Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN Toán lop 3 Giải bài toán có yếu tố Hình học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.17 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
STT
1

NỘI DUNG

Mở đầu
1.1 Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm
1.2 Mục đích nghiên cứu
1.3 Đối tượng nghiên cứu
1.4 Phương pháp nghiên cứu
2
Nội dung
2.1 Cơ sở lý luận
2.2
Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.2.1 Thực trạng việc học giải toán có nội dung hình học của học sinh
lớp 3
2.2.2 Một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1 Dạng đếm hình, đoạn thẳng
a.
Chọn hệ thống bài tập từ dễ đến khó
b.
Cách dạy
2.3.2 Dạng giải toán

TRANG

2
2


3
3
3
3 - 16
3
4
4
5
5
6
6
7
9

a.

Trang bị những công thức quy tắc, kỹ năng giải toán có yếu tố

10

b.

hình học
Biện pháp hình thành và rèn luyện kỹ năng giải toán có yếu tố

11

c.

hình học

Biện pháp hướng dẫn học sinh trình bày bài giải có yếu tố hình

13

2.4
3
3.1
3.2

học
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

14
14
14
15

1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Toán học là một mạch kiến thức không chỉ truyền thụ và rèn luyện kỹ
năng tính toán để giúp các em học tốt môn khác mà còn giúp các em rèn luyện
trí thông minh, óc tư duy sáng tạo, khả năng tư duy lô gic, làm việc khoa học. Vì
vậy chúng ta cần phải quan tâm tới việc dạy toán ở Tiểu học.

1



Trong chương trình toán lớp 3 các bài toán có yếu tố hình học chiếm
một vị trí đặc biệt và quan trọng. Việc dạy các bài toán có yếu tố hình học này
đã giúp học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, phương
pháp suy luận và hình thành những phẩm chất cần thiết của con người mới.
Ngoài ra nó còn rèn cho học sinh khả năng diễn đạt ngôn ngữ qua việc trình bày
lời giải một cách rõ ràng, chính xác, khoa học, thông qua việc giải toán học sinh
được giáo dục nhiều mặt trong đó có ý thức đạo đức.
Tuy nhiên trong quá trình dạy học, người giáo viên còn vận dụng phương
pháp dạy học truyền thống dẫn đến kết quả giảng dạy chưa đạt yêu cầu làm giảm
hứng thú học tập của học sinh. Đây là một khó khăn không nhỏ đối với giáo viên
và học sinh trong quá trình dạy học hiện nay. Đặc biệt là việc giải các bài toán
có yếu tố hình học của giáo viên còn lúng túng về nhiều mặt, một phần không
nhỏ học sinh gặp khó khăn khi giải bài toán còn nhầm lẫn sai sót, trình bày bài
giải chưa chính xác, việc hình thành kỹ năng còn chậm, khả năng suy luận kém.
Ngoài ra, do điều kiện gia đình làm ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả học tập
của các em. Vậy làm như thế nào để nâng cao chất lượng dạy các bài toán có
yếu tố hình học ? làm thế nào để nâng cao hứng thú học tập cho học sinh ?….
Hàng loạt câu hỏi đặt ra và nó đã làm cho bao nhiêu thế hệ thầy cô phải trăn trở
suy nghĩ. Là một giáo viên đã trực tiếp giảng dạy nhiều năm tôi nhận thấy mình
phải có trách nhiệm trong việc giúp đỡ học sinh có được kết quả học tập cao.
Xuất phát từ yêu cầu quan trọng của môn học và tình hình thực tế việc
dạy và học Toán như trên, tôi đã đi nghiên cứu đề tài:
“Một số biện pháp giúp học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài
toán có yếu tố hình ở lớp 3”
Trong đề tài này tôi muốn đi sâu vào hướng dẫn học sinh cách nhận diện
hình, đoạn thẳng, cách tính chu vi, diện tích của hình chữ nhật, hình vuông.
1. 2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu nguyên nhân của học sinh yếu kém khi học Toán.

2



- Giúp học sinh cách thức giải các bài toán có yếu tố hình học từ đơn giản
đến phức tạp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Năm học 2016 - 2017 tôi được phân công giảng dạy lớp 3B, trường Tiểu
học Định Hòa – Yên Định – Thanh Hóa nên đối tượng tôi chọn để nghiên cứu là
học sinh lớp 3B do tôi chủ nhiệm.
1. 4. Phương pháp nghiên cứu
Trong qua trình nghiên cứu tôi có sử dụng một só phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu luận: Nghiên cứu các cơ sở phương pháp luận,
các tài liệu, tạp chí có liên quan đến việc đổi mới phương pháp dạy học.
- Phương pháp gợi mở, vấn đáp.
- Phương pháp giải quyết vấn đề.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Phương pháp luyện tập, thực hành .
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
Quá trình dạy giải các bài toán có yếu tố hình học ở lớp 3 giúp học
sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp
suy luận và những phần cần thiết vì giải toán là một hoạt động bao gồm những
thao tác xác lập mối quan hệ giữa các dữ liệu, giữa cái đã cho và cái cần tìm.
Trên cơ sở đó chọn được phép tính thích hợp và trả lời đúng câu hỏi phát hiện
giải quyết vấn đề, tự nhận xét so sánh, phân tích, tổng hợp rút ra quy tắc ở dạng
khái quát của bài toán. Tuy nhiên, để tổ chức được các hoạt động học tập, giáo
viên cần xác định được: Nội dung toán cần cho học sinh lĩnh hội là gì? Cần tổ
chức các hoạt động như thế nào? Trong chương trình toán 3 việc giải các bài
toán có nội dung hình học có ý nghĩa thực tiễn liên quan đến cuộc sống hàng
ngày. Vì vậy nó được coi là cầu nối giữa toán học và thực tiễn, chiếm một vị trí


3


hết sức quan trọng trong chương trình toán 3.Chính vì điều này mà người giáo
viên cần hướng dẫn học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức từ mức độ thấp đến cao.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.2.1. Thực trạng việc học giải toán có nội dung hình học của học sinh lớp
3
Thực trạng của học sinh hiện nay có thể khẳng định rằng học sinh tiểu học
nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng còn yếu về khả năng phân tích, tư duy để
làm các bài toán có yếu tố hình học.
*. Về dạng đếm hình, đoạn thẳng
Học sinh chưa biết cách nhận diện đoạn thẳng, đếm hình, dẫn đến việc
nhận diện hình, đoạn thẳng còn lúng túng, đếm sai, chưa hết hình, hết đoạn
thẳng đã cho.
* Về giải toán:
- Học sinh chưa đọc kỹ đề bài, xác định yêu cầu bài toán chưa đúng . Không
nắm được các thao tác giải toán, không biết tư duy bài toán (bằng lời hoặc hình
vẽ) nên trình bày sai lời giải, sai bài toán, đáp số sai, thiếu.
- Học sinh yếu còn nhầm khi bài toán cho chu vi hình vuông đi tìm cạnh, học
sinh không hiểu bài toán ngược lại áp dụng công thức cạnh hình vuông bằng
chu vi chia cho 4.
- Ngoài ra còn một số bài toán đòi hỏi học sinh phải tư duy tìm các công thức
đã cho để giải. Khả năng giải bài toán mang tính chất tồng hợp kiến thức của
các em còn kém, các em quên mất kiến thức cũ liên quan nên giải bài toán bị
sai.

Để nghiên cứu sáng kiến này tôi đã khảo sát chất lượng học sinh lớp 3B
ngay từ đầu năm học có kết quả như sau:
Lớp


Si số

Hoàn thành

4

Chưa hoàn thành


3B

35

SL
23

%
65,7

SL
12

%
34,3

2.2.3. Một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên
- Do HS vùng nông thôn kinh tế eo hẹp. Nhiều gia đình đi làm ăn xa để
con lại cho ông bà nên việc chăm sóc, dạy dỗ còn hạn chế.
- Sự phát triển nhận thức của một số em còn chậm, không đồng đều, hoạt

động tư duy logic kém. Việc lĩnh hội kiến thức ở các lớp trước chưa đầy đủ, còn
những lỗ hổng về kiến thức. Một số em có thái độ học tập chưa tốt, ngại cố
gắng, thiếu tự tin.
- Trong giảng dạy, một số giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học
chưa linh hoạt, nhịp độ giảng dạy quá nhanh khiến học sinh yếu, kém không
theo kịp.
Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả dạy và học xong đây chỉ
là một số nguyên nhân mà trong quá trình công tác và nghiên cứu làm đề tài tôi
phát hiện ra. Những nguyên nhân trên tác động lẫn nhau làm giảm hứng thú học
tập của học sinh, làm cho các em thiếu tự tin cố gắng vươn lên dẫn đến kết quả
học tập không tốt. Để khắc phục những tồn tại trên cần có giải pháp khắc phục
hợp lý.
2. 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Trong những năm học qua cũng như năm học này, trường Tiểu học Định
Hòa đã tổ chức các câu lạc bộ như câu lạc bộ ”Em yêu Toán, Tiếng Việt”, câu
lạc bộ ” Em yêu thích các môn thể thao”, câu lạc bộ Tiếng Anh, câu lạc bộ ”Rèn
kỹ năng” của các khối lớp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học
sinh . Đối với môn toán ngoài các tiết theo phân phối chương trình thì các em
được ôn luyện lại và năng cao thêm trong các tiết rèn kỹ năng. Như vậy học sinh
có điều kiện thực hành thêm các bài tập và củng cố kiến thức Toán.
Chính vì điều này mà trong quá trình dạy học giải toán ở tiểu học giáo viên
cần giúp học sinh tự tìm hiểu được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm,

5


mô tả quan hệ đó bằng cấu trúc phép tính cụ thể, thực hiện phép tính, trình bày
lời giải bài toán. Giáo viên cần phải tổ chức cho học sinh nắm vững khái niệm
toán học, cấu trúc phép tính, các thuật ngữ…Tổ chức cho học sinh thực hiện các
bước giải toán. Vậy qua quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài tôi xin đưa ra một

số giải pháp sau đây:
2.3.1. DẠNG ĐẾM HÌNH, NHẬN DIỆN ĐOẠN THẲNG
Khi dạy các bài toán về dạng đếm hình, đoạn thẳng chúng ta phải biết chọn hệ
thống bài tập từ dễ đến khó từ đó hình thành các quy tắc, công thức để các em
tiếp nhận kiến thức một cách dễ dàng nhất.
a. Chọn hệ thống bài tập từ dễ đến khó:
Bài 1: Trong hình vẽ dưới đây có bao nhiêu hình tam giác:

Hình 1

Hình 2

Bài 2: Trong hình dưới đây có bao nhiêu đoạn thẳng:

A

B

C

A

B

C

D

b. Cách dạy học sinh:
- Đặt vấn đề: Chúng ta bắt đầu từ một bài toán đơn

giản.
6

E

G


“Trong hình bên có bao nhiêu tam giác”

Học sinh trả lời: 3 hình
Một vấn đề đặt ra là các em đếm bằng cách nào

Hình 1

Học sinh trả lời:
- Ghi chữ liệt kê rồi đếm chẳng hạn 3 tam giác đó là
ABM, MAC, BMC.
- Đánh số và liệt kê các tam giác rồi đếm theo hình
đơn trước, hình ghép sau: Chẳng hạn 3 tam giác là
Hình 1, hình 2, hình (1+2).
Kết luận: Đây là hai cách đếm đều đúng, song cách đếm thứ nhất không tuân
theo quy luật nào, dễ nhầm hoặc dễ sót nếu như các đỉnh tam giác nhiều lên như
(hình vẽ bên).

Từ đó rút ra cách đếm thứ 2 tốt hơn vì nếu đánh số
Và đếm theo thứ tự hình đơn, hình ghép đôi,
ghép 3 .....sẽ không sót hình nhưng cũng sẽ vất
vả hơn khi phải liệt kê quá nhiều tam giác
(với số điểm tăng lên)


7

Hình 2


* Đến đây một vấn đề đặt ra cho học sinh là các em có nhận xét gì về đặc
điểm các hình tam giác này, từ đó liên hệ tới một cách đếm thuận lợi hơn?
- Học sinh có thể nhận xét: Các tam giác này đều có chung đỉnh M và có đáy
là các đoạn thẳng ở trên một đường thẳng.
- Từ đó giáo viên có thể chuyển sang bài toán khác.
Đúng vây, các em thấy số tam giác chính bằng số đáy của các tam giác đó, số
đáy này lại là số các đoạn thẳng được tạo thành từ việc nối hai điểm trong
các điểm đã cho ở trên đường thẳng. Chẳng hạn từ 3 điểm A, B, C ta có 3
đoạn thẳng: AB, AC, BC ứng với 3 tam giác MAB, MBC, MAC.
- Từ đây giáo viên chuyển sang bài toán” Trong hình dưới đây có bao nhiêu
đoạn thẳng”.
Học sinh dễ dàng thấy được có ba đoạn thẳng

A

B

C

Bằng cách đếm tương tự như trên, song từ đây học sinh cũng có thể có em
nêu được cách đếm khái quát hơn, chẳng hạn: Với một điểm có hai đoạn thẳng
nối từ đó tới hai điểm còn lại, với 3 điểm ta có 6 đoạn thẳng (2 x 3 = 6)
Với sự dẫn dắt của giáo viên, học sinh có thể đếm số đoạn thẳng từ nhiều điểm
hơn, chẳng hạn ở hình dưới đây có 6 điểm trên một đường thẳng thì một điểm

ứng với 5 đoạn thẳng, 6 điểm ứng với 5 x 6 = 30 đoạn thẳng.
Trong đó mỗi đoạn được tính 2 lần nên số đoạn thẳng là: (5 x 6):2= 15(đoạn)

A

B

8

C

D E

G


* Rút ra nhận xét: Muốn tìm số đoạn thẳng trong các bài toán dạng trên có
thể lấy số điểm nhân với số điểm đó trừ đi 1, rồi chia cho 2. Rõ ràng từ nhận
xét này các em có thể đếm số tam giác ở bài toán trên thuận tiện hơn rất nhiều.
Qua bài toán đếm hình đơn giản (hình 1) cô giáo đã dẫn học sinh sang bài toán
“đếm số đoạn thẳng” hình 2.

A

B C

D E G H I

Sau đó giáo viên có thể tiếp tục
Số đoạn thẳng đếm đựơc trong hình 2 có phụ thuộc

Vào yếu tố “thẳng hàng” của các điểm không?
Ta có thể mở rộng thành bài toán.
Học sinh trả lời: Các điểm đã cho không cần phải “thẳng hàng” ta có bài toán “
cho 8 điểm hỏi có bao nhiêu đoạn thẳng nối được từ hai trong 8 điểm đó”
Ta có thể tính được: (8 x 7):2 = 28 (đoạn)
2. 3.2. DẠNG GIẢI TOÁN
a. Trang bị những công thức, quy tắc, kỹ năng giải toán
Đây là vấn đề vô cùng quan trọng trong việc truyền tải kiến thức cho học
sinh, thay thế cho việc giáo viên áp đặt kiến thức cho học sinh buộc học sinh
phải thuộc lòng những điều giáo viên thuyết trình (phương pháp dạy học truyền
thống) bằng việc giáo viên là người dẫn dắt các em tự mình tìm tòi khám phá
9


kiến thức mới (phương pháp dạy học tích cực). Trong quá trình giảng dạy giáo
viên cần vận dụng triệt để biện pháp này vì học sinh muốn giải được các bài
toán thì cần phải được trang bị đầy đủ những kiến thức có liên quan đến việc
giải toán mà những kiến thức này chủ yếu được cung cấp qua các tiết lý thuyết.
Do vậy dưới sự dẫn dắt của giáo viên, học sinh cần tìm ra được cách giải bài
toán và cần phải được chính xác hóa nhờ sự giúp đỡ của giáo viên. Qua quá
trình tự tìm tòi, khám phá kiến thức mới dựa trên những cái đã biết giúp các em
hiểu sâu hơn, nhớ lâu kiến thức ấy hơn nếu như tự mình tìm ra kiến thức ấy.
Khi học sinh đã nắm chắc quy tắc, công thức tính, các bước tính của một
phép tính thì mới rèn luyện được kỹ năng tính toán.
Đối với loại toán có nội dung hình học thì khả năng nhận biết các đặc
điểm cảu một hình vẽ là rất quan trọng.
Ví dụ: Khi dạy về “Diện tích hình chữ nhật” giáo viên cần cho học sinh
nhắc lại đặc điểm của hình chữ nhật thông qua hình vẽ.
+ Khả năng cắt ghép hình tam giác thành hình chữ nhật.
+ Giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh nhớ rõ các ký hiệu hình vẽ.

Chẳng hạn, đâu là cạnh chiều dài của hình, đâu là cạnh chiều rộng của
hình chữ nhật. Từ đó học sinh biết vận dụng vào giải các bài toán áp dụng trực
tiếp quy tắc đã xây dựng để vận dụng tính.
Bài tập VD: Cho hình chữ nhật có cạnh dài là 8cm, cạnh ngắn là 5cm.
Tính diện tích hình chữ nhật đó ?
Với bài tập này học sinh chỉ cần vận dụng đúng quy tắc, công thức đã
được trang bị là giải được ngay. Cũng có những bài toán đòi hỏi học sinh phải có
khả năng tư duy thì mới giải được. Do vậy, giáo viên cần rèn cho các em kỹ
năng này.
VD: Bài toán: Cho hình chữ nhật có nửa chu vi là 22cm, cạnh ngắn là 9
cm. Tính diện tích hình chữ nhật đó ?

10


- Khi giải bài toán không có cùng đơn vị đo thì phải biết đổi ra cùng một
đơn vị đo.
VD: Số đo cạnh theo mm, số đo diện tích theo cm 2. Vậy phải đổi số đo
cạnh ra cm.
- Giáo viên cần lưu ý cho học sinh:
+ Với hình chữ nhật có số đo chu vi là cm, thì đơn vị đo của diện tích là cm2
+ Với hình vuông có số đo chu vi là cm thì đơn vị đo của diện tích hình
vuông là cm2.
b. Biện pháp hình thành và rèn luyện kĩ năng giải toán
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy của mình, tôi nhận thấy rèn kĩ
năng giải toán cho học sinh là một biện pháp không thể thiếu trong qua trình dạy
học.
Do đặc điểm của môn toán ở tiểu học được cấu tạo theo kiểu đồng tâm
các nội dung được củng cố thường xuyên và được phát triển dần từ đơn giản đến
phức tạp, từ dễ đến khó. Sau khi đã lĩnh hội kiến thức, kĩ năng toán học, để định

hình vững chắc kiến thức ấy, học sinh cần rèn luyện vận dụng qua các dạng bài
tập khác nhau, có yêu cầu cao hơn. Để giải được các bài tập ấy, giáo viên cần
hướng dẫn các em tư duy từ cái đã biết để tìm cái chưa biết, rèn cho học sinh óc
suy luận, phán đoán và kỹ năng.
- Phân tích đề bài toán: Là một kỹ năng quan trọng nhất
Ví dụ: Bài toán
“Một tờ giấy hình chữ nhật có chiều dài 72cm, chiều rộng bằng 1/8 chiều
dài. Tính diện tích tờ giấy đó”.
Để giải được bài toán này học sinh cần phải phân tích đề và dựa vào
những yếu tố đã biết để giải.
+ Bài toán đã biết chiều dài chưa?

11


+ Bài toán đã biết chiều rộng chưa?
Vậy để tính được diện tích tờ giấy thì ta phải tính gì trước?
Qua hàng loạt câu hỏi đặt ra để phân tích yêu cầu bài toán, trả lời được
các câu hỏi đó, học sinh sẽ làm được bài tập dễ dàng.
Với các kỹ năng đã có của học sinh, giáo viên là người giúp học sinh rèn
luyện và phát huy những kỹ năng ấy, cần cho học sinh nắm rõ thuật ngữ toán
học”chiều rộng bằng 1/8 chiều dài nghĩa là gì?
- Biết phân tích và tóm tắt bài toán bằng cách ghi các dữ kiện đã cho và
câu hỏi của bài toán dưới dạng ngắn gọn nhất. Qua tóm tắt học sinh có
thể nêu lại được bài toán, từ đó lập kế hoạch giải, do vậy giáo viên cần
hướng dẫn:
+ Muốn tính được diện tích tờ giấy ta cần dữ liệu nào? (có chiều dài, có
chiều rộng).
+ Tìm chiều rộng bằng cách nào ? Lấy 72 : 8 = 9 (cm)
Như vậy với một số câu hỏi gợi mở mà giáo viên đưa ra, học sinh có thể

sẽ tìm cách giải bài toán về những kiến thức đã học để có thể áp dụng được công
thức tính.
Muốn giải được tốt bài toán này yêu cầu học sinh phải tìm hiểu, phân tích
kỹ đầu bài (biết tóm tắt và trình bày bài toán thông qua tóm tắt) lập được kế
hoạch bài giải bài toán và kỹ năng vận dụng sáng tạo những kiến thức đã học
vào giải các bài toán ở mức độ phức tạp hơn. Do vậy giáo viên nhất thiết phải sử
dụng biện pháp này nhằm rèn cho học sinh những kỹ năng trên giúp các em có
khả năng giải mọi dạng toán khác nhau. Vận dụng kiến thức tổng hợp để giải
toán xác lập mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm đúng phép tính thích hợp.
c. Biện pháp hướng dẫn học sinh trình bày bài giải
Sau khi đã có những kỹ năng phân tích bài toán và lập được kế hoạch giải

12


cho bài toán thì việc thực hiện cách giải và trình bày bài giải cũng là yếu tố quan
trọng. Vậy làm như thế nào để câu trả lời của bài toán không bị sai, phép tính
chính xác, ghi đáp số với kết quả phép tính có danh số kèm theo. Giáo viên cần
hướng dẫn các em tìm ra các câu lời giải khác nhau nhưng biết trả lời ngắn, gọn
mà đủ ý. Bài toán hỏi gì thì trả lời cái ấy, nghĩa là biết dựa vào câu hỏi
của bài toán để trả lời.
* Khi trình bày bài giải giáo viên nên khuyến khích các em tìm ra nhiều
cách giải. Sau đó hướng dẫn các em vào cách giải, cách trình bày bài giải ngắn
gọn, chính xác, dễ hiểu nhất, lời giải hợp lý nhất để tránh cho học sinh yếu trả
lời bài toán sai thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề bài để biết bài
toán cho gì ? Bài toán yêu cầu làm như thế nào dựa vào câu hỏi của bài toán để
ghi câu trả lời cho đúng thực hiện phép tính ghi danh số kèm theo chính xác để
đáp số bài toán không bị sai theo.
* Với bài toán trong khi giải cần đổi đơn vị đo thì giáo viên cần hướng
dẫn và yêu cầu học sinh nhắc lại cách đổi đã học về đại lượng ấy. Qua đó củng

cố những kiến thức có liên quan đến giải toán điển hình có ý nghĩa thực tiễn. Từ
đó các em sẽ trình bày đúng bài giải. Chẳng hạn bài toán 1 trang 63 vở bài tập
của học sinh, học sinh cần phải nhận xét: Xét 2 cạnh hình chữ nhật không cùng
số đo nên phải đổi ra cùng đơn vị đo: 3 dm = 30 cm, sau đó mới trình bày bài
giải:
Bài giải
Đổi 3 dm = 30 cm
Diện tích hình chữ nhật là:
30 x 8 = 240 (cm2)
Chu vi hình chữ nhật là:
(30 + 8 ) x 2 = 76 (cm)
Đáp số: Diện tich: 240 cm2

13


Chu vi: 96 cm
Khi học giải toán xong thì giáo viên phải cho học sinh kiểm tra cách giải
và kết quả là yêu cầu không thể thiếu khi giải toán và trở thành thói quen đối với
học sinh ngay từ thiểu học. Việc này nhằm phân tích (thử lại) cách giải hay đúng
sai Khi đã có những kỹ năng giải toán tốt giáo viên cần dạy cho học sinh những
thủ thuật giải toán trong từng khâu, từng bước giải.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Với những biện pháp trên tôi đã thu được kết quả nhất định, học sinh giải
các bài toán có nội dung hình học ngày càng tiến bộ. Học sinh có tư duy sáng
tạo, tìm hiểu đúng yêu cầu của đề bài, trình bày bài giải đúng theo yêu cầu của
bài toán.
Kết quả đạt được cuối năm học 2016 - 2017 là:
Lớp SSHS
3A


35

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

TS

Tỉ lệ %

TS

Tỉ lệ %

TS

20

57,1

15

42,9

0

Tỉ lệ %


Như vậy lớp tôi đã có nhiều tiến bộ trong việc giải các bài toán có yếu tố
hình học. Tuy kết quả này chưa thực sự đã là cao song bản thân tôi cũng thấy vui
và tự tin vào việc làm của mình về sáng kiến kinh nghiệm mà mình đã thực hiện.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Qua quá trình thực nghiệm nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giúp
học sinh giải các bài toán có yếu tố hình học ở lớp 3”, bản thân tôi nhận thấy
rằng: Là người giáo viên nói chung và Giáo viên dạy tiểu học nói riêng phải
luôn học hỏi kinh nghiệm, tự học để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
tự cập nhật kiến thức thông tin để đáp ứng kịp thời sự phát triển của ngành Giáo
dục và của toàn xã hội. Để hướng dẫn học sinh có kiến thức và kỹ năng giải
toán, giúp các em tránh sai sót, phát triển tư duy, óc sáng tạo, tăng hứng thú học
toán cho học sinh đòi hỏi giáo viên thực hiện tốt các yêu cầu sau:
14


- Phải nghiên cứu kỹ bài dạy, xác định đúng kiến thức của bài, thiết kế kế
hoạch bài học phù hợp với trình độ của học sinh lớp mình phụ trách. Tổ chức
hoạt động dạy học theo hướng tích cực hóa người học. Sau mỗi bài cần nhấn
mạnh, khắc sâu kiến thức cơ bản trọng tâm và đề ra phương pháp vận dụng thực
hành chung cho từng dạng toán.
- Khi dạy giải toán cần rèn cho học sinh đọc kỹ đề bài, hiểu đề bài, nhận
biết được dữ liệu đã cho và yêu cầu cần tìm trong mỗi bài toán, nhận biết mối
quan hệ giữa các đại lượng trong bài. Hiểu và nhận biết được các từ, thuật ngữ,
khái niệm toán học…Biết tóm tắt và giải toán bằng sơ đồ, hình vẽ.
- Rèn luyện cho học sinh kỹ năng quan sát, suy luận để giải bài toán. Dựa
trên sơ đồ tóm tắt, trên cơ sở đó giáo viên gợi ý để học sinh tự tìm cách giải
bằng việc định hướng, giúp học sinh phát hiện vấn đè và tìm cách giải quyết vấn
đề. Điều cần lưu ý ở đây là giáo viên tuyệt đối không làm thay học sinh, mà cần

kích thích học sinh suy nghĩ làm việc. Rèn luyện cho học sinh khả năng trình
bày giải toán sao cho ngắn gọn và đúng với mục tiêu của bài toán.
- Thường xuyên hệ thống, củng cố lại kiến thức thông qua các tiết ôn tập,
luyện tập để rèn luyện kĩ năng giải toán cho học sinh. Từ đó giúp các em nhận
dạng dễ dàng và nắm vững phương pháp, cách giải của từng loại toán.
3.2. Kiến nghị
- Để thực hiện được công việc này thì giáo viên chủ nhiệm phải theo dõi,
uốn nắn các em, hướng dẫn các em thực hành thường xuyên nhất là đối với học
sinh yếu.
- Cần chú ý những học sinh cá biệt vì các em chậm chạp hơn so với các
bạn trong lớp, giáo viên nên hướng dẫn cho em nhiều hơn hoặc chỉ định bạn học
giỏi giúp đỡ em nhiều hơn để em thực hiện được như các bạn.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi giúp học sinh nắm vững
phương pháp giải một số bài toán có yếu tố hình học của lớp 3. Trong quá trình
thực hiện chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong được

15


sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học các cấp cho sáng kiến kinh
nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn .
Tôi xin chân thành cảm ơn !

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN
VỊ

Định Hòa, ngày 5 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

Người viết

Nguyễn Thị Ngà

TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Tạp chí Giáo dục Tiểu học.
2. Phương pháp dạy học toán ở Tiểu học ( Đỗ Đình Hoan - Đỗ Trung
Hiệu – Vũ Quốc Thắng ).
3. Báo Giáo dục & Thời đại.

16


4. SGK Toán 3, SGV Toán 3, VBT Toán 3, Bài tập bổ trợ và nâng cao
Toán 3

DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Ngà
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường Tiểu học Định Hòa
17


Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,

Tỉnh...)

1.

Một số phương pháp rèn đọc diễn

Huyện

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)
B

2.

cảm cho học sinh lớp 4; 5
Một số biện pháp nâng cao chất

Huyện

B

1996 -1997

3.

lượng chữ viết HS Tiểu học
Một số biện pháp gây hứng thú


Huyện

B

1998 -1999

Huyện

B

1999 - 2000

Huyện

B

2001 - 2002

Huyện

B

2002 -2003

7.

thông qua phân môn tập viết
Làm thế nào để tiết dạy đạo đức


Huyện

B

2003 – 2004

8.

lớp 3 đạt hiệu quả cao.
Một số biện pháp rèn kĩ năng viết

Huyện

A

2004 – 2005

9.

văn miêu tả cho HS giỏi lớp 4.
Một số kinh nghiệm nhỏ khi dạy

Tỉnh

C

2005 -2006

Tỉnh


C

2006 – 2007

Huyện

B

2010 - 2011

TT

Năm học
đánh giá xếp
loại
1995 - 1996

cho HS Tiểu học trong giờ học
4.

toán trên lớp
Một số biện pháp rèn đọc hiểu
cho Hs lớp 4; 5 thông qua một số

5.

dạng bài tập trắc nghiệm.
Một số kinh nghiệm nhỏ về bồi
dưỡng học sinh yếu kém môn


.6

Toán lớp 4.
Một số biện pháp rèn nâng cao
chất lượng chữ viết cho HS lớp 4

về đại lượng, phép đo đại lượng
10.

cho HS lớp 4.
Một số biện pháp rèn kĩ năng viết
chữ cho HS lớp 4 thông qua phân
môn chính tả.

11.

Kinh nghiệm dạy học phát triển từ
một bài toan cơ bản dạng đếm
hình và tìm trung bình cộng trong

18


bồi dưỡng học sinh giỏi toán lớp
4.
12.

Một số biện pháp rèn kĩ năng viết

Huyện


C

2014 - 2015

13.

chữ cho HS lớp 3.
Một số biện pháp giúp học sinh

Huyện

B

2015 -2016

lớp 2 giải bài toán có lời văn.

19



×