Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Quyền con người và việc thực thi quyền con người ở đồng bào dân tộc Mông tại các tỉnh Tây Bắc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 166 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG VĂN HÒA

QUYỀN CON NGƯỜI VÀ THỰC THI QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC MÔNG Ở CÁC TỈNH TÂY BẮC
VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: CNDVBC &CNDVLS
Mã số

: 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.T PHẠM VĂN ĐỨC

HÀ NỘI - 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………… ... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI………………………………………………………………………………...... 6
1. 1. Tình hình nghiên cứu lý luận cơ bản về quyền con người……………………..... 6
1. 2. Tình hình nghiên cứu về cơ chế bảo đảm, bảo vệ quyền con người của các dân
tộc thiểu số và dân tộc Mông……………………………………………………......... 21
1.3. Đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và những vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu, giải quyết................................................................................ 30


Chương 2: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ MỘT SỐ
NHẬN THỨC LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN CON NGƯỜI CỦA ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC MÔNG………………………………………………………………. ... 32
2.1. Một số vấn đề lý luận về quyền con người …………………………………… .... 32
2.2. Một số vấn đề lý luận về thực thi quyền con người……………………………..... 38
2.3. Một số nhận thức liên quan trong quá trình thực thi quyền con người của đồng
bào dân tộc Mông hiện nay……………………………………………………… ....61
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUÁ
TRÌNH THỰC THI QUYỀN CON NGƯỜI CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
MÔNG Ở CÁC TỈNH TÂY BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY……………………….....71
3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh
Tây Bắc………………………………………………………………………. . .... 71
3. 2. Thực trạng thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông tại các tỉnh Tây
Bắc trong giai đoạn hiện nay………………………………………………………..... 75
3.3. Đánh giá một số hạn chế trong quá trình thực thi quyền con người của
đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc hiện nay………………………. .... 94
3. 4. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình thực thi quyền con người
của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc hiện nay……………………. ..... 102
3. 5. Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc
Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam hiện nay..................................................................... 107


Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU, NHẰM
THỰC THI TỐT HƠN QUYỀN CON NGƯỜI CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
MÔNG Ở CÁC TỈNH TÂY BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY………………….. ...... 110
4.1. Phương hướng cơ bản đảm bảo thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc
Mông ở các tỉnh Tây Bắc hiện nay……………………………………………….. ...... 110
4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy thực thi tốt hơn quyền con người của
đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc hiện nay………………………………. ... 116
KẾT LUẬN…………………………………………………………………….. ...... 144

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ…………..... 148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………. ..... 149
PHỤ LỤC


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Chủ nghĩa Xã hội

: CNXH

Các tỉnh Tây Bắc

: CTTB

Dân tộc thiểu số

: DTTS

Đảng và Nhà nước

: Đ&NN

Đồng bào dân tộc Mông

: ĐBDTM

Quyền con người

: QCN


Quyền Dân sự, chính trị

: QDSCT

Quyền Kinh tế, xã hội và văn hóa

: QKTXH&VH

Kinh tế, xã hội

: KTXH

Thực thi quyền con người

: TTQCN


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người (QCN) là một trong những vấn đề cơ bản của loài
người, là vấn đề được đặc biệt quan tâm của cộng đồng nhân loại. Mỗi bước phát
triển của con người đều gắn liền với cuộc đấu tranh nhằm cải tạo tự nhiên, cải
tạo xã hội, xây dựng và hoàn thiện các mối quan hệ xã hội của con người. Chính
vì vậy, bảo vệ và phát huy QCN luôn được coi là trọng tâm, là đích đến của mỗi
cuộc cách mạng. “Sự không hiểu biết, sự lãng quên hay sự coi thường QCN là
những nguyên nhân duy nhất của những nỗi bất hạnh công cộng, của tệ hủ bại
của các chính phủ” (Lời nói đầu Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm
1789 của nước Pháp) [24, tr.13].
QCN mặc dù đã có lịch sử phát triển lâu dài trong tư tưởng nhân loại, tuy

nhiên, do tính chất phức tạp của nó, nên vẫn đang tồn tại những quan điểm khác nhau,
thậm chí trái ngược nhau. Mặc dù vậy, nhân loại tiến bộ đã đi đến những quan điểm
chung về QCN, đó là: QCN không thể tách rời giữa quyền cá nhân và quyền cộng
đồng, giữa dân tộc và nhân loại, giữa quyền lợi và trách nhiệm, giữa quyền dân sự
chính trị với quyền kinh tế văn hóa… Tất cả những điều đó tạo nên tính phổ biến và
đặc thù của QCN. Việc vận dụng và giải quyết vấn đề QCN trong thực tiễn, đang trở
thành yêu cầu đòi hỏi bức thiết, cần tránh xu hướng cực đoan tuyệt đối hóa theo một
chiều nhất định. Điều đó một mặt đảm bảo tuân thủ các quyền cơ bản vốn có của con
người đã được thừa nhận rộng dãi, mặt khác khi đề cập đến QCN, phải xem xét đến
các yếu tố lịch sử, văn hóa, điều kiện KTXH.
Ở Việt Nam, vấn đề QCN và bảo vệ QCN, đã được Đ&NN khẳng định và bảo
vệ bằng Hiến pháp và pháp luật. Do tính chất đa dạng về văn hóa và tộc người, sự
khác biệt về trình độ phát triển KTXH trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nên việc
phát triển KTXH, phát huy QCN trong các tộc người thiểu số, mặc dù đã có nhiều cố
gắng, nhưng vẫn tồn tại hạn chế nhất định.
Đồng bào người Mông sinh sống ở Tây Bắc Việt Nam, một địa bàn có vị trí
chiến lược về an ninh, quốc phòng; là tộc người có lịch sử, truyền thống, văn hóa
nhiều biến động, dễ bị tác động từ bên ngoài, nguy cơ bị tổn thương về QCN cao; điều
1


kiện mọi mặt về đời sống còn nhiều khó khăn. Việc giải quyết và gắn kết mối quan hệ
giữa QCN và phát triển KTXH, đảm bảo an ninh, quốc phòng trong đồng bào người
Mông là mục tiêu lâu dài trong chính sách phát triển ở nước ta, đảm bảo tính bền
vững, tạo cơ sở cho xã hội phát triển hài hòa.
Nhận thức đúng đắn về vấn đề này có ý nghĩa quan trọng, nhất là trong điều
kiện hiện nay, khi sự nhạy cảm chính trị trong giải quyết vấn đề QCN, đang là lý do
tạo ra xung đột giữa các nước phương Tây và các nước phương Đông, giữa các nước
phát triển và các nước kém phát triển, giữa Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa tư bản.
Trong khi ở các nước phương Tây, các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài dân

chủ, nhân quyền để chống phá Chủ nghĩa xã hội với những học thuyết như: “Thuyết
nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “Nhân quyền không biên giới”…Việc kích động mâu
thuẫn dân tộc, tôn giáo, đang đe dọa đến sự ổn định chính trị và an ninh quốc gia tại
các vùng đồng bào DTTS, trong đó có đồng bào Mông ở CTTB nước ta. Chính điều
đó đang đặt ra những nhiệm vụ hết sức bức thiết trên cả lĩnh vực bảo vệ QCN và phát
triển KTXH, đảm bảo an ninh quốc phòng.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc - đa tộc người (khái niệm các DTTS ở
Việt Nam được đề cập trong công trình nghiên cứu này được hiểu là các tộc người
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam),trình độ phát triển của các dân tộc không đồng
nhất, có những nét văn hóa riêng biệt, tạo nên sự đa dạng và nét đặc sắc cho nền văn
hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đồng thời, chính điều đó cũng đòi hỏi
trong nhận thức và hoạch định chính sách của Đ&NN cần đứng trên quan điểm: Phát
triển dựa trên QCN, nhằm phát huy những giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp của các
dân tộc, đồng thời tạo ra điều kiện thuận lợi thực hiện QCN một cách tốt nhất.
Đối với các DTTS, khi đề cập đến QCN, luôn được gắn với quyền bình
đẳng, quyền phát triển. QCN và quyền phát triển có quan hệ biện chứng, thống nhất
nhau. Quyền phát triển là điều kiện tiên quyết để QCN được thực hiện. Ngược lại,
chỉ khi QCN được tôn trọng mới có quyền tự do phát triển. Khi quyền phát triển
không được đảm bảo, là nguyên nhân phát sinh những mâu thuẫn, tạo ra các yếu tố
mất ổn định chính trị, xã hội, vi phạm đến QCN.
Xuất phát từ thực tế đó, thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đ&NN ta, một
mặt lý luận QCN đã được quan tâm nghiên cứu; mặc khác, chúng ta đã tích cực chủ
2


động trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng. Đồng thời, quan tâm đề ra các chủ
trương, xây dựng các chính sách, nhằm không ngừng phát huy QCN một cách rộng rãi,
đảm bảo cho nhân dân ta được hưởng những giá trị QCN một cách thực tiễn hơn, phát
huy tính ưu việt thuộc về bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang ra
sức phấn đấu xây dựng. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội, với

tính chất quá độ của nền kinh tế mới thoát thai từ một trình độ sản xuất thấp kém, điều
kiện vật chất, tinh thần của nhân dân còn nhiều khó khăn, các chính sách của nhà
nước, tính minh bạch về cơ chế chưa được đảm bảo, sự chênh lệch về khoảng cách
phát triển giữa các vùng miền, các dân tộc…vẫn đang tồn tại. Chính điều đó đang bị
các thế lực thù địch, phản động, lợi dụng, công kích chống phá Đảng, Nhà nước ta trên
lĩnh vực QCN với những diễn biến phức tạp, khó lường.
Với những lý do đó, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài: “Quyền con người
và thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc
Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục tiêu của luận án
Trên cơ sở đánh giá thực trạng thực thi QCN của đồng bào dân tộc Mông ở các
tỉnh Tây Bắc Việt Nam, luận án mong muốn đóng góp về mặt lý luận cũng như thực
tiễn đối với vấn đề thực thi QCN của một nhóm đối tượng có tính đặc thù và có những
ảnh hưởng nhất định đối với chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đ&NN. Qua kết quả
nghiên cứu của luận án, là cơ sở khoa học góp phần thúc đẩy những thay đổi tích cực
trong nhận thức, xây dựng, triển khai và thực thi tốt hơn QCN của đồng bào dân tộc
Mông ở các tỉnh Tây Bắc, tạo được sự phát triển ổn định, bền vững của không chỉ đồng
bào dân tộc Mông mà của cả nước trong tình hình hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện mục tiêu đã đề ra, luận án phải giải quyết ba nhiệm vụ cơ
bản sau đây:
+ Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận chung về QCN và thực thi QCN.

3


+ Hai là, trình bày thực trạng thực thi QCN của đồng bào dân tộc Mông ở các
tỉnh Tây Bắc từ khi Đổi mới (1986) đến nay; xác định những vấn đề đặt ra trong quá
trình thực thi QCN của đồng bào dân tộc Mông.

+ Ba là, đề xuất một số phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thực
thi tốt hơn QCN của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng:
+ Lý luận về cơ chế đảm bảo và vệ QCN. Thực tiễn thực thi QCN của đồng
bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc hiện nay.`
+ Tập trung luận giải các điều kiện ảnh hưởng đến quá trình thực thi QCN của
đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam, từ đó là cơ sở để đưa ra các giải
pháp nhằm đảm bảo thực thi tốt hơn QCN của đồng bào dân tộc Mông tại đây.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Địa bàn nghiên cứu: Đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam.
+ Thời gian nghiên cứu: Từ khi Đổi mới (năm 1986) đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về QCN. Đồng thời, luận án được trình bày dựa trên quan điểm, đường lối,
chính sách, pháp luật của Đ&NN về QCN.
4. 2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận Duy vật biện
chứng, Duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu liên
ngành khoa học xã hội như: triết học, luật học, chính trị, tôn giáo…, nhằm luận giải các
nội dung cần quan tâm của QCN. Từ đó phân tích mối quan hệ giữa QCN và các điều
kiện KTXH, văn hóa, truyền thống lịch sử, luật pháp....khi áp dụng vào nghiên cứu ở
một đối tượng, phạm vi cụ thể.

4


5. Đóng góp mới của luận án

- Về mặt lý luận, luận án đã hệ thống hóa những tư tưởng cơ bản về quyền con
người và thực thi quyền con người; phân tích, đánh giá cơ chế bảo vệ quyền con người
của Liên Hợp Quốc và Việt Nam hiện nay.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng cơ chế bảo vệ quyền con người ở Việt Nam,
luận án đã đánh giá thực trạng thực thi quyền con người của đồng bào dân tộc Mông ở
các tỉnh Tây Bắc hiện nay. Đây là nét mới mà chưa có công trình nghiên cứu quyền con
người nào đề cập đến.
- Luận án đã chỉ ra thực trạng, xác định được nguyên nhân của những hạn chế
trong TTQCN của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây Bắc.
- Luận án có những đóng góp nhất định, khi đề ra được một số giải pháp có tính
khả thi, nhằm thúc đẩy thực thi tốt hơn QCN của đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây
Bắc hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận, luận án trước hết là tài liệu phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và
học tập, phổ biến TTQCN, một việc đang cần triển khai rộng rãi nhưng còn nhiều hạn
chế ở Việt Nam.
- Về thực tiễn, luận án là tài liệu tham khảo, trang bị, nâng cao nhận thức QCN
trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng, nhằm nâng cao điều kiện về mọi mặt cho đồng bào dân tộc Mông ở các tỉnh Tây
Bắc, tạo cơ sở thực thi tốt hơn QCN của đồng bào dân tộc Mông và của các DTTS trong
cả nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục tài liệu tham khảo, phụ lục và danh
mục các công trình nghiên cứu khoa học của tác giả đã công bố có liên quan đến đề
tài, luận án gồm 4 chương 13 tiết.
.

5



Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Tình hình nghiên cứu lý luận quyền con người và thực thi quyền con người
1.1.1. Tình hình nghiên cứu lý luận cơ bản về quyền con người
Các quan điểm khác nhau về QCN đã được trình bày trong một số công trình
nghiên cứu.
Có thể nói, ngay từ thời cổ đại, nhân loại đã có những quan niệm sơ khai về
QCN. Từ đó đến nay, khái niệm QCN không ngừng được hoàn thiện, phát triển, mở
rộng phạm vi, cũng như có nhiều cách tiếp cận ngày càng đa dạng.
Xuất phát từ ý nghĩa, tầm quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp của nó đến đời
sống của xã hội, QCN luôn là lĩnh vực quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học.
Với tính chất đa dạng, biểu hiện phong phú, các lĩnh vực quyền ngày càng phát triển,
nhận thức và TTQCN còn nhiều tranh luận. Do đó, các nghiên cứu về QCN; một mặt,
đang phản ánh sôi động những tranh luận đó; đồng thời, ngày càng không ngừng hoàn
thiện lý luận, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản mà nhân loại đang
phấn đấu đạt đến. Trong các công trình đó, khi đặt vấn đề nghiên cứu, tác giả đã khảo
sát và nhận thấy về mặt lý luận, vấn đề QCN và TTQCN ở nước ta đã được các tác giả
nghiên cứu, tổng kết và có thể khái quát trên một số nghiên cứu đáng chú ý sau:
Cuốn “Tư tưởng về quyền con người” (2011) do Trung tâm nghiên cứu
quyền con người và Khoa Luật Đại học Quốc gia [27] phối hợp ấn hành, Sách
“Quyền con người” (2011) do Võ Khánh Vinh chủ biên [100]; Cuốn “Tìm hiểu vấn
đề nhân quyền trong thế giới hiện đại” (2009) của tác giả Chu Hồng Thanh [81], hay
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền dân sự và chính trị” (2011) do
Võ Khánh Vinh chủ biên [102]; Cùng với đó là cuốn “Những vấn đề lý luận và thực
tiễn của nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa” (2011) của Võ Khánh Vinh chủ
biên [103]; “Quyền con người và luật quốc tế về quyền con người” (2009) của Chu
Hồng Thanh [82]; “Các văn kiện quốc tế về quyền con người” (2002 ) của Trung tâm
nghiên cứu quyền con người – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh [24]…


6


Những công trình nghiên cứu về QCN phản ánh đa dạng các nội dung, nhưng
có thể khái quát một số nội dung cơ bản sau:
Một là, QCN là một giá trị cao quý thể hiện các đặc tính quan trọng của nhân
cách. Trong sự tác động của hoàn cảnh lịch sử, con người xác định phẩm giá, nhân
cách, địa vị, phát triển các quan hệ tập thể, cộng đồng, quốc gia dân tộc và nhân loại.
Hai là, QCN luôn gắn bó chặt chẽ với từng con người với tư cách là một cá
nhân, lại vừa với tư cách là một thành viên trong xã hội. Vì vậy, nó vừa mang tính
tự do cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, cộng đồng, dân tộc. QCN phải là sự
cần thiết cho từng cá nhân, không phân biệt sắc tộc, tôn giáo, giới tính. Đồng thời,
QCN phải được pháp luật ghi nhận.
Ba là, QCN, một mặt mang tính tự nhiên, khách quan, nhưng mặt khác, lại
luôn bị chi phối bởi điều kiện KTXH và văn hóa truyền thống, do đó vừa mang tính
phổ biến vừa mang tính đặc thù.
Các nghiên cứu, hầu hết đều mong muốn đi tìm nguồn gốc và lịch sử phát triển
QCN, nhằm đem lại cho nhân loại những nhận thức ngày càng sâu sắc hơn và cũng để
thấy được những giá trị cao quý của QCN mà nhân loại cần đấu tranh để đạt được. Đồng
thời, qua các nghiên cứu cho thấy tính phức tạp của khái niệm QCN.
Ngay từ rất sớm, trong kinh điển của các tôn giáo lớn, QCN đã được
nhắc đến và ẩn chứa trong các điều răn dạy. Mặc dù còn sơ khai, chưa thể hiện
rõ quyền bình đẳng của con người, thậm chí có sự phân biệt đẳng cấp trong
những tư tưởng đó, nhưng đã ít nhiều quan tâm đến lòng nhân ái, ước vọng về
một cuộc sống công bằng, tôn trọng sự sống, răn đe điều ác... Đó là những biểu
hiện về việc đề cao phẩm giá, nhân cách và quyền được đối xử bình đẳng của
mỗi cá nhân, là tư tưởng quan tâm đến các nhóm yếu thế trong xã hội. Điều đó
thể hiện những bước tiến lớn trong quá trình con người tìm đến và khẳng định
những giá trị QCN của mình trong lịch sử.
Không chỉ luận giải QCN trong tôn giáo, các nghiên cứu còn tìm hiểu, làm rõ

QCN trong các tư tưởng cổ đại và tiến trình phát triển cho đến ngày nay. Nếu như, các
tư tưởng sơ khai về QCN trong các tôn giáo mới ẩn chứa trong những răn dạy, giáo
điều, giáo lý, tư tưởng vẫn còn mang yếu tố thần linh, niềm tin tôn giáo; thì các nghiên
7


cứu đều khẳng định, tư tưởng QCN chỉ thực sự được bàn đến và xem xét cụ thể, bắt
đầu trong tư tưởng của các triết gia phương Tây cổ đại.
Tư tưởng QCN ở phương Tây đã manh nha xuất hiện từ chế độ thị tộc, thuộc
thời Cổ đại. Ở đó, nhiều nhà tư tưởng đã quan niệm QCN như là quyền tự do bình
đẳng. Điển hình là quan điểm của Heeraclit và Zênông. Hêraclit (khoảng 530 – 470
TCN) đã cho rằng, quyền là cha đẻ của chiến tranh và sự tất yếu, nó dường như là sự
phản ánh tất yếu của luật thiên định muôn đời. Ông nói, bất công và công bằng được
hình thành bởi chính con người; bởi lẽ, đối với trời, tất cả đều hoàn mỹ và cân bằng.
Như vậy, có thể thấy ẩn chứa tư tưởng quyền tự nhiên trong tư tưởng của Heraclit.
Cong Zênông (khoảng 496-429 TCN) người sáng lập trường phái Khắc kỷ, đã đưa ra
tư tưởng của mình nhằm giải thích nguồn gốc, cơ sở của sự bình đẳng. Phái Khắc kỷ
đặt ngang hàng sự hợp lý và tính thần thánh, thần thánh không phải cái gì ngoài vũ trụ,
mà trái lại nó xâm nhập khắp nơi, chỗ nào có lẽ phải, chỗ đó có thần thánh. Từ đó rút
ra kết luận: Mọi người đều có lý trí, mọi người vì có phần lý trí, nên có phần là thần
thánh và vì vậy, là người thì đều bình đẳng. Rõ ràng ở đây có sự đồng điệu với quan
niệm: sở dĩ anh được coi là có quyền vì và chỉ vì anh là một thực thể có nhân tính. Tư
tưởng này về sau đã rất phổ biến trong các triết gia phương Tây ở thế kỷ XVI, XVIII.
Sau này, đế chế La Mã đã cụ thể các quyền đó trong luật pháp. Việc xây dựng
“Luật của các dân tộc” là con đường đem lại hiệu lực cho nguyên tắc: mọi người đều
bình đẳng. Đỉnh cao đạt được vào năm 202 (sau CN), khi chỉ dụ nổi tiếng của hoàng
đế Caracalla ban bố QCN La Mã cho tất cả những người dân tự do (không phải nô lệ)
của đế quốc này. Nhưng phải đến Xpáctacút thì quyền chống áp bức của những người
nô lệ mới được bắt đầu.
Trong tác phẩm “Quyền con người” [96], tác giả Võ Khánh Vinh cũng đã đề

cập đến những tư tưởng QCN của Hy Lạp – La Mã cổ đại. Lúc này, QCN mang tính
giai cấp sâu sắc, chỉ có tầng lớp quý tộc trong xã hội mới có QCN, còn người nô lệ thì
không hề có chút quyền nào. Aritstoteles (384-322 TCN) cho rằng, chỉ có những công
dân (nam từ 18 tuổi trở lên) mới có quyền công dân, còn phụ nữ, trẻ em, nô lệ
....không có QCN như những công dân khác. Platon (427-447 TCN), coi nông dân và
thợ thủ công là hạng người thấp nhất trong “nhà nước lý tưởng của ông” [96, tr.150],
8


“trong xã hội phải duy trì các hạng người khác nhau và do đó, không thể có sự hoàn
toàn bình đẳng giữa mọi người được” [96, tr.192]. Đến Đêmôcrit (460-370 TCN) là
nhà triết học đầu tiên đặt ra vấn đề đấu tranh cho dân chủ, nhưng đó chỉ là bảo vệ nền
dân chủ chủ nô, còn nô lệ phải tuân thủ theo người chủ (nghĩa là không có QCN).
Trong thời kỳ này “cá nhân phải tuyệt đối phục tùng nhà nước, điều đó cũng đồng
nghĩa với việc chưa thể có cái gọi là quyền công dân, quyền cá nhân” [96, tr.176].
Tác phẩm “Quyền con người” [96] cũng đã đề cập đến tư tưởng về QCN thời
cận đại, trong thời kỳ này QCN đã được phát triển lên một bước mới. “Học thuyết về
pháp luật tự nhiên được Thomas Peine (1737-1809) và Thomas jeffeson (1743-1826)
phát triển, không chỉ hướng tư tưởng của mình vào thành lập chế độ nhà nước dân chủ
mà còn bảo vệ các quyền tự nhiên không thể tước đoạt của con người….Theo lẽ tự
nhiên, tất cả mọi người sinh ra đều tự do và độc lập như nhau và đều có những quyền
nhất định mà ở trong trạng thái xã hội và bằng một thỏa thuận nào đó cũng không thể
bị tước đoạt, đó là quyền được sống, quyền sở hữu, quyền được mưu cầu hạnh phúc và
an ninh”[27, tr.22].
Những tư tưởng đó đã được phát triển trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ
năm 1776: “Chúng tôi tin rằng những chân lý này là hiển nhiên, rằng mọi người đều
sinh ra bình đẳng và Đấng tạo hóa dành cho họ một số quyền không thể bị tước đoạt,
trong các quyền đó có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc” [25, tr.7].
Các tư tưởng về các quyền tự nhiên không thể tước đoạt của con người đã

được J.J Rousseau (1712-1778), J.Loke (1632-1704), S.L.Montesquieu (1689-1755)
phát triển trong các học tuyết của mình. Nhằm chống lại sự áp bức của giáo hội phong
kiến, chế độ chuyên chế đặc quyền của quân chủ, lần đầu tiên, một số nhà tư tưởng của
giai cấp tư sản phương Tây còn non trẻ thời kỳ này như: Hốpsơ (1588-1679), Loke,
Spinôda (1632-1677)…đã đưa ra học thuyết nhân quyền tự nhiên trên cơ sở học thuyết
về quyền lợi tất nhiên; cho rằng, con người là đặc quyền tự nhiên, khẳng định pháp
luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật nhà nước. Học thuyết này lấy việc bảo vệ
con người và các đặc quyền tự nhiên của con người, chống lại thần quyền và vương
quyền. Chẳng hạn Hốpxơ khẳng định: “Sinh mạng chỉ được bảo toàn tốt nhất trong xã
9


hội nơi mà sự an bình lâu dài được xác lập trên nền tảng của một khế ước cộng đồng”
[83, tr.114]. J.J.Rousseau cũng cho rằng, “Không ai có quyền thống trị đồng loại của
mình” [83, tr.118].
Cách mạng tư sản Pháp (1789) đưa tới sự ra đời của Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền của Pháp, đây là một thành quả to lớn của cách mạng tư sản Pháp. Tự
do, bình đẳng, bác ái chính là những mục tiêu QCN của cách mạng tư sản Pháp được
ghi trong Tuyên ngôn: “Mọi người sinh ra, sống tự do và bình đẳng về các quyền ….”
[ 24, tr.14], và trên cơ sở ấy nêu rõ các quyền dân chủ tự do, bình đẳng của cá nhân với
tư cách là con người và với tư cách là công dân.
Trong tác phẩm “Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (2003) của tác giả Trần Ngọc Đường [18] khi nói về
các tư tưởng QCN ở phương Tây cũng đã chỉ rõ các xu hướng xem xét QCN như sau:
Một là, trường phái pháp luật tự nhiên như Spinôda, Lốc cơ, Can tơ (1724 –
1804) cho rằng, “Quyền con người là đặc tính tự nhiên. Đặc quyền tự nhiên này do
có pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật thực định. Lốc cơ nêu ra và lập
luận các quyền cơ bản, tự nhiên của con người bao gồm: quyền sống, quyền tự do và
quyền có tài sản. Tư tưởng này ra đời để chống lại hai thứ quyền lực là vương quyền
và thần quyền.

Hai là, xem con người cũng như QCN trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
QCN là một giá trị nhân loại, khái niệm QCN mang tính lịch sử, không trừu tượng,
không phải mang tính bẩm sinh vốn có. Do đó, QCN không thể ra đời trước khi có nhà
nước, nó không được đặt ra trong xã hội thị tộc khi chưa có sự vi phạm QCN.
Đặc biệt trong các công trình nghiên cứu trên trong quá trình tìm hiểu luận giải
các quan niệm khác nhau về QCN đều đi đến khẳng định: Mặc dù lý luận về QCN đã
có một lịch sử phát triển lâu dài; tuy nhiên, chỉ đến khi chủ nghĩa Mác xuất hiện mới
hoàn chỉnh về nội dung và ý nghĩa, QCN lúc này thực sự mang nhiều nội dung mới,
mang đầy đủ ý nghĩa và khoa học. Những nội dung mới, những đóng góp hoàn chỉnh
cho lý luận QCN đã được đúc rút chính trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người, hiện thực hóa QCN trong thực tiễn.

10


Trong cuộc đấu tranh đó, Mác (1818-1883) và Ăngghen (1820-1895) đã đưa
ra nhiều tư tưởng và luận điểm đặc sắc về con người, về QCN, quyền công dân. Trong
đó đặc biệt phải kể đến các luận điểm về mối quan hệ giữa con người với môi trường
khách quan và khả năng của con người có thể cải tạo môi trường xung quanh; về sự
phân cách giữa con người công dân nói chung (tức con người lý tưởng của giai cấp tư
sản) với con người cá thể (tức con người cụ thể trong xã hội tư sản), về bản chất của
con người, về bản năng phản kháng của những con người nghèo khổ trong xã hội Tư
bản chủ nghĩa về vai trò của cách mạng và sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân
hiện đại.
Điều đầu tiên Mác quan tâm là, làm thế nào để giải phóng con người khỏi
những “tình cảnh không thể chấp nhận được”. Điểm xuất phát của Mác là con người,
từ lòng nhân ái thương người, vì con người (con người cụ thể con người thực tiễn).
Mục đích của chủ nghĩa Cộng sản là đạt đến mục đích cá nhân tự do, làm cho mọi
người tự do, chừng nào còn một người không tự do, thì xã hội đó không tự do, tự do
đến từng người. Mác đã tìm ra chìa khoá để thực hiện việc giải phóng con người, làm

cho con người thoát khỏi những ảo tưởng đã cản trở con người đi đến sự giải phóng
đích thực của mình. Muốn giải quyết vấn đề con người, phải giải quyết vấn đề giai
cấp, phải giành được quyền lực chính trị.
Lênin (1870-1924) đã kế thừa, vận dụng, phát triển tư tưởng nhân sinh quan
Mácxít. Từ sau cách mạng Tháng Mười năm 1917, đối với Lênin, muốn có tự do bình
đẳng, tính người (QCN) phải qua chính trị, qua quyền lực chính trị để giải quyết.
Nội dung cơ bản của chính trị là phản ánh những yêu cầu kinh tế. Từ đó Lênin đã
không quan niệm QCN một cách phi lịch sử, trái lại, chỉ ra những yêu cầu về QCN
không thoát ly những điều kiện lịch sử cụ thể: Kinh tế - chính trị - xã hội.
Cùng với sự phát triển của xã hội, sang thế kỷ XX, QCN cũng có những bước
phát triển mới, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi trong tình hình mới và phản ánh hiện thực phát
triển lý luận QCN ngày càng đa dạng.
Theo Magatma Gandhi (1869-1948), “Bạo lực là con đường tắt dẫn đến thành
công.....dù tôi có thể đồng cảm và ngưỡng mộ những động cơ xứng đáng, tôi vẫn là

11


người kiên quyết phản đối bạo lực, ngay cả khi nó phục vụ những sự nghiệp cao
thượng” [27, tr.229].
“Mọi thành viên trong xã hội đều bình đẳng – không cao không thấp. Trong
một cơ thể, cái đầu không phải vì nằm trên đỉnh mà cao, cũng cái chân, không phải
nằm tiếp đất mà thấp. Vì thế, không thể tạo ra sự bình đẳng giữa hoàng tử và nông dân
bằng cách chặt đầu hoàng tử, cũng như bản thân quá trình chặt đầu người chủ không
thể làm chủ - thợ bình đẳng” [27, tr.300]. Ở đây, rõ ràng Gandhi đã nhận ra nguồn gốc
của sự bất bình đẳng nằm ở chế độ chính trị, chế độ sở hữu, tạo nên sự phân chia giai
cấp và bất bình đẳng. Tuy nhiên, quan điểm của ông là đấu tranh phi bạo lực để đạt
đến sự bình đẳng.
Tôn Trung Sơn (1866-1924) nhà cách mạng dân chủ Trung Quốc: Luận giải
về chế độ nhà nước, giai cấp, Tôn Trung Sơn đã khẳng định sự tất yếu tồn tại của thế

giới dân quyền. Tuy nhiên, lịch sử loài người trải qua những giai đoạn khác nhau từ
thời hồng hoang, người và thú tranh giành quyền sống, đến thời đại thần quyền, con
người phải đấu tranh với thiên nhiên để duy trì sự sống và đến thời đại quân quyền,
khi giới quân sự có thế lực và các nhà chính trị đã giành quyền lực của giáo hoàng.
Đến lúc này cuộc đấu tranh giữa người và trời chuyển sang cuộc đấu tranh giữa
người và người. Khi thần quyền suy yếu, quân quyền phát triển cực thịnh, hoàng đế
Louis XIV(1638-1715) của Pháp đã nói “Hoàng đế và quốc gia không có gì phân
biệt, ta là hoàng đế, do đó ta chính là quốc gia”. Rồi đến thời đại dân quyền đã tới.
Ông lý giải bản thân Khổng Tử (551-479 TCN) cũng có xu hướng dân quyền khi
“Khổng Tử nói “Khi cái đạo lớn được thực hiện thì thiên hạ là của chung” tức là
ông chủ trương một thế giới đại đồng theo chế độ dân quyền” [27, tr.307].
Ông cũng phê phán Rousseau, người chủ trương dân quyền cực đoan với tác
phẩm “Khế ước xã hội” cho rằng, dân quyền là do trời sinh ra, từ khi sinh ra con người
đã có quyền tự do và bình đẳng, đó là quyền trời phú cho con người nhưng sau đó
người ta đã để mất nó.
Theo Tôn Trung Sơn, dân quyền và tự do gắn liền với nhau, tự do, bình đẳng,
bác ái là căn cứ vào dân quyền; dân quyền đã phát triển lên từ tự do, bình đẳng, bác ái.
“Tự do tức là một đoàn thể mà vẫn có thể hoạt động, đi lại như ý, như thế là tự do” do
12


đó nói dân quyền thì không thể không nói đến tự do. Tuy nhiên, tự do theo cách hiểu
của Tôn Trung Sơn mà các nước Âu – Mỹ đang thực hiện lại có giới hạn rất nghiêm
ngặt, muốn có tương lai cá thể........ thì phải xóa bỏ tự do cá nhân để kết thành đoàn thể
vững chắc, tự do thái quá là phát sinh nhiều khuyết tật của tự do” [27, tr.314].
Về bình đẳng ông nói: “mọi việc sinh ra trong trời đất đều không giống nhau;
đã không giống nhau đương nhiên không thể nói đến bình đẳng? Giới tự nhiên không
bình đẳng thì sao loài người lại có bình đẳng. Trời sinh ra loài người từ đầu đã không
bình đẳng, sau khi chuyên chế của loài người phát triển, nhất là chuyên chế đế vương
rất hà khắc đã làm cho tình hình không bình đẳng do trời sinh ra, càng không bình

đẳng. Không bình đẳng mà đế vương tạo ra là loại không bình đẳng do con người tạo
ra” [27, tr.318].
Một số quan điểm QCN hiện nay được trình bày trong các công trình nghiên cứu.
Bước sang thế kỷ XX sự phát triển của QCN sang giai đoạn mới. Lúc này xuất
hiện nhiều tư tưởng mới về QCN, có những quan điểm có tính đối lập ra đời. Đối với
vấn đề này, tác giả Chu Hồng Thanh trong cuốn “Tìm hiểu nhân quyền trong thế giới
hiện đại” [9] đã khẳng định, QCN, một mặt càng có nhiều quốc gia đóng góp tiếng nói
chung trong các Công ước nhân quyền quốc tế; mặt khác, có hiện tượng ra tăng sự
khác biệt, đối lập các khái niệm nhân quyền. Có thể chỉ ra xu hướng phát triển về
QCN trên một số khía cạnh sau:
Một là; Căn cứ vào nhu cầu bản năng của con người để đưa ra khái niệm
và giải thích tiêu chuẩn QCN như một giá trị cơ bản, tự nhiên. Vì QCN là sản vật
tự nhiên, là thiên phú, bẩm sinh. Quan niệm này có giá trị phủ nhận quyền lực của
vương quyền, thần quyền, độc tài, chuyên chế, tạo cơ sở vững chắc xây dựng
nguyên tắc bảo vệ QCN.
Hai là, trong khái niệm QCN đang có xu hướng đề cao cá nhân, tuyệt đối hóa vai
trò của cá nhân, họ cho rằng “quyền cá nhân là gốc giá trị của mọi giá trị”. Thuyết này đề
cao tính vị kỷ, nhấn mạnh QCN tự bao bọc mình thoát khỏi những ràng buộc xã hội.
Ba là, nhấn mạnh nội dung đạo đức trong khái niệm QCN. “QCN là quyền
đạo đức thuộc về mỗi người đàn ông và mỗi người đàn bà. Sở dĩ người đàn ông và

13


người đàn bà có cái quyền đó, vì họ là người có đạo đức” (Macfarlane. The thecry and
Practice of Human Right, Manrice temple Sunth Ltd 1985, P3) [81, tr.33]
Bốn là, QCN được phân chia theo phái thần học và phi thần học. Trong đó,
“QCN theo phái thần học là nội dung phấn đấu của tôn giáo và nhiều nhà thần học
đương đại. Họ quan niệm nhân quyền là thiêng liêng, là phần hồn thần bí do những lực
lượng siêu nhiên hoạch định” [81, tr.35].

Năm là, quan niệm, cần phải hiểu QCN theo nghĩa hẹp là “nhân quyền chủ
trương”, “nói cách khác đó là quyền hiểu theo nghĩa cơ cấu. A do Y mà có quyền X
đối với B, ở đây có bốn nhân tố được bàn đến: A là chủ thể của quyền, Y là tính chất
của quyền, X là khách thể của quyền (nghĩa là quyền về cái gì) B là đối tượng của
quyền là người có nghĩa vụ”[81, tr.35]
Sáu là, khái niệm QCN dựa vào trình độ phát triển của lịch sử, xây dựng
“Quyền con người thế hệ thứ tư”, tiếp sau các QCN thế hệ thứ nhất xuất hiện trong
cách mạng tư sản ở Mỹ, Pháp; QCN thế hệ thứ hai chịu ảnh hưởng của khái niệm “nhà
nước phúc lợi chung”; QCN thế hệ thứ ba có quan hệ trực tiếp đến vấn đề sinh tồn,
hủy diệt, duy trì hòa bình.
Bảy là, khái niệm QCN được xây dựng trên thuyết “Nhân quyền quan niệm”
của Lang Nghị Hoài (Trung Quốc). Trong đó khẳng định, “Nhân quyền là sự phản ánh
trong đầu óc con người trở thành quan niệm, do đó lịch sử nhân quyền và lịch sử đấu
tranh cho nhân quyền chẳng qua là lịch sử của quan niệm. Mọi tranh luận về nhân
quyền và mọi quy định về nhân quyền đều là tự biện thuần túy ý niệm, không phải là
thực tế khách quan” [81, tr.39]
Cũng theo tác giả Chu Hồng Thanh và Hoàng Văn Hảo trong cuốn “Một số vấn
đề về quyền kinh tế- xã hội” [83] đã phân tích các nội dung về QCN, trong đó khẳng
định, “khái niệm QCN có thể thiết định bởi hai yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất, QCN được hiểu là những đặc quyền vốn có, tự nhiên của con người
và chỉ con người mới có. Đó là những khả năng hành động một cách có ý thức, từ chối
hoặc yêu cầu giành lấy những cái gì đó, nhất là khả năng tự bảo vệ.

14


Thứ hai, bản thân quyền vốn có, tự nhiên chưa phải đã là quyền. Để đạt đến
cái gọi là quyền, cần có thiết định, đó là các quy chế pháp lý. Lúc này, các đặc quyền
tự nhiên của cá nhân trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật, được pháp luật chấp
nhận, tổ chức, bắt buộc hoặc ngăn cấm mới trở thành các QCN, do đó có thể nói,

không có pháp luật thì không có quyền.
Như vậy, qua phân tích những xu hướng xem xét QCN trên các khía cạnh
khác nhau, chúng ta có thể khẳng định: Do vấn đề QCN có tính đa dạng, nên khi
xem xét cần đảm bảo tính lịch sử xã hội, tuyền thống văn hóa, điều kiện phát triển,
xem xét trên cơ sở đảm bảo tính phổ biến và tính đặc thù của QCN. Do đó, “Cần
phải tiếp cận nội dung quyền con người và phân loại quyền con người bằng phương
pháp lịch sử cụ thể” [24, tr.13].
Đánh giá những nhận định về một số quyền cơ bản của con người đã được trình
bày trong các công trình nghiên cứu.
Một số quyền phổ biến hiện nay đó là: Các QDSCT; QKTXH&VH; quyền phát
triển….Có nhiều công trình nghiên cứu về các nhóm quyền này, trong đó đáng chú ý, có
thể kể đến một số công trình của các tác giả sau: Theo Chu Hồng Thanh và Hoàng Văn
Hảo trong cuốn “Một số vấn đề về quyền kinh tế- xã hội” (1996)[83] đã khẳng định,
trong lịch sử có nhiều cách phân loại quyền khác nhau, trong đo có hai cách đáng chú ý:
Xem xét từ góc độ triết học, QCN được quy vào hai dạng chủ yếu:
Một là, quyền được bảo đảm các điều kiện xã hội để con người tồn tại xứng
đáng với con người, bao gồm các quyền làm việc, quyền cư trú, đi lại, quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, quyền được bảo đảm về chỗ ở, quyền an ninh, chính trị, quyền
tự do kết hôn, quyền sở hữu, thừa kế tài sản, quyền nghỉ ngơi, chữa bệnh.
Hai là, quyền tự do lựa chọn các hoạt động sáng tạo, quyền được sáng tạo để
biểu hiện mình như là một nhân cách, gồm quyền được học tập, nâng cao học vấn,
quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, pháp minh, sáng chế, quyền tự do ngôn luận, quyền
phê bình, chất vấn, quyền bảo lưu chính kiến trên cơ sở trách nhiệm về hành vi cá
nhân, quyền đấu tranh bảo vệ chân lý, quyền tự do bầu cử, ứng cử, quyền tự do lập
hội, quyền tự do tín ngững tôn giáo.

15


Xem xét từ góc độ khoa học pháp lý, QCN bao gồm:

Một là, các quyền tự do dân chủ về chính trị như quyền tham gia quản lý nhà
nước, quyền bầu cử, ứng cử, bình đẳng nam – nữ, quyền tự do ngôn luận, báo chí,
quyền được thông tin, quyền được hội họp, lập hội, biểu tình, tự do tín ngưỡng..
Hai là, các quyền dân sự như quyền tự do đi lại, cư trú, quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm.....
Ba là, các quyền kinh tế - xã hội như quyền lao động, tự do kinh doanh, quyền
sở hữu, thừa kế, quyền học tập, nghiên cứu, quyền hôn nhân gia đình....
Ngoài ra, từ yêu cầu pháp chế, người ta phân biệt thành quyền phổ biến
tuyệt đối và quyền phổ biến tương đối, tức quyền phải thực hiện ngay không điều
kiện, không hạn chế và quyền bảo đảm thực hiện tùy theo mức độ, điều kiện của
mỗi quốc gia.
Nhìn chung, khi nghiên cứu về QCN, hầu hết các tác giả đều luận giải
những nhóm quyền cơ bản của con người đó là: QDSCT; QKTXH&VH…., nó là
cơ sở để xem xét mức độ TTQCN ở mỗi quốc gia. Ngày nay, các khái niệm quyền
cơ bản của con người và của công dân đã được mở rộng hơn trước. Đi vào tình hình
nghiên cứu từng nhóm quyền cụ thể, chúng ta nhận thấy như sau:
Tình hình nhìn nhận về nhóm quyền dân sự chính trị.
Tác giả Chu Hồng Thanh và Hoàng Văn Hảo trong tác phẩm “Một số vấn đề
về quyền dân sự và chính trị” (1997) [84] có viết: “Nội dung quyền dân sự và chính trị
có thể hiểu dưới quan điểm hiện đại là nhóm quyền liên quan mật thiết đến tự do cá
nhân. Đại thể người ta chia chúng làm hai nhóm loại quyền, quyền dân sự và quyền
chính trị [84, tr.27].
Nhóm quyền dân sự, là những quyền tự do đi lại và cư trú, quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, chỗ ở, quyền tự do đi ra nước ngoài và từ nước ngoài trở về, quyền
được khiếu nại, tố cáo, quyền được pháp luật bảo hộ tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm....[84, tr.27].
Nhóm quyền chính trị, bao gồm nội dung các quyền bảo đảm quá trình tham
gia và quản lý, vận hành của hệ thống chính trị một quốc gia. Đó là quyền tự do bầu
cử, ứng cử, tự do ngôn luận, quyền tự do hội họp, lập hội...” [84, tr.27].
16



Công trình nghiên cứu "Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền
dân sự chính trị" [102]. Đây là công trình đánh giá về thực tiễn TTQCN trên lĩnh vực
dân sự, chính trị, một số vấn đề đặt ra về lý luận và thực tiễn.
Từ trước đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu có tính chất tổng kết lý luận
và thực tiễn về nhóm quyền này; do đó, công trình này phần nào làm thỏa mãn nhu cầu
của những người đang nghiên cứu trên lĩnh vực QDSCT. Tuy là công trình của nhiều tác
giả, nhưng các bài viết được trình bày một cách khoa học, logic, tạo ra một kết cấu liền
mạch, đề cập đến những vẫn đề cơ bản, bức thiết, những vấn đề đang nổi lên trong giai
đoạn hiện nay của nhóm quyền này. Các bài viết không chỉ giải quyết các vấn đề lý luận,
mà tập trung nhiều đến thực tiễn TTQCN hiện nay. Trong đó, lý luận về nhóm QDSCT
được thể hiện qua bài "Nhận thức chung về quyền dân sự: Khái niệm và nội dung" của tác
giả Hà Thị Mai Hiên.Theo tác giả, các QDSCT được xếp vào thế hệ nhân quyền thứ nhất.
Các quyền này về bản chất là các quyền thụ động, thể hiện tính độc lập, không phụ thuộc
của chủ thể quyền và giới hạn sự can thiệp của nhà nước vào công việc thực thi, thụ
hưởng các quyền của chủ thể. Các quyền này mang tính tuyệt đối và được thực hiện
không điều kiện. Nội dung của các QDSCT được đề cập ở rất nhiều văn kiện quốc tế, các
công ước của Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên theo tác giả, có thể khái quát thành các quyền
như sau: Quyền tự do, tự quyết định; Quyền bình đẳng và không bị phân biệt đối xử;
Quyền sống, tự do và an ninh cá nhân; Quyền tự do đi lại và cư trú; Quyền sở hữu tài sản
của công dân; Quyền được bảo vệ đời tư; Quyền về xét xử công bằng; Các quyền và tự do
trong hôn nhân và gia đình.
Tác giả Phạm Hữu Nghị, trong bài "Quyền chính trị và thực hiện các quyền
chính trị ở Việt Nam" đã trình bày nội dung của các quyền chính trị bao gồm: Quyền
tự do ý kiến và biểu đạt; Quyền tự do lập hội; Quyền tự do hội họp một cách hòa bình;
Quyền được tham gia vào đời sống chính trị.
Đây là hai bài viết, hai tác giả nhưng bổ sung đầy đủ cho những nhận thức về
QDSCT trên phương diện lý luận và phần nào đã đề cập đến thực tiễn thực thì quyền
dân sự và chính trị ở Việt Nam.


17


Như vậy, nội dung, phạm vi các quyền cơ bản đã được nhiều tác giả nghiên
cứu và đến nay người ta không còn tranh luận về vấn đề đó. Vấn đề hiện nay là tính đa
dạng của các quyền đó được thể hiện trong thực tiễn như thế nào, khi nào thi đề cao
nhóm quyền nào hơn, hoặc mối liên hệ giữa chúng.
Bài viết “Bảo vệ, thúc đẩy quyền dân sự, chính trị vì mục tiêu phát triển con
người” của tác giả Nguyễn Hồng Anh đề cập đến hai vấn đề: Thứ nhất, tranh luận
xung quanh vấn đề ưu tiên, đề cao QDSCT hay QKTXH&VH; Thứ hai, đề cập đến
quyền tự do như là giá trị nền tảng của quyền dân sự, chính trị và phát triển cong
người. Qua đó, đã nói đến cuộc đấu tranh giữa hai xu hướng, hai nền văn hóa; phương
Tây, với sự thấm nhuần tư tưởng tự do chính trị, dân sự và phương Đông, nơi vốn coi
trọng tính tập thể, tính cấu kết cộng đồng. Tuy nhiên, với mục đích của bài viết, tác giả
cũng chỉ dừng lại ở đó mà chưa đi sâu vào nghiên cứu cơ sở hình thành nên sự khác biệt,
sự so sánh có tính chất đối chiếu để rút ra tính phổ biến và đặc thù của QCN. Hơn nữa,
đến nay cuộc tranh luận này cũng không còn nhiều ý nghĩa khi Liên Hợp Quốc thừa
nhận tính không thể tác rời, tính không thể phân chia giữa các quyền.
Tình hình nhìn nhận về nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
Quyền kinh tế, xã hội là gì? Trong cuốn “Một số vấn đề về quyền kinh tế - xã
hội” (1996) [83] tác giả Chu Hồng Thanh, Hoàng Văn Hảo đã luận giải cơ sở triết học
của quyền kinh tế - xã hội gồm những vấn đề sau:
Trong các quyền cơ bản của con người, quyền sống là quan trọng nhất và là
phương thức tồn tại của con người - hiện thực hoạt động thực tiễn qua lao động sản
xuất, tạo ra đời sống vật chất. Quyền kinh tế - xã hội, với tư cách là phương thức thực
hiện quyền sống – là sự phản ánh của tồn tại xã hội và do tồn tại xã hội quy định lên.
Quyền kinh tế, là quyền có việc làm, quyền tự do kinh doanh, quyền trợ cấp
khi thất nghiệp....Quyền xã hội, là quyền được đảm bảo các phúc lợi xã hội, quyền
được giáo dục, chăm sóc và chữa bệnh, quyền được giáo dục. Trong đó chúng có mối

quan hệ thống nhất với nhau. Quyền xã hội chỉ được thực hiện khi quyền kinh tế được

18


bảo đảm, ngược lại quyền xã hội khi được bảo đảm, sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
thực thi các quyền kinh tế.
Quyền kinh tế được biểu hiện thông qua các quan hệ kinh tế, đặc biệt là quan
hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, xét đến cùng thì quan hệ KTXH là sự
phản ánh của tồn tại xã hội và do tồn tại xã hội quy định nên. Vì vậy, khía cạnh hiện
thực của QKTXH&VH chỉ được thiết lập khi những cơ sở cho sự tồn tại của nó được
thiết lập, mà cơ sở đó dựa trên trình độ kinh tế cụ thể. Do đó, quyền kinh tế không thể
vượt quá cơ sở kinh tế mà trên đó đã nảy sinh ra nó.
Trong cuốn "Những vấn đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền kinh tế văn
hóa – xã hội" (2011) do Võ Khánh Vinh chủ biên [103], có nhiều bài viết sâu sắc về
mối quan hệ giữa QCN và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó có thể kể đến
một số bài viết đáng chú như bài “Khái niệm quyền kinh tế” và bài “Quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam về QCN trên lĩnh vực kinh tế” của tác giả Nguyễn Minh
Đức. Thông qua bài viết của mình, tác giả đã giúp người đọc phân biệt giữa quyền
kinh tế và QCN trên lĩnh vực kinh tế, từ đó trình bày một cách hệ thống sự phát triển
trong tư duy lý luận của Đảng ta về QCN trong lĩnh vực kinh tế. Đây được coi là một
cơ sở lý luận khi xác định các cơ chế bảo vệ QCN ở Việt Nam.
Qua các bài viết của mình tác giả đã trình bày quan điểm của Đảng ta về QCN
trên lĩnh vực kinh tế, ngay từ khi Đảng mới ra đời, khi mà chúng ta chưa tham gia ký
kết Công ước quốc tế về các QKTXH&VH, trong điều lệ của Đảng năm 1935 đã chỉ
rõ: Đảng cộng sản Đông Dương tranh đấu để mưu cho Đông Dương hoàn toàn độc lập,
dân cày có ruộng đất, các DTTS được giải phóng. Chánh cương vắn tắt, văn kiện đầu
tiên của Đảng đã ghi nhận nguyên tắc nam nữ bình quyền, thu ruộng đất của Đế quốc
chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo và thi hành luật ngày làm tám giờ.....
Theo tác giả Nguyễn Minh Đức, quyền kinh tế được diễn tả như một phần của

thế thệ thứ hai của QCN, với ý nghĩa là các quyền yêu cầu và quyền tham gia. Những
quyền này liên quan đến cuộc sống và việc làm cũng như nhu cầu tối thiểu của cộng

19


đồng người. Nó hình thành trên cơ sở ý tưởng bình đẳng và sự tiếp cận được các hàng
hóa, dịch vụ thiết yếu và cơ hội KTXH.
Ngoài ra, trong xu thế phát triển mạnh mẽ của xã hội hiện đại, các quyền mới
nảy sinh cũng thường xuyên được nhắc tới như: Quyền được phát triển, quyền được
sống trong hòa bình, quyền được sống trong môi trường trong lành hay quyền đối với
các guồn tài nguyên thiên nhiên…
1.1.2. Tình hình nghiên cứu cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người
Khi nghiên cứu vấn đề QCN, một nội dung quan trọng là nghiên cứu điều kiện
đảm bảo thực hiện và bảo vệ QCN, đây cũng chính là một nội dung của TTQCN. Trên cơ
sở lý luận về QCN ngày càng được bổ sung, hoàn thiện, đã đặt ra những nhiệm vụ cho
lĩnh vực TTQCN, cần có các giải pháp nhằm đảm bảo QCN được thực hiện rộng rãi trong
thực tiễn. Trên thực tế, có khoảng cách giữa sự hiểu biết cũng như các cam kết quốc tế về
QCN và quá trình vận hành, thực thi các cam kết đó.
Về vấn đề này cuốn “Cơ chế bảo vệ và bảo đảm quyền con người” (2011) do
Võ Khanh Vinh chủ biên [101] đã trình bày nhiều nội dung có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn. Trong cuốn sách này có bài “Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người: Những
nhận thức chung”, của tác giả Phạm Hữu nghị, bài “Các nhân tố tác động đến việc
hình thành và hoạt động của các cơ chế bảo đảm quyền con người”, của tác giả Chu
Văn Tuấn, bài “Một số suy nghĩ về cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người ở Việt
Nam hiện nay”, của tác giả Nguyễn Thị Báo.
Trong các bài viết này đã tập trung phân biệt, làm rõ hai nội dung thể chế và
thiết chế khi nêu khái niệm cơ chế bảo vệ QCN. Thể chế là quy định pháp luật, các quy
tắc được ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục nhất định. Còn thiết chế là các cơ
quan, tổ chức được lập ra để thực thi những chức năng, nhiệm vụ nhất định. Do đó, có

thể hiểu cơ chế bảo vệ, bảo đảm QCN là những thể chế, thiết chế toàn nhân loại, xã hội,
hay do nhà nước tạo ra để bảo đảm, bảo vệ QCN ở cấp độ toàn cầu khu vực hay quốc
gia; đó còn là cơ chế xã hội bảo đảm, bảo vệ QCN. Xu hướng chung hiện nay, ngoài các
thể chế, thiết chế của nhà nước, các thể chế, thiết chế xã hội ngày càng có vai trò quan
trọng trong việc bảo đảm, bảo vệ QCN. Vai trò của nó được thể hiện ở chỗ phản ánh ý
nguyện của nhân dân, giám sát các cơ quan nhà nước, góp phần nâng cao nhận thức về
20


QCN của người dân và tạo ra sức ép, tạo dư luận xã hội, buộc nhà nước phải quan tâm
đến vấn đề QCN.
Có thể nói, các công trình nghiên cứu về cơ chế bảo đảm và bảo vệ QCN đều
đã thống nhất về cách phân loại cơ chế theo phạm vi quốc tế, khu vực, quốc gia, Các
công trình đều khẳng định, đề cao vai trò của các thể chế pháp lý, các văn bản pháp
luật trong bảo vệ QCN. Tuy nhiên, về khía cạnh thiết chế bảo vệ QCN, đặc biệt là
trong phạm vi quốc gia, các nghiên cứu đều không nêu được các giải pháp tăng cường
vai trò của các thiết chế trong việc bảo vệ QCN, hay cách thức hoạt động để đạt hiệu
quả cao nhất của các thiết chế này trong bảo đảm QCN. Các nghiên cứu đều không
nêu khái niệm TTQCN, nếu đặt vấn đề này, đều đồng nhất thực thi và bảo đảm điều
kiện bảo vệ, là nội dung của cơ chế bảo vệ QCN.
Như vậy, nghiên cứu cơ chế bảo vệ QCN đã được đề cập trong nhiều nghiên
cứu; tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện trong thực tế có hiệu quả, vấn đề cần làm rõ là
phương pháp, cách thức thực hiện quyền đó như thế nào.
1.2. Tình hình nghiên cứu về cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người
của các dân tộc thiểu số và dân tộc Mông

1.2.1. Tình hình nghiên cứu về cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người
của các dân tộc thiểu số
Về mặt thể chế bảo vệ QCN của các DTTS, hiện nay trên lĩnh vực này đã và
đang ngày càng được hoàn thiện theo hướng quan tâm đến những quyền gắn với nhu

cầu thực tiễn, là nguyện vọng thiết thực liên quan đến đời sống hàng ngày của người
dân. Trong đó có thể kể đến một số nghiên cứu về các quyền sau:
Quyền được phát triển và quyền đảm bảo an sinh xã hội, bản thân nó không
phải là nhóm quyền của riêng các DTTS. Nhu cầu phát triển và các đảm bảo an toàn,
an sinh xã hội là nhu cầu chung của con người cũng như các cộng đồng, các nhóm dân
cư khác nhau. Tuy nhiên, khi nói đến quyền của các DTTS, nhóm quyền này lại
thường được nhắc đến và đề cập ở mức độ và yêu cầu cao hơn. Do thực tế, hiện nay
các DTTS thường trong tình trạng yếu thế trong quá trình phát triển, nhu cầu được
đảm bảo an sinh xã hội đang trở thành vấn đề bức thiết đặt ra.

21


×