Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Hoàn thiện phương thức thu tiền điện tại điện lực gia lộc – công ty TNHH MTV điện lực hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.65 KB, 66 trang )

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

ii

LỜI CẢM ƠN

iii

MỤC LỤC

iv

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

vi

PHẦN 1. MỞ ĐẦU

1

1.1.

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

1

1.2.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU



3

1.2.1.

Mục tiêu chung

3

1.2.2.

Mục tiêu cụ thể

3

1.3.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3

1.3.1.

Đối tượng nghiên cứu

3

1.3.2.

Phạm vi nghiên cứu


3

PHẦN 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1.

4

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BÁN HÀNG VÀ THU TIỀN TRONG HOẠT
ĐỘNG CUNG CẤP ĐIỆN

4

2.1.1.

Khái niệm về bán hàng và thu tiền

4

2.1.2.

Các hình thức bán hàng và thu tiền trong doanh nghiệp

5

2.1.3.

Đặc điểm bán hàng thu tiền trong doanh nghiệp cung cấp điện

7


2.2.

CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

2.2.1.

Bài học kinh nghiệm về tổ chức thu tiền điện tại các doanh nghiệp cung

2.2.2.

cấp điện

18

Một số công trình nghiên cứu liên quan

28

PHẦN 3. ĐẶC ĐIỂM ĐƠN VỊ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.

18

30

TỔNG QUAN VỀ ĐIỆN LỰC GIA LỘC- CÔNG TY TNHH MTV
ĐIỆN LỰC HẢI DƯƠNG

30


3.1.1.

Quá trình hình thành và phát triển của Điện lực Gia Lộc

30

3.1.2.

Mục tiêu và ngành nghề kinh doanh chính của Điện lực Gia Lộc – Công

3.1.3.

ty TNHH MTV Điện lực Hải Dương

31

Cơ cấu tổ chức bộ máy của Điện lực Gia Lộc

32


3.1.4.

Tình hình lao động, tài sản và kết quả hoạt động của Điện lực Gia Lộc

36

3.2.


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

41

3.2.1.

Phương pháp thu thập tài liệu

41

3.2.2.

Phương pháp chọn điểm nghiên cứu

41

3.2.3.

Phương pháp điều tra.

41

PHẦN 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1.

43

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC THU TIỀN ĐIỆN TẠI ĐIỆN
LỰC GIA


43

4.1.1.

Đặc điểm địa bàn và khách hàng của Điện lực Gia Lộc

43

4.1.2.

Quy định các phương thức thu tiền điện đang áp dụng tại Điện lực Gia
Lộc

4.2.

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CÔNG TÁC THU TIỀN ĐIỆN TẠI ĐIỆN LỰC
GIA LỘC

4.3.
4.3.1

44
52

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHƯƠNG THỨC THU TIỀN ĐIỆN TẠI
ĐIỆN LỰC GIA LỘC

56

Giải pháp nâng cao năng lực phục vụ


56

PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

60

5.1

KẾT LUẬN

60

5.2

KIẾN NGHỊ

60

TÀI LIỆU THAM KHẢO

61


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CBCNV

Cán bộ công nhân viên

CCDC


Công cụ dụng cụ

CNKT

Công nhân kỹ thuật

CSPK

Công suất phản kháng

CTĐL

Công ty điện lực

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

ĐQLVH ĐZ & TBA Đội quản lý vận hành đường dây và trạm biến áp
EVNNPC

Tổng công ty Điện lực miền Bắc

GCS

Ghi chỉ số

GTGT


Giá trị gia tăng

HĐMBĐ

Hợp đồng mua bán điện

MBĐ

Mua bán điện

NH

Ngân hàng

SCL

Sửa chữa lớn

SCTX

Sửa chữa thường xuyên

SXĐ

Sản xuất điện

SXK

Sản xuất khác


SXKD

Sản xuất kinh doanh

TCKT

Tài chính kế toán

TNHH MTV

Trách nhiệm hữu hạn một thành viên

TSCĐ

Tài sản cố định

TSCĐ

Tài sản cố định

TSLĐ

Tài sản lưu động

UNC

Ủy nhiệm chi

UNT


Ủy nhiệm thu



PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong những năm qua, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao trong khu vực và trên thế giới. Theo nghị quyết số 13- NQ/TW
ngày 16/01/2012, của Bộ Chính trị về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ
nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
năm 2020. Nền kinh tế - xã hội đất nước phát triển bền vững, an ninh năng lượng
nói chung và an ninh năng lượng điện nói riêng phải được đảm bảo đầy đủ, liên tục,
chất lượng ngày càng cao.
Công ty TNHH MTV Điện lực Hải Dương là đơn vị trực thuộc Tổng công ty
Điện lực miền Bắc. Công ty thực hiện quản lý, phân phối bán điện trên địa bàn
Thành phố Hải Dương, Thị xã Chí Linh và 10 huyện trong đó có Điện lực Gia lộc
với diện tích 1.652km2, dân số 1.8 triệu người. Trong những năm qua Công ty Điện
lực Hải Dương nói chung cũng như Điện lực Gia Lộc nói riêng luôn đóng góp tích
cực vào việc phát triển kinh tế hạ tầng, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất
lượng phục vụ kinh doanh bán điện và thu tiền điện. Điện là sản phẩm kinh doanh
không thể tồn kho, tích trữ và cũng không có thành phẩm, phế phẩm và đặc biệt là
Nhà nước quy định giá bán điện và Tổng Công ty Điện lực miền Bắc giao các chỉ
tiêu kinh doanh cũng như hình thức thu tiền điện.
Trước đây ngành điện áp dụng hình thức thu tiền tại nhà dân là chủ đạo nhưng
nhận thấy hình thức thu này có nhiều bất cập, mất nhiều thời gian, có nhà đến nhiều
lần mới gặp và thu được tiền, chi phí cho tốn kém và hiệu quả thu không cao. Việc
thu ngân viên đi thu cầm tiền không ổn dễ trộm cắp, tạo điều kiện cho thu ngân viên
nảy lòng tham biển thủ tiền, bộ phận theo dõi nợ không kiểm soát được thu ngân
viên thu nộp hàng ngày. Kể từ khi thực hiện kế hoạch tiếp nhận lưới điện hạ áp
nông thôn và bán lẻ điện đến tận hộ tiêu thụ khách hàng tăng lên đáng kể, việc thu

tiền càng gặp khó khăn. Đa dạng hóa các hình thức thu tiền điện là một trong những
hoạt động nhằm cải tiến phù hợp với sự phát triển công nghệ, giảm thời gian, chi
phí và lao động, nâng cao hiệu quả công tác chăm sóc khách hàng đã được ngành
Điện chú trọng triển khai. Với mục tiêu tạo thuận lợi cho khách hàng có thêm nhiều
sự lựa chọn cho việc thanh toán tiền điện hàng tháng, Điện lực Gia Lộc - Công ty
TNHH MTV Điện lực Hải Dương đã triển khai hàng loạt các hình thức thanh toán

1


tiền điện như: Thanh toán tại quần giao dịch của Điện lực bằng thẻ thông tin khách
hàng, trích nợ tài khoản tự động, Bank-plus, Internet Banking….
Đối với dịch vụ thanh toán tiền bằng thẻ, mỗi khách hàng sẽ được nhận một
thẻ đã tích hợp sẵn Mã Khách hàng, nên khi tới nộp tiền điện, khách hàng chỉ việc
đưa thẻ cho thu ngân viên, thu ngân viên sẽ quẹt thẻ qua đầu đọc thẻ từ của máy in
nhiệt. Từ chương trình sẽ tự động tìm kiếm thông tin khách hàng tương ứng để thực
hiện chấm nợ và in ra biên nhận thu tiền. Ngoài cách trên, thu ngân viên còn có thể
tìm kiếm khách hàng online theo Mã Khách hàng, Tên Khách hàng, Số điện thoại
khách hàng cung cấp hoặc xem trên thẻ. Giờ đây, khách hàng có thể tiết kiệm thời
gian hơn rất nhiều so với cách thanh toán truyền thống, thu ngân viên cũng không
mất công tìm kiếm biên nhận so với thao tác thủ công của hình thức cũ, từ đó tăng
năng suất lao động. Ngoài ra, đối với một số dịch vụ thanh toán trực tuyến, Điện lực
Gia Lộc – Công ty TNHH MTV Điện lực Hải Dương triển khai thanh toán tiền điện
qua các kênh thanh toán của Ngân hàng. Đây là một trong những hình thức giao
dịch hiện đại nhất, thuận tiện, hiệu quả, có nhiều ưu thế vượt trội hơn so với giao
dịch thanh toán tiền điện truyền thống, đem lại nhiều tiện ích, lựa chọn cho khách
hàng, tránh được rủi ro, tiết kiệm thời gian và nhân lực. Khách hàng không cần phải
đến quầy thu trả tiền trực tiếp mà có thể thanh toán qua thẻ ATM; ứng dụng thanh
toán trên điện thoại di động, tin nhắn SMS hoặc dịch vụ ngân hàng điện tử tùy
thuộc vào sự lựa chọn của khách hàng.

Lợi ích của dịch vụ thanh toán tiền điện trực tuyến đang và sẽ trở thành một
xu hướng tích cực cho khách hàng bởi tính tiện ích, nhanh chóng và an toàn của
dịch vụ. Bản thân các cán bộ nhân viên làm việc trong Điện lực Gia lộc – Công ty
TNHH MTV Điện lực Hải Dương cũng là những người đi đầu trong việc thực hiện
thanh toán không dùng tiền mặt bằng cách chủ động đăng ký sử dụng các dịch vụ
thanh toán tự động qua ngân hàng. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc thay đổi
thói quen của xã hội, hiện đại hóa công tác thu tiền điện, tăng năng suất lao động,
giảm chi phí và nguồn nhân lực thực hiện công tác này.
Là người công tác tại Điện lực Gia Lộc ý thức được tầm quan trọng của việc
đa dạng hóa hình thức thu tiền điện rất quan trọng, tôi chọn nội dung “Hoàn thiện
phương thức thu tiền điện tại Điện lực Gia Lộc – Công ty TNHH MTV Điện lực
Hải Dương” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.

2


1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu thực trạng các phương thức thu và những
bất cập nảy sinh khi thu tiền điện của Điện lực Gia lộc, từ đó đề xuất các giải pháp
hoàn thiện phương thức thu tiền điện tại Điện lực Gia Lộc – Công ty TNHH MTV
Điện lực Hải Dương.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về các phương thức thu tiền tại các
công ty điện lực.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác tổ chức và các phương thức thu
tiền điện tại Điện lực Gia Lộc – Công ty TNHH MTV Điện lực Hải Dương.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện phương thức thu tiền điện tại Điện
lực Gia Lộc, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cho Điện lực Gia Lộc – Công ty
TNHH MTV Điện lực Hải Dương.

1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng phương thức thu tiền điện và
các giải pháp hoàn thiện phương thức thu tiền điện tại công ty điện lực hiện nay.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạn vi về không gian: Đề tài được nghiên cứu tại Điện lực Gia Lộc- Công
ty TNHH MTV Điện lực Hải Dương.
- Phạm vi về thời gian: Đề tài sử dụng số liệu trong 3 năm, từ 2014 đến 2016.
Thời gian thực hiện đề tài từ 2016 đến 2017.
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng các
phương thức thu và những bất cập nảy sinh khi thu tiền điện của Điện lực Gia lộc,
từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện phương thức thu tiền điện tại Điện lực Gia
Lộc – Công ty TNHH MTV Điện lực Hải Dương.

3


PHẦN 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BÁN HÀNG VÀ THU TIỀN TRONG HOẠT
ĐỘNG CUNG CẤP ĐIỆN
2.1.1. Khái niệm về bán hàng và thu tiền
Bán hàng và thu tiền là một trong các khâu chủ yếu trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Trong quá trình tái sản xuất, hoạt động tiêu thụ nhằm thực
hiện giá trị của sản phẩm, hàng hóa, hay dịch vụ. Sản phẩm, hàng hóa hay dịch vụ
được cung cấp cho khách hàng và đơn vị sẽ thu được tiền bán hàng. Tiêu thụ là quá
trình thực hiện giá trị của “Hàng” (nói chung), thông qua việc trao đổi: “Hàng”
được chuyển quyền sở hữu từ bên bán sang bên mua và đổi lại, bên bán nhận được
tiền bán hàng từ bên mua thanh toán. “Hàng” có thể là những tài sản cụ thể (thành
phẩm, vật tư, hàng hóa …) hoặc dịch vụ (sửa chữa, xây lắp, …) bên bán đem đi trao
đổi. Bên mua có thể thanh toán tiền mua hàng ngay hay chấp nhận thanh toán sau

(thanh toán bằng tiền mặt hay thanh toán qua ngân hàng hoặc theo một thể thức
khác được thỏa thuận). Bán hàng và thu tiền có thể được thực hiện theo các phương
thức tiêu thụ và thể thức thanh toán khác nhau (bán buôn, bán lẻ, bán qua đại lý,
thanh toán ngay, trả trậm, trỏ góp,…)
Bản chất bán hàng và thu tiền là quá trình chuyển đổi quyền sở hữu của hàng
hóa qua quá trình trao đổi hàng – tiền. Với ý nghĩa như vậy, quá trình này bắt đầu từ
yêu cầu của khách hàng và kết thúc bằng việc chuyển đổi hàng hóa thành tiền.
Trong tường hợp này, hàng hóa và tiền tệ được xác định theo bản chất kinh tế của
chúng. Hàng hóa là những tài sản hay dịch vụ chứa đựng giá trị và có thể bán được,
tiền tệ là phương tiện thanh toán nhờ đó mọi quan hệ giao dịch được giải quyết tức
thời. Tuy nhiên ranh giới của bán hàng và thu tiền được thể chế hóa trong từng thời
kỳ và đối tượng cụ thể khác nhau.
Theo chế độ kế toán hiện hành của Việt Nam, quá trình tiêu thụ được thực hiện
khi hàng hóa, dịch vụ đã được chuyển giao cho người mua và người mua trả tiền hoặc
chấp nhận thanh toán. Về bản chất, bán hàng – thu tiền là quá trình thực hiện giá trị và
giá trị sử dụng của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đồng thời tạo vốn để tái sản xuất mở
rộng. Thực hiện tốt quá trình này, doanh nghiệp mới có thể thu hồi vốn và có lãi – một
nguồn thu quan trọng để tích lũy vào ngân sách và các quỹ của doanh nghiệp nhằm mở
rộng quy mô sản xuất và nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động.

4


2.1.2. Các hình thức bán hàng và thu tiền trong doanh nghiệp
Bán hàng trong các doanh nghiệp được thực hiện qua nhiều hình thức khác
nhau, nhưng chủ yếu được thể hiện qua hai phương thức: bán buôn và bán lẻ.
Bán buôn là hình thức bán hàng cho các đơn vị thương mại, các doanh
nghiệp sản xuất.... Đặc điểm của bán buôn là hàng hoá vẫn nằm trong lĩnh vực
lưu thông, chưa đi vào lĩnh vực tiêu dùng, do vậy giá trị và giá trị sử dụng của hàng
hoá chưa được thực hiện. Hàng bán buôn thường được bán theo lô hàng hoặc bán

với số lượng lớn. Giá bán biến động tuỳ thuộc vào số lượng hàng bán và phương
thức thanh toán. Trong bán buôn thường bao gồm hai phương thức:
- Phương thức bán buôn hàng hoá qua kho: Bán buôn hàng hoá qua kho là
phương thức bán buôn hàng hóa mà trong đó, hàng bán phải được xuất từ kho bảo
quản của doanh nghiệp. Bán buôn hàng hoá qua kho có thể thực hiện dưới hai hình
thức:
+ Bán buôn hàng hoá qua kho theo hình thức giao hàng trực tiếp: Theo hình
thức này, bên mua cử đại diện đến kho của doanh nghiệp thương mại để nhận hàng.
Doanh nghiệp thương mại xuất kho hàng hoá giao trực tiếp cho đại diện bên mua.
Sau khi đại diện bên mua nhận đủ hàng, thanh toán tiền hoặc chấp nhận nợ, hàng
hoá được xác định là tiêu thụ.
+ Bán buôn hàng hoá qua kho theo hình thức chuyển hàng: Theo hình thức
này, căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã ký kết hoặc theo đơn đặt hàng, doanh nghiệp
thương mại xuất kho hàng hoá, dùng phương tiện vận tải của mình hoặc đi thuê
ngoài, chuyển hàng đến kho của bên mua hoặc một địa điểm nào đó bên mua quy
định trong hợp đồng. Hàng hoá chuyển bán vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp thương mại. Chỉ khi nào được bên mua kiểm nhận, thanh toán hoặc chấp
nhận thanh toán thì số hàng chuyển giao mới được coi là tiêu thụ, người bán mất
quyền sở hữu về số hàng đã giao. Chi phí vận chuyển do doanh nghiệp thương mại
chịu hay bên mua chịu là do sự thoả thuận từ trước giưa hai bên. Nếu doanh nghiệp
thương mại chịu chi phí vận chuyển, sẽ được ghi vào chi phí bán hàng. Nếu bên
mua chịu chi phí vận chuyển, sẽ phải thu tiền của bên mua.
- Phương thức bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng: Theo phương thức này,
doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng mua, không đưa về nhập kho mà
chuyển bán thẳng cho bên mua. Phương thức này có thể thực hiện theo hai hình thức:
+ Bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng theo hình thức giao hàng trực tiếp

5



(còn gọi là hình thức giao tay ba): Theo hình thức này, doanh nghiệp thương mại
sau khi mua hàng, giao trực tiếp cho đại diện của bên mua tại kho người bán. Sau
khi đại diện bên mua ký nhận đủ hàng, bên mua đã thanh toán tiền hàng hoặc chấp
nhận nợ, hàng hoá được xác nhận là tiêu thụ.
+ Bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng theo hình thức chuyển hàng: Theo
hình thức này, doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng mua, dùng
phương tiện vận tải của mình hoặc thuê ngoài vận chuyển hàng đến giao cho bên
mua ở địa điểm đã được thoả thuận. Hàng hoá chuyển bán trong trường hợp này vẫn
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp thương mại. Khi nhận được tiền của bên mua
thanh toán hoặc giấy báo của bên mua đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán
thì hàng hoá chuyển đi mới được xác định là tiêu thụ.
Bán lẻ là phương thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng hoặc các
tổ chức, các đơn vị kinh tế mua về mang tính chất tiêu dùng nội bộ. Bán hàng theo
phương thức này có đặc điểm là hàng hoá đã ra khỏi lĩnh vực lưu thông và đi vào
lĩnh vực tiêu dùng, giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá đã được thực hiện. Bán lẻ
thường bán đơn chiếc hoặc bán với số lượng nhỏ, giá bán thường ổn định. Bán lẻ có
thể thực hiện dưới các hình thức sau:
- Hình thức bán lẻ thu tiền tập trung: Bán lẻ thu tiền tập trung là hình thức
bán hàng mà trong đó tách rời nghiệp vụ thu tiền của người mua và nghiệp vụ giao
hàng cho người mua. Mỗi quầy hàng có một nhân viên thu tiền làm nhiệm vụ thu
tiền của khách, viết hoá đơn hoặc tích kê cho khách để khách đến nhận hàng ở quầy
hàng do nhân viên bán hàng giao. Hết ca (hoặc hết ngày) bán hàng, nhân viên bán
hàng căn cứ vào hoá đơn và tích kê giao hàng cho khách hoặc kiểm kê hàng hoá tồn
quầy để xác định số lượng hàng đã bán trong ngày, trong ca và lập báo cáo bán
hàng. Nhân viên thu tiền làm giấy nộp tiền và nộp tiền bán hàng cho thủ quỹ.
- Hình thức bán lẻ thu tiền trực tiếp: Theo hình thức này, nhân viên bán hàng
trực tiếp thu tiền của khách và giao hàng cho khách. Hết ca, hết ngày bán hàng,
nhân viên bán hàng làm giấy nộp tiền và nộp tiền cho thủ quỹ. Đồng thời, kiểm kê
hàng hoá tồn quầy để xác định số lượng hàng đã bán trong ca, trong ngày và lập báo
cáo bán hàng.

- Hình thức bán lẻ tự phục vụ (tự chọn): Theo hình thức này, khách hàng tự
chọn lấy hàng hoá, mang đến bán tình tiền để tính tiền và thanh toán tiền hàng. Nhân
viên thu tiền kiểm hàng, tính tiền, lập hoá đơn bán hàng và thu tiền của khách hàng.

6


Nhân viên bán hàng có trách nhiệm hướng dẫn khách hàng và bảo quản hàng hoá ở
quầy (kệ) do mình phụ trách. Hình thức này được áp dụng phổ biến ở các siêu thị.
- Hình thức bán trả góp: Theo hình thức này, người mua được trả tiền mua
hàng thành nhiều lần. Doanh nghiệp thương mại, ngoài số tiền thu theo giá bán
thông thường còn thu thêm ở người mua một khoản lãi do trả chậm. Đối với hình
thức này, về thực chất, người bán chỉ mất quyền sở hữu khi người mua thanh toán
hết tiền hàng. Tuy nhiên, về mặt hạch toán, khi giao hàng cho người mua, hàng hoá
bán trả góp được coi là tiêu thụ, bên bán ghi nhận doanh thu.
- Hình thức bán hàng tự động: Bán hàng tự động là hình thức bán lẻ hàng
hoá mà trong đó, các doanh nghiệp thương mại sử dụng các máy bán hàng tự động
chuyên dùng cho một hoặc một vài loại hàng hoá nào đó đặt ở các nơi công cộng.
Khách hàng sau khi bỏ tiền vào máy, máy sẽ tự động đẩy hàng ra cho người mua.
- Hình thức gửi đại lý bán hay ký gửi hàng hoá: Gửi đại lý bán hay ký gửi hàng
hoá là hình thức bán hàng mà trong đó doanh nghiệp thương mại giao hàng cho cơ sở
đại lý, ký gửi để các cơ sở này trực tiếp bán hàng. Bên nhận làm đại lý, ký gửi sẽ trực
tiếp bán hàng, thanh toán tiền hàng và được hưởng hoa hồng đại lý. Số hàng chuyển
giao cho các cơ sở đại lý, ký gửi vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp thương mại
cho đến khi doanh nghiệp thương mại được cơ sở đại lý, ký gửi thanh toán tiền hay
chấp nhận thanh toán hoặc thông báo về số hàng đã bán được, doanh nghiệp mới mất
quyền sở hữu về số hàng này. (nguồn: quantri.vn/dict/details/4219 - cac- Phuong-thucban-hang-trong-doanh-nghiep-thuong-mai. Truy cập ngày 22/9/2016).
Như vậy, tùy theo cách tổ chức hay đặc thù cả sản phẩm, hàng hóa mà có các
hình thức bán hàng gắn với các hình thức thu tiền là khác nhau. Tuy nhiên cần phải
thấy rằng; trong một số trường hợp các hình thức bán hàng và thu tiền cũng có đặc thù

riêng. Ví dụ, bán hàng thu tiền trong kinh doanh điện, hoạt động lĩnh vực viễn thông,
truyền hình … Vấn đề là, cho dù thực hiện hình thức bán hàng khác nhau nhưng thực
hiện phương thức thu tiền hợp lý sẽ hạn chế được các rủi ro và nâng cao hệu quả hoạt
động kinh doanh.
2.1.3. Đặc điểm bán hàng thu tiền trong doanh nghiệp cung cấp điện
2.1.3.1. Đặc điểm bán hàng trong doanh nghiệp cung cấp điện
a. Đặc điểm điện năng
Điện năng là một sản phẩm công nghiệp, nó là kết quả trực tiếp hữu ích của
hoạt động sản xuất công nghiệp được biểu hiện dưới dạng vật chất là một năng

7


lượng chính vì vậy điện năng có một số đặc trưng sau:
Sản phẩm điện không được chia theo mức độ hoàn thành, không có sản phẩm
dở dang mà chỉ được biểu hiện dưới một dạng duy nhất đó là thành phẩm. Sản
phẩm điện chỉ coi là hoàn thành khi đã trải qua đủ các quy trình sản xuất.
Quá trình sản xuất và tiêu thu điện năng diễn ra đồng thời, nó đòi hỏi có sự
cân bằng giữa sản xuất và tiêu dùng đến tỷ lệ tổn thất là nhỏ nhất. Do đó, điện
không được lưu trữ ở bất kỳ khâu nào, không thể cất vào kho đệm như các hàng hóa
thông thường khác, không thể sử dụng các biện pháp đầu cơ tích trữ để thay đổi giá
cả trên thị trường mà phải căn cứ và chi phí sản xuất, nhu cầu sử dụng điện để điều
chỉnh giá bán điện cho phù hợp, đảm bảo hết công suất và cân bằng thu, phát.
Tổn thất kỹ thuật là do các yếu tố kỹ thuật gây ra như chất lượng dây dẫn,
chất lượng máy biến áp, cường độ dòng điện, cấp độ điện áp.
Tổn thất thương mại là do các nguyên nhân quản lý gây ra như việc quản lý
không chặt chẽ dẫn tới tình trạng ăn cắp điện.
Điện năng là một dạng hàng hóa đặc biệt nên quy trình sản xuất kinh doanh
cũng có những đặc điểm riêng biệt. Tính chất kinh doanh riêng biệt của ngành điện
thể hiện trong dây truyền sản xuất: phát, truyền dẫn và sử dụng xảy ra đồng thời liên

tục. Với một lưới điện rộng khắp, ngành điện thực hiện việc bán điện trực tiếp tới
từng khách hàng sử dụng điện năng. Hàng ngày, hàng giờ ngành điện phải đảm bảo
cung ứng điện năng cho khách hàng và các doanh nghiệp,.. vừa theo dõi quản lý,
thu tiền từ sản phẩm của mình bán ra. Để phục vụ cho việc theo dõi và hạch toán,
ngành điện tiến hành lắp đặt hệ thống công tơ đo đếm theo các ranh giới được phân
cấp từ nhà máy tới các điện lực đặt tại các quận, huyện và sau đó đến từng khách
hàng sử dụng điện. Cùng với quá trình trên, mỗi cấp quản lý còn phải tự hạch toán
đầu vào và đầu ra giữa điện nhận đầu nguồn và điện năng phân phối hay điện năng
thương phẩm. Hiện nay, chu kỳ kinh doanh điện năng diễn ra đều đặn hàng tháng
theo thuộc tính khách hàng tiêu dùng trước, trả tiền sau.
Tính chất liên tục của hoạt động kinh doanh bán điện còn thể hiện ở chỗ các
chu kỳ kinh doanh bán điện phân biệt với nhau một cách tương đối vì việc cung ứng
và sử dụng điện năng không thể gián đoạn được, trong khi việc ghi chỉ số của chu
kỳ sau đã bắt đầu thì việc thu tiền điện của chu kỳ trước vẫn đang tiếp tục. Thêm
vào đó chu kỳ của khu vực này có thể tính từ đầu tháng này đến đầu tháng sau thì ở
khu vực khác lại có thể tính bắt đầu từ giữa hoặc cuối tháng và tương đương kết

8


thúc vào giữa hoặc cuối tháng sau. Từ đó ta thấy chu kỳ kinh doanh điện năng có
tính liên tục và tính phân đoạn tương đối, làm cho quá trình kinh doanh của ngành
có những điểm khác biệt với các ngành khác.
Bên cạnh đó là việc khách hàng sử dụng trước trả tiền sau cũng là đặc tính
riêng của hoạt động kinh doanh bán điện. Ở đây cần phân biệt việc kinh doanh bán
điện của ngành điện với việc bán hàng trả chậm với một số ngành kinh doanh khác,
bởi dù có bán hàng trước trả tiền sau thì doanh nghiệp ở một số ngành kinh doanh
nào đó vẫn xác định được doanh thu của mình từ khi xuất bán. Còn ở ngành điện thì
phải sau khi khách hàng tiêu thụ một lượng điện năng nhất định thể hiện trên công
tơ đo đếm điện năng thì ngành điện mới xác định được doanh thu của mình và từ đó

mới tiến hành công tác thu tiền bán điện.
Khách hàng của ngành điện có nhiều loại, phổ biến khá rộng trên địa bàn. Cụ
thể khách hàng có thể là một tổ chức, một doanh nghiệp hay một cá nhân. Việc phân
bổ khách hàng cũng rất khác nhau, có thể tập trung hay phân tán … nên việc tổ
chức thu tiền điện cũng rất đa dạng và phức tạp.
Tóm lại, điện năng là một loại hàng hóa đặc thù, là động lực thúc đẩy phát
triển sản xuất và đời sống xã hội, nhất là trong điều kiện hiện nay Nhà nước ta đang
đẩy mạnh sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điện không thể tích trữ được
trong kho như các loại hàng hóa khác, đặc thù này dẫn đến những đặc điểm riêng
của hoạt động sản xuất kinh doanh điện. Sản xuất và tiêu thụ điện năng sảy ra đồng
thời, có sự ràng buộc chặt chẽ với nhau. Quá trình giao dịch mua bán điện trên thị
trường điện lực rất phức tạp, nó không chỉ có mối quan hệ với lĩnh vực thương mại,
tài chính mà còn có mối quan hệ trực tiếp với quá trình sản xuất, tiêu thụ, công
nghệ, thông tin liên lạc, xã hội và an ninh quốc phòng.
b. Đặc điểm kinh doanh điện năng
Do tính đặc thù của điện năng nên việc sản xuất và kinh doanh điện năng
phải tuân thủ quy trình, quy phạm kỹ thuật và quy trình kinh doanh bán điện rất chặt
chẽ; phải luôn đảm bảo một phương thức vận hành hợp lý, liên tục, đúng chất
lượng, số lượng, mạng lại hiệu quả kinh tế cao cho ngành điện và khách hàng tiêu
thụ điện.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như nước ta,
doanh nghiệp kinh doanh điện năng có đặc thù:
Thứ nhất: do doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng đặc biệt là điện năng nên

9


tính chất phục vụ được coi là điểm quan trọng, vừa kinh doanh điện năng vừa phục
vụ lợi ích công cộng.
Thứ hai: ngành điện thuộc sở hữu nhà nước (gồm phát điện, truyền tải, phân

phối). Chuyển sang kinh doanh theo mô hình tập đoàn, hoạt động theo cơ chế thị
trường, ngành điện chuyển dần từ hình thức sở hữu đơn nhất là nhà nước thành sở
hữu của nhiều thành phần kinh tế. Tuy nhiên đối với đa số các Điện lực tỉnh, Nhà
nước vẫn là chủ sở hữu 100% vốn, đay là doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong
lĩnh vực kinh doanh điện năng.
Thứ ba: là doanh nghiệp kinh doanh nên việc quản lý kinh doanh điện năng
phải đảm bảo đạt hiệu quả kinh tế cao, vừa không ngừng nâng cao chất lượng, số
lượng sản phẩm điện, vừa giảm thiểu lượng điện năng tổn thất nhằm đảm bảo sản
lượng điện thương phẩm ngày càng cao.
Thứ tư: ở nước ta hiện nay, giá bán điện năng do Chính phủ quy định tùy
theo mục đích sử dụng, cấp điện áp, thời điểm sử dụng điện năng nên việc vận dụng
các quy luật kinh tế thị trường trong kinh doanh điện năng phải kết hợp hài hòa các
lợi ích: chính trị, xã hội; toàn nền kinh tế quốc dân và doanh nghiệp.
Thứ năm: việc tổ chức kinh doanh điện năng phải có hiệu quả trên một địa
bàn rộng khắp cả nước và phục vụ tới từng hộ dân cư, từ miền xuôi đến miền
ngược, từ thành thị đến nông thôn.
Thứ sáu: doanh nghiệp phải phục vụ số lượng lớn khách hàng với yêu cầu và
nhu cầu đa dạng.
c. Đặc điểm về công nghệ sản xuất
Quá trình sản xuất kinh doanh điện năng thực hiện hệ thống phát điện –
truyền tải – phân phối. Trên hệ thống đó, phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình,
quy phạm kỹ thuật, an toàn điện. Sự vận hành toàn hệ thống đó diễn ra tức thời,
rộng khắp trên các đường dây, trạm biếp áp, và các thiết bị điện, nếu chỉ một loại
thiết bị nào đó trên các đường dây, trạm biến áp bị sự cố hoặc có sai sót sẽ gây ra sự
cố mất điện từ phạm vi hẹp (khu vực, tỉnh, huyên, xã) cho đến phạm vi miền và cả
nước, làm thiệt hại lớn về kinh tế - xã hội. Để nâng cao hiệu quả kinh tế và hiệu quả
xã hội trong kinh doanh điện năng phải phối hợp nhịp nhàng cả hệ thống, bảo đảm
cho việc sản xuất, truyền tải, phân phối và tiêu dùng điện như một dòng chảy liên
tục, có hiệu quả.
d. Đặc điểm về tổ chức vận hành và bảo dưỡng


10


Trong vận hành hệ thống, yêu cầu đặt ra là phải bảo đảm cung ứng điện cho
các nhu cầu kinh tế - xã hội an toàn, liên tục với chất lượng điện năng cao vì vậy
hầu hết các thiết bị được vận hành liên tục 24/24 giờ tất cả các ngày trong năm,
nhiều thết bị thường xuyên phải vận hành trong điều kiện quá tải do đó cần định kỳ
bảo dưỡng, đại tu các thiết bị điện sau một thời gia sử dụng. Không chỉ có vậy, công
tác cải tạo, đầu tư nâng cấp các tuyến đường dây, các trạm biến áp truyền tải … đáp
ứng nhu cầu phụ tải cũng được đặt ra một cách thường xuyên. Đây là các công việc
có tính chất công nghiệp và định kỳ, vì vậy mỗi khi tiến hành đại tu, sửa chữa các
thiết bị điện sẽ có một số thiết bị điện được tách ra khỏi vận hành làm ảnh hưởng
đến việc cung cấp điện năng, làm giảm sản lượng điện thương phẩm. Do đặc thù
của ngành, khi thiết bị trên lưới cần phải đại tu thường phải tranh thủ lúc thấp điểm
mới tách được, thời gian tách thiết bị để đại tu rất ngắn, đại tu trong điều kiện các
thiết bị xung quanh vẫn còn mang điện … Do đó, để nâng cao chất lượng cần phải
tính toán thời điểm hợp lý để tiến hành đại tu, sửa chữa các thiết bị điện và có
phương án cấp điện thay thế từ các đường dây và trạm biến áp khác. Mặt khác phải
xử lý nhanh để trả lưới về vận hành đúng yêu cầu.
e. Đặc điểm quan hệ cung cầu điện năng
Thị trường hàng hóa ở Việt Nam hiện nay, thế mạnh độc quyền bán chi phối
các quan hệ cung cầu trên thị trường, và do đó chi phối hành vi ứng xử trong quản
lý và điều hành của ngành điện. Mà quy luật chung của độc quyền bán là chi phí có
xu hướng tăng, để nâng cao hiệu quả kinh doanh điện năng cần thực hiện triệt để
tiết kiệm nhằm tối ưu hóa chi phí và xây dựng văn hóa doanh nghiệp.
Mặt khác, quan hệ cung cầu về điện năng còn biểu hiện thông qua sự mất cân
đối lớn giữa giờ cao điểm và thấp điểm trong ngày, trong đó có các nhu cầu sinh
hoạt thiết yếu của nhân dân. Điều này làm cho nhu cầu tiêu thụ điện vào giờ cao
điểm (từ 18h – 22h hàng ngày) tăng vọt so với các thời gian khác trong ngày. Ngày

điện phải bố trí nhân lực hợp lý cho lực lượng ứng trực sản xuất, cung ứng điện vào
giờ cao điểm. Thực tế cho thấy, vào lúc hệ thống quá tải, đòi hỏi sự tập trung cao độ
của người lao động, tránh mọi sơ xuất, đồng thời triển khai và giải quyết nhanh có
hiệu quả các sự cố xảy ra trên toàn hệ thống.
2.1.3.2. Đặc điểm và các hình thức thu tiền trong doanh nghiệp cung cấp điện
a. Đặc điểm chung về hoạt động SXKD của Điện lực
Điện lực là đại diện của Công ty TNHH MTV Điện lực Hải Dương và của
Ngành điện trên địa bàn thành phố, thị xã, huyện và là khâu cuối cùng trong chuỗi

11


các hoạt động sản xuất – truyền tải – phân phối – kinh doanh điện. Điện lực là đơn
vị trực tiếp thực hiện nhiệm vụ SXKD điện, được phân công để thực hiện trách
nhiệm của bên cung ứng điện, có nhiệm vụ quản lý vận hành lưới điện phân phối,
quản lý điện năng được giao; thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh bán điện cho các
đối tượng khách hàng sử dụng điện, thu nộp tiền điện, … trong địa bàn được phân
giao quản lý theo các quy định hiện hành; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên
cung ứng điện theo đúng hợp đồng kinh tế và pháp luật Nhà nước; tham mưu giúp
cho Công ty và chính quyền địa phương trong công tác quy hoạch, phát triển lưới
điện trên địa bàn quản lý.
Điện lực là đầu mối tiếp xúc với khách hang, giúp cho Công ty thực hiện sứ
mệnh “Đáp ứng đầy đủ nhu cầu về điện của khách hang vớ chất lượng dịch vụ ngày
càng tốt hơn”. Điện lực có vai trò đặc biệt quan trọng, thực hiện trọng trách lớn lao
đại diện cho những giá trị văn hóa của Công ty, của EVNNPC khi tiếp xúc với các
đối tượng khách hang. Mọi hoạt động của Điện lực đều có ảnh hưởng rất quan trọng
đến kết qả hoạt động sản xuất kinh doanh, uy tín của Công ty, EVNNPC cũng như
của toàn Ngành điện.
Điện lực được thành lập, tổ chức và hoạt động theo những quy chế, quy định
của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tổng công ty Điện lực miền Bắc và những quy

định cụ thể của Công ty. Hoạt động của Điện lực được thực hiện theo sự ủy quyền
của Giám đốc Công ty và phân cấp, phân quyền của Công ty. Các điều kiện đảm
bảo mọi hoạt động của Điện lực do Công ty trực tiếp đảm nhiêm.
Điện lực chịu sự kiểm tra, giám sát của Chính quyền địa phương theo pháp
luật đồng thời phải tranh thủ sự hỗ trợ của địa phương trong công tác bảo vệ an toàn
sản xuất kinh doanh, bảo vệ tài sản Nhà nước cũng như việc phát triển mở rộng lưới
điện tại địa phương.
Điện lực các đợn vị trực tiếp sản xuất gồm Tổ trực vận hành, các tổ, Đội
quản lý tổng hợp. Trong mỗi đội quản lý tỏng hợp được chia thành các Tổ, nhóm
công tác theo hình thức chuyên môn hóa theo khối lượng, khu vực quản lý. Tùy
theo quy mô và khối lượng tài sản, khách hàng do điện lực quản lý.
Điện lực thực hiện nhiệm vụ kinh doanh điện năng; chăm sóc và phát triển
khách hàng; cung cấp các dịch vụ Điện trên địa bàn quản lý, với các nội dung chính
sau:
+ Kinh doanh bán điện trên địa bàn được giao quản lý theo quy định của

12


pháp luật và các quy chế, quy định quản lý nội bộ của EVN, EVNNPC, Công ty;
+ Quản lý, vận hành, sửa chữa, thí nghiệm, hệ thống lưới điện phân phối tại
địa bàn được giao theo quy định của pháp luật và các quy chế quản lý nội bộ của
EVN, EVNNPC, Công ty;
+ Sửa chữa, cải tạo, phát triển lưới điện, phát triển khách hàng theo phân
công, phân cấp của EVNNPC, Công ty;
+ Được ủy quyền ký Hợp đồng thuê DVBLĐN với Bên nhận làm dịch vụ;
+ Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn khách hàng về tiết kiệm điện, an toàn sử
dụng điện, an toàn hành lang lưới điện và sử dụng điện đúng pháp luật, đúng hợp
đồng đã ký kết;
+ Nắm bắt và dự báo nhu cầu sử dụng điện của khách hàng trên địa bàn phục

vụ quy hoạch, phát triển lưới điện và đảm bảo cấp điện;
+ Giải quyết kịp thời thắc mắc, khiếu nại của khách hàng sử dụng điện theo
đúng quy định.
b. Các hình thức thu tiền trong doanh nghiệp cung cấp điện
+ Thanh toán tại quầy thu của ECPAY:
Khách hàng được mở thẻ nhận diện Ecard miễn phí. Khách hàng mang theo
thẻ đến điểm giao dịch ECPAY trên khu vực và yêu cầu thanh toán tiền điện bằng
hai hình thức: tiền mặt hoặc trừ tiền từ tài khoản trong thẻ Ecard của khách hàng.
+ Thanh toán tại quầy thu của ngân hàng:
Khách hàng có hoặc không có tài khoản thanh toán tại ngân hàng (có kết nối
hợp tác thu tiền điện với PCHD) đều sử dụng được hình thức thanh toán này. Khách
hàng đến điểm giao dịch gần nhất của ngân hàng cung cấp cho ngân hàng mã khách
hàng (MKH) tại các Điện lực trược thuộc Công ty TNHH MTV Điện lực Hải
Dương và yêu cầu thanh toán tiền điện bằng 2 hình thức: tiền mặt hoặc ủy nhiệm
chi từ tài khoản của khách hàng.
+ Thanh toán từ UNC tự động (Autodebit): Là hình thức khách hàng đồng ý
cho ngân hàng tự động trích tiền từ tài khoản khách hàng để thanh toán tiền điện.
Trường hợp 1: Khách hàng đã có tài khoản thanh toán tại Ngân hàng (có kết
nối hợp tác thu tiền điện với PCHD) khách hàng đăng ký với Ngân hàng tự động
trích nợ tài khoản của mình để thanh toán cho các hóa đơn tiền điện phát sinh (mẫu
giấy ủy quyền do ngân hàng cung cấp).

13


Trường hợp 2: Khách hàng chưa có tài khoản ngân hàng, đề nghị đăng ký
ngay dịch vụ ngay khi mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng (có kết nối hợp tác thu
tiền điện với PCHD) và ủy quyền cho Ngân hàng tự động trích nợ tài khoản của
mình để thanh toán cho các hóa đơn tiền điện phát sinh (mẫu giấy ủy quyền do ngân
hàng cung cấp).

+ Thanh toán qua ATM: Là hình thức khách hàng thanh toán tiền điện tại cây
ATM của Ngân hàng có liên kết với PCHD.
Bước 1: khách hàng đưa thẻ vào máy ATM và nhập số PIN.
Bước 2: Khách hàng chọn “dịch vụ giá trị gia tăng”.
Bước 3: Khách hàng lựa chọn nhóm dịch vụ : “Thanh toán tiền điện”.
Bước 4: Khách hàng lựa chọn: EVN Miền Bắc.
Bước 5: Khách hàng nhập mã khách hàng (MKH), nhập ký tự và số bằng các
menu ở hai bên màn hình.
Bước 6: Cây ATM thông báo thông tin hóa đơn khách hàng phải thanh toán.
Ấn “ENTER” để xác nhận việc thanh toán hoặc “CANCEL” để hủy lệnh thanh
toán. Quá trình thanh toán hoàn tất.
+ Thanh toán qua internet banking: là hình thức khách hàng đăng ký sử dụng
dịch vụ thanh toán hóa đơn tiền điện với ngân hàng qua dịch vụ internet. Với máy
tính kết nối internet, khách hàng có thể truy cập vào trang Websiter của ngân hàng
hoặc đăng nhập mục internet banking mọi lúc mọi nơi.
Bước 1: Đăng ký sử dụng dịch vụ thanh toán hóa đơn qua dịch vụ internet.
Bước 2 truy cập vào Wed của ngân hàng hoặc đăng nhập mục internet
banking.
Bước 3: Vào mục thanh toán Thanh toán hóa đơn Chọn nhà cung cấp EVN
miền Bắc Nhập mã khách hàng Xác nhận.
Bước 4: màn hình sẽ hiển thị thông tin chi tiết về khách hàng và số tiền điện
cần thanh toán.
+ Thanh toán qua Mobile Banking: là hình thức khách hàng đăng ký sử sụng
dịch vụ thanh toán hóa đơn nằm trong gói dịch vụ Mobile Banking và thao tác trên
điện thoại di động (loại máy điện thoại thông minh, có phần mềm tương thích với
dịch vụ).

14



Bước 1: Đăng ký sử dụng dịch vụ Mobile Banking.
Bước 2: Tải phần mềm về điện thoại.
Bước 3: Thực hiện thanh toán theo hướng dẫn.
2.1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác thu tiền điện tại các công ty điện lực.
a. Yếu tố khách quan
Đây là những nhân tố bên ngoài tác động đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp không thể kiểm soát được các yếu tố này mà phải tìm
cách hạn chế những tác động tiêu cực và phát huy những tác động tích cực của nó
đến hoạt động SXKD của đơn vị. Thông thường các yếu tố đó bao gồm:
* Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế bao gồm các yếu tố như: Lãi suất ngân
hàng, lạm phát, dân số, cán cân thanh toán, chính sách tiền tệ, tỷ lệ thất nghiệp, …
Vì các yêu tố này tương đối rộng nên doanh nghiệp cần dự báo và phân tích để nhận
biết các tác động cụ thể nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến doanh nghiệp,
nhất là đối với doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Việc đánh giá chính xác các yếu
tố trên có ý nghĩa to lớn đối với doanh nghiệp trong việc lập dự án cũng như tiến
hành SXKD hiện tại.
* Môi trường pháp lý: Đây là nhân tố tác động ở tầm vĩ mô có ảnh hưởng
rất lớn đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp thể hiện ở các khía cạnh chủ yếu
sau đây:
Hệ thống các luật, pháp lệnh, nghị định, … có tác dụng điều chỉnh hành vi
kinh doanh, quan hệ trao đổi, thương mại của doanh nghiệp.
Các hình thức bảo vệ người tiêu dùng.
Hệ thống các công cụ chính sách của Nhà nước định hướng hoạt động SXKD
của doanh nghiệp.
Cơ chế điều hành của Chính phủ có tác động đến hoạt động SXKD của doanh
nghiệp.
Môi trường công nghệ: Xu hướng phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ
của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế theo hướng nâng cao trình độ cơ giới
hoá, tự động hoá đòi hỏi nhu cầu sử dụng điện năng ngày càng nhiều; Việc cung cấp
điện năng cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế đòi hỏi không chỉ đảm bảo về sản

lượng điện cung cấp mà còn phải bảo đảm cả chất lượng, tính ổn định, liên tục trong
quá trình cung cấp, bởi vì trong rất nhiều ngành sản xuất chỉ cần lượng điện cung

15


cấp không đúng chất lượng, không đều đặn, liên tục sẽ gây lãng phí về lao động
sống và lao động vật hoá rất lớn của các doanh nghiệp và xã hội - cũng thông qua
sự đòi hỏi này các doanh nghiệp kinh doanh điện có khả năng nâng cao các chỉ tiêu:
điện thương phẩm, doanh thu, lợi nhuận và các chỉ tiêu chính trị, xã hội khác. Bản
thân các doanh nghiệp sản xuất, truyền tải và kinh doanh điện trong ngành điện đã
mua sắm hoặc tự sản xuất nhiều sản phẩm công nghệ mới như : dây dẫn sử dụng vật
liệu có tính dẫn điện cao, các thiết bị điện có tính năng hiện đại, hệ thống bảo vệ rơ
le kỹ thuật số, hệ thống tự động điều chỉnh điện áp ở các máy biến áp khu vực, ghi
chỉ số công tơ từ xa. Trong các nhà máy điện, hệ thống truyền tải 110; 220, 500KV
đến lưới điện phân phối,...đã góp phần đáng kể tăng nhanh chỉ tiêu điện thương
phẩm và giảm tổn thất điện năng.
Môi trường văn hóa, xã hội: Môi trường văn hoá xã hội có tác động trực tiếp,
mạnh mẽ đến nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp tiêu thụ điện năng cơ sở hạ tầng trường học, bệnh viện, các công trình văn hoá, phúc lợi, chế độ nghỉ
ngơi 2 ngày trong tuần, các lễ hội truyền thống, lứa tuổi bình quân được trẻ hoá
cùng với xu hướng thành thị hoá nông thôn,… là cơ hội thuận lợi cho phát triển
kinh doanh điện năng.
Môi trường tự nhiên: Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố : thời tiết, khí
hậu, mùa vụ, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý,…là các nhân tố ngoại ứng ảnh
hưởng sâu sắc đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nói chúng và doanh
nghiệp kinh doanh điện nói riêng.
Đối với nước ta, điều kiện khí hậu, thời tiết khắc nghiệt có ảnh hưởng đặc biệt
đến các doanh nghiệp sản xuất và phân phối điện năng (ví dụ: Mùa khô ở miền bắc
ảnh hưởng tới lượng nước cần thiết cho các nhà máy thuỷ điện, tình hình bão lũ
hằng năm) hoặc nhu cầu cao điểm cung cấp điện trong mùa khô hay mùa mưa để

chống hạn, chống úng,…điều này ảnh hưởng tới nâng cao hay giảm các chỉ tiêu
hiệu quả kinh doanh điện.
b. Yếu tố chủ quan
Đó là tập hợp các yếu tố bên trong mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được
và điều chỉnh ảnh hưởng của chúng để thực hiện những mục tiêu nhất định. Các yếu
tố đó bao gồm:
* Tình hình tài chính của doanh nghiệp: Yếu tố này gắn liền với hoạt động
SXKD của doanh nghiệp bởi tài chính liên quan đến mọi kế hoạch chiến lược của

16


doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có khả năng tài chính mạnh là điều kiện thuận lợi
để doanh nghiệp có thể độc lập tự chủ trong hoạt động SXKD, có điều kiện để cải
tiến kỹ thuật đầu tư đổi mới công nghệ, đón bắt được những thời cơ kinh doanh
thuận lợi, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh doanh.
* Sản phẩm, hàng hóa: Đây là yếu tố vô cùng quan trọng vì người mua bao
giờ cũng quan tâm trước hết đến chất lượng, tính năng của sản phẩm mà họ mua.
Do đó, các doanh nghiệp cố gắng tăng tính ưu việt của sản phẩm. Cần xem xét sản
phẩm của doanh nghiệp theo hai khía cạnh:
- Yếu tố vật chất: Gồm những đặc tính lý hóa, kể cả những đặc tính của bao
gói với chức năng giữ gìn và bảo quản hàng hóa đó của nó.
- Yếu tố phí vật chất: Gồm những đặc tính như tên gọi, nhãn hiệu, biểu
tượng, chu kỳ sống của sản phẩm, dịch vụ sau bán hàng,…
Trong nền kinh tế thị trường, cùng với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của
các sản phẩm trên thị trường là sự tăng lên không ngừng về nhu cầu của người tiêu
dùng. Do vậy, doanh nghiệp phải luôn nắm bắt được những thay đổi trong tiêu dùng
của người mua để có phương án kinh doanh hợp lý nhất.
* Lực lượng lao động: Đối với bất kỳ doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh
vực nào của nền kinh tế, lực lượng lao động đóng vai trò then chốt trong hoạt động

SXKD. Trình độ, năng lực của người lao động là nhân tố tác động trực tiếp đến kết
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể coi việc bố trí lao động phù hợp trong
kinh doanh là điều kiện cần để kinh doanh đạt hiệu quả. Đây còn là điều kiện để
doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ sản xuất hiện đại tạo ra khả năng
cạnh tranh tốt cho doanh nghiệp.
* Cơ sở vật chất kỹ thuật: Đây là yếu tố vật chất hữu hình quan trọng phục
vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó sẽ đem lại sức mạnh kinh doanh
cho doanh nghiệp trên cơ sở khả năng sinh lời của tài sản.
* Chiến lược và sách lược kinh doanh: Một chiến lược và sách lược kinh
doanh đúng đắn trong mỗi thời kỳ nhất định sẽ là nhân tố đảm bảo thành công cho
doanh nghiệp. Với chiến lược sản phẩm, chiến lược thị trường và chính sách giá cả
phù hợp sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, mở
rộng thị trường, nâng cao uy tín sản phẩm của doanh nghiệp, tạo dựng niềm tin của
khách hàng về sản phẩm. Từ đó, tăng doanh thu, đẩy nhanh vòng quay của vốn,
nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

17


* Chất lượng phục vụ: Nâng cao chất lượng phục vụ sẽ tăng chi phí kinh
doanh, song nếu chất lượng phục vụ tốt sẽ là yếu tố quyết định đến khối lượng hàng
hoá được tiêu thụ. Do vậy nâng cao chất lượng phục vụ là một trong những biện
pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp.
* Chi phí SXKD: Việc sử dụng tiết kiệm các khoản chi phục vụ cho hoạt
động SXKD cũng ảnh hưởng rất lớn đến kết quả đạt được.
Ngoài ra có một số yếu tố khác nữa như tổ chức lao động, hệ thống quản lý
doanh nghiệp, kế hoạch marketing sản phẩm,… cũng tác động đến hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, trong quá trình SXKD doanh nghiệp cần phân tích,
dự báo các yếu tố có thể tác động để có phương án kinh doanh hiệu quả nhất.
2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

2.2.1.Bài học kinh nghiệm về tổ chức thu tiền điện tại các doanh nghiệp cung
cấp điện
* Một số kinh nghiệm nước ngoài
Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và Internet, hoạt
động thanh toán điện tử của Trung Quốc đã duy trì đà tăng trưởng mạnh, hỗ trợ tích
cực cho sự phát triển của thương mại điện tử. Theo Euromonitor International, tổng
giá trị thanh toán trực tuyến năm 2015 tại Trung Quốc đạt 213 tỷ USD, cao hơn so
với mức 163,5 tỷ USD của Hoa Kỳ và dự báo sẽ đạt tới con số gần 500 tỷ USD vào
2017. Thẻ ngân hàng đã tăng nhanh, trở thành phương tiện thanh toán phổ biến,
được sử dụng rộng rãi tại Trung Quốc với các dạng thẻ tín dụng (credit card) và thẻ
ghi nợ (debit card). Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBOC) đã triển khai thực
hiện nhiều chính sách nhằm thúc đẩy việc sử dụng và thanh toán thẻ tại Trung
Quốc. Cụ thể, PBOC đã nghiên cứu và phối hợp cùng CUP và các ngân hàng
thương mại Trung Quốc phát hành nhiều sản phẩm thẻ tiện ích, tiện lợi, phù hợp và
chi phí hợp lý khác nhau phục vụ các đối tượng cụ thể. Ngoài ra, để khuyến khích
phát triển thanh toán thẻ, PBOC đã tổ chức, xây dựng và đưa ra quyết sách xuất
phát từ tình hình kinh tế đất nước, phối hợp với ngân hàng thương mại phát hành
thẻ với giá thành thích hợp, tranh thủ sự hỗ trợ của Chính phủ và các Bộ ngành liên
quan. Đồng thời, PBOC triển khai các biện pháp đảm bảo an ninh, an toàn hoạt
động thẻ như: Để đảm bảo sự an toàn đối với hệ thống thanh toán thẻ, PBOC đã ban
hành được bộ tiêu chuẩn đối với thẻ Chip trên cơ sở tham khảo tiêu chuẩn thẻ chip
EMV (Chuẩn PBOC 2.0 do Cục Công nghệ tin học xây dựng), đồng thời, quy định
kế hoạch chuyển đổi từ thẻ từ sang thẻ Chip; PBOC cũng đã phối hợp với Bộ Công

18


an (MPS) để bảo đảm an toàn, an ninh thanh toán thẻ, đưa ra các quy định cụ thể
như: ATM thuộc địa phương nào thì công an địa phương đó phối hợp với các tổ
chức cung ứng ATM/POS bảo vệ. Việc lắp đặt ATM phải có ý kiến của công an địa

phương về địa điểm để đảm bảo an toàn hoạt động... Xây dựng được bộ tiêu chuẩn
đối với các máy móc, thiết bị phục vụ hoạt động thanh toán thẻ, có đơn vị kiểm định
ATM, POS trước khi đưa vào sử dụng; Đặc biệt, PBOC cũng đã phối hợp với Bộ
Công nghệ thông tin và Công nghệ (MIIT) nghiên cứu các tiêu chuẩn kinh doanh,
công nghệ thống nhất đối với thanh toán di động.
Với lợi thế sẵn có về công nghệ, Hàn Quốc hiện đang thành công trong việc
lựa chọn phát triển thanh toán thẻ là phương tiện thanh toán chủ yếu trong dân cư,
đặc biệt là thẻ tín dụng bằng việc áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế cho các đơn
vị chấp nhận thẻ và người sử dụng thẻ nhờ đó thúc đẩy thanh toán thẻ qua POS và
thành lập Công ty chuyển mạch thẻ BC Card nhằm đẩy mạnh tiêu dùng trong nước
và kiểm soát thuế một cách hiệu quả. Năm 2015, dịch vụ thanh toán bằng thẻ ở Hàn
Quốc đạt 500 tỷ USD. Nhờ nền kinh tế và trình độ công nghệ phát triển nên Chính
phủ đã tạo dựng được một hành lang pháp lý quản lý thông tin cá nhân, thông tin
khách hàng rất minh bạch và khoa học nên việc phê duyệt phát hành thẻ tín dụng
cũng như các khoản vay cá nhân khác tại thị trường Hàn Quốc rất thuận lợi. Trung
tâm thông tin tín dụng của Hàn Quốc (Korea Credit Bureau) được thành lập từ năm
2002 để cung cấp các dữ liệu cho các ngân hàng và tổ chức phát hành thẻ. Bên cạnh
đó, Hàn Quốc cũng đã phát triển được hệ thống thông tin cá nhân điện tử đầy đủ,
chính xác, được cập nhật liên tục, các tổ chức phát hành thẻ có thể truy cập, lấy
thông tin để đánh giá và cấp tín dụng cho khách hàng. Ngoài ra, tổ chức phát hành
thẻ cũng có thể được truy cập hệ thống thông tin dữ liệu xuất nhập cảnh để tra cứu
hoạt động xuất nhập cảnh của chủ thẻ, qua đó phát hiện và xử lý các giao dịch giả
mạo phát sinh, hạn chế rủi ro trong hoạt động thẻ. - Có chính sách hữu hiệu để bảo
mật an toàn thông tin: Chính phủ Hàn Quốc đã đầu tư rất nhiều vào các hệ thống
bảo mật, an toàn thông tin nhằm hạn chế sự tấn công của tin tặc. Để bảo đảm an
toàn thông tin trong Chính phủ, Hàn Quốc đã xây dựng một đường truyền internet
hành chính riêng chỉ phục vụ cho các cơ quan chính phủ và một đường truyền
internet dân sự riêng dành cho người dân sử dụng. Ngoài ra, Hàn Quốc đã áp dụng
mô hình hạ tầng khóa công khai PKI, chữ ký điện tử khi sử dụng dịch vụ chính phủ
điện tử nhằm bảo đảm tính xác thực, an toàn, bảo mật thông tin của người sử dụng

trên môi trường mạng Internet.

19


Cũng giống như Việt Nam, người dân Thái Lan có thói quen thanh toán bằng
tiền mặt. Năm 2016 sẽ là dấu mốc của thanh toán di động và hệ thống TTĐT của
Thái Lan, TTĐT có thể trở thành một công cụ thanh toán hàng ngày khả thi trong
những năm tới. Thanh toán di động và TTĐT của Thái Lan sẽ được thúc đẩy bởi sự
gia tăng số người sử dụng điện thoại thông minh và việc thay đổi chuyển sang lối
sống kỹ thuật số, một cơ sở hạ tầng viễn thông vững chắc với đa dạng các nhà cung
cấp dịch vụ và chính sách của chính phủ để thúc đẩy thanh toán điện tử quốc gia
(epayment) thông qua việc áp dụng rộng rãi hình thức thanh toán điện tử kiểu mới
dựa trên mô hình “Mọi thông tin cá nhân (Any ID)” và hệ thống “Đọc thẻ tự động
(electronic data capture - EDC)”.
Tháng 12 năm 2015, Thái Lan đã đẩy thanh toán điện tử, tạo ra một xã hội
thanh toán không dùng tiền mặt. Thanh toán điện tử nhằm mục đích cho phép người
dùng truy cập các dịch vụ chuyển tiền ngay cả khi họ không có một tài khoản ngân
hàng, phục vụ thương mại điện tử, khắc phục sơ hở trong hệ thống thuế và giải
quyết trợ cấp cho những người yếu thế. Theo Michael Yeo, giám đốc nghiên cứu
của IDC Financial Insights, thị trường TTĐT của Thái Lan với tốc độ tăng bình
quân năm 20% trong giai đoạn 2010 - 2015, là thị trường phát triển nhanh thứ tư ở
châu Á, chỉ sau Trung Quốc, Ấn Độ và Inđônêxia và xếp trên Singapore và
Malaixia, cả hai nước đều đạt tốc độ tăng bình quân năm 9% cùng kỳ. Hiện thanh
toán điện tử ở Thái Lan (kể cả thanh toán di động) được dự kiến sẽ tăng từ 68,2 tỷ
baht trong năm 2015 lên 143 tỷ baht vào năm 2020 và sẽ do các trung gian thanh
toán phi ngân hàng như AIS, True, Card Rabbit và Thai Smart Card thống lĩnh. Ba
hãng viễn thông này cùng với các nhà cung cấp dịch vụ App pay như Line
Corporation, sẽ là những công ty lớn nhất trong thanh toán di động ở Thái Lan.
Ngoài ra trên thế giới còn một số hình thức thanh toán tiền điện khác như:

+ Công tơ điện trả tiền trước: Đây là hình thức yêu cầu khách hàng thanh
toán tiền điện trước khi sử dụng. Khách hang cần có một loại thẻ từ chuyên dụng đã
được nạp sẵn tiền để cài vào công tơ điện. Nếu không có các tấm thẻ từ này, công tơ
điện sẽ không được kích hoạt, việc cấp điện sẽ bị gián đoạn. Các tấm thẻ từ sẽ được
nạp mức tiền tùy theo lựa chọn của khách hàng. Ở Trung Quốc, công tơ điện trả tiền
trước khá thịnh hành tại các khu nhà trọ, hay các khu kí túc xá dành cho sinh viên.
Công tơ điện trả tiền trước có thể coi là một cách tốt để các nhà phân phối điện năng
“ nắm đằng chuôi” việc thanh toán tiền điện. Mặt khác, đây cũng là cách giúp khách
hàng quản lý lượng tiêu thụ tốt hơn.

20


Tại một số nước Nam Phi, sudan, Bắc Ailen, thay vì dung thẻ từ, khách hàng
có thể nhập vào công tơ điện một mã thẻ gồm 20 chữ số, tương ứng với các mệnh
giá tiền cụ thể. Các hiển thị trên màn hình công tơ sẽ cho khách hàng biết số tiền đã
chi trả, và số tiền còn lại trong thẻ để khách hàng cân đối việc sử dụng điện nang và
tài khoản của mình.
+ Thanh toán theo quý: Việc thanh toán theo quý giúp tiết kiệm thời gian và
công sức cho khách hàng. Thay vì phải trả tiền điện 12 lần/năm, khách hàng chỉ
phải bận tâm về hóa đơn tiền điện 4 lần/năm.
Tại Vương quốc Anh, việc thanh toán theo quý được khuyến khích với các
khách hàng có lượng điện năng tiêu thụ ổn định và có khả năng chi trả tài chính tốt,
do lượng tiền phải trả mỗi lần sẽ là cấp số cộng của cả 3 tháng.
Việc trả tiền điện theo quý hoàn toàn có thể thực hiện bằng các hình thức
thanh toán thong thường như: Bằng tài khoản ngân hàng, bằng séc, tiền mặt … khi
thanh toán số tiền lớn theo đúng thời hạn, khách hàng cỏ thể sẽ nhận được một
khoản chiết khấu nhỏ từ các công ty phân phối điện năng.
+ Thanh toán bằng tài khoản mặc định : Ở một số quốc gia Châu Âu – nơi
việc thanh toán không dung tiền mặt được khuyến khích, rất nhiều khách hàng thiết

lập sẵn việc thanh toán mặc định hàng tháng để chi trả cho các dịch vụ như điện, ga,
nước …
Với hình thức này, khách hàng gần như có thể “quên” đi việc nhận hóa đơn
và trả tiền mỗi tháng. Ngân hàng sẽ tự động trích trả thay cho khách hàng, miễn là
số tiền trong tài khoản còn dư. Các ngân hàng sẽ đảm bảo tất toán các hóa đơn giúp
các khách hàng theo đúng hạn nộp tiền.
Hình thức thanh toán này được những khách hàng có hầu bao rủng rỉnh lựa
chọn. Các giao dịch sẽ được ngân hàng hệ thống chi tiết lại để khách hàng có thể
kiểm tra, xem xét khi cần.
+ Card (thẻ) thanh toán: Tại một số khu vực ở nước Mỹ, thẻ thanh toán được
phát hành bởi các công ty điện. Với loại thẻ này, khách hàng có thể chủ động thanh
toán vào bất kỳ thời điểm nào khách hàng muốn, ví dụ: Thanh toán mỗi tuần, mỗi
tháng, hoặc sau khoảng thời gian bất kỳ …
Hình thức này giúp khách hàng chủ động thời gian chi trả, không bị áp lực
về việc phải thanh toán tiền điện đúng ngày. Tuy nhiên, người tiêu dùng bắt buộc
phải đi tới các điểm thanh toán cố định để thực hiện việc quẹt thẻ thanh toán này.

21


×