Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Thực trạng vê tình hình triển khai chính sách và thực hiện chương trình quốc gia về NCT giai đoạn 2010 – 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.5 KB, 20 trang )

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Liên Hợp Quốc đã dự báo, thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ già hóa. Dự báo cho thấy, tỷ
lệ NCT trên thế giới là 9% (1995) sau 30 năm tăng lên 14,9% (2025). Già hóa
dân số, một hiện tượng mang tính toàn cầu xảy ra ở khắp nơi và ảnh hưởng đến
mọi quốc gia, dân tộc. Do vậy, nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang quan tâm
đến vấn đề già hóa dân số. Việt Nam là quốc gia có dân số trẻ, cả trong khu vực
và trên phạm vi toàn thế giới, đến nay gần 10% dân số của Việt Nam đã ở độ
tuổi 60 và trên 60. Sau năm 2010, Việt Nam đã không còn là nước có dân số trẻ
khi có người cao tuổi chiếm trên 10% dân số và theo dự báo, năm 2025 khoảng
18% và năm 2050 chiếm gần 30% dân số cả nước.
Với Việt Nam, một quốc gia đang phát triển, dân số già hóa nhanh tạo áp lực cho
hệ thống cơ sở hạ tầng hiện có, hệ thống dịch vụ sức khỏe, giao thông đi lại, hệ
thống hưu trí cho NCT cũng như quan hệ gia đình, tâm lý, chăm sóc NCT và
đảm bảo chất lượng cuộc sống NCT…chắc chắn sẽ làm cho những vấn đề kinh
tế - xã hội, môi trường thêm trầm trọng và có nhiều biến động không thể lường
trước. Từ đó tạo ra những khó khăn, thách thức đối với nhà nước, xã hội, gia
đình với NCT. Để thích ứng với già hóa dân số, việc chuẩn bị các điều kiện cần
và đủ để đáp ứng nhu cầu của dân số già là một thách thức lớn đối với nhà lập
kế hoạch và hoạch định chính sách khi Việt Nam đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa
các dịch vụ y tế trong môi trường cuộc sống của nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước và địn hướng xã hội chủ nghĩa.Những năm gần đây Đảng
ta đặc biệt quan tâm chăm sóc NCT nhất là NCT có công với đất nước, người về
hưu, NCT không nơi nương tựa thông qua việc ban hành chính sách, văn bản,
quy phạm pháp luật, quy định chăm sóc NCT và mới đây nhất là Luật NCT đã
được ban hành tạo cơ sở pháp lý để nhà nước và toàn xã hội quan tâm đầy đủ,
đồng thời phát huy ngày càng tốt hơn vai trò của NCT trong đời sống xã hội.
Mặc dù Luật Người cao tuổi đã chú trọng rất nhiều đến những quyền lợi mà
người cao tuổi được hưởng, như chính sách phụng dưỡng, chăm sóc sức khỏe


NCT, chính sách bảo trợ xã hội… nhưng kết quả thực hiện trên thực tế chưa cao,


còn nhiều hạn chế, chưa đảm bảo được cuộc sống cho NCT. Bởi vậy, em đã
chọn đề tài “Thực trạng vê tình hình triển khai chính sách và thực hiện chương
trình quốc gia về NCT giai đoạn 2010 – 2015” là đề tài cho bài tiểu luận này.
I. Cơ sở lý luận CTXH với NCT
1. Khái quát chung về NCT
1.1. Khái niệm NCT
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về người cao tuổi. Trước đây, người ta thường
dùng thuật ngữ người già để chỉ những người có tuổi, hiện nay “người cao tuổi”
ngày càng được sử dụng nhiều hơn. Hai thuật ngữ này tuy không khác nhau về
mặt khoa học song về tâm lý, “người cao tuổi” là thuật ngữ mang tính tích cực
và thể hiện thái độ tôn trọng.
Theo quan điểm y học: Người cao tuổi là người ở giai đoạn già hóa gắn liền với
việc suy giảm các chức năng của cơ thể.
Về mặt pháp luật: Luật Người cao tuổi Việt Nam năm 2010 quy định: Người cao
tuổi là “Tất cả các công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên”.
Theo WHO: Người cao tuổi phải từ 70 tuổi trở lên
Một số nước phát triển như Đức, Hoa Kỳ… lại quy định người cao tuổi là những
người từ 65 tuổi trở lên. Quy định ở mỗi nước có sự khác biệt là do sự khác
nhau về lứa tuổi có các biểu hiện về già của người dân ở các nước đó khác nhau.
Những nước có hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe tốt thì tuổi thọ và sức khỏe của
người dân cũng được nâng cao. Do đó, các biểu hiện của tuổi già thường đến
muộn hơn. Vì vậy, quy định về tuổi của các nước đó cũng khác nhau.
1.2. Đặc điểm của NCT
Người cao tuổi thường ít nhiều có rối loạn về tâm lý, hoặc có những ưu tư, phiền
muộn khi cuộc sống thay đổi, đôi khi có biểu hiện tự xa lánh người khác. Những
trở ngại về tinh thần ở NCT thường biểu hiện bằng mặc cảm về giá trị của mình


trong đời sống và mặc cảm về việc phải nhờ đến sự giúp đỡ của người khác.
Người cao tuổi, do không còn tiếp tục làm công việc đã gắn bó trong nhiều năm,

nên thường có cảm giác hẫng hụt, trống trải. Với nhiều người, nghỉ hưu cũng
đồng nghĩa với sự thay đổi về địa vị xã hội, về vai trò trong xã hội và có thể
trong chính gia đình. Lúc này, Hội Người cao tuổi là tổ chức gắn bó mật thiết
nhất của những NCT. Hiện nay, 100% xã, phường, thị trấn có Hội Người cao
tuổi với 86% số người tham gia. Tổ chức hội tạo điều kiện cho NCT tham gia
các hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và khởi
xướng nhiều mô hình hoạt động phong phú, phát huy vai trò NCT như Câu lạc
bộ dưỡng sinh, Câu lạc bộ thơ, Nhóm vận động khuyến học, Hội Bảo thọ, v.v..
Các hội khác mà NCT tham gia (như Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội
Nông dân) cũng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động chăm sóc NCT và
nhận được sự ủng hộ của cộng đồng, của những người trẻ tuổi, người tình
nguyện. Tham gia xã hội và duy trì các mối quan hệ thân tình là một trong
những nhu cầu rất chính đáng của NCT. Tuy nhiên, với các mối quan hệ ngoài
gia đình, thân tộc, thì số NCT không có bạn bè thân thiết chiếm một tỷ lệ khá
cao. Người cao tuổi cũng nhận được sự tôn kính, biết ơn của thế hệ trẻ và họ còn
xem việc dành sự tôn trọng đối với thế hệ cha ông cũng chính là phương châm
sống với những câu thành ngữ như “kính lão đắc thọ” hay “thương già, già để
tuổi cho”. Điều này cũng khẳng định rằng, truyền thống đạo đức, nền tảng gia
đình, thuần phong mĩ tục của người Việt Nam vẫn được bảo tồn và phát huy.
1.3. Vấn đề già hóa dân số
Dân số nước ta đang già hóa với tốc độ nhanh do tuổi thọ bình quân ngày càng
tăng, trong khi tỷ suất sinh và tỷ suất chết giảm. Nếu năm 2009, số người cao
tuổi (NCT) từ 60 tuổi trở lên là 9% thì đến năm 2010, con số này là 9,4% (tăng
0,4%). Tốc độ này sẽ là thách thức lớn đối với các cấp, các ngành có liên quan
trong việc bảo đảm an sinh xã hội cho người cao tuổi. Theo TS Dương Quốc


Trọng, Tổng Cục trưởng Dân số (Bộ Y tế), số NCT tăng là thành tựu của sự
phát triển nhưng cũng đang đặt ra những khó khăn, thách thức.
Thứ nhất, già hóa dân số sẽ khiến cấu trúc gia đình thay đổi. Con người sống

lâu hơn, sinh ít con hơn và cũng ít quyền được lựa chọn chăm sóc hơn. Hiện tại,
dịch vụ chăm sóc sức khỏe, tinh thần cho người cao tuổi ở nước ta chưa phát
triển, đa số người cao tuổi vẫn sống nương tựa vào con cháu. Các chuyên gia lo
lắng, nếu nhịp độ già hóa dân số vẫn tăng nhanh đều như hiện nay thì chỉ trong
khoảng vài chục năm tới, người cao tuổi ở nước ta sẽ gặp khó khăn về vấn đề
chỗ ở.
Thứ hai, già hóa dân số khiến thời gian sống sau nghỉ hưu tăng lên, làm gia tăng
áp lực lên hệ thống y tế và hệ thống trợ cấp lương hưu. Đồng nghĩa với việc hệ
thống bảo trợ xã hội cần được cải thiện. Tuy nhiên việc này không dễ thực hiện
bởi ngân quỹ quốc gia còn hạn chế, hệ thống khám chữa bệnh chuyên khoa cho
người già chưa phát triển. Tuổi thọ trung bình của người dân cao, nhưng số năm
khỏe mạnh thấp cũng đang khiến người cao tuổi phải chịu gánh nặng về bệnh
tật. Trong khi đó, chi phí chăm sóc y tế cho một NCT cao gấp tám lần trẻ em.
Thứ ba, già hóa dân số sẽ khiến những thách thức kinh tế mới nổi lên. Cơ cấu
dân số trong độ tuổi lao động giảm đi, cơ cấu nghề nghiệp sẽ thay đổi, gánh
nặng kinh tế cho người lao động trẻ cũng cao hơn... Tất cả những hệ lụy đó nếu
không được giải quyết thỏa đáng sẽ là thách thức to lớn cho sự phát triển toàn
diện của đất nước trong tương lai không xa.
Ðáng chú ý, nước ta đang già hóa với một tốc độ chưa từng có trong lịch sử do
tuổi thọ bình quân ngày càng tăng, trong khi tỷ suất sinh và tỷ suất chết giảm.
Theo kết quả Tổng Ðiều tra dân số và Nhà ở ngày 1-4-2009, số người cao tuổi từ
60 tuổi trở lên là 9% thì đến năm 2010, con số này là 9,4% (tăng 0,4%). Tại thời
điểm này, nước ta đã chính thức bước vào giai đoạn ‘già hóa dân số’. Trong
tương lai, tốc độ già hóa tăng sẽ không phải 0,4% nữa mà sẽ là 0,5% – 0,6% và
đến năm 2025, nước ta sẽ bước vào thời kỳ dân số ‘già’. Theo thống kê, số


lượng NCT đang tăng nhanh hơn bất kỳ nhóm dân số nào khác. Năm 1999, số
người già trên 100 tuổi là ba nghìn cụ thì năm 2009 là 7.200 cụ. Thời gian để
chuyển đổi từ cơ cấu dân số ‘già hóa’ sang cơ cấu dân số ‘già’ ở nước ta sẽ ngắn

hơn so với các quốc gia có trình độ phát triển cao. Thí dụ: Nếu Thụy Ðiển phải
mất tới 85 năm, Nhật Bản 26 năm, Thái-lan là 22 năm để chuyển từ ‘già hóa’
sang ‘già’ thì dự báo ở nước ta, thời gian này là khoảng 20 năm.
Già hóa dân số là xu hướng tất yếu khi kinh tế – xã hội mỗi quốc gia ngày một
phát triển. Theo quy luật phát triển đó, nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn trong việc cải thiện đáng kể về y tế, dinh dưỡng và phát triển kinh tế – xã
hội. Tuy nhiên, theo Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), già hóa dân số nhanh
chóng cũng sẽ tạo ra những thách thức to lớn đối với Việt Nam. Ở nước ta, cơ
cấu dân số già đến sớm, khi kinh tế đất nước mới đang trong thời kỳ thoát
nghèo. Do đó, các chế độ, chính sách nhằm bảo đảm cho NCT sống vui, sống
khỏe, sống có ích, được chăm sóc chu đáo là một bài toán khó khăn.
2. Công tác xã hội với người cao tuổi.
2.1. Công tác xã hội với người cao tuổi trên thế giới
Có thể thấy tình trạng NCT ở các nước đang phát triển và các nước phát triển có
sự khác nhau đáng kể về phân bố dân số: trong khi ở các nước phát triển thì số
NCT sống ở thành thị, còn số NCT ở các quốc gia đang phát triển chủ yếu sống
ở nông thôn. Như dự báo vào năm 2025, các nước phát triển thì tỷ lệ NCT sống
ở thành thị sẽ tăng lên 82%, còn các nước đang phát triển chỉ chiếm 50% số
NCT sống ở thành thị. Từ sự khác nhau về phân bố dân số sẽ dẫn đến sự khác
nhau về chính sách đối với NCT ở các nước phát triển và đang phát triển.
Trong thực hiện các chính sách xã hội, trợ giúp những đối tượng khó khăn, các
nước phát triển trên thế giới đã sớm áp dụng các phương pháp khoa học, mang
tính chuyên nghiệp và vì vậy, kết quả đạt được cũng mang tính bền bững, hiệu
quả cao. Phương pháp này được thực hiện đầu tiên ở các nước đi trước hàng
trăm năm nay và ngày càng phát triển và hoàn thiện. Đó là công tác xã hội


chuyên nghiệp. Điểm khác nhau cơ bản ở Công tác xã hội chuyên nghiệp với
các phương pháp trợ giúp truyền thống, nhân đạo ở chỗ đây chính là "Nghề giúp
người khác tự giúp mình".

Trên thế giới, nhất là ở các nước phát triển, nghành công tác xã hội đóng vai trò
quan trọng trong việc tham gia vào xây dựng chính sách và điều hành các hoạt
động an sinh cho NCT thông qua hai hình thức sau:
Hình thức thứ nhất: chăm sóc NCT trong các cơ sở chăm sóc người già hoặc
trung tâm dưỡng lão ở các nước cũng giống như hình thức chăm sóc NCT cố
đơn trong các cơ sở Bảo trợ xã hội tại Việt Nam nhưng các dịch vụ chăm sóc
phong phú. Việc thực hiện các dịch vụ ngoài NVCTXH còn có sư tham gia của
nhiều nhân viên chuyên nghiệp khác như bác sĩ, cán bộ điều dưỡng, cán bộ dinh
dưỡng, chuyên viên tham vấn tâm lý…
Hình thức thứ hai là cung cấp dịch vụ chăm sóc NCT tại gia đình và cộng đồng.
gần đây xu hướng thứ hai được quan tâm nhiều hơn. Trong các dịch vụ này
thường là cơ sở xã hội tiếp nhận NCT và cử NVCTXH đến gia đình họ để trực
tiếp thực hiện các phương pháp như vãng gia, đánh giá, xác định vấn đề, giúp
xây dựng kế hoạch thiết lập mối quan hệ giữa NCT và các thành viên gia đình,
giúp họ gắn bó và tự giác tham gia các sinh hoạt cộng đồng; tham vấn, điều
chỉnh các mối quan hệ giữa NCT và các thành viên trong gia đình, cung cấp các
dịch vụ tập huấn, nâng cao kiến thức, kỹ năng chăm sóc NCT cho các thành viên
trong gia đình…
2.2. Công tác xã hội với NCT ở Việt Nam
Mặc dù là quốc gia có dân số trẻ, cả trong khu vực và trên phạm vi toàn thế giới,
đến nay gần 10% dân số của Việt Nam đã ở độ tuổi 60 và trên 60. Sau năm
2010, Việt Nam đã không còn là nước có dân số trẻ khi có người cao tuổi chiếm
trên 10% dân số và theo dự báo, năm 2025 khoảng 18% và năm 2050 chiếm gần
30% dân số Người cao tuổi có những ưu thế về những đóng góp của họ với gia


đình, xã hội, về kinh nghiệm sống và khả năng tiếp tục đóng góp vào quá trình
phát triển. Tuy nhiên, người cao tuổi cũng có nhiều vấn đề cần được quan tâm
như: vấn đề sức khỏe, đời sống vật chất, tham gia giao thông, nuôi cháu thay cha
mẹ trẻ do các nguyên nhân khác nhau…Vì vậy, để trợ giúp người cao tuổi cần

có cán bộ xã hội được đào tạo một cách chuyên nghiệp qua trường, lớp.cả nước.
Để Nghề Công tác xã hội đối với người cao tuổi ở Việt Nam được phát triển và
phổ biến rộng rãi về lâu dài cần nằm trong tiến trình chung phát triển công tác
xã hội và được coi như một nghề ở Việt Nam, theo các bước đi của đề án đã
được Chính phủ phê duyệt
Bước đi đầu tiên có thể là các hoạt động nâng cao năng lực cho những người
đang làm việc với người cao tuổi, cung cấp cho họ một số kiến thức, kỹ năng cơ
bản trong làm việc với người cao tuổi
Bên cạnh đó, có thể xem xét, kết hợp đào tạo cán bộ xã hội trong lĩnh vực y tế
với công tác xã hội với người cao tuổi. Chú trọng công tác quản lý ca và tham
vấn trong làm việc với người cao tuổi. Đa dạng hóa các loại dịch vụ trợ giúp
người cao tuổi. Đồng thời thiết kế các chương trình đào tạo chuyên sâu về công
tác xã hội với người cao tuổi.
Trong điều kiện già hóa dân số, nhiều vấn đề đặt ra đối với người cao tuổi trong
điều kiện kinh tế- xã hội đặc thù ở Việt Nam, cần sớm nhận thức về sự cần thiết
phát triển Công tác xã hội với người cao tuổi và tạo các điều kiện cần thiết cho
sự phát triển này.
II. Cơ sở thực tiễn
1. Quan điểm và định hướng của chính phủ về vấn đề NCT
Sau khi Hội người cao tuổi Việt Nam được thành lập (10/5/1995), Ban Bí thư
TW đã ban hành Chỉ thị 59/CT-TW “Về chăm sóc người cao tuổi”, quy định: “
Việc chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người cao tuổi là trách nhiệm
của Đảng, nhà nước và toàn xã hội. Hội người cao tuổi Việt Nam mới được
thành lập, cần được nhanh chóng ổn định về tổ chức và mở rộng hoạt động ở cơ


sở. Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc, các ban đảng, các đoàn thể nhân dân cần giúp
đỡ Hội hoạt động có hiệu quả thiết thực, phối hợp với Hội trong việc vận động
gia đình và xã hội chăm sóc, bồi dưỡng, phát huy người cao tuổi phục vụ công
cuộc đổi mới. Đảng đoàn Quốc hội, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các

ban của Đảng, các ban cán sự đảng Chính phủ, Bộ Lao động- Thương binh và
Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Tư pháp phối hợp với Hội nghiên cứu, soát xét các chính
sách luật pháp hiện hành, đề xuất những văn bản pháp quy của nhà nước nhằm
bảo vệ, chăm sóc và phát huy người cao tuổi. Nhà nước cần dành ngân sách để
giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề chăm sóc người cao tuổi. Trước
hết cần quan tâm chăm sóc những người cao tuổi có công, cô đơn không nơi
nương tựa, tàn tật và bất hạnh, nhanh chóng xoá bỏ tình trạng người già lang
thang trên đường phố, ngõ xóm. Đề nghị Chính phủ hỗ trợ Hội người cao tuổi
Việt Nam về kinh phí và điều kiện hoạt động”.
Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng đã nêu: “Đối với các lão thành cách
mạng, những người có công với nước, các cán bộ nghỉ hưu, những người cao
tuổi thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao đời
sống tinh thần và vật chất trong điều kiện mới; đáp ứng nhu cầu thông tin, phát
huy khả năng tham gia đời sống chính trị của đất nước và các hoạt động xã hội;
nêu gương tốt, giáo dục lí tưởng và truyền thống cách mạng cho thanh niên,
thiếu niên…”.
Thông báo số 12-TB/TW ngày 13 tháng 6 năm 2001 đã khẳng định Hội người
cao tuổi Việt Nam là tổ chức xã hội của người cao tuổi, có các nhiệm vụ đã được
quy định cụ thể tại Pháp lệnh người cao tuổi; Hội có Ban đại diện ở cấp tỉnh và
cấp huyện; Cấp tỉnh có từ 2 đến 3, cấp huyện có từ 1 đến 2 cán bộ chuyên trách
đồng thời khẳng định: “ Nhà nước tiếp tục trợ cấp kinh phí họat động cho Hội.
Các cơ quan có chức năng của Nhà nước tạo thuận lợi, bảo đảm cấp kinh phí kịp
thời cho Hội”.


Trong bài phát biểu tại cuộc gặp mặt nhân ngày quốc tế NCT (01.10.2002) do
TW Hội người cao tuổi Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, Tổng Bí thư Nông Đức
Mạnh đã nói: “…Chưa bao giờ lực lượng người cao tuổi nước ta lại đông đảo
như hiện nay. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tự hào về lớp người cao tuổi nước
ta. Với uy tín cao, sự mẫu mực về phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống cùng

với vốn tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng lao động và nghiệp vụ phong phú, đa
dạng của mình, người cao tuổi thực sự là một bộ phận hợp thành nguồn lực nội
sinh quý giá của cả dân tộc. Chúng ta tôn trọng, bồi dưỡng và phát huy nguồn
lực ấy”…
Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng ghi rõ: “Vận động toàn dân tham gia
các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với lão thành cách
mạng, những người có công với nước, người hưởng chính sách xã hội. Chăm
sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những người già cô đơn,
không nơi nương tựa…”.
Như vậy, từ Chỉ thị 59, các văn kiện Đại hội Đảng và Thông báo số 12 của Ban
bí thư TW Đảng đều khẳng định: Người cao tuổi là nền tảng của gia đình, là tài
sản vô giá, nguồn lực quan trọng cho sự phát triển xã hội, vì thế, Chăm sóc và
phát huy tốt vai trò người cao tuổi là thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và
đạo đức người Việt Nam, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân vì sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2.

Luật pháp, chính sách, chương trình, dịch vụ với NCT ở Việt Nam

đang hiện hành
2.1. Luật pháp liên quan đến người cao tuổi
Quan điểm trên của Đảng và Bác Hồ được thể hiện trong Hiến pháp năm 1946,
Điều 14 quy định: “Những công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì
được giúp đỡ”. Điều 32 của Hiến pháp 1959 ghi rõ: “Giúp đỡ người già, người
đau yếu và tàn tật. Mở rộng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm sức khoẻ và cứu trợ xã
hội…”. Điều 64 của Hiến pháp 1992 quy định: “…Cha mẹ có trách nhiệm nuôi


dạy con cái. Con cái có trách nhiệm kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ… ”.
Và Điều 87 Hiến pháp ghi rõ: “Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi

nương tựa được nhà nước và xã hội giúp đỡ”.
Luật Hôn nhân và gia đình, khoản 2 Điều 36 quy định:“Con có nghĩa vụ và
quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn
tật…Và khoản 2 Điều 47 Luật này quy định: “Cháu có bổn phận… chăm sóc,
phụng dưỡng ông bà nội, ngoại”.
Luật bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân đã dành một chương riêng: Bảo vệ sức
khoẻ người cao tuổi … trong đó, khoản 1 Điều 41 của Luật này quy định:“người
cao tuổi … được ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh, được tạo điều kiện thuận lợi để
đóng góp cho xã hội phù hợp với sức khoẻ của mình”.
Luật Lao động quy định tại Điều 124: “Người sử dụng lao động có trách nhiệm
quan tâm chăm sóc sức khoẻ người lao động cao tuổi, không được sử dụng người lao động cao tuổi làm Điều 151 của Bộ luật hình sự quy định: “Tội ngược đãi
hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng
mình” và Điều 152 quy định “Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng”.
Bên cạnh đó, luật cũng quy định một số tình tiết giảm nhẹ khi “người phạm tội
là người già”.
2.2. Chính sách của nhà nước Việt Nam về người cao tuổi
Giai đoạn từ năm 1945 – 1995: sự quan tâm đến NCT được thể hiện ở trong một
số nội dung của các văn bản pháp quy có liên quan như Hiến pháp năm 1946,
1980, 1992, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật lao
động, Pháp lệnh về người có công với cách mạng. Chính phủ cũng đã ban hành
một số chính sách có nội dung liên quan đến NCT như: Nghị định 218/CP năm
1961 về thành lập chế độ bảo hiểm xã hội cho khu vực nhà nước, Nghị định
05/CP năm 1994 về điều chỉnh trợ cấp phúc lợi xã hội cho người cô đơn không
nơi nương tựa…


Giai đoạn 1995 – 1999: thành lập hội NCT Việt Nam năm 1995 và hội đã tiến
hành đại hội lần thứ nhất và đã triển khai nhiều hoạt động về NCT. Một số nội
dung chính sách liên quan đến NCT đã được Quốc hội và Chính phủ ban hành
như Luật dân sự (điều 37), Luật hình sự năm 1997, Pháp lênh người tàn tật,

Nghị định 19/CP năm 1995 về thành lập bảo hiểm xã hội, Chỉ thị 117/TTg về
khuôn khổ chính sách chi người già và hội NCT, Thông tư 06-BYT/TT về chăm
sóc sức khỏe người già.
Giai đoạn từ năm 2000 – 2009: ban hành Pháp lênh về NCT năm 2000 và kế
hoạch hành động quốc gia về NCT năm 2005 – 2010. Để tiếp tục hoàn thiện, bổ
sung chính sách và hướng dẫn triển khai thi hành pháp lệnh NCT, Chính phủ đã
ban hành 07 Nghị định, trong đó Nghị định số 30/2002/NĐ-CP ngày 26/3/2002
của chính phủ về việc quy định và hướng dẫn một số điều của Pháp lệnh NCT;
Nghị định số120/CP của Chính phủ về việc sửa đổi Điều 9 của Nghị định số
30/CP năm 2002; Nghị định của Chính phủ số 121/CP “Về chế độ, chính sách
đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn” năm 2003 ghi rõ chế độ đối
với Chủ tịch Hội người cao tuổi cấp xã; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số
141, năm 2004 “Về việc thành lập Uỷ ban Quốc gia về người cao tuổi Việt
Nam”; Quyết định số 47, năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính “Về việc ban
hành quy chế quản lí và sử dụng Quỹ chăm sóc người cao tuổi”; Nghị định số
67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 của chính phủ về chính sách trợ giúp các đối
tượng bảo trợ xã hội, trong đó có NCT. Thủ tướng chính phủ ban hành 03 quyết
định và các Bộ, Nghành đã ban hành hàng chục thông tư hướng dẫn liên quan
đến chế độ, chính sách đối với NCT…
Giai đoạn từ năm 2010: Luật NCT có hiệu lực vào 1/7/2010 và chính phủ, các
Bộ, nghành ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện Luật về NCT.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 và Quyết
định số 1781/QĐ-TTg ngày 23/11/2012 về phê duyệt Chương trình hành động
quốc gia về NCT Việt Nam giai đoạn 2012-2020. Các Bộ, ban ngành liên quan


đã ban hành 07 Thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các chính sách
về bảo trợ xã hội, chăm sóc sức khỏe, miễn giảm giá vé, phí tham gia giao
thông, văn hóa thể dục thể thao, các hoạt động du lịch, chúc thọ mừng thọ NCT;
Nghị định số 136/2013/NĐ-CP; 25/4/2015, Thủ tướng chính phủ ban hành quyết

định số 544/QĐ-TTg về việc lấy tháng 10 hàng năm là tháng hành động vì NCT
Việt Nam.
III. Thực trạng về tình hình triển khai các chính sách và thực hiện chương
trình quốc gia về NCT giai đoạn 2010 – 2015
1. Thực trạng đời sống của NCT
Hiện cả nước có khoảng 7,9 triệu NCT chiếm 9,45% dân số, trong đó có 3,98
triệu người từ 60-69 tuổi (4,51% DS), 2,79 triệu người 70-79 tuổi (3,22% DS),
1,17 triệu người trên 80 tuổi (1,93% DS) và khoảng 9.380 người trên 100 tuổi.
Có 72,9% NCT sống ở nông thôn và 27,1% sống ở thành thị. 79% NCT sống
với con cháu có cuộc sống vật chất, tinh thần tương đối ổn định, còn 21% sống
độc thân hay chỉ có hai vợ chồng già sống với nhau. Những NCT này đang rất
cần sự quan tâm, chăm sóc của cộng đồng để đảm bảo được những nhu cầu thiết
yếu trong cuộc sống.
Trong một báo cáo của Ngân hàng Thế giới cho thấy, nhóm 10% dân số có mức
sống cao nhất kiểm soát 29% thu nhập của cả nước, trong khi nhóm 10% dân số
có mức sống thấp nhất ( trong đó NCT chiếm tỷ lệ không nhỏ) chỉ kiểm soát
3,5% tổng thu nhập. Tỷ lệ chi tiêu cho một số lĩnh vực xã hội trong tổng chi tiêu
của Chính phủ, bao gồm trợ cấp hưu trí và trợ cấp xã hội dành cho NCT trong
những năm qua ngày càng giảm.
Về mặt xã hội, do ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế, không chỉ ở thành thị mà
ở cả nông thôn, mô hình gia đình nhiều thế hệ bắt đầu chuyển thành gia đình hạt
nhân, không có người già. Điều này dẫn đến một hệ lụy là một bộ phận NCT
đang sống cô độc. Mặt khác, việc di cư tìm kiếm việc làm của con cái đã trưởng
thành cũng ảnh hưởng tiêu cực tới cuộc sống của NCT. Ngày càng có nhiều


người trẻ tuổi rời thôn quê để đi tìm công việc được trả lương, và điều này đang
giảm đi sự chăm sóc, hỗ trợ của gia đình truyền thống đối với cha mẹ già. Đó là
chưa kể đến số lượng không nhỏ người già phải thay con chăm sóc cháu khi họ
ra thành thị tìm việc làm… Trên thực tế, hiện nay, đa số NCT nông thôn, đặc

biệt là phụ nữ, chỉ cho phép mình được nghỉ ngơi khi thật sự không thể làm gì
được nữa. Nhiều người đã chân chậm mắt mờ mà vẫn cố gắng làm những công
việc giản đơn để giúp con cháu…
Trên phương diện nhân khẩu học, trong quần thể NCT có sự chênh lệch về cơ
cấu giới tính và nhóm tuổi càng cao thì sự chênh lệch này càng lớn do tuổi thọ
của nữ giới cao hơn nam giới, dẫn đến tình trạng “nữ hóa dân số cao tuổi”. Theo
Điều tra quốc gia về người cao tuổi Việt Nam năm (VNAS) 2011, tỷ lệ góa
chồng của phụ nữ (50,7%) gấp 3,6 lần tỷ lệ góa vợ của nam giới (14%) và tỷ lệ
nam/ nữ ở các lứa tuổi 60 - 69, 70 - 79 và trên 80 lần lượt là 100/127, 100/163
và 100/194. Về điều kiện sống và việc làm, tỷ lệ NCT vẫn sống ở khu vực nông
thôn năm 2009 là 72,5% và năm 2012 là 68,2% với công việc chủ yếu là làm
nông nghiệp. Hiện vẫn có trên 59% số người từ 60 đến 69 tuổi và khoảng 41%
người trên 70 tuổi vẫn đang làm việc, 56,8% trong lĩnh vực nông nghiệp. Đáng
chú ý là, có rất nhiều NCT, đặc biệt là người từ 60 - 69 tuổi, có nhu cầu làm
việc, nhưng không có việc làm do không tìm được công việc phù hợp, do phải
làm việc nhà và điều kiện về sức khỏe. Do điều kiện lịch sử và những khó khăn
hiện tại, khả năng tích lũy vật chất của NCT còn hạn chế. Có tới 70% số NCT
không có tích lũy vật chất, 18% số người thuộc hộ gia đình nghèo . Người cao
tuổi cũng đang chịu tác động của sự thay đổi cấu trúc gia đình khi tỷ lệ hộ gia
đình có cha mẹ sống chung với các con đã giảm rõ rệt, từ 80% năm 1993 theo
điều tra về mức sống dân cư xuống còn khoảng 69,5% năm 2011 (theo VNAS).
Thay vào đó là sự gia tăng số hộ gia đình chỉ có ông bà sống với các cháu (gọi là
gia đình “khuyết thế hệ” có nguyên nhân từ sự di cư của người lao động trẻ tuổi
từ nông thôn ra thành thị), từ 6,8% (Báo cáo điều tra mức sống dân cư năm


2010) đến 7,1% (Báo cáo VNAS). Thực trạng này có thể làm cho cuộc sống của
NCT càng thêm khó khăn hơn, kể cả về kinh tế, xã hội và tâm lý.
2. Thực trạng thực hiện chính sách với NCT
2.1. Kết quả đạt được

Báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cho biết, hiện nay cả nước có
hơn 9,4 triệu người cao tuổi, chiếm 10,45% dân số. Năm 2014, các tỉnh, thành
phố đã chủ động trong triển khai thực hiện các chính sách đối với người cao
tuổi. 100% người cao tuổi đủ điều kiện được hưởng trợ cấp đều được nhận trợ
cấp đầy đủ và đúng thời gian theo quy định. Tính đến cuối năm 2015, cả nước đã
giải quyết trợ cấp xã hội hàng tháng cho 1.454 ngàn người cao tuổi trên 80 tuổi
không có lương hưu; người cao tuổi cô đơn thuộc hộ nghèo 85 ngàn người;
Cả nước có khoảng 2,7 triệu người cao tuổi đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo
hiểm xã hội và 1,5 triệu người cao tuổi hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; 49/63
tỉnh, thành phố thành lập khoa Lão khoa trong bệnh viện đa khoa cấp tỉnh, hơn
60% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế. Các cấp hội Người cao tuổi đẩy mạnh
phong trào thi đua yêu nước “Tuổi cao – Gương sáng” với những nội dung thiết
thực, phát huy được vai trò của người cao tuổi trên nhiều lĩnh vực
Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách, một số địa phương có điều kiện
ngân sách đã nâng mức trợ cấp xã hội lên cao hơn mức qui định chung của Nhà
nước như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Quảng Ninh, Bà Rịa- Vũng
Tàu. Riêng tỉnh Bắc Ninh đã hạ tuổi hưởng chế độ trợ cấp xuống tuổi 75 để
NCT từ 75-79 được hưởng mức trợ cấp bằng 50% so với mức trợ cấp qui định
chung. Đây có thể coi là những bước đi thử nghiệm để tiếp tục thực hiện mở
rộng đối tượng hưởng để phù hợp với xu hướng già hóa dân số và khả năng
ngân sách của Nhà nước, hướng đến mục tiêu bảo đảm mức sống tối thiểu cho
mọi NCT trên phạm vi cả nước.
Bên cạnh đó, hệ thống các cơ sở BTXH, Trung tâm CTXH ngày càng phát triển
cả về số lượng và chất lượng hoạt đọng, trong đó có các cơ sở BTXH ngoài Nhà


nước tiếp tục tăng nhanh; sự tham gia của cộng đồng vào công tác TGXH ngày
càng nhiều. Đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên CTXH ngày càng được nâng
cao về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ hoạt động mang tính chuyên nghiệp hơn.
Cả nước hiện có 34 tỉnh, thành phố thành lập và xây dựng mô hình Trung tâm

CTXH trên cơ sở nâng cấp, chuyển đổi cơ sở BTXH, 5 tỉnh, thành phố thành
lập, xây dựng mới Trung tâm CTXH. Các Trung tâm này đã cung cấp dịch vụ
trợ giúp cho hàng chục ngàn lượt đối tượng cần sự bảo vệ khẩn cấp, trẻ em,
người cao tuổi, NKT... Nhiều tỉnh, thành phố đã phê duyệt kế hoạch thành lập
mạng lưới cộng tác viên CTXH theo Đề án 32.
Có thể nói, trong giai đoạn 2011- 2014, các chính sách TGXH ngày càng toàn
diện hơn, bao trùm các nhu cầu cơ bản của đối tượng. Tư duy, nhận thức, quan
điểm về TGXH đã chuyển từ nhân đạo sang việc bảo đảm quyền được an sinh
của người dân. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo đồng thời huy động được sự tham
gia của cộng đồng. Mặc dù nguồn thu ngân sach còn khó khăn song Chính phủ
vẫn ưu tiên bố trí nguồn lực cho bảo đảm ASXH, diện trợ giúp ngày càng được
mở rộng, mức trợ giúp từng bước được nâng cao. Một số địa phương tự cân đối
được ngân sách đã chủ động điều chỉnh nâng mức trợ cấp cho đối tượng cao hơn
mức chuẩn chung của cả nước.

2.2. Những khó khăn, bất cập trong quá trình triển khai chính sách
Trong quá trình thực hiện trợ cấp xã hội hàng tháng cho NCT cho thấy, mục tiêu
đảm bảo mức sống tối thiểu vẫn chưa đạt được do mức độ bao phủ đối tượng
còn thấp, mức hưởng chưa đáp ứng nhu cầu sống của NCT. Không chỉ vậy, tốc
độ tăng trưởng kinh tế trong hơn 2 thập kỷ qua mặc dù tương đối cao và ổn định
nhưng diễn biến kinh tế những năm gần đây lại làm cho lạm phát tăng cao cũng
đã ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân, làm giảm đi ý nghĩa của các


chính sách trợ giúp xã hội, nhất là đối với những nhóm đối tượng dễ bị tổn
thương, trong đó có NCT, NCT đặc biệt khó khăn, NCT thuộc đồng bào dân tộc
thiểu số nghèo. Bên cạnh đó, hiện nay, cả nước mới có gần 2 triệu người hưởng
chế độ lương hưu bảo hiểm xã hội và hơn 1,5 triệu người hưởng trợ cấp xã hội
hàng tháng. Như vậy, có gần 5 triệu NCT hầu như chưa có khoản thu nhập
thường xuyên nhằm đảm bảo cuộc sống và an sinh xã hội.

Hiện nay, công tác tổ chức các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho NCT tại cộng
đồng còn ít. Ở nhiều địa phương, các hoạt động này chủ yếu mang tính đơn lẻ,
tự phát. Việc tổ chức các câu lạc bộ NCT, câu lạc bộ dưỡng sinh… sẽ rất có ích
cho sức khỏe của họ, song hình thức này còn nhiều hạn chế và bị chi phối bởi
kinh phí hoạt động hạn hẹp và đối tượng tổ chức. Hơn nữa, công tác khám, chữa
bệnh cho NCT vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Tình trạng các cụ phải tự bỏ
tiền để khám chữa bệnh vẫn còn phổ biến, do vậy chi phí khám chữa bệnh đã,
đang là một gánh nặng cho NCT và gia đình. Chính vì vậy, việc thành lập các
trung tâm Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi (CSSKNCT) để phục vụ nhu cầu
được chăm sóc sức khỏe toàn diện, rèn luyện nâng cao sức khỏe về thể chất và
tinh thần, khám phát hiện và điều trị bệnh kịp thời của NCT là rất cần thiết.
Nhưng hiện nay, tình trạng thiếu hụt nhân lực chăm sóc NCT đang gây khó khăn
cho các trung tâm CSSKNCT. Do ở Việt Nam có nhiều người quan niệm chăm
sóc NCT chưa phải là một nghề, nên người điều dưỡng không được trang bị về
tâm lý, kỹ năng tiếp cận, chăm sóc người già.
Thêm vào đó là công tác nắm, quản lý đối tượng, quản lý các cơ sở
TGXH, nhất là cơ sở ngoài công lập ở một số nơi còn hạn chế, còn không ít cơ
sở điều kiện chăm sóc chưa đảm bảo quy định của pháp luật nhưng chưa nhận
được sự quan tâm, hỗ trợ từ phía địa phương. Không ít địa phương triển khai
thực hiện hiện các đề án, các chương trình hành động của Chính phủ, chỉ đạo
của Bộ còn chậm; một số địa phương đã triển khai nhưng còn lúng túng, chưa có
kết quả rõ nét. Ngoài ra, một số địa phương thiếu kiểm tra việc thực hiện chính


sách TGXH của cơ sở nên để xảy ra các vụ việc thực hiện sai chính sách, ăn bớt
tiền trợ cấp của đối tượng mà phải thông qua báo chí mới phát hiện được.
Một số nơi cấp ủy, chính quyền địa phương, cơ quan chưa xác định rõ trách
nhiệm trong thực hiện chính sách pháp luật đối với người cao tuổi; chưa chủ
động lồng ghép hoạt động của ngành, địa phương với công tác người cao tuổi.
Nhiều tỉnh không hướng dẫn và chưa triển khai thực hiện chăm sóc sức khỏe

ban đầu cho người cao tuổi; chưa có quy định, hướng dẫn triển khai thực hiện
giảm giá vé tham quan danh lam thắng cảnh với người cao tuổi; Việc thành lập
Quỹ chăm sóc, phát huy vai trò người cao tuổi còn gặp khó khăn…
Mặc dù hệ thống văn bản hướng dẫn Luật đã ban hành tương đối đồng bộ, tuy
nhiên một số văn bản chậm được ban hành gây ra những khó khăn cho các địa
phương trong quá trình triển khai thực hiện. Một số chính sách, quy định chưa
phù hợp, chế độ thấp. Cụ thể, tuổi hưởng trợ cấp xã hội quy định đủ 80 tuổi quá
cao, mức chuẩn trợ giúp xã hội 270 nghìn còn quá thấp; Quy định về miễn giảm
phí giao thông, vui chơi giải trí chưa mang tính thực thi cao…
Cùng với những thành tựu đạt được cũng có không ít khó khăn phải đối mặt. Tỷ
lệ người cao tuổi đến khám, chữa bệnh, được lập hồ sơ quản lý sức khỏe định kỳ
tại y tế tuyến cơ sở còn rất thấp. Nhiều bệnh viện tuyến huyện chưa tổ chức
được khoa lão khoa; Người cao tuổi gặp nhiều khó khăn để tiếp cận các dịch vụ
y tế khi ốm đau bệnh tật, đặc biệt là người cao tuổi nghèo, người cao tuổi ở vùng
sâu vùng xa, giao thông đi lại rất khó khăn, các cơ sở y tế thường thiếu thốn về
thiết bị và đội ngũ y, bác sỹ
Có đến 75% người cao tuổi được khảo sát cho biết đã gặp ít nhất một khó khăn
nào đó khi sử dụng thẻ BHYT đi khám chữa bệnh. Khó khăn được nhiều người
cao tuổi nhắc đến nhất là phải chờ đợi lâu (49,5%), đi lại khó khăn (26,4%), thái
độ của cán bộ y tế chưa tốt (15,4%), không được hướng dẫn về quy trình, thủ tục
(13,3%). Tỷ lệ người cao tuổi ở khu vực thành thị gặp khó khăn khi đi khám
chữa bệnh bằng thẻ BHYT cao hơn ở khu vực nông thôn (77,1% so với 58,2%).


Việc chăm sóc đời sống người cao tuổi về vật chất, tinh thần chưa đáp ứng yêu
cầu đặt ra, nhất là ở các xã/phường còn khó khăn, phải dựa chủ yếu vào nguồn
ngân sách hỗ trợ từ cấp trên.
IV. Đề xuất kiến nghị, giải pháp với phương pháp tiếp cận nghề CTXH
trong bối cảnh Việt Nam hiện nay
1. Về chính sách

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật liên quan đến thực hiện Luật
Người cao tuổi; Nghiên cứu, điều chỉnh các quy định về trợ giúp và mức trợ
giúp, đơn giản hóa thủ tục hành chính, đảm bảo mức sống tối thiểu cho nhóm
NCT dễ bị tổn thương như người cao tuổi thuộc hộ nghèo, người cao tuổi thuộc
hộ cận nghèo, người cao tuổi khuyết tật, người cao tuổi là phụ nữ; Tăng cường
chính sách huy động cộng đồng tham gia chăm sóc và phát huy vai trò của người
cao tuổi.
Hoàn thiện hệ thống tổ chức của cơ quan quản lý của Nhà nước về NCT ở các
cấp từ TW đến địa phương
Tăng cường sự quản lý, giám sát của các bộ, nghành trong quá trình triern khai
chương trình, chính sách chăm sóc NCT, nhất là sự tham gia của Hội NCTtaij
địa phương trong quá trình giám sát thực hiện Luật NCT. Đẩy mạnh sự phối hợp
trong công tác chăm sóc NCT.
Tăng cường công tác tuyên truyền, chuyển đổi từ tuyên truyền giáo dục sang
sang truyền thông chuyển đổi hành vi có lợi cho toàn xã hội trong công tác bảo
vệ, chăm sóc NCT. Đặc biệt, cần đẩy mạnh truyền thông vân động nâng cao
nhận thức của lãnh đạo chính quyền, các nhà hoạch định chính sách.
2.

Về phát triển nghề CTXH trong lĩnh vực làm việc với NCT

Người cao tuổi có những ưu thế về những đóng góp của họ với gia đình, xã hội,
về kinh nghiệm sống và khả năng tiếp tục đóng góp vào quá trình phát triển. Tuy
nhiên, người cao tuổi cũng có nhiều vấn đề cần được quan tâm như: vấn đề sức


khỏe, đời sống vật chất, tham gia giao thông, nuôi cháu thay cha mẹ trẻ do các
nguyên nhân khác nhau…Vì vậy, để trợ giúp người cao tuổi cần có cán bộ xã
hội được đào tạo một cách chuyên nghiệp qua trường, lớp.
Để Nghề Công tác xã hội đối với người cao tuổi ở Việt Nam được phát triển và

phổ biến rộng rãi về lâu dài cần nằm trong tiến trình chung phát triển công tác
xã hội và được coi như một nghề ở Việt Nam, theo các bước đi của đề án đã
được Chính phủ phê duyệt. Bước đi đầu tiên có thể là các hoạt động nâng cao
năng lực cho những người đang làm việc với người cao tuổi, cung cấp cho họ
một số kiến thức, kỹ năng cơ bản trong làm việc với người cao tuổi. Bên cạnh
đó, có thể xem xét, kết hợp đào tạo cán bộ xã hội trong lĩnh vực y tế với công
tác xã hội với người cao tuổi. Chú trọng công tác quản lý ca và tham vấn trong
làm việc với người cao tuổi. Đa dạng hóa các loại dịch vụ trợ giúp người cao
tuổi. Đồng thời thiết kế các chương trình đào tạo chuyên sâu về công tác xã hội
với người cao tuổi.
Trong điều kiện già hóa dân số, nhiều vấn đề đặt ra đối với người cao tuổi trong
điều kiện kinh tế- xã hội đặc thù ở Việt Nam, cần sớm nhận thức về sự cần thiết
phát triển Công tác xã hội với người cao tuổi và tạo các điều kiện cần thiết cho
sự phát triển này.

Danh mục tài liệu tham khảo
1.
2.
3.
4.

Giáo trình CTXH với NCT: PGS.TS Nguyễn Thị Kim Hoa chủ biên
Mạng CTXH Việt Nam: www.socialwork.vn
Hội thảo về pháp lệnh NCT của Bộ LĐ – TBXH
www.molisa.gov.vn

danh mục chữ viết tắt
1.
2.
3.

4.
5.

CTXH : công tác xã hội
NCT: người cao tuổi
BHYT: bảo hiểm y tế
CSSKNCT: chăm sóc sức khỏe người cao tuổi
ASXH: an sinh xã hội



×