Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Sáng kiến một số kinh nghiệm trong lĩnh vực phát tiển ngôn ngữ cho trẻ 4 5 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.57 KB, 22 trang )

Phần 1: MỞ ĐẦU
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Sáng kiến “Một số kinh nghiệm trong lĩnh vực phát tiển ngôn ngữ
cho trẻ 4-5 tuổi”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực Phát triển ngôn ngữ
3. Tác giả: Họ và tên: Đào Đình Phương

Nam

Ngày, tháng, năm sinh: 18/02/1983
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm mầm non
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Thúc Kháng
Điện thoại: 0984.352.118
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường mầm non Thúc Kháng
Điện thoại: 03206.524 440
5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Tài liệu hỗ trợ phát triển ngôn ngữ 4- 5 tuổi
- Đồ dùng dạy và học
- Đối tượng: Trẻ lớp 4 tuổi A - Trường mầm non Thúc Kháng
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Từ tháng 9 năm 2017 đến
tháng 02 năm 2018
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ

(Ký, ghi rõ họ tên)

ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
......................................................................
......................................................................


......................................................................
......................................................................
......................................................................

1


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Phát triển ngôn ngữ là một trong năm mặt phát triển toàn diện cho trẻ ở
trường mầm non. Phát triển ngôn ngữ đối với trẻ vô cùng quan trọng nó không
chỉ là sự phát triển về ngôn ngữ, lời ăn tiến nói, cách ứng xử của trẻ mà nó còn
là yếu tố để giúp trẻ phát triển toàn diện các mặt khác như: nhận thức, ngôn
ngữ, tình cảm kỹ năng xã hội, thẩm mỹ. Vì vậy việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
trong trường mầm non là một nhiệm vụ quan trọng.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
Tôi đã nghiên cứu và áp dụng sáng kiến “Một số kinh nghiệm trong lĩnh
vực phát tiển ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi” từ thời điểm tháng 9 năm 2017 đến
tháng 02 năm 2018 tại lớp mẫu giáo 4 – 5 tuổi mà tôi phụ trách.
3. Nội dung sáng kiến
Trong nội dung sáng kiến của mình chúng tôi chỉ ra được thực trạng còn
tồn tại trên cơ sở đó chúng tôi đã xây dựng và đề xuất một số biện pháp sau :
Biện pháp 1. Bồi dưỡng nâng cao nhận thức, cung cấp cho trẻ những
kiến thức, trí thức về thế giới xung quanh trẻ .
Biện pháp 2. Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của trẻ. Mở rộng hiểu biết
và tích luỹ vốn kinh nghiệm cá nhân .
Biện pháp 3. Tạo môi trường cho trẻ làm quen với văn học.
Biện pháp 4. Tổ chức tiết học nhẹ nhàng linh hoạt.
Biện pháp 5. Chú ý rèn nề nếp, rèn kỹ năng và kích thích sự sáng tạo
của trẻ.

Biện pháp 6. Tổ chức ôn luyện mọi lúc, mọi nơi, ôn luyện thông qua lễ
hội.
Biện pháp 7. Thực hiện công tác tuyên truyền, Phối hợp với phụ huynh.
Biện pháp 8. Xây dựng kế hoạch.
Biện pháp 9. Làm đồ dùng đồ chơi.
Biện pháp 10. Biện pháp tổ chức thực hiện giúp trẻ phát triển ngôn ngữ
mạch lạc.
2


* Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến:
- Xác định nội dung cần nói giúp cho lời nói của trẻ có nội dung thông
báo ngắn gon, rõ ràng. Sắp xếp nội dung đã lựa chọn giúp cho lời nói của trẻ
được đầy đủ hợp lý và có logic.
- Lựa chọn từ giúp trẻ diễn tả chính xác nội dung mình cần thông báo.
Chọn từ giúp cho lời nói của trẻ rõ rang, chính xác và mang sắc thái biểu cảm.
- Sắp xếp cấu trúc lời nói có sự liên kết các câu nói lại với nhau tạo thành
chuỗi lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn một ý, một nội dung nào đó để giúp người
nghe hiểu được.Đây là sự sản xuất toàn bộ nội dung thong báo có logic.
- Diễn đạt nội dung nói phải ngừng nghỉ ngắt giọng đúng, để giọng nói
của trẻ không ê, a, ậm ừ. Luyện cho trẻ tác phong khi nói phải thoai mái, tự
nhiên, khi nói nhìn vào mặt người nói.
* Khả năng áp dụng của sáng kiến: Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ
mạch lạc được thực hiện ở mọi lúc mọi nơi trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ.
Tiếp tục dạy trẻ biết nghe – hiểu – trả lời câu hỏi của người lớn. Biết trò chuyện
với những người xung quanh. Dạy trẻ kể chuyện về đồ chơi, đồ vật theo tranh,
kể lại tác phẩm văn học, kể có trình tự, diễn cảm.

*


* Lợi ích thiết thực của sáng kiến : Áp dụng sáng kiến “Một số kinh
nghiệm trong lĩnh vực phát tiển ngôn ngữ cho trẻ 4-5 tuổi” sẽ mang lại
những lợi ích sau:
- Giúp trẻ phát triển thẩm mĩ, giáo dục kỹ năng sống từ đó góp phần phát
triển toàn diện nhân cách trẻ.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Áp dụng sáng kiến “Một số kinh nghiệm trong lĩnh vực phát tiển ngôn
ngữ cho trẻ 4-5 tuổi” đã mang lại hiệu quả cao. Gíao viên chủ động, linh
hoạt và sáng tạo hơn. Đa số trẻ mạnh dạn, tự tin. Phụ huynh đã quan tâm và
cùng phối hợp với giáo viên trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng sáng kiến

3


Để thực hiện có hiệu quả hơn nữa việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong
trường mầm non, chúng tôi rất cần có sự quan tâm hơn nữa của BGH nhà
trường và lãnh đạo cấp trên tạo điều kiện tốt về cơ sở vật chất, về chuyên môn
nghiệp vụ để từ đó tôi khắc phục những khó khăn cũng như hạn chế của bản
thân khi thực hiện việc áp dụng sáng kiến.

4


Phần 2: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã dạy:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”
Cũng bởi vậy mà Bác đã có lời dặn dò với ngành học Mầm non :

“ Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế nào trước hết phải
yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy phải bền bỉ chịu khó mới nuôi dạy được các
cháu. Dạy trẻ như trồng cây non, trồng cây non được tốt thì sau này các cháu
thành người tốt. Dạy trẻ tốt thì sau này các cháu thành người tốt”.
Thấm nhuần lời dạy của Bác, công tác giáo dục đào tạo thế hệ măng non
- những người chủ tương lai của đất nước đã, đang và sẽ là chủ trương lớn của
toàn Đảng, toàn dân. Để thực hiện tốt mục đích giáo dục này, cấp học mầm non
đã có những bước chuyển lớn nhằm góp phần đặt nền móng đào tạo con người
phát triển toàn diện.
Nắm được ý nghĩa và tầm quan trọng của môn làm quen với văn học đối
với sự phát triển ngôn ngữ trẻ, tôi đã nhận thức được rằng mình cần phải tìm tòi
đưa ra được những nội dung phương pháp và hình thức dạy đổi mới để kích
thích sự hứng thú, say mê của trẻ vào tiết học nhằm khuyến khích trẻ nói
nhiều, đọc nhiều. nâng cao hiệu quả phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Từ những suy nghĩ trên đây, là một giáo viên Mầm non tôi đã mạnh dạn
đưa đề tài “Một số kinh nghiệm trong lĩnh vực phát tiển ngôn ngữ cho trẻ 45 tuổi” vào thử nghiệm.
2. Thực trạng của vấn đề
Năm 2017 – 2018 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ
nhiệm và giảng dạy lớp mẫu giáo 4-5 tuổi, tổng số cháu của lớp là 28 cháu.
như sau.
• Số cháu khảo sát
• Kĩ năng nghe kể chuyện diễn cảm
• Kĩ năng đàm thoại
5


• Kĩ năng kể lại chuyện và đóng kịch
Thời gian
Tháng 9
Năm 2017


Số trẻ
28

Mức độ
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu kém

Kết quả
Số lượng
3
7
10
8

Tỷ lệ
11%
25%
36%
29%

=> Kết quả trên cho thấy, số trẻ có nhận thức khá là 7 trẻ chiếm 25%,
trung bình là 10 trẻ chiếm 36% và trẻ yếu kém là 8 trẻ chiếm 29% còn lại số trẻ
có nhận thức tốt chỉ là 3 trẻ chiếm 11%. Với kết quả như trên ta thấy, đa số trẻ
chưa nắm được kiến thức cơ bản về những thói quen vệ sinh và hành vi văn
minh.
Qua phần khảo sát trên, tôi phải phân loại đối tượng trong lớp để nắm
được tình hình thực tế tìm hiểu và giáo dục một số trẻ cá biệt. Do đó chỉ tiêu

cần đạt cuối năm học là từ 90 – 95% trẻ lớp tôi có kĩ năng sử dụng ngôn ngữ
mạch lạc.
3. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
3.1. Biện pháp 1: Bồi dưỡng nâng cao nhận thức
Hiện nay chương trình Giáo dục Mầm non được cải cách, thay đổi nhiều
ở tất cả các lĩnh vực đặc biệt lĩnh vực phát triển ngôn ngữ, trước sự thay đổi
nhiều về phương pháp giảng dạy và nhu cầu lĩnh hội kiến thức của trẻ được
nâng cao. Với bản thân tôi nói riêng và các giáo viên mầm non nói chung phải
không ngừng học tập, trau rồi nâng cao trình độ, để tìm gia những phương pháp
dạy học tích cực nhất, thu hút trẻ tập chung vào bài học, và mang lại kết quả
nhận thức cao nhất cho trẻ.
Hiện nay công nghệ thông tin ngày càng được ứng dụng nhiều trong các
lĩnh vực. Bậc học Mầm non đã đưa Công nghệ thông tin vào trong các hoạt
động để giúp trẻ nhận thức và gây hứng thú cho trẻ. Vì vậy tôi nghĩ bản thân
phải có phương pháp sử dụng ứng dụng công nghệ thông tin vào bài dạy của
mình sao cho hợp lý để giúp trẻ tiếp thu bài nhanh nhất, hiệu quả nhất trong
mục tiêu giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc. do đó yêu cầu đặt ra với bản
6


thân tôi nói riêng và các giáo viên mầm non nói chung phải không ngừng học
tập, trau dồi nâng cao trình độ cả về lý thuyết lẫn thực hành vi tính sao cho sử
dụng thành thạo. Bên cạnh đó tôi vẫn tìm tòi học hỏi thêm cách soạn giáo án
powerpoint trên máy vi tính, đây cũng là những gợi ý tốt để giáo viên có thêm
những ý tưởng sáng tạo mới nhằm tổ chức các hoạt động cho trẻ một cách sinh
động, cuốn hút và đạt hiệu quả cao hơn .
Không chỉ bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho cô, mà cũng cần cho trẻ được
làm quen ,tiếp cận với những đồ dùng đồ chơi cô đã chuẩn bị, điều đó cũng
giúp cho giáo viên nắm bắt được sâu hơn tâm lý và sở thích của trẻ .
3.2. Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của trẻ.

Tôi tiến hành tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của trẻ 4 tuổi để so sánh với
trẻ 5 tuổi, từ đó có biện pháp bồi dưỡng giáo dục trẻ 4 tuổi.
* Đặc điểm phát âm:
- Nói chung trẻ đã phát âm tốt hơn, ít ê a, ậm ừ. Trẻ vẫn còn phát âm sai,
những âm thanh khó có 2-3 âm tiết như: lựu – nịu, hươu – hiu, lá- ná, nói – lói,
chiêm chiếp – chim chíp, Tuy nhiên lỗi sai đã ít hơn so với trẻ 3 tuổi.
* Đặc điểm vốn từ:
- Vốn từ của trẻ tăng nhanh khoảng 1300 – 2000 từ. Danh từ và động từ
ở trẻ vẫn chiếm ưu thế. Tính từ và các loại từ khác trẻ đã sử dụng nhiều hơn.
- Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ biểu tượng về kích thước
như:

Cao – thấp, dài – ngắn, rộng – hẹp, các từ chỉ tốc độ như: Nhanh –

chậm, các từ chỉ màu sắc: đỏ, vàng, trắng, đen. Ngoài ra các từ khái niệm thời
gian như: Hôm qua, hôm nay, ngày mai…trẻ dùng còn chưa chính xác. Một số
trẻ còn biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như: Xám, xanh lá cây, tím, da cam.
- 100% trẻ biết sử dụng các từ cao, thấp, dài , ngắn, rộng, hẹp. Có 55%
số trẻ đếm được từ 1- 10. Tuy nhiên trẻ sử dụng một số từ còn chưa chính xác.
Ví dụ: Mẹ có muốn ngồi hông? ( không)
* Đặc điểm ngữ pháp:

7


- Trẻ ít sử dụng câu cụt hơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp trẻ sử
dụng từ vẫn chưa thật chính xác. ví dụ: Mẹ ơi! Con muốn cái dép kia! Chủ yếu
trẻ vẫn sử dụng câu đơn mở rộng.
- Trẻ có khả năng kể lại chuyện và kể chuyện có trình tự logic. Thế
nhưng qua tìm hiểu quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ 4 tuổi chuyện có trình

tự logic.
3.3. Tạo môi trường cho trẻ làm quen với văn học.
* Về phía lớp:
Ngay từ đầu năm học tôi đã phối hợp với cha mẹ học sinh khuyến khích
sưu tầm và đóng góp các loại băng đĩa ghi hình, ghi tiếng về các bài thơ câu
chuyện, sách chuyện, tranh chuyện, họa báo, tạp chí, để xây dựng góc sách
chuyện mang những nội dung giúp trẻ làm quen văn học, để các giờ hoạt động
góc trẻ được xem tranh vẽ về các câu chuyện, bài thơ.Trong giờ hoạt động góc
này cô giúp trẻ, hướng dẫn trẻ dần dần chi giác và đọc kể được những bài thơ
câu chuyện đó.
Trong giờ đón và trả trẻ tôi mở đĩa ghi hình và tiếng những bài thơ câu
chuyện cho trẻ xem nhằm giúp trẻ tri giác dần dần nội dung những bài thơ câu
chuyện đó.
- Tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý bố trí sắp xếp các học cụ,
đội hình để tạo môi trường học và thoải mái cho trẻ.
Trong lớp tôi trang trí những mảng tranh chuyện thể hiện nội dung những bài
thơ, câu chuyện theo từng chủ điểm. VD: với chủ diểm thế giới thực vật tôi
trang trí mảng tranh truyện “ Cây thìa là” hoặc thơ “Cây dây leo” hoặc tôi
hướng dẫn các cháu cùng làm những quyển tranh về những câu chuyện, bài thơ
trẻ đã được làm quen để tăng thêm phần phong phú cho góc sách chuyện và tận
dụng khả năng tối đa nâng cao chất lượng làm quen văn học cho trẻ.
- Tôi sử dụng các nguyên vật liệu mở như: Thanh tre. Ly nhựa, nắp thiếc,
hộp sữa, lõi giấy vệ sinh… để làm thành những con rối xinh xắn. Trẻ cũng có
thể sử dụng được để kể chuyện theo ý thích.

8


- Để làm trang phục cho trẻ khi đóng kịch tôi dùng: Vải vụn, giấy, lá cây,
tạo nhiều kiểu dáng trang phục lạ mắt thu hút trẻ.

- Chú ý đến khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ để có sự điều chỉnh và
sửa sai, rèn luyện khả năng ngôn ngữ cho trẻ.
-Bản thân tôi trước khi tổ chức hoạt động cũng phải tự luyện giọng kể,
cách sử dụng tranh, sách tranh, rối, mô hình, giáo án powerpoint…để giúp trẻ
cảm thụ văn học một cách tốt nhất.
*Về phía nhà trường:
Từ những năm học trước thực hiện chuyên đề “Văn học” nhà trường đã
có suy nghĩ cần phát huy hiệu quả phòng thư viện, đồ chơi,phòng máy tính với
các trang thư viện điện tử ở đó lưu trữ những giáo án văn học có ứng dụng
công nghệ thông tin hoặc những hình ảnh, giữ liệu liên quan để thiết kế giáo án
ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ tiết dạy làm quen văn học.
Đến nay trường đã có đủ sách, tranh chuyện, tranh thơ, thư viện đồ chơi, thư
viện giáo án điện tử phục vụ tiết dạy văn học cho tất cả các lứa tuổi.
-Về chuyện thì có truyện cổ tích, chuyện kể sang tạo theo từng chủ điểm,
những bài thơ, ca dao, cùng với nguồn tài liệu được lựa chọn với khả năng
nhận thức củ trẻ.
-Trong thư viện đồ chơi có vòng quay kỳ diệu, tranh rời, để trẻ tự sắp
thành câu chuyện, có sân khấu rối với đủ loại rối, trang phục để trẻ diễn tập tạo
nhiều hứng thú để giới thiệu nhân vật trong chuyện và trong thơ, trẻ có thể
đóng kịch thể hiện các nhân vật trong chuyện, trong thơ.
Ngoài ra phòng thư viện còn trang bị đầy đủ phương tiện nghe nhìn như
đài, băng hình, trang thư viện giáo án điện tử, máy chiếu, máy tính sách tay để
phục vụ tốt cho việc dạy và học môn làm quen văn học cho trẻ.
4.4. Tổ chức tiết học nhẹ nhàng linh hoạt.
Để thu hút sự chú ý, gây hứng thú của trẻ tôi đã sử dụng công nghệ thông
tin, mô hình rối, tranh minh họa vào một số bài dạy cụ thể sau :
Ví dụ : Dạy câu chuyện : “ Cây thìa là ”
Chủ đề : Thế giới thực vật
9



Chủ đề nhánh : Một số loại cây .
Với bài dạy này tôi đã sử dụng phần mềm PoWerPoint để soạn giáo án
điện tử phục vụ một số hoạt động trong tiết dạy.
Ví dụ: phần gây hứng thú cho trẻ, tôi chuẩn bị một số hình ảnh trên máy chiếu
về cây, rau , quả. Tôi đọc câu đố, cho trẻ đoán và chiếu hình ảnh minh họa lên
để trẻ kiểm tra câu trả lời của mình.
- Tôi kể chuyện lần 2 và giảng nội dung theo tranh minh họa trên máy
chiếu.
-Tôi sử dụng rối trong kể chuyện lần 3 cho trẻ nghe và dạy trẻ kể chuyện
cùng cô đã gây được sự hấp dẫn, tập chung chú ý cho trẻ.
Trước khi vào tiết dạy tôi còn chuẩn bị máy tính xách tay đã cài đặt
phần mềm PoWerPoint, máy chiếu, phông chiếu là những đồ dùng cần thiết khi
giảng dạy .
Vào giờ học để thu hút sự chú ý của trẻ tôi gọi trẻ đến bên cô và hỏi :
- Các con thấy thời tiết hôm nay như thế nào ?
- Với thời tiết đẹp thế này các con có dự định đi đâu ? ( trẻ nêu ý định)
- Bây giờ cô có một đề nghị , cô con mình sẽ cùng đi chơi , cô sẽ đưa
chúng mình đến thăm “vườn cây xanh” cô - các con cùng khám phá những
điều thú vị trong khu vườn nhé!.
Sau đó tôi sẽ nhẹ nhàng đọc câu đố, trẻ đoán tên cây, quả… và chiếu
cho trẻ xem hình ảnh về các loại cây trên máy chiếu và trò chuyện cùng cô .
Tiếp đó cô nhẹ nhàng dẫn dắt trẻ vào câu truyện và cô kể diễn cảm cho trẻ nghe
câu tryện bằng lời của cô sau đó cô hướng trẻ nhìn lên màn hình và giơí thiệu
cho trẻ được quan sát những hình ảnh về câu tryện mà cô đã chuẩn bị sẵn trên
máy, trẻ cùng cô đàm thoại nội dung câu truyện trên máy chiếu và lắng nghe
cô kể câu chuyện đó trên băng đĩa .
Với việc sử dụng công nghệ thông tin vào tiết dạy, trẻ đặc biệt có hứng
thú, trước khi vào bài học, khi nhìn thấy trong lớp có máy vi tính, có máy
chiếu, tất cả trẻ đều ngạc nhiên đến sửng sốt và rất hưng thú, đến khi vào tiết

học khi được xem trực tiếp các hình ảnh động âm thanh, bài hát trên màn hình
10


trẻ vô cùng thích thú. Tiết học trôi qua một cách nhẹ nhàng đầy lôi cuốn trẻ từ
đầu đến cuối. Đến khi hết tiết học trẻ còn nói “ học tiếp đi cô”
Với bài dạy này trẻ được quan sát kỹ các hình ảnh các loại cây một cách
sống động và trung thực, trẻ được quan sát kỹ nội dung tranh truyện trên máy
chiếu thay vì quyển tranh truyện bé ở ngoài . Trẻ được xem và khắc sâu tính
cách nhân vật hiền lành tốt bụng, tham lam độc ác qua cử chỉ, nét mặt của từng
nhân vật, qua đó trẻ tập trung cao độ vào tiết học, hăng hái phát biểu xây dựng
bài, giờ học sôi nổi .
Từ đó phát huy được tính tích cực, phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Giờ học
đạt kết quả từ 90-95%.
Ví dụ 2:

Thơ “Gấu qua cầu”

Chủ đề : Giao thông
Với bài dạy này tôi chuẩn bị :
+ Mũ gấu, mũ nhái bén, một cây cầu.
Mở đầu bài dạy tôi cho trẻ đến bên cô, cô đọc câu đố về đèn hiệu giao thông :
‘‘ Đèn mắt đỏ,mắt xanh
Suốt đêm không ngủ
Đứng canh bên đường’’

( đèn hiệu giao thông)

cùng trò chuyện về chủ đề giao thông sau đó cho trẻ xem hình ảnh hai con gấu
đang đi qua cầu trên máy chiếu và đàm thoại cùng trẻ .

Có những con vật gì ?
Chúng đang làm gì ?
Những con vật này sống ở đâu ?
Sau đó cô đọc cho các cháu nghe .
Thay vì trước đây tôi chỉ có thể sử dụng tranh ảnh hoặc những con vật
bằng rối rẹt để giới thiệu với trẻ nên bài dạy chưa thực sự hấp dẫn, trẻ không
hứng thú .Thì nay với công nghệ thông tin tôi có thể dễ dàng tìm được hình
ảnh những con vật sống trong rừng ở trên mạng thật dễ dàng .
Cũng với những hình thức trên tôi giới thiệu tranh, đọc thơ, giảng nội
dung theo tranh trên máy chiếu.
11


Tiếp theo tôi cho trẻ đọc thơ diễn cảm nhiều lần với nhiều hình thức khác
nhau, khi trẻ đọc thơ đã hay và diễn cảm tôi tiến hành cho trẻ đóng kịch với vở
kịch “Gấu qua cầu” tôi đã biên đạo sẵn.
Chính điều đó kích thích sự hứng thú trẻ vào tiết học, trẻ nào cũng
chăm chú theo dõi, khi kết thúc vở kịch trẻ vui mừng vỗ tay khen thưởng bạn.
Qua tiết học trẻ không chỉ được làm quen với một số luật lệ đi đường
đơn giản, mà còn được học chữ viết, được phát triển ngôn ngữ tích cực, trẻ
đựơc học một cách thoải mái, nhẹ nhàng , vui chơi là chính, nhưng trong chơi
có học . Giờ học đạt kết quả cao.
3.5. Chú ý rèn nề nếp, rèn kỹ năng và kích thích sự sáng tạo của
trẻ:
- Cô hướng dẫn trẻ biết chia nhóm kể chuyện, tạo cho trẻ cảm giác tự
tin, mạnh dạn, nhanh nhẹn và linh hoạt qua việc trẻ biểu diễn hoặc đóng kịch.
- Rèn kỹ năng nhập vai nhân vật, bắt chước giọng điệu, thái độ, để thể
hiện tính cách nhân vật trong chuyện từ đó khuyến khích trẻ thể hiện sự sáng
tạo của mình trong khi biểu diễn hoặc đóng kịch.
- Cô tổ chức tiết dạy mang tính chất gợi mở, tạo điều kiện cho trẻ tự

thỏa thuận và tự chọn vai kể theo ý thích về sự sáng tạo của trẻ. Có thể dùng lời
để khuyến khích, động viên trẻ thực hiện các vai diễn sáng tạo.
- Rèn trẻ một số nề nếp, thói quen văn minh trong giờ học, biết ngoan
ngoãn, chú ý, lắng nghe cô và bạn kể chuyện, đọc thơ, đóng kịch… Hăng hái
tham gia các hoạt động cùng cô và bạn.
3.6. Tổ chức ôn luyện mọi lúc, mọi nơi, ôn luyện thông qua lễ hội:
Ôn luyện mọi lúc, mọi nơi cũng là một biện pháp giúp ổn định trẻ.
Tôi thường xuyên tổ chức ôn tập cho trẻ vào các hoạt động trong ngày, trong
giờ hoạt động chính cô tích hợp cho trẻ đọc thơ hoặc vè trong phần gây hứng
thú đầu giờ, trong giờ hoạt động ngoài trời cô tích hợp đồng dao vào các trò
chơi vận động.
Ví dụ: Trò chơi “Mèo đuổi chuột” lồng ghép bài đồng dao “Mèo đuổi
chuột”,
12


Vào các buổi chiều trong tuần trước khi tổ chức các hoạt động chiều tôi
thường cho trẻ đọc ôn lại các bài thơ, vè, đồng giao, câu chuyện trước, tổ chức
hoạt động chiều sau.
Thông qua các hoạt động tổ chức lễ hội tổ chức hoạt động kể chuyện
đóng kịch, đọc thơ… theo một chương trình biểu diễn văn nghệ mà 100% trẻ
được tham gia nhằm giúp trẻ hứng thú với bộ môn làm quen văn học.
Ví dụ: lễ hội 20/11chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam. cho trẻ kể
chuyện sáng tạo về cô giáo của mình.
3.7. Thực hiện công tác tuyên truyền, Phối hợp với phụ huynh:
- Tôi đã làm bảng tin tuyên truyền về chương trình dạy theo chủ đề và
thay tin hàng tuần để phụ huynh biết, trong bảng tuyên truyền này tôi đã ghi rõ
nội dung của từng câu chuyện, bài thơ, vè, đồng dao, để phu huynh nắm được
nội dung và phối hợp với giáo viên rèn luyện thêm cho trẻ ở nhà.
- Vận động phụ huynh hỗ trợ vật phế phẩm: thùng giấy, sách báo cũ,

chuyện đọc, chuyện tranh, hoặc những đồ dùng đồ chơi do phụ huynh tự làm,
dụng cụ hóa trang…
- Tôi thường trao đổi, động viên phụ huynh cố gắng dành thời gian để
tâm sự với trẻ và lắng nghe trẻ nói. Khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ ràng
mạch lạc, tốc độ vừa phải để trẻ nghe cho rõ.
- Cha mẹ, người thân cố gắng phát âm đúng để trẻ bắt chước.
- Khuyến khích hặc tuyên truyền với phụ huynh cung cấp kinh nghiệm
sống cho trẻ. Tránh không nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe những
hình thái ngôn ngữ không chính xác.
3.8. Xây dựng kế hoạch:
- Tôi xây dựng kế hoạch phát triển ngôn ngữ mach lạc cho trẻ cho trẻ
theo từng quý xuyên suốt trong một năm học.
Tháng 9 + 10: Tôi chú ý chọn những bài tập luyện tai nghe cho trẻ
nhằm phát triển thính giác âm vị (cho trẻ nghe những bài hát, những câu
chuyện, những bài đồng dao…). Tôi tạo mọi điều kiện để trẻ tập trung chú ý
luyện khả năng chú ý thính giác cho trẻ thông qua các bài tập, trò chơi (Tai ai
13


thính, ai đoán giỏi…) Cố gắng phát âm đúng, không phát âm sai vì trẻ hay bắt
trước. Sửa lỗi phát âm cho trẻ khi phát âm sai mọi lúc, mọi nơi trong các hoạt
động hàng ngày.
Tháng 11+ 12: Tôi tập trung vào việc làm để tăng vốn từ cho trẻ?
Giáo viên cần nói diễn cảm, rõ ràng, giải thích nghĩa của từ khó giúp cho
trẻ hiểu, nhớ và vận dụng được từ để đặt câu. Để đẩy mạnh sự phát triển khả
năng vận động các cơ quan phát âm cần tập cho trẻ các bài tập luyện cơ quan
phát âm thích hợp:
“Con có cái ca, cô cắt quả cà, con cầm cái ca, cùng cười ha ha”.
“ Có con ba ba, đội nhà đi trốn, bì bà bì bõm, bé bắt ba ba.”
“Bà bảo bé, bé búp bê, bé bồng,bé bé, búp bê ngoan nào.”

“ Lúa lên lớp lớp đòng đòng, lá non xanh.”
Tháng 1 + 2: Vẫn xuyên suốt hai nhiệm vụ trên nhưng tôi đào sâu vấn
đề luyện trí nhớ cho trẻ qua các bài thơ, đồng dao đặc biệt là những câu chuyện
đầy lôi cuốn và hấp dẫn. Gợi ý cho trẻ sử dụng những loại câu đơn giản, đủ
nghĩa.
Đồng thời, Tôi xây dựng những trò chơi giúp trẻ nói đúng ngữ pháp, nói
mạch lạc. Ví dụ: Trẻ “nói theo mẫu câu” của một câu chuyện nào đó: “Người
anh tham lam chiếm hết ruộng vườn, nhà cửa, trâu bò của cha mẹ đẻ lại”(truyện
cây khế) hoặc “nói nốt câu” Ví dụ: Cô nói: Bà biến thành chim vì…Trẻ nói: Bà
muốn bay đi tìm nước uống, hoặc: vì Tích Chu ham chơi không lấy nước cho
bà…Cô lưu ý thay đổi các câu tùy theo mức độ phát âm của trẻ, cho trẻ chơi từ
dễ đến khó, các mẫu câu phức tạp dần lên hoặc “đặt câu với từ”, “kể nốt
truyện”, “kể chuyện” … để củng cố kỹ năng nói đúng ngữ pháp, phát triển trí
tưởng tượng, sáng tạo của trẻ.
Một khi đã có một số lượng vốn từ phong phú trẻ sẽ tự tin kể chuyện,
đọc thơ, đóng kịch…một cách hứng thú và tự nhiên.
3.9. Làm đồ dùng đồ chơi:

14


- Tôi tận dụng tất cả những nguyên vật liệu có thể sử dụng làm đồ
chơi: Sách báo, lịch cũ, lõi giấy vệ sinh, ống lon, chai nhựa, xốp, vải vụn, cành
cây khô…làm đồ chơi phục vụ tiết học phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Dựa vào từng chủ đề tôi triển khai kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi một
cách cụ thể, mỗi chủ đề đều có một bộ đồ dùng đồ chơi phục vụ cho quá trình
giảng dạy và vui chơi của trẻ. Hàng tháng Tôi và các cháu đều sử dụng những
vật liệu có sẵn như giấy vụn, các loại lá, các màu, hạt bột… để xé dán thành
những cuốn tranh truyện do trẻ tự làm bằng những hình ảnh sưu tầm được, gợi
ý cho trẻ tự kể chuyện theo trí tưởng tượng của trẻ.

Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy… Tôi hướng dẫn trẻ làm các con
rối thật xinh xắn từ những câu chuyện cổ tích trẻ được học hoặc được nghe
hoặc được làm các nhân vật theo sự sáng tạo của trẻ.
Khi kể chuyện tôi thường sử dụng những loại sách tranh truyện do đó
việc vẽ trang trí cũng góp phần làm cho trẻ hứng thú khi nghe, xem hoặc muốn
được sử dụng sách. Trẻ sẽ biết cách sử dụng sách và giữ gìn sách, tranh truyện
hơn.
3.10. Biện pháp tổ chức thực hiện giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch
lạc:
Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua bộ môn làm quen văn học,
tôi cho trẻ kể lại truyện, chơi đóng kịch và đóng vai theo chủ đề.
* Dạy trẻ kể lại chuyện:
- Trẻ tái hiện lại một cách mạch lạc, diễn cảm tác phẩm văn học mà trẻ
đã được nghe. Trẻ sử dụng nội dung, hình thức ngôn ngữ đã có sẵn của các tác
giả và của giáo viên. Tuy nhiên yêu cầu trẻ không học thuộc lòng câu chuyện
một cách tự do thoải mái nhưng phải đảm bảo nội dung cốt truyện.
- Yêu cầu đối với trẻ:
+ Kể nội dung chính của câu chuyện, không yêu cầu trẻ kể chi tiết toàn
bộ nội dung tác phẩm. Lời kể phải có các cấu trúc ngữ pháp. Khuyến khích trẻ
dùng ngôn ngữ chính của mình kể lại. Giọng kể diễn cảm, to, rõ, không ê a, ấp
úng, cố gắng thể hiện đúng ngôn ngữ đối thoại hay độc thoại.
15


+ Chuẩn bị: Tiến hành trước giờ học, kể chuyện cho trẻ nghe. Trước khi
kể cô giao nhiệm vụ trẻ ghi nhớ và kể lại.
+ Tiến hành : Đàm thoại về nội dung câu chuyện. Đàm thoại nhằm mục
đích giúp trẻ nhớ lại nội dung câu chuyện, giúp trẻ xây dựng dàn ý câu chuyện
kể,lựa chon hình thức gôn ngữ (cách dùng từ đặt câu)
Ví dụ: Truyện “Dê con nhanh trí” – Dê mẹ dặn dê con như thế nào?

Câu hỏi phải phù hợp với trẻ cả về hình thức ngữ pháp và nhận thức.
Khi đàm thoại cô cần lưu ý giới thiệu cho trẻ biết thêm các từ đồng nghĩa
những cụm từ thay thế để tạo điều kiện cho trẻ lựa chọn từ để kể.
Tôi dùng ngôn ngữ ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với nhận thức của trẻ kể
lại nộ dung tác phẩm: Cô kể diễn cảm, lời kể có các mẫu câu cần luyện cho trẻ
(mới). Mẫu truyện của cô có tác dụng chỉ cho trẻ thấy trước kết quả trẻ cần đạt
được về nội dung, độ dài, trình tự câu chuyện.
Trẻ kể xong, cô nhận xét, đánh giá truyện kể của trẻ, không nên để đến
cuối buổi trẻ sẽ quên mất những ưu, nhược điểm của mình hay của bạn. Cô cần
nhận xét đúng, chính xác để có tác dụng khuyến khích, động viên trẻ,nhận xét
cả về nội dung, ngôn ngữ tác phong.
* Chơi đóng vai theo chủ đề:
- Khi chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ phải tham gia vào các cuộc nói
chuyện với bạn để phân vai, trao đổi với nhau trong khi chơi, trẻ bắt chước các
nhân vật mà trẻ đóng vai, làm cho ngôn ngữ đàm thoại của trẻ thêm phong phú
và đa dạng.
Ví dụ: Chủ đề gia đình- chơi nấu ăn: Trẻ tự phân vai chơi của mình: Mẹ
đi chợ, nấu ăn, chăm sóc các con, ba đi làm.
* Chơi đóng kịch:
- Tổ chức cho trẻ chơi đóng kịch là một phương pháp tốt để phát triển
ngôn ngữ đối thoại cho trẻ. Trẻ làm quen với các mẫu câu văn học đã được gọt
giửa, chọn lọc. Khi đó trẻ cố gắng thể hiện đúng ngữ điệu, tính cách nhân vật
mà trẻ đóng, giúp cho ngôn ngữ của trẻ mang sắc thái biểu cảm rõ rệt.
Ví dụ: Chủ đề gia đình, câu chuyện Tích Chu.
16


Cháu Thịnh đóng vai Tích Chu: Lúc đầu ham chơi, thái độ không vâng
lời, sau biết lỗi tỏ thái độ nhận lỗi, giọng chầm (Bà ơi, bà đi đâu! Bà ở lại với
cháu, cháu sẽ mang nước cho bà, bà ơi!)

Cháu Ánh đóng vai bà(giọng run run, rứt khoát) Bà đi đây! Bà không về
nữa đâu!
Cháu Thùy Dung đóng vai bà tiên (tính cách hay giúp đỡ mọi người,
giọng dịu dàng,nhỏ nhẹ) Nếu cháu muốn bà cháu trở lại thành người thì cháu
phải đi lấy nước suối tiên cho bà cháu uống. Đường lên suối tiên xa lắm cháu
có đi được không?
* Dạy trẻ kể chuyện ở các hoạt đông khác:
* Hoạt động ngoài trời:
Dạy trẻ kể về những hiện tượng, sự kiện trong cuộc sống hàng ngày,
những điều trẻ đã biết, tưởng tượng… Trẻ phải tự chọn nội dung, hình thức
ngôn ngữ sắp xếp chúng theo một chật tự nhất định.
Tôi chủ yếu tập cho trẻ kể theo hai dạng: kể chuyện miêu tả, kể chuyện
theo chủ đề.
* Kể chuyện miêu tả: Tôi dạy trẻ nêu tên, đặc điểm theo thứ tự khảo sát,
tính liên hệ, kết thúc nêu ý nghĩa hoặc hành động.
Ví dụ: Miêu tả thời tiết – Trời âm u, mây đen ,gió thổi mạnh, trời sắp
mưa.
* Kể chuyện theo chủ đề: Tôi chủ yếu rèn cho trẻ truyền đạt lại những sự
kiện sảy ra trong một thời gian nhất định của nhân vật nào đó.
Ví dụ: Truyện: Dê con nhanh trí – Con chó sói giả làm dê mẹ lúc dê mẹ
đi vắng, nó giả giọng dê mẹ, nó nhúng chân vào thùng bột cho chân trắng giống
dê mẹ. Nhưng chó sói vẫn bị dê con phát hiện ra và đuổi sói đi.
Thời gian đầu trẻ kể theo mẫu của cô, sau đó có thể trẻ nhận thức chậm
kể theo mẫu của cô. Để tập cho trẻ kể cô có thể cầm con rối để kể từng câu
một, sau đó đặt câu hỏi để trẻ kể về con rối của trẻ
Khi trẻ kể tôi thường nhắc trẻ: Trẻ phải đứng quay mặt về phía các bạn.
Giọng kể rõ ràng, tốc độ hợp lí, tư thế tự nhiên thoải mái. Khi trẻ kể tác phong
17



không đúng kể sai, phát âm ngọng... cô nên để trẻ kể song rồi mới sửa, nhận xét
nhưng không nên dừng lại quá lâu. Nếu trẻ quên hoặc không nói, cô đặt câu hỏi
gợi ý giúp trẻ. Sau khi trẻ kể, cô nhận xét đánh giá chuyện kể của từng trẻ ngay,
không nên để cuối giờ học.
* Dạy trẻ kể chuyện theo trí nhớ:
- Mục đích: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc, ghi rõ mẫu câu cần luyện.
- Chọn đề tài phù hợp với nhận thức và kinh nghiệm của trẻ. Để trẻ ghi
nhớ một cách có chủ đích chuẩn bị kể được tốt, tôi thường giao nhiệm vụ trước
cho trẻ. Ví dụ: Ngày mai là ngày cuối tuần, các con ở nhà làm gì? Các con chú
ý nhớ những việc đã làm, hoặc được đi chơi thế nào kể lại cho cô và bạn nghe
nhé.
Trước tiên tôi chọn những đề tài chung (hoạt động mà cả lớp cùng được
tham gia) Khi trẻ đã quen với cách kể, cô cho trẻ kể theo kinh nghiệm của trẻ.
* Dạy trẻ kể chuyện sáng tạo;
- Yêu cầu: Truyện kể mạch lạc, logic, các câu nói đúng ngữ pháp, thể
hiện rõ ngôn ngữ đàm thoại hay độc thoại trong khi kể.
Các dạng kể chuyện sáng tạo: kể nốt chuyện, kể theo đề tài và dàn ý cho
trước, kể theo chủ đề tự cho, kể theo mô hình.
- Chuẩn bị: Cô kể một đoạn chuyện rồi yêu cầu trẻ suy nghĩ kết thúc câu
chuyện ( giao nhiệm vụ). Cô cho trẻ xem mô hình trước một ngày, đàm thoại
gợi ý trước đề tài để trẻ suy nghĩ.
- Tổ chức sinh động để phát huy trí tưởng tượng của trẻ, giúp trẻ xây
dựng câu chuyện một cách hoàn chỉnh theo ý của từng cá nhân.
- Một số cháu đã kể được khi sử dụng mô hình, sách tranh, con rối, tranh
ảnh sưu tầm... sau mỗi lần kể tôi chú ý nhận xét kĩ lời kể của trẻ và tao mọi cơ
hội cho trẻ được kể chuyện sáng tạo.
4. Kết quả đạt được
Trong quá trình thực hiện tiết truyện kể,đọc thơ ở lớp mẫu giáo 4-5 tuổi.
100% các cháu rất thích nghe cô kể chuyện, đọc thơ, 90-98% các cháu hăng


18


hái phát biểu xây dựng bài , kể lại được chuyện và tham gia đóng kịch theo nội
dung truyện
Qua đây tôi thấy việc gây hứng thú cho trẻ khi kể chuyện, đọc thơ là rất
cần thiết, vì thế người giáo viên cần làm tốt những việc sau:
- Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn của chính bản thân mình,coi
ngôn ngữ là phương tiện giáo dục chủ đạo.
- Giáo viên cần sưu tầm tranh ảnh có nội dung phù hợp, trao đổi kiến
thức tự học qua sách báo, internet, qua đồng nghiệp.
- Phối hợp với phụ huynh để động viên giáo dục trẻ thực hiện tốt yêu cầu
cần đạt phù hợp lứa tuổi trẻ.
Qua khảo sát cuối năm trẻ lớp tôi đã đạt được kết quả như sau.
+ 95% vốn từ của trẻ phát triển rõ rệt. Trẻ nói rõ ràng, mạch lạc hơn, nói
nhiều câu có nghĩa đầy đủ. Trẻ đã phân biệt được ý nghĩa một số từ.
+ 85% Kinh nghiệm sống của trẻ đã phong phú hẳn lên, trẻ hứng thú
tham gia học, phát biểu, kể chuyện và đóng kịch.
+ 80% Trẻ mới, nhận thức chậm đã mạnh dạn tham gia vào các hoạt
động: đóng kịch, kể chuyện.
+ 100% Trẻ phân biết được sự đúng, sai, thiện , ác, chăm chỉ, lười biếng
và có tình cảm , thái độ phù hợp qua câu truyện mình học .
+ 90%Trẻ phát âm rõ ràng, nói năng mạch lạc,có khả năng giao tiếp có
văn hóa.
+ 100% Phụ huynh ủng hộ cho trẻ mang thêm đồ dùng, đồ chơi, tranh
ảnh sách báo sưu tầm, truyện tranh phù hợp với chủ đề, góp phần phát triển
ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
+ Kết quả thể hiện qua bảng so sánh:
Chưa ứng dụng giải pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ qua hoạt
động làm quen văn học.


19


Thời gian
Tháng 9
Năm 2017

Số trẻ
28

Mức độ
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu kém

Kết quả
Số lượng
3
7
10
8

Tỷ lệ
11%
25%
36%
29%


Sau khi đã ứng dụng giải pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ qua
hoạt động làm quen văn học.
Thời gian
Tháng 2
Năm 2018

Số trẻ
28

Mức độ
Tốt
Khá
Trung bình

Kết quả
Số lượng
10
12
6

Tỷ lệ
36%
43%
21%

=> So sánh đối chứng qua gần một năm thực hiện đề tài, tôi thấy có sự
thay đổi đáng khích lệ: Số trẻ tốt tăng 36%, số trẻ khá tăng 43% so với đầu năm
học, số trẻ trung bình giảm từ 36% xuống còn 21% và đặc biệt là không còn trẻ
yếu kém.
Có được kết quả trên là sự cố gắng , nỗ lực không của chỉ giáo viên và

trẻ mà đặc biệt còn có sự góp sức không nhỏ của các bậc phụ huynh.
5. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
Để sáng kiến được nhân rộng cần có những điều kiện sau:
- Có đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi… phục vụ nhu
cầu học tập và vui chơi của trẻ.
- Giáo viên có trình độ đạt chuẩn trở lên, nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ.

Phần 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:

20


Áp dụng sáng kiến “Một số kinh nghiệm trong lĩnh vực phát tiển ngôn
ngữ cho trẻ 4-5 tuổi” như sau:
- Cô giáo cần phải ân cần nhẹ nhàng đối với trẻ, chịu khó tìm tòi, tranh
ảnh, thơ ca, câu đố, đông dao… mang tính chất phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Luôn tạo cho trẻ một tinh thần thoải mái, lồng ghép các hành vi tốt về
phát triển ngôn ngữ.
- Thường xuyên dạy trẻ, động viên trẻ đọc các bài thơ,câu đố mang tính
chất giáo dục ở mọi lúc mọi nơi.
- Thường xuyên trao đổi với các bậc phụ huynh để phối hợp hướng dẫn
để cùng phối hợp dạy và bồi dưỡng ngôn ngữ cho trẻ.
- Bản thân cô giáo cần nhiều thời gian để nghiên cứu ,tham khảo tài liệu
qua sách báo ,ti vi ….Đầu tư vào cách tổ chức, cách hoạt động sao cho phù hợp
với tiết dạy. Cô giáo làm nhiều đồ dùng đồ chơi, không ngừng rèn luyện năng
lực, học hỏi chị em đồng nghiệp, tham dự các hội thi từ đó phát huy tính tích
cực cho bản thân .
2. Khuyến nghị
Để giáo viên thực hiện tốt hơn nữa việc giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, tôi

xin mạnh dạn đề xuất một số khuyến nghị sau:
- Đối với giáo viên:
+ Cần nghiên cứu tài liệu về cách làm đồ dùng phục vụ cho môn học.
+ Có kế hoạch cụ thể về các nội dung dạy trẻ luyện nói, luyện phát âm
chuẩn phù hợp với điều kiện và đặc điểm trẻ.
- Đối với nhà trường:
+ Tổ chức các buổi thảo luận, chuyên đề về dạy trẻ rèn luyện phát triển
ngôn ngữ
+ Xây dựng các tiết hoạt động mẫu về nội dung rèn luyện phát triển
ngôn ngữ cho trẻ để giáo viên học tập và được bồi dưỡng về chuyên môn
nghiệp vụ.

21


+ Chọn lọc và tạo thành bộ đĩa bài giảng điện tử với nội dung giúp trẻ
rèn luyện phát triển ngôn ngữ để giáo viên ứng dụng khi tổ chức hoạt động cho
trẻ.
- Đối với cấp Phòng, Sở giáo dục:
+ Tạo nhiều cơ hội cho giáo viên được trau dồi năng lực sư phạm qua
các lớp bồi dưỡng chuyên môn về nội dung giáo dục phát triển ngôn ngữ cho
trẻ.
+ Cung cấp các tài liệu có nội dung về giáo dục phát triển ngôn ngữ cho
trẻ mầm non để giáo viên nghiên cứu và học tập.
Trên đây là một số sáng kiến của bản thân tôi nhằm giúp trẻ 4 - 5 tuổi
“phát tiển ngôn ngữ”.
Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân tôi đã cố gắng, song về mặt
nội dung cũng như hình thức trình bày không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi
rất mong nhận được sự góp ý xây dựng của Hội đồng khoa học các cấp để đề
tài của tôi hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

22



×