Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN ĐIỀU TRỊ GIẢM ĐAU VÀ CÁC TRIỆU CHỨNG TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.46 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
BỘ MÔN HÓA DƯỢC

TIỂU LUẬN

ĐIỀU TRỊ GIẢM ĐAU VÀ CÁC
TRIỆU CHỨNG
TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ

HỌC VIÊN: LƯU PHƯƠNG ÁNH
LỚP: CH16
MÃ HỌC VIÊN: CH16007

HÀ NỘI 4/2013


I.

ĐIỀU TRỊ GIẢM ĐAU TRONG UNG THƯ
1. Định nghĩa
Ung thư là một loại bệnh do sự phát triển không bình thường của tế bào, không tuân
theo cơ chế kiểm soát và phát triển của cơ thể.
Ung thư là tập hợp của nhiều dạng bệnh ung thư khác nhau nên triệu chứng của ung
thư rất đa dạng và khác nhau ở tùy thể bệnh ung thư. Triệu chứng của ung thư được phân
làm ba nhóm chính:
-

Triệu chứng tại chỗ: các khối u bất thường hay phù nề, chảy máu, đau và/hoặc loét.

-


Chèn ép vào mô xung quanh có thể gây ra các triệu chứng như vàng da.
Triệu chứng của di căn (lan tràn): hạch bạch huyết lớn lên, ho, ho ra máu, gan to,
đau xương, gãy xương ở những xương bị tổn thương và các triệu chứng thần kinh.

-

Đau có thể gặp ở ung thư giai đoạn tiến triển.
Triệu chứng toàn thân: sụt cân, chán ăn và suy mòn, tiết nhiều mồ hôi (đổ mồ hôi
trộm), thiếu máu và các hội chứng cận u đặc hiệu, đó là tình trạng đặc biệt được
gây ra bởi ung thư đang hoạt động, chẳng hạn như huyết khối hay thay đổi nội tiết.

Đau là một trong những triệu chứng lâm sàng của bệnh ung thư, do ung thư xâm lấn
phá huỷ các tổ chức xung quanh, các dây thần kinh, người bệnh có thể chết vì đau, suy
kiệt.
Một số khối u gây đau nhức rất sớm như u thần kinh, ung thư xương, u não. Đa số
bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối bị đau đớn, 60-80% bị đau nặng. Nhiều bệnh nhân ung
thư bày tỏ cảm giác không sợ chết bằng sự dằn vặt của đau đớn. Đau do ung thư là đau
mãn tính, dai dẳng, có khi kéo dài vài tháng đến vài năm nếu như không có biện pháp
kiềm chế.
Hiện nay đã có nhiều biện pháp giảm đau, có thể kiểm soát được trên 90% đau đớn do
ung thư. Tuy nhiên, khi khảo sát tại Mỹ mới chỉ có 40% đau đớn do ung thư được điều trị
đúng mức. Ở những nước đang phát triển và ở nước ta việc điều trị giảm đau mới chỉ là
bước đầu, chưa được quan tâm đúng mức.
Định nghĩa đau: “Kinh nghiệm có được về một cảm giác hay xúc động tâm lý không
thoải mái đi kèm theo tổn thương mô thực thể hay tiềm ẩn” (An unpleasant sensory and


emotional experience associated with actual or potential tissue damage, or described in
terms of such damage) - International Association for the Study of Pain (IASP).
Tính chất của đau: Cecile Saundeno (1978) nêu khái niệm đau toàn diện: thể xác, tinh

thần, xã hội, tâm linh:
- Đau cấp tính/ mạn tính.
- Mức độ: đau ít, trung bình, dữ dội.
- Cảm giác đau chịu tác động của nhiều yếu tố: tăng lên khi lo lắng, trầm cảm, cô
đơn; đau giảm đi nhờ vào giải trí, âm nhạc, thư giản, tình thân hữu…
Nguyên nhân: đau do chấn thương, do bệnh lành tính/ ác tính (bệnh ung thư).
2. Cơ chế đau do ung thư
Đau xuất hiện khi ung thư xâm lấn vào xương, thần kinh, phần mềm, tạng, đặc biệt
trong ung thư vú, tiền liệt tuyến, phổi, thận, hắc tố. Khi có loét u, viêm xung quanh u đau
tăng lên.
Đôi khi đau do các biện pháp điều trị ung thư như: đau sau mổ ví dụ như mổ lồng
ngực, đau do viêm cơ bị xạ trị gây viêm da cấp, có khi gây loét da , đau do viêm các rễ
thần kinh, trong điều trị hoá chất ( ví dụ như Vincistin, cisplatin, paclitaxel vv...).
Đau của các tạng có thể do khối u chèn ép hoặc bít tắc thường hay gặp ở các tạng rỗng
như dạ dày, tắc ruột, niệu quản. Đau tạng có thể đỡ khi dùng các thuốc chống đau thông
thường. Trong trường hợp không đỡ phải điều trị chống chèn ép, bít tắc bằng phẫu thuật,
xạ trị.
Đau nguồn gốc thần kinh gọi là đau loạn cảm hay đau lạc đường dẫn truyền vào trung
tâm thường gặp do chấn thương các thần kinh ngoại vi. Loại đau này có tiệu chứng bỏng
rát, như cắn xé da thịt, hay phối hợp với loạn cảm và tăng cảm. Loại đau này phải dùng
các thuốc chống co thắt, chống âu sầu, thuốc tê hoặc các biện pháp phẫu thuật thần kinh
mới cắt được cơn đau.
Cảm giác đau của bệnh nhân ung thư còn chịu tác động bởi nhiều yếu tố tâm lý như lo
lắng, hoảng hốt, và yếu tố xã hội. Vì vậy cần phải đánh giá đau trong một bối cảnh chung
gọi là đau tổng thể.
Cơ chế đau trong ung thư:
- Do cảm thụ thần kinh ngoại biên (Nociceptive pain):
Khi có kích thích điểm cảm thụ đau ở thần kinh ngoại biên, qua một số chất trung gian
như bradykinin, serotonin, histamine, prostaglandin… luồng xung động được dẫn truyền
đến tủy sống theo dây thần kinh C nhỏ và A delta (Nơrôn 1).



Các chất dẫn truyền thần kinh như glutamate, ATP tiếp tục chuyển tải kích thích ngoại
biên lên đồi thị.(Nơrôn 2).
Xung động thần kinh được tiếp tục chuyển tải đến vỏ não để nhận định bản chất, cường
độ đau… và xác định phản ứng đối phó (Nơrôn 3).
-

Có nguồn gốc thần kinh (Neuropathic pain):

Cảm giác đau bất thường do hiện tượng xâm lấn hay chèn ép đến thần kinh ngoại biên
hay trung ương.
Đau có nguồn gốc thần kinh thường kéo dài lâu ngày, đau có cảm giác như tê rần, rát
bỏng, như dao đâm hoặc như điện giật.
Một số nguyên nhân gây đau có yếu tố thần kinh thường gặp: phẫu thuật, đoạn chi, tổn
thương tủy sống, bệnh nhiễm trùng (Herpes, Phong, Tabes…), độc tính của Vincristine,
Cisplatinum, Chì, Arsenic… hoặc do bệnh phối hợp (viêm xương khớp).
- Đau hỗn hợp (mixed pain):
Do cả 2 cơ chế trên, xảy ra tại nhiều vị trí cơ quan, đau liên tục, dữ dội, ảnh hưởng rõ rệt
đến sinh hoạt đời sống, khi bệnh diễn tiến nặng hoặc chấn thương nặng, bệnh ung thư
tiến xa.
3. Các phương pháp đánh giá mức độ đau
Đau là cảm giác chủ quan mà hiện nay chưa có biện pháp chẩn đoán và chưa có
phương pháp để đo đếm. Thầy thuốc cần phải thực sự thông cảm với bệnh nhân, phải
dành thời gian lắng nghe, và phải tin rằng đau đớn là thực sự, và cũng đảm bảo cho bệnh
nhân rằng có thể khống chế được đau đớn đó.
Một số phương pháp đánh giá đau như sau:
-

Dựa vào các hình nét mặt, dáng đi để bệnh nhân đánh giá mức đau đớn của người

bệnh.

-

Dựa hoàn toàn vào chủ quan bệnh nhân qua hỏi về thời gian đau trong ngày, các
giờ không đau, hoạt động hàng ngày ảnh hưởng dến đau và tác dụng phụ của thuốc
đã sử dụng.


-

Dựa vào quan sát khách quan của thầy thuốc: phải quan sát sự thiếu yên tĩnh, mất
ngủ, kém ăn, liệt giường, sự phàn nàn của người nhà, những yêu cầu dùng thuốc
của bệnh nhân.

-

Dựa vào cả cảm giác chủ quan của người bệnh và sự quan sát khách quan của thầy
thuốc. Phương pháp này hiện nay được dùng phổ biến nhất
Thăm dò diễn biến đau đớn: bao gồm đánh giá về mức độ ( đau nhẹ, đau vừ và đau

nặng ), vị trí, hướng lan cơn đau, thời gian đau và thăm do các hoạt động sinh hoạt hàng
ngày như ngủ, ăn, hoạt động và giao tiếp.
Cần lượng hoá mức độ đau và mức độ ảnh hưởng tới sinh hoạt hàng ngày bằng thang
điểm từ 0-10. Đánh giá mức độ đau:
Đau nhẹ: 1- 3

thuốc giảm đau bậc 1 ± thuốc hỗ trợ.

Đau vừa: 4- 6


thuốc giảm đau bậc 2 ± thuốc hỗ trợ.

Dữ dội : 7-10

thuốc giảm đau bậc 3 ± thuốc hỗ trợ.

Thăm dò hiệu quả giảm đau của các lý liệu pháp và thuốc: Cùng với những tác dụng
của thuốc. Đồng thời, cần xác định thời gian tối đa giảm được đau và liệu lượng của các
loại thuốc thích hợp. Để đánh giá đau chi tiết thường dựa vào bộ câu hỏi thang 10 điểm
của nhóm nghiên cứu Madison.
4. Các nguyên tắc điều trị đau bằng thuốc
Bước đầu tiên là nắm bắt được bệnh sử chi tiết, khám xét bệnh nhân cẩn thận để xác
định nguồn gốc của đau, mức độ đau:
-

Do ung thư gây ra, hoặc có liên quan đến ung thư, do điều trị ung thư hay do những
rối loạn khác.

-

Do bộ phận nhận cảm đau, do bệnh thần kinh hoặc do cả hai


Điều trị bắt đầu bằng giải thích tỉ mỉ và thực hiện các phương pháp kết hợp thể chất
với tâm lý người bệnh. Các phương pháp điều trị có dùng thuốc và không dùng thuốc:
-

Dùng thuốc có tác dụng giảm đau do ung thư phải được dùng đúng liều, đúng
khoảng thời gian.


-

Đường uống là đường được ưa chuộng hơn cả khi dùng các thuốc giảm đau, bao
gồm morphine

-

Đối với đau kéo dài, thuốc nên được dùng đều đặn theo từng khoảng thời khoảng
thời gian và không phải nhất thiết chỉ dùng khi cần.

Bảng 1: Liều thuốc tương dương so với 10mg Morphine loại tiêm

Thời

Tên thuốc

Liều thuốc(mg) Tiêm thuốc(mg)

Codeine*

180

60

3-4

Meperidine (Demerol)

300


100

3

Morphine

45

10

3-4

Morphine

(time-release)

(MS

Contin)

90-120

(giờ)

8-12

Hydrocodone (Vicodin, etc)

30


10

3-4

Oxycodone (Percodan, etc)

30

10

3-4

Oxycodone

(time-release)

(Oxycontin)

60

8-12

Methadone (Dolophine)

20

10

6-8


Hydromorphone (Dilaudid)

7,5

1,5

3-4

Levorphanol (Levodromoran)

4

2

6-8

Oxymorphone (Numorphan)

1

1

3-4

(* không được dùng liều cao vì gây nhiều tác dụng phụ)

gian

uống



Điều trị chống đau theo bậc thang: trừ khi bệnh nhân đau nặng, điều trị ban đầu
thường dùng những thuốc không có opioid và điều chỉnh liều, nếu cần thiết có thể tăng
đến liều lớn nhất:
-

Nếu dùng thuốc không có opioid không đủ để giảm đau lâu hơn được khi có nên sử
dụng 1 thuốc có opioid kết hợp với thuốc không có opioid.

-

Nếu khi dùng một thuốc có opioid cho trường hợp đau nhẹ đến đau vừa (ví dụ:
Codein) không đủ để giảm đau trong thơi gian dài hơn, nên dùng một thuốc có
opioid dùng cho trường hợp đau vừa đến đau nặng thay thế (ví dụ: Morphine)
Đối với từng cá thể: liều đúng là liều có tác dụng giảm đau. Liều uống morphine có

thể trong phạm vi ít nhất là 5mg đến liều lớn nhất 1.000mg.
Các thuốc dùng cho điều trị hỗ trợ nên được dùng đúng chỉ định, có tác dụng hiệp
đồng với thuốc giảm đau hay tác dụng đối ngược. Ví dụ như thuốc an thần Seduxen tác
làm tăng tác dụng thuốc giảm đau loại không phải steroid. Ngoài ra dùng thuốc điều trị
các tác dụng phụ của thuốc giảm đau gây ra như táo bón do morphine, viêm dạ dày do
thuốc giảm đau không phải steroid
Đối với đau do bệnh nhân thần kinh nên dùng thuốc chống trầm cảm tricyclic phối
hợp hoặc một thuốc chống co giật.
Quan tâm đến từng chi tiết: cần theo dõi đáp ứng của người bệnh, có thể thay đổi liều
điều trị, thuốc khác hoặc biện pháp điều trị khác với điều trị để đảm bảo thu được hiệu
quả cao nhất mà tác dụng phụ lại hạn chế ở mức thấp nhất nếu có thể.
Đánh giá và điều trị đau do ung thư có kết quả nhất khi có sự phối hợp với các
phương pháp điều trị khác như phẫu thuật, xạ trị, hoá chất, corticoides và tâm lý.

5. Các thuốc trong điều trị ung thu
- Mục tiêu: Kiểm soát đau, giúp người bệnh dễ chịu, có thể duy trì sinh hoạt thường ngày.
Được chết trong trạng thái tương đối ít đau hoặc không đau đớn.


 Thuốc chống đau (Analgesics)
Bậc 1: Aspirine, Acetaminophen, Kháng viêm không steroids (NSAIDS)
Aspirin

650mg

4-6giờ

6000mg/ngày

Acetaminophen

650mg

4-6giờ

6000mg/ngày

Ibuprofen

400mg

4-6giờ

2400mg/ngày


Diclofenac

50mg

4-6giờ

150mg/ngày

Naproxen

250mg

Piroxicam

10mg

Celecoxib

100mg

Rofecoxib

25mg

Bậc 2 :

Aspirin

9-12giờ


1250mg/ngày

12-24giờ

20mg/ngày

12 giờ

400mg/ngày

12-24 giờ

50mg/ngày

+ Codein

Acetaminophen + Propoxyphen
Bậc 3 :
Opioids
Morphine

uống
30mg

tiêm
10mg

thời gian dùng
2 - 4 giờ



Morphine LA

30mg

9-12 giờ

Hydromorphone

7,5mg

Hydrocodone

30mg

Methadone

20mg

10mg

6- 8 giờ

Meperidine

300mg

75mg


3- 4 giờ

1,5mg

3- 4 giờ
3- 4 giờ

Fentanyl TTS

72 giờ

 Thuốc hỗ trợ chống đau (Co-analgesic adjuvants):
- Tăng hiệu lực kiểm soát đau
- Giảm liều của thuốc chống đau opioids
- Giảm thiểu các triệu chứng đi kèm/ung thư giai đoạn cuối: chán ăn, buồn nôn, mệt mỏi,
ngủ gật…
Chống trầm cảm (Antidepressants):
Amitriptyline, Imipramine 25mg/buổi tối
Chống co giật (Anticonvulsants):
Carbamazepine, Phenytoin, Valproic acid, Gabapentin.
Thuốc gây tê tại chỗ ( local anesthetics):
Lidocain dùng để phong bế tại chỗ
Corticosteroid:
Prednisone: 30 – 60 mg/uống/ngày
Dexamethasone : 8 – 16 mg/uống/ngày
Cơ chế: chưa rõ
Cải thiện: giảm đau, ăn ngon, dễ chịu hơn, bớt mệt mỏi…
6. Các phương pháp chống đau khác
Xạ trị chống đau: xạ trị là một trong những biện pháp chống đau có hiệu quả với ung
thư, đặc biệt là những ung thư khu trú tại chỗ. Xạ trị vừa có tác dụng giảm đau tại u, vừa

có tác dụng chống chèn ép, chống bít tắc (ung thư tại xương, di căn của ung thư vào
xương...). Với liều 30 Gy Cobalt có thể khống chế trên 80% các loại đau tại xương. Xạ trị


chống đau bao gồm xạ trị ngoài, xạ trị trong hoặc xạ trị toàn thân. Hiệu quả của xạ trị cao
do rẻ tiền, tác dụng không mong muốn ít.
Hoá chất chống đau: có tác dụng khống chế các triệu chứng đau, có hiệu quả phá huỷ
các tế bào ung thư giảm bớt chèn ép. Sử dụng liều hoá chất thường thấp hơn so với liều
điều trị triệt căn có thể dùng đơn hoá chất hoặc đa hoá chất phối hợp. Thông thường dùng
hoá chất có tác dụng phụ ít, dễ sử dụng (5Fu, Cyclophosphamide dạng uống....)
Thuốc tái tạo xương: được sử dụng đối với trường hợp ung thư di căn vào xương có
phá huỷ vào xương (Ví dụ: Aredia với ung thư vú, ung thư tiền liệt tuyến di căn vào
xương)
Phẫu thuật triệu chứng: với các trường hợp ung thư gây biến chứng mà không còn khả
năng điều trị triệt để, lúc này phẫu thuật là phương pháp giải quyết nhanh nhất, hiệu quả
nhất (Ví dụ: mở thông đại tràng trong ung thư đại tràng bị tắc ruột....)
II.

CÁC TRIỆU CHỨNG TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ
Mặc dù kiểm soát triệu chứng không là cách điều trị trực tiếp lên ung thư, nó vẫn
được xem là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng sống của bệnh nhân, và giữ vai trò
quan trọng trong quyết định áp dụng các điều trị khác trên bệnh nhân. Mặc dù mọi thầy
thuốc thực hành đều có thể điều trị kiểm soát đau, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, xuất huyết và
các vấn đề thường gặp khác ở bệnh nhân ung thư, chuyên khoa săn sóc tạm thời
(palliative care) đã xuất hiện để đáp ứng nhu cầu kiểm soát triệu chứng ở nhóm bệnh
nhân này.
1. Nôn và buồn nôn
Nôn và buồn nôn kéo dài là những triệu chứng gây khó chịu và thường gặp nhất trong
ung thư giai đoạn cuối. Có thể có nhiều nguyên nhân gây buồn nôn. Các nguyên nhân
thường gặp:

- Do sử dụng một số thuốc chống ung thư, morphin để điều trị giảm đau.
- Dạ dày chướng hơi, bị chèn ép bởi khối u hoặc bị kích thích.
- Tắt ruột, bệnh lý ở gan.
- Kích thích tâm lý gây nôn.


Để điều trị nôn không nên chỉ dùng một loại thuốc quen thuộc mà phải tìm nguyên
nhân gây nôn và lựa chọn thuốc điều trị cho phù hợp.
Bảng 2: Sự chọn lựa thuốc tùy theo nguyên nhân
Nguyên nhân

Điều trị

Thuốc

Bắt đầu sử dụng thuốc chống nôn kèm
theo thuốc Opioid.

NSAID

1-5-5 mg haloperidol 2-3 lần/ngày.
5-10 mg prochlorperazine (stemetil) 2-3
lần/ngày.

Thuốc Opioids (60%)

Thiethyperazine (torecan) 10 mg viên, tọa
dược hay tiêm 2 lần/ngày.

Hóa trị liệu và xạ trị Ondansetron 4 mg- 2 lần/ngày.

liệu

Domperidone (motilium) 10 mg - 3
lần/ngày.
10 mg metoclopramide lên đến 3 lần/ngày.
Cyclixine 25 - 10 mg - 3 lần/ngày.

Tăng áp lực nội sọ

Dexamethasone 4-8 mg 2-3 lần/ngày.
Prochlorperazine 5 - 25 mg 3 lần/ngày.

Trướng bụng đầy hơi Metoclopramide 10 mg 3 lần/ngày –
(do tác dụng phụ của Steroids.
thuốc hoặc do suy Domperidone
giảm chức năng gan)
lần/ngày.

(motilium)

10

mg 3

Cisapride (prepulsid) 5-10 mg 3 lần/ngày.
Bón và tạo thành cục Thuốc nhuận trường - nhiều loại.
phân
Tắc ruột

Nếu tắc ruột thấp, ăn chế độ ít chất bả (xơ)

tốt và tiêu hóa được. Nếu tắc ruột hơi cao,


nhịn ăn, ngậm đá nhỏ và uống Haloperidol
1,5-5 mg hay hyoscine butylbromide 20
mg, 3 lần/ngày.
Dexamethazone 8 mg truyền tĩnh mạch.
Mở dạ dày qua da bằng nội soi.
Rối loạn tiền đình

Prochlorperazine 5-25 mg 3 lần/ngày.
Hyoscine 1,5 mg trong 3 ngày liên tiếp.

Lo lắng

Động viên, thư giản.
Diazepam 5-10 mg 2 lần/ngày.
Truyền dịch midazolam 5-50 mg/24 giờ.
Haloperidol 1,5-5 mg - 3 lần/ngày.

Tăng Ca+ máu

Truyền nước.
Truyền dung dịch muối.
Biphosphonate.

Tăng Urê máu

Chlorpromazine 25-50 mg


3 lần/ngày.

2. Táo bón
Táo bón thường gặp trong giai đoạn cuối của bệnh ung thư do ít hoạt động, uống ít
nước và ngay cả môi trường chung quanh không quen thuộc. Suy yếu các cơ bụng và sàn
chậu làm giảm khả năng bài tiết qua trực tràng. Hơn nữa, hầu hết các thuốc giảm đau
mạnh, thuốc phiện, thuốc chống trầm cảm, thuốc kháng cholin gây liệt nhẹ đám rối thần
kinh của ruột và gây táo bón, nên cho thuốc nhuận trường (nếu cần).
Hỏi kỹ và ghi hồ sơ đều đặn về chức năng đường ruột rất cần thiết, thăm khám trực
tràng là phần quan trọng của việc đánh giá người bệnh ở giai đoạn cuối. Khi táo bón
không giảm và bệnh nhân không nhận biết có thể gây đau bụng, làm đau tăng khắp nơi,
tiểu dầm hay tiêu chảy giả, tắc ruột, vật vả và đưa đến trầm cảm. Để giúp nhu động ruột
chúng ta có:
 Thuốc làm tăng khối lượng phân


Các loại thuốc này làm tăng sự kích thích đường ruột với lượng dịch cho vào được
duy trì đều đặn và đủ. Nhưng đối với người bệnh giai đoạn cuối uống vào ít và các cơ
yếu, hiếm khi họ thích nghi và có thể làm tăng táo bón.
 Các thuốc làm mềm phân
Lactulose: Là loại thuốc có tính thẩm thấu, nó kéo nước vào trong đường ruột. Sử
dụng 10-30 ml 3 lần/ngày, nhiều người bệnh không thích vị ngọt của thuốc. Loại rẻ tiền
hơn là dung dịch Sorbitol-Sorbilax. Một số người bệnh thích mùi của muối Magne hơn ví
dụ : MgO hay MgSO4 có cùng tác dụng
Docusate: Là loại thuốc làm phân mềm mà nó tác động như chất hoạt diện, kích thích
các chất bài tiết và giúp chúng xâm nhập vào phân. Viên Coloxyl 50 mg bất kỳ ngày nào
mà đường ruột không thông hay cho 2 lần/ngày; 3 lần/ngày; nếu bón kéo dài.
Bisacodyl: Là loại thuốc nhuận trường tiếp xúc, kích thích các chất từ niêm mạc ruột.
Dorolax 5 mg 2 lần/ngày hay tối.
Phenolphthalein: Là loại thuốc kích thích nhẹ, làm tăng các chất tiết của thành ruột.

 Loại thuốc dầu
Chất dầu Paraffin 10-20 ml (tối) giúp tống phân dễ dàng ở người già hay bệnh nhân
nặng.
 Loại thuốc làm tăng hoạt động cơ trơn
Senna làm tăng sự hoạt động của thành ruột bằng tác dụng trực tiếp lên cơ trơn.
Coloxyl với Senna (8 mg) vào buổi tối.
Cốm Senokot (15 mg cho 5 ml) và dạng viên (5-7 mg) viên tọa dược như Glycerine
hay Bisacodyl (Durolax) giúp kích thích sự bài tiết; thụt tháo nhỏ giọt (thí dụ Microlax)
có thể được dùng ở gia đình; thụt tháo với nước ấm, Glycerine, dầu hay Phosphates có
thể được điều dưỡng thực hiện tại nhà theo y lệnh bác sĩ : cho 1 ngón tay có mang găng
tay sạch lấy phân qua trực tràng, nên cho thuốc giảm đau và an thần (nếu cần). Chích
Pethidine 25-100 mg tiêm tĩnh mạch (tùy thuộc vào khả năng hấp thu thuốc của bệnh


nhân) và cho thêm diazepam 5 mg hay midazolam 5 mg giúp lấy phân dễ hơn và không
làm bệnh nhân khó chịu.
3. Triệu chứng khác
 Cổ chướng
Trước hết cần tìm nguyên nhân gây bụng chướng: khối u, gan to, chướng hơi, tắc ruột,
táo bón. Cổ chướng do nguyên nhân ác tính có thể tích tụ 10 lít dịch hay hơn nữa gây
căng tức thành bụng, hạn chế hoạt động cơ hoành làm bệnh nhân rất khó chịu.
Có thể dùng các thuốc lợi tiểu để làm giảm cổ chướng như: Spironolactone 50 mg 4
lần/ngày ; Furosemide 40-120 mg/ngày có thể làm giảm viêm chung quanh khối u và
giảm sự xâm nhập huyết thanh vào khoang bụng. Chọc hút bớt dịch màng bụng chỉ nên
thực hiện khi sự căng chướng gây tức bụng, khó chịu, bởi vì chọc hút dịch màng bụng sẽ
lấy đi một số lượng lớn chất đạm có thể làm người bệnh yếu sức và suy nhược nhanh
hơn.
Đặt ống nối màng bụng - tĩnh mạch chủ: Thỉnh thoảng được làm trong các tình huống
đặc biệt, ví dụ: Cổ chướng nhũ trấp do dò từ ống ngực
 Khó thở

Khó thở thường chiếm 70% các trường hợp bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. Các
nguyên nhân thường gặp là các bệnh ác tính ở phổi có thể gây: chèn ép đường hô hấp,
xẹp thùy phổi hay nhiễm trùng, tắt nghẽn phế quản. Các nguyên nhân phụ khác như: tràn
dịch màng phổi, xơ phổi, di căn phổi rộng, cổ chướng, viêm phổi do xạ trị, nghẽn mạch
phổi, chèn ép màng ngoài tim cấp.
Cần xác định nguyên nhân để điều trị cho phù hợp, thí dụ: Suy tâm thất trái cho lợi
tiểu, viêm phổi cho kháng sinh, co thắt phế quản cho Salbutamol hay thuốc kháng viêm
dạng khí dung .v.v...
 Các triệu chứng ăn kém, khô miệng


Ngoài những triệu chứng thường gặp ở giai đoạn cuối, những biểu hiện khác như suy
nhược, khô miệng và ăn kém là 3 triệu chứng dễ đưa đến suy sụp cho bệnh nhân.
-

Ăn kém

Phần lớn bệnh nhân ung thư ít nhiều ăn uống kém, đưa đến suy nhược. Cần loại trừ
các nguyên nhân có thể chữa trị như tưa miệng gây đau miệng, tăng Ca+ máu, táo bón,
nôn do thuốc. Ban đầu cho thuốc chống nôn như Metochlopramide 10 mg 3 lần/ngày hay
Dexamethazone 2-4 mg/ngày sẽ giúp nhiều bệnh nhân ăn ngon và cải thiện sức khỏe
trong một thời gian. Megastrol Acetate (400 mg-800 mg/ngày) giúp tăng sự thèm ăn
nhưng đắt tiền.
Truyền tĩnh mạch với dung dịch có nhiều năng lựơng và đạm thường được dùng ở
Nam Triều Tiên, Việt Nam, Nhật và Trung Quốc. Nhưng trái lại ở Bắc Mỹ, Châu Âu hay
Úc họ không dùng vì ít có bằng chứng để chứng minh rằng sự chuyền năng lượng và đạm
có thể kéo dài thêm cuộc sống cho bệnh nhân.
Trong thực tế rất có thể khi khối u được nuôi dưỡng tốt nó càng phát triển nhanh hơn.
-


Khô miệng

Là triệu chứng thường gặp làm bệnh nhân khó chịu, gây ra bởi:
Các yếu tố liên quan đến suy nhược: mất nước, thở bằng miệng, tưa miệng.
Các yếu tố liên quan đến điều trị: xạ trị vùng mặt, thuốc an thần, thuốc chống trầm
cảm, Phenothiazines, thuốc chống co thắt.
Nhằm giảm nhanh các triệu chứng này, cho súc miệng thường xuyên 2 giờ/1 lần với
dung dịch súc miệng nước Soda hay Bicarbonate, điều trị nấm Candida, chà rữa lưỡi dơ
một cách nhẹ nhàng với một bàn chải mềm và oxy già hòa loãng. Cung cấp nước qua các
dạng như miếng dứa tươi, nhai kẹo cao su, ngậm miếng nước đá nhỏ, uống nước bằng
ống nhỏ giọt. Tốt nhất cho ngậm viên sinh tố C sẽ kích thích tiết nước bọt nhiều hơn. Cho
kem Vaselin hay dầu thực vật thoa môi thường xuyên. Nếu miệng đỏ và bẩn cho súc
miệng với Lidocaine hòa tan với Chlorhexidine.


III.

KẾT LUẬN
Đau là một triệu chứng muộn, thường gặp ở người bệnh ung thư giai đoạn trễ/ cuối.
Đau do ung thư là nỗi khiếp sợ của con người, một cảm giác khó chịu mang tính chủ
quan, phức tạp cần được quan tâm và điều trị hiệu quả. Kiểm soát đau là một nhu cầu bức
bách của người bệnh ung thư giai đoạn cuối, nhằm giúp họ không đau trong sinh hoạt
thường ngày hoặc hạn chế đau trước khi chết. Bên cạnh đó việc giảm những triệu chứng
trong ung thư như buồn nôn, nôn, táo bón, kém ăn, khó thở… là cần thiết bên cạnh việc
điều trị bệnh ung thư. Nhờ vậy giúp cải thiện chất luợng cuộc sống và giúp bệnh nhân dễ
chịu nhất có thể trong những ngày tháng cuối. Điều này mang tính nhân đạo rất lớn.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Xu hướng điều trị đau trong ung thư . BS. Trần Chánh Khương. BV Ung Bướu

TP.HCM
2. Điều trị đau do ung thư. Phác đồ Bệnh viện K.



×