Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân – nội dung và giá trị (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.09 KB, 25 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*****

VŨ THỊ KIỀU LY

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ KẾT HỢP GIỮA ĐẠO
ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA
DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN – NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 62 31 02 04
TÓM TẮN DỰ THẢO LUẬN ÁN TIẾN SI CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2017


Công trình được hoàn thành tại:
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà
Nội

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS Trần Ngọc Liêu
2. PGS. TS Doãn Thị Chín
Phản biện:............................................................................
Phản biện:............................................................................
Phản biện:............................................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước hội đồng cấp Đại học Quốc gia chấm
luận án tiến sĩ họp tại ........................................................vào hồi
giờ
ngày tháng
năm 2017


-

Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia Việt Nam
Trung tâm thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức và pháp luật là những yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng
trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, có mối quan hệ biện chứng và chịu sự
tác động bởi cơ sở hạ tầng; là những công cụ tổ chức và quản lý xã hội, điều
chỉnh các quan hệ xã hội và giữ gìn ổn định, trật tự xã hội.
Kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội là một trong
những nội dung quan trọng, phản ánh quá trình phát triển của lịch sử dân
tộc. Ở Việt Nam, trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của các triều
đại phong kiến, do chịu ảnh hưởng sâu sắc của các quan điểm Nho giáo,
Phật giáo nên phương thức cai trị xã hội bằng pháp luật và hoạt động xây
dựng pháp luật bị xem nhẹ. Vì vậy, đạo đức giữ vai trò chủ đạo trong điều
chỉnh các quan hệ xã hội và trong xây dựng, quản lý nhà nước. Tuy nhiên,
thời kỳ Tiền Lê, vua Lê Thánh Tông (1442-1497) đã kết hợp nhuần nhuyễn
đạo đức với pháp luật trong thuật trị nước của mình, đem lại sự bình yên,
thịnh trị cho xã hội Việt Nam. Dưới thời kỳ Pháp thuộc, sự tàn bạo của pháp
luật đã làm cho nhân dân xa luật, sợ luật, quyền con người không được
pháp luật bảo vệ, các giá trị đạo đức truyền thống bị bóp méo. Vượt lên bối
cảnh lịch sử đó, Hồ Chí Minh đã tìm lại con đường giải phóng dân tộc, xây
dựng nhà nước “đại diện cho số đông”, khẳng định vai trò, giá trị của pháp
luật trong dựng nước và giữ nước trên nền tảng tư tưởng đạo đức truyền

thống của dân tộc. Ở cương vị 24 năm làm Chủ tịch nước, Người đã lãnh
đạo thành công và là một tấm gương mẫu mực trong việc kết hợp đạo đức
và pháp luật vào xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đạo đức và
pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, chúng ta sẽ nắm
bắt một cách hệ thống những quan điểm của Người về sự hợp giữa đạo đức
và pháp luật trong các mặt đảm bảo quyền lực, quyền lợi, cách thức tổ chức
và hoạt động quản lý của nhà nước qua các giai đoạn lịch sử, thấy được giá
trị to lớn của tư tưởng đó đối với việc xây dựng lý luận về sự kết hợp giữa
đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, và
góp phần làm phong phú thêm giá trị của tư tưởng về kết hợp đạo đức và
pháp luật trong lịch sử dân tộc, của nhân loại và đặc biệt là của chủ nghĩa
Mác-Lênin; đồng thời chúng ta cũng có điều kiện cụ thể để học tập, vận
dụng, phát triển những vấn đề về sự cần thiết, vai trò, nội dung kết hợp giữa
đạo đức và pháp luật theo tư tưởng của Hồ Chí Minh trong thực tiễn xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

2


Ngày nay, sau hơn 30 năm đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, việc kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng
nhà nước của dân, do dân, vì dân đã đạt được những thành tựu quan trọng,
có ý nghĩa sâu sắc, khẳng định tầm vóc của nước ta với các cường quốc trên
thế giới. Tuy nhiên, quá trình kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chúng ta cũng phải đối diện với
không ít khó khăn, và những hạn chế, bất cập. Tình trạng suy thoái về đạo
đức, lối sống và không tuân thủ pháp luật, nhũng nhiễu dân của một số cán
bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước vẫn còn diễn ra nghiêm trọng; “nhiều
văn bản luật được ra đời nhưng thiếu tính hệ thống, thiếu đồng bộ, thiếu

thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống” [54]; quyền lực và quyền
lợi của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội chưa được
đảm bảo, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Chính vì vậy, yêu
cầu đặt ra đối với Đảng và Nhà nước hiện nay là phải tiếp tục quán triệt, và
thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong
xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Văn kiện Đại hội lần thứ VIII
(1996) của Đảng đã chỉ rõ sự cần thiết: “Xây dựng nhà nước pháp quyền,
quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo
đức” [24, tr.129]; Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: “Nhà nước được tổ
chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng hiến pháp và
pháp luật…” [14]; tiếp đó Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ XII (2016)
nhấn mạnh việc “hoàn chỉnh hệ thống pháp luật” và xác định phương
hướng, nhiệm vụ trong những năm tới phải “đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp
luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm pháp luật vừa là công
cụ để nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm
tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng
thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội” [29, tr.176-177], trên cơ
sở đó, Chính phủ và các cơ quan tư pháp, đẩy mạnh cải cách hành chính và
cải cách tư pháp, tăng cường hiệu lực và hiệu quả các hoạt động lập pháp,
hành pháp và tư pháp phù hợp với yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Trước thực
tế đó, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải không ngừng nâng cao năng lực,
trình độ và phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tuân thủ pháp luật theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn lựa vấn đề: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong xây
dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân – Nội dung và giá trị” làm đề tài
luận án Tiến sĩ, ngành Chính trị học - Chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3



2.1. Mục đích
Nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp
giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân,
từ đó luận giải giá trị của tư tưởng đó đối với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp
giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
- Phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do
dân, vì dân
- Luận giải giá trị thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết
hợp giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì
dân đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đạo đức và
pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về tư liệu: Nghiên cứu các tác phẩm, bài nói, bài viết và thực tiễn
lãnh đạo xây dựng nhà nước của Hồ Chí Minh
- Về nội dung: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp
đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
- Về thời gian: Thời kỳ Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng nhà nước
và từ năm 1986 đến nay
4. Cơ sử lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự kết hợp
giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, và một số phương pháp nghiên
cứu như: Phân tích, tổng hợp, hệ thống, so sánh và các phương pháp liên
ngành khoa học xã hội,v.v… để làm sáng tỏ các vấn đề cần được nghiên
cứu trong phạm vi của đề tài.
Thứ nhất, phương pháp tiếp cận hệ thống, trong đó chủ yếu là sử
dụng các phương pháp lôgics – lịch sử, nhằm làm rõ cơ sở hình thành, nội
4


dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật
trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Thứ hai, phương pháp liên ngành khoa học xã hội nhân văn, trong
đó sử dụng các phương pháp cụ thể như: phân tích, so sánh, tổng hợp để
luận chứng giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đạo đức và
pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân đối với việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn hiện nay.
5. Những đóng góp của đề tài
Đề tài có những đóng góp mới về khoa học:
- Một là, góp phần luận giải, làm rõ cơ sở hình thành và nội dung
cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật
trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Hai là, luận giải giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp
giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học
Đề tài góp phần làm rõ nội dung, giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh
về sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân,
do dân, vì dân.
- Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo,
nghiên cứu khoa học, giảng dạy và học tập các chuyên đề về đạo đức và
pháp luật trong các trường Đại học, Cao đẳng ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án gồm 4 chương, 11 tiết.
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Tình hình nghiên cứu nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân,
do dân, vì dân
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và pháp luật nói
chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật
trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân nói riêng đến nay được đề
5


cập ở nhiều phương diện. Trong các công trình đó, có tác giả Nguyễn Ngọc
Minh về “Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật”[82]; Nguyễn Xuân Tế về “Tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và Pháp luật”[127]. Các tác phẩm này đều đề cập đến vấn đề đạo đức
và pháp luật trong việc hình thành các quan điểm về xây dựng nhà nước và
quản lý xã hội bằng pháp luật theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ở góc độ xã hội, nhiều tác giả đã tiếp cận đạo đức và pháp luật theo
lát cắt của sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tiêu biểu có nhóm tác giả
Vũ Khiêu, Thành Duy về “Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển ở
Việt Nam”[15]; Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong về “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam”[1] luận giải
vị trí, vai trò của pháp luật như là cơ sở để thiết lập và củng cố quyền lực
nhà nước; là phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế, bảo đảm trật tự xã
hội và tạo dựng các mối quan hệ mới theo tư tưởng của Hồ Chí Minh. Tác
giả Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) về “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp quyền”[16] luận giải về “tính tối cao của luật” theo tư tưởng Hồ Chí
Minh trong xây dựng nhà nước pháp quyền và đưa ra điểm khác biệt trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất của nhà nước và pháp luật Việt Nam,
đồng thời, tác giả cũng nhận định về một nhà nước pháp quyền phải là một
nhà nước chịu trách nhiệm trước dân và nhà nước đó phải quản lý xã hội
bằng pháp luật, tôn trọng và tuân theo pháp luật. Trần Nghị về “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về pháp luật và việc vận dụng trong sự nghiệp đổi mới ở nước
ta hiện nay”[113] phân tích pháp luật như là yếu tố chi phối quá trình tìm
đường cứu nước và luận giải nhiều nội dung cốt lõi và cơ bản nhất về tư
tưởng pháp luật của Hồ Chí Minh;
Vũ Đình Hòe về “Pháp quyền - nhân nghĩa Hồ Chí Minh”[45] là sự
hồi tưởng về những hoạt động tư pháp trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự hồi tưởng này, chính là sự ghi nhận
những cống hiến của Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo xây dựng nhà
nước như: Chú trọng đến mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật; mối quan
hệ pháp luật với dân chủ và tư tưởng hiến chính. Theo tác giả phân tích và
khẳng định thì vấn đề tư pháp, cũng như những vấn đề khác, xét cho cùng,
là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước,
thương dân, thương nhân loại bị áp bức. Vì vậy, trong quan điểm của tác giả
Vũ Đình Hòe thì pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh đã góp phần đưa
cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng và cũng là những chỉ dẫn quan

trọng cho công cuộc xây dựng nhà nước trong thời gian qua.
Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp đã tổ chức Hội thảo “Chủ tịch
Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành tư pháp”[3] bàn
6


tới quyền con người được luật pháp bảo vệ và những người làm cán bộ tư
pháp phải thật sự “phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”. Đáng chú ý nhất
là bài viết của tác giả Vũ Khiêu về “Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đạo
đức và pháp luật”. Tác giả phân tích vấn đề đạo đức và pháp luật qua các
triều đại lịch sử Việt Nam và mối quan hệ giữa chúng cho đến nay để thấy
được tầm quan trọng của đạo đức và pháp luật như là một phương tiện, giá
trị chuẩn mực trong xây dựng nhà nước.
Trịnh Đức Thảo về “Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, pháp chế
và sự vận dụng trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay”[124] đã khẳng định pháp luật bao giờ cũng có chữ tâm
và càng sâu đậm chữ tâm thì pháp luật càng được chấp hành nghiêm minh,
quản lý xã hội hiệu quả.
Bài viết của tác giả Nguyễn Đình Bắc về “Đức trị và pháp trị trong
xây dựng nhà nước”[7] tác giả đã đặt mối quan hệ giữa đức trị (đạo đức) và
pháp trị (pháp luật) trong xây dựng nhà nước và quản lý xã hội. Xem mối
quan hệ này là những bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, là giá trị
chuẩn mực và là phương tiện để xây dựng và củng cố nhà nước. Trên cơ sở
đó, tác giả cũng nhận định đạo đức và pháp luật luôn có sự thống nhất hữu
cơ trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý xã hội.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do
dân, vì dân
Có rất nhiều công trình tiêu biểu nghiên cứu về giá trị pháp luật
trong tư tưởng Hồ Chí Minh như: Phạm Ngọc Dũng về “Hồ Chí Minh vận

dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng nhà nước
pháp quyền”[19] đã khẳng định yếu tố pháp luật, “xây dựng và thực hiện
pháp luật dân chủ là yếu tố tất yếu khách quan trong phát triển nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa;... pháp luật dân chủ là phương tiện tổ chức
hoạt động, quản lý của nhà nước một cách có hiệu quả đối với mọi hoạt
động của đời sống nhà nước và xã hội” [19, Tr.83]; Trần Ngọc Liêu (2013)
về “Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước với việc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay”[70] đề cập đến
quản lý xã hội bằng pháp luật, được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất
quyền lực trong bộ máy nhà nước, đồng thời khẳng định quyền lực và
quyền lợi đều thuộc về nhân dân, nhân dân có vị trí quan trọng trong nhà
nước.
Tác giả Lê Minh Quân “Xây dựng Nhà nước pháp quyền đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay”; Lê Quý Đình “Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân theo
7


tư tưởng Hồ Chí Minh”, trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước
và giữ nước”; Dương Xuân Ngọc “Quá trình xây dựng thể chế nhà nước
của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, trong cuốn “Cẩm
nang tư tưởng Hồ Chí Minh”(2007). Nhóm bài viết này, chủ yếu trình bày
những luận điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới; về kiến
tạo một nền hành chính nhà nước của dân, do dân, vì dân trên cơ sở đạo đức
và pháp luật, và trong bộ máy nhà nước đó con người (cán bộ, công chức)
đóng vai trò quan trọng. Nguyễn Văn Mạnh (2006) trong bài viết, “quan
điểm và giải pháp tiếp tục quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và
pháp chế” cũng nhấn mạnh vấn đề nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
pháp luật phải gắn với hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
lĩnh vực xây dựng nhà nước, xây dựng và thực hiện pháp luật, tăng cường

pháp chế.
Tác giả Nguyễn Như Phát về “Xây dựng hệ thống pháp luật thống
nhất, đồng bộ, minh bạch và hiệu quả trong nhà nước pháp quyền Việt
Nam”[117] luận bàn về việc rà soát, đánh giá quá trình xây dựng pháp luật,
chính sách pháp luật và dự thảo quy phạm pháp luật,v.v..., cho đến việc
công bố và tổ chức thực hiện pháp luật ở nước ta để trên cơ sở đó thấy được
những vấn đề còn tồn đọng, vướng mắc và tiếp tục nghiên cứu và xây dựng
hệ thống các tiêu chí đánh giá về tính thống nhất, sự đồng bộ, minh bạch và
hiệu quả của hệ thống pháp luật hiện hành; đồng thời đề xuất những giải
pháp cơ bản nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền
Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2020.
Nhóm công trình luận giải sâu sắc về đạo đức và pháp luật trong
nhà nước có tác giả Nguyễn Văn Năm về “mối quan hệ giữa đạo đức và
pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền”; Hoàng Thị Kim Quế trong
một số bài viết về đạo đức và pháp luật trên các tạp chí chuyên ngành như:
“Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức với việc điều chỉnh hành vi con
người trong quản lý xã hội” đăng trên Tạp chí Đại học Quốc gia, Chuyên đề
khoa học xã hội, (số 4, 1997); “Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp
luật và đạo đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội”, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, (số 7, 1999); “Một số suy nghĩ về trách nhiệm pháp lý và trách
nhiệm đạo đức”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 3, 2000); “Vấn đề kết
hợp quản lý xã hội bằng pháp luật với giáo dục nâng cao đạo đức ở nước
ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (số 12, 2002); “Những vấn đề hôm nay của
pháp luật và đạo đức”,Tạp chí Luật học, (số 7, 2006); “Đạo đức, pháp luật,
dân chủ và tự do”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 9, 2006); “Bản chất
đích thực của mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức”, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, (số 1, 2010); “Quyền con người, đạo đức và pháp luật”, Tạp
8



chí Nhà nước và pháp luật, (số 3, 2012); “Mối quan hệ giữa pháp luật và
đạo đức trong nhà nước pháp quyền và những vấn đề đặt ra đối với Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Luật học (số 3, 2013);v.v.. Đây là những bài viết
mà tác giả đã dày công, tâm huyết nghiên cứu về vấn đề đạo đức và pháp
luật trong nhiều năm công tác, đặc biệt là mối quan hệ giữa đạo đức và
pháp luật trong việc tham gia vào quá trình điều chỉnh hành vi của con
người và các quy phạm pháp luật, và tổ chức bộ máy nhà nước. Những bài
viết đều thể hiện một tầm nhìn về sự “vận động” của đạo đức và pháp luật
trong mọi mối quan hệ xã hội và quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
hiện nay. Đặc biệt, trong nhóm bài viết này của tác giả đã đề cập đến yếu tố
đạo đức và pháp luật, quan hệ giữa đạo đạo đức và pháp luật trong xây
dựng nhà nước pháp quyền theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì
vậy, có thể nói đây là nhóm tài liệu hữu ích cho luận án kế thừa và tiếp thu,
vận dụng theo định hướng nghiên cứu.
1.3. Đánh giá khái quát kết quả tình hình nghiên cứu liên quan đến
luận án và những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
1.3.1. Những kết quả nghiên cứu đạt được
Qua việc tổng quan tình hình nghiên cứu của các công trình đã công
bố liên quan đến đề tài luận án, chúng tôi có thể khái quát những kết quả
chủ yếu như sau:
Thứ nhất là, về nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ
Chí Minh đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và làm rõ được mô
hình tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ, đặc biệt là chú trọng tới phương
thức quản lý trong nhà nước để mang lại quyền lực và quyền lợi thực sự
cho nhân dân, nhân dân làm chủ quyền lực của mình thông qua hoạt động
của bộ máy nhà nước, đồng thời các công trình cũng soi rọi tư tưởng Hồ
Chí Minh về vấn đề này trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân để nhằm khẳng định tầm vóc của tư
tưởng Hồ Chí Minh có giá trị tinh thần to lớn đối với dân tộc Việt Nam và
phản ánh khát vọng của thời đại.

Thứ hai là, về đạo đức và pháp luật, và vai trò của sự kết hợp giữa
đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân theo
tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiều công trình công bố, phân tích ở các góc độ và
cách tiếp cận khác nhau, nhưng đều có điểm chung là nhấn mạnh vai trò của
đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội của nhà nước theo tư tưởng Hồ
Chí Minh. Coi đạo đức và pháp luật là những công cụ không thể thiếu trong
hoạt động quản lý của nhà nước, tuy nhiên, các công trình cũng khẳng định
tùy thuộc vào từng thời kỳ, và điều kiện lịch sử cụ thể để xây dựng những
phương thức quản lý nhà nước phù hợp với sự phát triển của xã hội. Ở
9


phương diện kết hợp vai trò của đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà
nước của dân, do dân, vì dân các công trình mới chỉ bước đầu đề cập đến.
Thứ ba là, về kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà
nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là nhóm công
trình ít được đề cập nhất. Tuy nhiên, ở cách tiếp cận nghiên cứu về lịch sử
nhà nước và pháp luật đã có một số công trình, và nhiều bài nói bài viết
công bố kết quả nghiên cứu về mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng ở dạng hồi ký, liệt kê các sự kiện thông qua
hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh hoặc phân tích trong góc độ quản lý
xã hội nói chung. Ở cách tiếp cận Hồ Chí Minh học thì rất ít công trình
chuyên sâu nghiên cứu về sự kết hợp này.
Thứ tư là, giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đạo
đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân được các
công trình công bố ở phương diện liên ngành khoa học xã hội, để trên cơ sở
đó chỉ ra những điểm tương đồng, điểm khác biệt của đạo đức và pháp luật;
sự tác động biện chứng giữa đạo đức và pháp luật; đánh giá những thành
tựu, hạn chế, nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp vận dụng trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng

Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, ở phương diện nào thì các công trình đều hướng
đến đích cuối cùng là khẳng định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong
thực tiễn cuộc sống.
Như vậy, quá trình nghiên cứu, tổng hợp tài liệu liên quan đến luận
án, NCS đánh giá một cách khái quát những công trình đã được công bố để
thấy được những mặt đạt được và những khoảng trống để NCS tiếp tục lựa
chọn, nghiên cứu theo chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
1.3.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu
Những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã được
công bố là rất quan trọng cho luận án kế thừa và tiếp thu, bổ sung và phát
triển. Trong thời gian qua, nhiều công trình nghiên cứu về đạo đức và pháp
luật và bước đầu đề cập đến sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong
quản lý xã hội nói chung và trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì
dân nói riêng vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra, và chưa thực sự có hệ thống,
chiều sâu. Vì vậy, luận án cần tập trung vào nghiên cứu làm rõ một số vấn
đề sau:
Thứ nhất là, nhiều công trình chưa làm rõ được cơ sở hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong về xây
dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Do đó, luận án tiếp tục nghiên cứu
Hồ Chí Minh về sự kế thừa và tiếp thu tư tưởng kết hợp đạo đức và pháp
luật của lịch sử dân tộc Việt Nam; của phương Đông, phương Tây và chủ
10


nghĩa Mác – Lênin về vấn đề này trong xây dựng nhà nước của dân, do dân,
vì dân;
Thứ hai là, nhiều công trình đã đề cập đến sự kết hợp giữa đạo đức
và pháp luật trong quản lý xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tuy nhiên nội
dung kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân chưa thể hiện được sâu sắc và có

tính hệ thống, đặc biệt chưa phân tích được những nét đặc thù của sự kết
hợp đạo đức và pháp luật gắn với đặc điểm chính trị - xã hội của Việt Nam
giai đoạn Hồ Chí Minh sống và hoạt động cách mạng. Vì vậy, luận án tiếp
tục nghiên cứu nội dung về sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong thực
tiễn chỉ đạo xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân từ năm 1945 đến
năm 1969, và đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba là, nhiều công trình nghiên cứu về kết hợp giữa đạo đức và
pháp luật trong quản lý xã hội và bước đầu đề cập trong xây dựng nhà nước
của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, nhưng mới chỉ
dừng lại ở phương hướng vận dụng vào thời kỳ đổi mới mà chưa rút ra
được giá trị của nó. Vì vậy, luận án sẽ căn cứ trên cơ sở nội dung nghiên
cứu để khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp này trong
xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân đối với việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Chương 2.
CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ KẾT HỢP GIỮA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT
TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
2.1. Một số khái niệm
2.1.1. Khái niệm đạo đức, pháp luật; kết hợp đạo đức và pháp luật
2.2.2. Khái niệm nhà nước của dân, do dân, vì dân; xây dựng nhà
nước của dân, do dân, vì dân
2.2.3. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đạo đức
và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đạo
đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
2.2.1. Cơ sở khách quan
2.2.1.1. Tiếp thu tư tưởng kết hợp đạo đức và pháp luật trong lịch sử
dân tộc sử Việt Nam
2.2.2.2. Tiếp thu tư tưởng kết hợp đạo đức và pháp luật ở phương

Đông, phương Tây

11


2.2.2.3. Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự kết hợp giữa đạo
đức và pháp luật
2.2.2. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh
2.2.2.1. Khả năng tư duy và trí tuệ khoa học của Hồ Chí Minh
2.2.2.2. Tinh thần pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh
2.2.2.3. Bản lĩnh chính trị và năng lực hoạt động thực tiễn của Hồ
Chí Minh
2.3. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân,
do dân, vì dân
2.3.1. Thời kỳ trước khi giành được chính quyền cách mạng năm
1945
2.3.2. Thời kỳ giành được chính quyền và xây dựng nhà nước của
dân, do dân, vì dân
- Thời kỳ Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo cách mạng, lập nên nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
- Thời kỳ Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng nhà nước của dân, do
dân, vì dân
Tiểu kết chương 2

12


Đạo đức và pháp luật là những công cụ, giá trị chuẩn mực trong xây
dựng và quả lý xã hội của nhà nước. Nghiên cứu cơ sở, quá trình hình thành

và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật
trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, cho thấy, đạo đức và pháp
luật là phương thức quản lý nhà nước được các giai cấp cầm quyền sử dụng
linh hoạt trong trị vì đất nước. Hồ Chí Minh là người kế thừa và tiếp thu có
chọn lọc phương thức quản lý bằng đạo đức và pháp luật trong xây dựng
nhà nước phù hợp với các giai đoạn của lịch sử xã hội. Vì vậy, trong
chương này, tư tưởng của Người có thể khẳng định là kết quả hội tụ của
truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại và lý luận chủ nghĩa Mác –
Lênin về kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Người đã tiếp thu với một tinh thần tư duy độc lập tự
chủ, sáng tạo và năng lực hoạt động thực tiễn, bản lĩnh chính trị kiên định.
Chương 3.
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ KẾT HỢP GIỮA
ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC CỦA
DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
3.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về sự cần thiết và vai trò của kết hợp giữa
đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
3.2.1. Sự cần thiết kết hợp giữa đạo đức và pháp luật
3.2.2. Vai trò của sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật
3.2.2.1. Đạo đức là công cụ hỗ trợ pháp luật trong việc quản lý nhà
nước, đảm bảo an ninh trật tự xã hội và thuần phong mỹ tục của dân tộc
- Đạo đức và pháp luật là những công cụ quản lý xã hội, là cơ sở để
đảm bảo quyền tự do dân chủ cho nhân dân.
- Đạo đức và pháp luật là phương tiện giáo dục “con người mới” –
con người xã hội chủ nghĩa – năng động, sáng tạo, tự hào dân tộc và có ý
chí vươn lên. Điều này, biểu hiện rõ trong tư duy chính trị - pháp lý của Hồ
Chí Minh về xây dựng một nhà nước vững mạnh, có hiệu lực phải là một
nhà nước pháp quyền “mạnh mẽ và sáng suốt”.
- Đạo đức và pháp luật là công cụ chứa đựng tình yêu thương đất
nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ, bị áp bức. Thương nước,

thương dân, thương nhân loại chính là cơ sở đạo đức của pháp luật. Không
có đạo đức, không có pháp luật thì không có giá trị xã hội và theo Hồ Chí
Minh, pháp luật phải đúng và đủ để làm cơ sở cho mọi người dân, cán bộ
tôn trọng và thực hiện.
3.2.2.2. Pháp luật ghi nhận những giá trị chuẩn mực của đạo đức
và là công cụ cơ bản trong xây dựng, tổ chức và quản lý nhà nước
13


- Đạo đức và pháp luật đều là những khuân mẫu, mực thước, chuẩn
mực cho hành vi của con người. Vì cả đạo đức và pháp luật đều là những
nguyên tắc xử sự chung, nó được hình thành từ trong đời sống và quay trở
lại điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội.
- Đạo đức là lẽ sống, men sống còn pháp luật là chuẩn mực hành vi
của con người trong xã hội.
- Đạo đức và pháp luật là giá trị chuẩn mực chung điều chỉnh hành
vi của con người thông qua giáo dục ý thức thực hiện pháp luật và có lối
sống phù hợp với đạo đức truyền thống dân tộc. Đặc biệt, trong quá trình
xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân, chuẩn mực pháp luật phải
gắn liền với chuẩn mực đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
3.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về nội dung của sự kết hợp giữa đạo đức
và pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
3.2.1. Kết hợp đạo đức và pháp luật bảo đảm quyền lực thuộc về
nhân dân
3.2.2. Kết hợp giữa đạo đức và pháp luật bảo đảm nhà nước do
dân làm chủ
3.2.2.1. Những nguyên tắc tổ chức, xây dựng bộ máy nhà nước
Một là, tổ chức bộ máy nhà nước đảm bảo quyền lực thực tế thuộc
về nhân dân, đảm bảo địa vị là chủ và tư cách làm chủ nhà nước của nhân
dân, tạo điều kiện và cơ hội để nhân dân có thể tích cực tham gia trực tiếp,

theo dõi, giám sát và kiểm soát hoạt động quản lý nhà nước.
Hai là, bộ máy nhà nước được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc
tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh lý giải: “Ở nước ta chính quyền là của nhân
dân, do nhân dân làm chủ. Nhân dân bầu ra các Hội đồng nhân dân, Ủy ban
kháng chiến hành chính địa phương, và Quốc hội cùng Chính phủ Trung
ương.
Ba là, trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước thực hiện chế
độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
3.2.2.2. Kết hợp đạo đức và pháp luật trong thiết kế bộ máy nhà
nước
+ Về lập pháp
+ Về hành pháp
+ Về tư pháp
3.2.2.3. Kết hợp đạo đức và pháp luật trong hoạt động của bộ máy
nhà nước
Thứ nhất, quản lý nhà nước bằng Hiến pháp và pháp luật; kết hợp
đạo đức và pháp luật trong quản lý nhà nước phản ánh bản chất dân chủ
nhân dân của nhà nước
14


Thứ hai, quản lý nhà nước bằng “pháp luật phải dựa vào đạo đức,
bảo vệ đạo đức”, đồng thời tuân thủ pháp luật là tiêu chuẩn hàng đầu của
người cán bộ trong quản lý nhà nước
Thứ ba, đạo đức và pháp luật cùng thống nhất với nhau trong hoạt
động quản lý nhà nước
3.2.2.4. Kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng đội ngũ cán
bộ đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước
- Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức trong quản lý nhà
nước.

- Xác lập và xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn đối với đội ngũ
cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức, đồng thời chấp hành nghiêm
chính sách pháp luật của nhà nước.
3.2.3. Kết hợp giữa đạo đức và pháp luật đảm bảo việc thực hiện
lợi ích chính đáng của nhân dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước vì dân, từ “việc
gì có lợi cho dân, phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân, phải hết sức
tránh” cho đến “bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu
trách nhiệm trước nhân dân”
3.3. Quan điểm Hồ Chí Minh về phương thức kết hợp đạo đức và pháp
luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
3.3.1. Kết hợp đạo đức và pháp luật vào xây dựng pháp luật theo
một trình tự xác định trong đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân
Một là, sáng kiến xây dụng pháp luật: “Quốc hội đã quyết định sửa
đổi Hiến pháp 1946”, và “quốc hội đã thông qua nghị quyết giao cho Chính
phủ làm đạo luật về Công đoàn".
Hai là, xây dựng dự thảo luật (dự án pháp luật) và đưa ra lấy ý kiến
bước một ở các cơ quan Trung ương để chỉnh lý lần 1.
Ba là, đưa dự thảo (đã chỉnh lý) ra lấy ý kiến của toàn thể nhân dân
làm cơ sở chỉnh lý lần 2.
Bốn là, đưa dự thảo (chỉnh lý lần 2) ra thảo luận và thông qua
tại Đại hội
Năm là, công bố văn bản pháp luật.
Từ trình tự này, có thể thấy quy trình xây dựng và hoàn thiện pháp
luật trong nhà nước mang tính toàn diện.
3.3.2. Kết hợp đạo đức và pháp luật vào tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá
trình thi hành pháp luật và có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng
cường tính hiệu lực của pháp luật đối với việc thực hiện xây dựng nhà nước

15


của dân, do dân, vì dân. Hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật cũng chính là để bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Hồ Chí Minh
luôn coi trọng công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, đặc biệt là đưa
pháp luật vào cuộc sống đi đôi với việc đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách
mạng.
3.3.3. Kết hợp đạo đức và pháp luật trong tổ chức kiểm tra, giám
sát thực hiện pháp luật phải công tâm và nghiêm minh
- Tổ chức thực thi pháp luật phải đúng và công tâm
- Kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật phải nghiêm minh
Tiểu kết chương 3
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật có
nội dung rộng, được thể hiện cơ bản trên các phương diện về sự cần thiết,
vai trò, nội dung và phương hiện kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây
dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng
nhà nước của dân, do dân, vì dân, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới vấn đề đạo
đức và pháp luật, Người thấy được sự cần thiết phải kết hợp đạo đức và
pháp luật để nhằm mục đích đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, nhân dân là chủ thể quyền lực của nhà nước. Người coi trọng vai trò
của đạo đức và đề cao vai trò của pháp luật, đồng thời coi đạo đức và pháp
luật là những giá trị chuẩn mực, công cụ cơ bản trong xây dựng nhà nước
của dân, do dân, vì dân.
Nội dung kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước
của dân, do dân, vì dân mà Hồ Chí Minh bàn tới được tập trung chủ yếu vào
việc khẳng định địa vị pháp lý của người dân thông qua việc tổ chức và
hoạt động quản lý của nhà nước bằng Lập pháp - Hành pháp – Tư pháp. Khi
chưa có luật pháp, Người nói, “luật pháp cũ, không có lợi cho toàn thể dân
tộc Việt Nam”, còn khi có nhà nước, xây dựng Hiến pháp và pháp luật

Người khẳng định: “Luật pháp của ta bảo vệ quyện lợi cho hàng triệu người
lao động,..., bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”.
Có thể thấy, quá trình trải nghiệm thực tiễn về xây dựng nhà nước của dân,
do dân, vì dân, Hồ Chí Minh đã vận dụng linh hoạt phương thức kết hợp
đạo đức và pháp luật vào tổ chức, hoạt động quản lý của nhà nước, đảm bảo
lợi ích chính đáng của nhân dân, mang lại hiệu lực hiệu quả đối với việc
thực thi pháp luật trong đời sống nhân dân. Tuy nhiên, để nhà nước thực sự
là của dân, do dân, vì dân, Hồ Chí Minh quan tâm đến đội ngũ cán bộ trong
bộ máy nhà nước phải có phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn
nghiệp vụ, đặc biệt chú trọng tới đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng
pháp luật và thực thi pháp luật vào cuộc sống phải công tâm và nghiêm
minh, có phẩm chất đạo đức cách mạng.
16


Với cương vị cao nhất của nhà nước, Hồ Chí Minh đã không tuyệt
đối hóa địa vị độc tôn của một yếu tố nào mà kết hợp nhuần nhuyễn giữa
đạo đức và pháp luật vào xây dựng nhà nước phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của lịch sử. Những quan điểm của Người về kết hợp đạo đức và
pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân đến nay vẫn là
những chỉ dẫn quan trọng và có giá trị to lớn đối với việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
hiện nay.
Chương 4.
GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ KẾT HỢP GIỮA ĐẠO
ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHIA VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Giá trị lý luận
4.1.1. Là sự kế thừa và phát triển tư tưởng kết hợp đạo đức và pháp
luật trong truyền thống dân tộc, và văn hóa nhân loại

4.1.2. Là sự cụ thể hóa và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin về kết hợp giữa đạo đức và pháp luật
4.1.3. Là cơ sở và nền tảng lý luận của Đảng Cộng sản trong việc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
4.2. Giá trị thực tiễn
4.2.1. Đối với việc xây dựng nhà nước thời kỳ trước đổi mới
- Trong giai đoạn cách mạng năm 1945 – 1954, Đảng ta tập trung
chủ yếu vào xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền cách mạng.
- Trong thời kỳ cách mạng năm 1954 – 1969, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Hồ Chí Minh luôn quan tâm dõi theo những hoạt động của Chính
phủ và góp ý cho Chính phủ về nội dung các sắc lệnh, các chương trình, kế
hoạch công tác quan trọng, vừa thực hiện chức năng giám sát Quốc hội, vừa
“nguyện triệt để cùng với Chính phủ đồng tâm nỗ lực làm cho cuộc toàn
dân kháng chiến do Hồ Chủ tịch lãnh đạo mau được kết quả hoàn toàn….để
gây hạnh phúc cho toàn thể quốc dân về tương lai” [147, tr.179].
- Trong giai đoạn năm 1975 – 1986, sự nghiệp chống Mỹ cứu nước
toàn thắng, đưa cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước.

17


4.2.2. Đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt nam hiện nay
4.2.2.1. Những vấn đề cơ bản về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật,
bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội

- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng và bảo
vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ
giữa Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội Xét về bản chất, ngọn
cờ bảo vệ quyền con người thuộc về các Nhà nước cách mạng chân chính,
nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư
pháp, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một tất yếu lịch sử và tất yếu khách
quan.
4.2.2.2. Những yêu cầu đặt ra đối với việc kết hợp đạo đức và pháp
luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay
- Thực tế, bước vào thời kỳ đổi mới, chúng ta đứng trước nhiều khó
khăn, thách thức cần phải giải quyết kịp thời, phù hợp với bối cảnh và điều kiện
thực tế, đặc biệt là tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống và không tuân
thủ pháp luật, nhũng nhiễu nhân dân của một số cán bộ, đảng viên trong bộ
máy nhà nước vẫn còn diễn ra nghiêm trọng, “nhiều văn bản luật được ra
đời nhưng thiếu tính hệ thống, thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi
thấp, chậm đi vào cuộc sống” [64]; tình trạng vi phạm kỷ cương xã hội, các
hành vi làm ăn bất lương, vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật, tình trạng
tham nhũng ngày càng gia tăng, v.v..
- Để xẩy ra tình trạng trên, có thể thấy bắt nguồn từ nhiều nguyên
nhân, trong đó có nguyên nhân do pháp luật chưa đầy đủ hoặc thiếu chặt
chẽ và việc thi hành pháp luật còn chưa nghiêm, chưa công bằng và “thiếu
vắng tầm nhìn chiến lược”.


18


- Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, bước vào thời kỳ đổi mới với
tư duy nhìn thẳng vào sự thật, Đảng từng bước điều chỉnh phương thức xây
dựng và quản lý nhà nước phù hợp với điều kiện của thực tế. Đặc biệt là tại
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm1996) của Đảng đã đề ra chủ
trương: “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo
dục, nâng cao đạo đức”[25, tr.129]. Có thể nói, việc yêu cầu “tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa và nâng cao đạo đức” gắn với mục tiêu xây dựng
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam trong giai đoạn này thể hiện quyết tâm
mạnh mẽ của Đảng trong việc không chỉ đề cao vai trò thượng tôn của pháp
luật mà còn đẩy mạnh yếu tố đạo đức trong quản lý xã hội của nhà nước, là
một chủ trương sáng suốt và phù hợp với yêu cầu của sự phát triển xã hội
và hội nhập quốc tế.
Vì vậy, có thể thấy việc kết hợp đạo đức và pháp luật trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện này là yêu cầu
đặt ra được Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức rõ và quán triệt
sâu rộng trong điều kiện thực tế.
4.2.2.3. Thực trạng kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay – những
thành tựu và hạn chế
- Những thành tựu
Về thực hiện quyền lập pháp, so với thời kỳ trước đổi mới, hoạt động
lập pháp có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng, từng bước đáp ứng
với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân. Các quan niệm, quan điểm, tư tưởng đạo đức cách mạng, đạo đức
truyền thống tốt đẹp của dân tộc đang phát huy vai trò tích cực của mình

đối với pháp luật. Ngược lại, pháp luật cũng có sự tác động trở lại một cách
mạnh mẽ tới đạo đức. Nhờ có pháp luật, các quan niệm quan điểm, chuẩn
mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc được củng cố, giữ gìn và phát
huy; những quan niệm đạo đức lạc hậu bị xoá bỏ, sự suy thoái của đạo đức
được từng bước ngăn chặn.
Về thực hiện quyền hành pháp, không ngừng tiến hành đẩy mạnh
công cuộc cải cách hành chính cả trên bốn thành tố hợp thành: Cải cách thể
chế; cải cách tổ chức bộ máy; cải cách đội ngũ cán bộ công chức và cải
cách hệ thống quản lý tài chính công, nhằm đáp ứng với yêu cầu của xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Về thực hiện quyền tư pháp, công cuộc cải cách tư pháp cũng được
đẩy mạnh trên cả ba mặt: Thể chế; tổ chức và đội ngũ cán bộ. Vì thế, tổ
chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và các cơ
19


quan điều tra từng bước được đổi mới; chất lượng điều tra, truy tố và xét xử
được tăng cường.
- Một số hạn chế:
Về hệ thống pháp luật của Nhà nước ta vẫn còn hạn chế bất cập, ảnh
hưởng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội, điều này được thể hiện ở
một số phương diện sau: (i) rất nhiều văn bản pháp luật có tính quy phạm
thấp, tức là thiếu những quy tắc xử sự cụ thể mà chủ thể phải thực hiện.
Quy trình xây dựng pháp luật vẫn chưa tạo được cho công chúng
những tiếp cận và tham gia cần thiết. Các văn bản luật, các văn bản dưới
luật khác nhau chưa thực sự tạo thành một chỉnh thể với những nguyên tắc
chỉ đạo xuyên suốt mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành.
Về phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được chú trọng, còn bị xem
nhẹ. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành luật của các cơ
quan chức năng còn nhiều bất cập; những kinh nghiệm xây dựng hệ thống

pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật còn nhiều hạn chế.
4.2.2.4. Một số giải pháp tiếp tục kết hợp giữa đạo đức và pháp luật
trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Một là, tiếp tục nghiên cứu và làm sâu sắc sự kết hợp giữa đạo đức và
pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh
Hai là, củng cố và nâng cao nhận thức về vai trò của sự kết hợp giữa
đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam
Ba là, tiếp tục kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong công tác hoàn
thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, minh bạch, hiệu quả.
- Xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam hoàn thiện hướng tới bảo vệ
bảo vệ lợi ích của nhân dân, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân
- Hệ thống pháp luật Việt Nam phải phản ánh được tư tưởng nhân
đạo, một tư tưởng đạo đức cơ bản của nhân dân ta trong quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
+ Đạo đức trong xã hội thực sự hỗ trợ, bổ sung, hoàn thiện cho pháp
luật, tạo điều kiện cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh trong quá trình
hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN
+ Pháp luật đã góp phần quan trọng trong việc giữ gìn, bảo vệ, phát
huy, bảo tồn các quan niệm đạo đức tốt đẹp của dân tộc, loại trừ nhưng tư
tưởng lạc hậu, cổ hủ
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng với yêu cầu của xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
20


+ Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

+ Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các
thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân vì dân
+ Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người,
quyền tự do, dân chủ của công dân.
+ Hoàn thiện pháp luật về giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, y
tế, văn hóa, thông tin, thể thao, dân tộc, tôn giáo, dân số, gia đình, trẻ em và
chính sách xã hội.
Bốn là, tiếp tục kết hợp đạo đức và pháp luật trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước thông qua lập pháp, hành pháp và tư pháp
Năm là, tiếp tục kết hợp việc đẩy mạnh giáo dục ý thức pháp luật và
ý thức đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước và tổ chức pháp
luật vào điều kiện thực tế
- Kết hợp việc giáo dục ý thức pháp luật với giáo dục ý thức đạo đức
cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước là nội dung quan trọng trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.
- Hiệu quả của công tác tổ chức thực hiện pháp luật trong điều kiện
thực tế. Pháp luật sau khi được ban hành và có hiệu lực phải được thực hiện
trên thực tế.
Tiểu kết chương 4
Với những giá trị được thể hiện trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật
trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân có giá trị lý luận và thực
tiễn sâu sắc. Tư tưởng của Người về vấn đề này góp phần phát triển và làm
phong phú thêm giá trị kết hợp đạo đức và pháp luật trong truyền thống của
dân tộc Việt Nam và lý luận về sự kết hợp đạo đức và pháp luật của chủ
nghĩa Mác – Lênin. Bằng việc vận dụng khóe léo và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây
dựng một hệ thống quan điểm lý luận toàn diện và sâu sắc trong xây dựng
nhà nước của dân, do dân, vì dân, từ việc kết hợp đạo đức và pháp luật

trong chỉ đạo cách mạng giải phóng dân tộc đến việc định hướng trong cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa; trở thành cơ sở lý luận nền tảng về xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập quốc tế.
Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quán triệt và đang vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải quyết một số vấn đề của thực tiễn đặt ra và
nêu một số giải pháp cơ bản về sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật trong
21


công tác xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân hiện nay, thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối
của Đảng trên mọi phương diện của đời sống xã hội.
Với những giá trị có tính bền vững, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết
hợp giữa đạo đức và pháp luật đang được tiếp tục phát huy giá trị trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, với
tính cách mẫu mực về giá trị kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng
nhà nước, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật
có giá trị thiết thực đối với việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện đảng cầm quyền lãnh đạo
toàn diện xã hội và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới
và hội nhập quốc tế.
KẾT LUẬN
- Nghiên cứu sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh là một trong những nội dung nhận được nhiều sự quan tâm, nghiên
cứu của các tác giả trong và ngoài nước. Mặc dù, trong nhiều nghiên cứu,
chưa có công trình nào mang tính chuyên biệt, thể hiện tập trung nội dung
“kết hợp đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà

nước của dân, do dân, vì dân”, song có một số công trình tiêu biểu thể hiện
nội dung liên quan và là những tài liệu quý báu để tác giả tiếp thu, kế thừa
trong luận án này.
- Đạo đức và pháp luật là những công cụ, giá trị chuẩn mực và là
nhân tố chủ yếu trong điều chỉnh các quan hệ xã hội và sự điều hành quản
lý của nhà nước. Điểm khác biệt giữa đạo đức và pháp luật thể hiện ở chỗ,
đạo đức được hình thành trên những quan điểm, quan niệm của con người
trong cuộc sống, còn pháp luật là do nhà nước ban hành và bảo đảm bằng
quyền lực nhà nước. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể thấy
Người đã kế thừa và tiếp thu chọn lọc giá trị đạo đức truyền thống dân tộc,
tinh hoa pháp lý của nhân loại để kết hợp nhuần nhuyễn vào quá trình
Người lãnh đạo xây dựng thành công nhà nước của dân, do dân, vì dân.
- Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp giữa đạo đức và
pháp luật trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân là một bộ phận
quan trọng trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, trong quá trình lãnh
đạo xây dựng nhà nước, tư tưởng về sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật
được Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc trong từng khía cạnh như từ thiết kế bộ
máy, xây dựng công cụ quản lý và xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có
22


trình độ, chuyên môn nghiệp vụ đến xây dựng một bộ máy nhà nước “liêm,
chính”, chí công vô tư vì nhân dân phục vụ.
- Trước yêu cầu của tình hình mới ở nước ta hiện nay, tư tưởng Hồ
Chí Minh về kết hợp đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước của
dân, do dân, vì dân trở thành giá trị nền tảng tư tưởng lý luận và là những
chỉ dẫn quan trọng cho Đảng Cộng sản trong quá trình xây dựng và hoàn
thiện lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC

CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Vũ Thị Kiều Ly (2014), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của pháp
luật trong quản lý xã hội”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông,
số tháng 8, tr. 7-10
2. Vũ Thị Kiều Ly (2015), “Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của pháp
luật và những vấn đề cần hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam”,
Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số tháng 9, tr.81-85.
3. Vũ Thị Kiều Ly (2015), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất
giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền của
dân, do dân và vì dân”, trong sách “Nghiên cứu và vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” do PGS.TS Lại Quốc Khánh
(chủ biên), Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr.190 – 207.
4. Vũ Thị Kiều Ly (chủ nhiệm đề tài), Nguyễn Thị Thu (2015), “Nghiên
cứu thực trạng giáo dục đạo đức và pháp luật cho Sinh viên trường
Đại học Công nghệ Giao thông vận tải”- Đề tài NCKH cấp trường
Đại học Công nghệ Giao thông vận tải, nghiệm thu năm 2015.
5. Vũ Thị Kiều Ly (2016), “Những cống hiến của Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, Tạp chí Giáo
dục lý luận, số tháng 8, tr.6-9.
6. Vũ Thị Kiều Ly (2016), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đạo
đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số tháng 12, tr.7-10.
7. Vũ Thị Kiều Ly (2017), “Vai trò của đạo đức và pháp luật trong tư
tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng đối với việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật ở Việt Nam”, trong buổi Tọa đàm của Khoa Khoa
học Chính trị về “Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam và những
vấn đề đặt ra trong nghiên cứu, giảng dạy Tư tưởng Hồ Chí Minh”
(ngày 25/5/2017).
23



8. Doãn Thị Chín, Vũ Thị Kiều Ly (2017) “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền
thông, số tháng 7, tr.3-7.

24


×