổi vung dao xông vào. Chí Phèo dõng dạc:
“tao muốn làm người lương thiện..không ai cho tao lương thiện”. Hắn vung dao nhào tới. Bá Kiến chết
rồi hắn tự sát, khi người ta đến thì hắn “đang giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi”. Chí Phèo
đã chết ở ngưỡng cửa trở về cuộc đời đóng chặt trước hắn. Chí đã chết trong niềm đau thương lớn lao và
niềm khao khát mãnh liệt là được sống làm người nhưng đã bị cự tuyệt. Câu hỏi cuối cùng của Chí: “ ai
cho tao lương thiện” là câu hỏi phẫn uất, đau đớn còn làm day dứt người đọc. Qua hình tượng Chí Phèo,
Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Đó là vấn đề có ý nghĩa xã hội, có ý nghĩa triết học, có tầm vóc lớn
lao. Nhân vật Chí Phèo là một điển hình nông dân mới mẻ, độc đáo, sâu sắc mà Nam Cao đã góp vào
cho dòng văn học hiện thực. Với nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, với cách phân tích tâm lí sâu sắc, Nam
Cao đã đặt ra và giải quyết tấn bi kịch của người nông dân. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Với
nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã hai lần tố cáo xã hội thực dân phong kiến. Xã hội đó đã cướp đi những
gì Chí có và muốn. Và Nam Cao chẳng những là một nhà văn hiện thực sâu sắc mà còn là một nhà văn
có tinh thần nhân đạo cao quý.



×