Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

công tác tư tưởng của đảng bộ xã, phường, thị trấn ở tỉnh quảng trị hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.2 KB, 107 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
CTTT là hoạt động quan trọng của Đảng, nhằm hình thành, phát triển
và truyền bá HTT; góp phần hoạch định đường lối cách mạng xây dựng thế
giới quan, hệ giá trị, làm chuẩn mực cho việc rèn luyện đạo đức, lối sống cho
cán bộ, đảng viên và toàn xã hội. CTTT không những cổ vũ động viên quần
chúng nhân dân tích cực, tự giác tham gia vào các phong trào cách mạng, thực
hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng đề ra, mà còn tuyên truyền, nhân rộng
các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt...; kiên quyết
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động "diễn biến hoà bình" của các
thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện
"tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân.
CTTT càng quan trọng hơn đối với cơ sở xã, phường, thị trấn. Hướng về cơ
sở là nguyên tắc cơ bản cơ bản trong hoạt động CTTT. Yêu cầu nâng cao chất
lượng CTTT ở xã, phường, thị trấn đang là vấn đề đặt ra cấp bách, cả trên phương
diện lý luận và thực tiễn trong thời kỳ hội nhập, phát triển ở nước hiện nay.
Tỉnh Quảng Trị từ sau chia tách, hiện có 10 huyện, thị và thành phố với 141
xã, phường, thị trấn. Cấp cơ sở là cấp chấp hành, là nơi mà các nghị quyết, chủ
trương, đường lối của Đảng thể hiện tính đúng đắn hoặc bộc lộ những nội dung
cần điều chỉnh, đồng thời cũng là nơi diễn ra các phong trào cách mạng của quần
chúng. Qua 25 năm đổi mới, CTTT các xã phường, thị trấn đã động viên cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân phấn đấu thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu, mục
tiêu KT-XH của địa phương; góp phần giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn
xã hội và làm cho đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân ngày càng
được nâng cao trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.


Tuy nhiên, CTTT ở cơ sở xã, phường, thị trấn còn bọc lộ nhiều yếu kém
và khiếm khuyết, chẳng hạn như: Đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực tư


tưởng thường bị thay đổi nhưng không được đào tạo, ít được bồi dưỡng để
nâng cao trình độ nghiệp vụ. Nội dung CTTT chưa sát với tình hình thực tế;
còn mang nặng tính lý luận. Chưa phù hợp với trình độ nhận thức của cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân. Phương pháp, hình thức CTTT còn đơn
điệu, một chiều, dễ gây nhàm chán, nên hiệu quả CTTT không cao. Những
yếu kém đó dẫn tới tình trạng một số cấp ủy đảng ở cơ sở nhận thức không
đúng về vị trí, vai trò của CTTT; có nhiều điểm nóng về tư tưởng nhưng
không được giải quyết kịp thời dứt khoát từ cơ sở, nên dẫn tới tình trạng
khiếu kiện của nhân dân kéo dài, vượt cấp. Một số cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân sa sút niềm tin vào con đường đi lên CNXH ở nước ta, thậm
chí có một bộ phận tha hóa biến chất cả mục tiêu lý tưởng và đạo đức lối
sống, gây ảnh hưởng không tốt đến đời sống xã hội.
Vì vậy, tăng cường CTTT ở Đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh là
một nhiệm vụ cấp thiết trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH và hội nhập quốc tế
của tỉnh Quảng Trị hiện nay. Với tất cả những lý do trên, tác giả chọn vấn đề:
“Công tác tư tưởng của Đảng bộ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Quảng Trị hiện
nay” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Chính trị học, chuyên ngành Công tác tư tưởng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới CTTT ở nước ta hiện nay, thời gian qua
đã có nhiều công trình khoa học đề cập đến vấn đề CTTT của Đảng với các
mức độ và phạm vi khác nhau. Song do nhiều lý do khác nhau mà việc
nghiên cứu này mới ở góc độ chung nhất, chưa cụ thể, chỉ mang tính gợi mở
và hầu như chỉ được đề cập một phần trong các công trình nghiên cứu về
CTTT nói chung nhằm góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng CTTT.
Có thể kể đến một số công trình có đề cập đến vấn đề đổi mới và nâng cao


hiệu quả công tác tư tưởng có liên quan đến đề tài, đó là: TS. Hoàng Quốc Bảo
(2010), Giáo trình hệ tư tưởng, Nxb Chính trị Quốc gia- hành chính, Hà Nội;
TS. Trần Thị Anh Đào (2009), Công tác tư tưởng trong sự nghiệp CNH, HĐH

đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; PGS.TS. Lương Khắc Hiếu (Chủ
biên) (2008), Nguyên lý công tác tư tưởng, tập I, II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội; TS. Vũ Ngọc Am (2003), Đổi mới công tác giáo dục chính trị - tư tưởng
cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội; PGS. Hµ Häc Hîi (Chủ biên) (2002), Đổi mới và nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, Nxb. ChÝnh trÞ Quèc gia, Hµ Néi;
v.v..
Một số công trình khác có liên quan đến đề tài, đó là: Nguyễn Trọng
Khiêm (2004), Tăng cường phối hợp các phương tiện công tác tư tưởng ở tỉnh
Hòa Bình hiện nay, Luận văn Thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, Hà Nội; Trần Thị Thùy (2007), Nâng cao hiệu quả giáo dục
nghị quyết đảng cho đảng viên trong thời kỳ mới, Luận văn Thạc sĩ khoa học
chính trị, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội; Trên một số tạp chí lý
luận của Đảng cũng có các bài viết liên quan đến vấn đề đổi mới hình thức giáo
dục chính trị - tư tưởng, như: TS. Nguyễn Minh Tuấn (2009), Nâng cao hiệu
quả nghiên cứu, quán triệt, triển khai nghị quyết của Đảng, Tạp chí Tuyên
giáo, số 6; "Đổi mới và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tư tưởng", Hà
Ngọc Hợi và Ngô Văn Thạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002.v.v..
Tuy nhiên, cho đến nay, có thể nói chưa có một đề tài nào nghiên
cứu một cách tập trung, cơ bản, toàn diện và hệ thống về CTTT của
Đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Quảng Trị dưới góc độ
nghiên cứu chuyên ngành công tác tư tưởng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích


Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn tình hình tư tưởng và CTTT
của Đảng bộ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Quảng Trị, đề xuất phương hướng và
giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường CTTT của đảng bộ xã, phường, thị trấn ở
Quảng Trị trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích những vấn đề lý luận về CTTT của Đảng bộ xã, phường, thị
trấn và vai trò của CTTT ở Đảng bộ xã, phường, thị trấn.
- Phân tích, đánh giá thực trạng CTTT của đảng bộ xã, phường, thị trấn
ở tỉnh Quảng Trị.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường CTTT của Đảng
bộ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là CTTT của Đảng bộ xã, phường,
thị trấn ở tỉnh Quảng Trị hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian khảo sát, đánh giá việc nâng cao CTTT của đảng bộ xã, phường,
thị trấn ở tỉnh Quảng Trị là trong thời gian từ Đại hội X của Đảng đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng về CTTT
trong thời kỳ đổi mới, thể hiện qua các văn kiện của Đảng, đặc biệt là văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá X) về “công tác tư tưởng, lý luận và báo
chí trước yêu cầu mới”; văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của


Đảng. Luận văn còn căn cứ vào nội dung một số chỉ thị, nghị quyết của Trung
ương, của Tỉnh ủy Quảng Trị.
- Cơ sở thực tiễn chủ yếu của luận văn là các công trình nghiên cứu của
một số nhà khoa học đã gợi mở vấn đề; các văn bản, tài liệu có giá trị pháp lý ở
địa phương liên quan đến luận văn.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là tình hình tư tưởng trong cán bộ, đảng

viên xã, phường, thị trấn; thực trạng CTTT của Đảng bộ xã, phường, thị trấn ở
tỉnh Quảng Trị.
- Phương pháp nghiên cứu: vận dụng phương pháp luận của triết học
Mác - Lênin; các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra
xã hội học, khảo sát thực tế.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ
yếu là các phương pháp: phân tích - tổng hợp, lôgic - lịch sử và một số
phương pháp xã hội học như: thu thập thông tin, nghiên cứu tài liệu, quan sát,
điều tra, thống kê, so sánh,...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm phong phú và sáng tỏ thêm vị trí vai trò của
CTTT, hoạt động CTTT, đánh giá đúng tình hình tư tưởng và thực trạng chất
lượng CTTT của các Đảng bộ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Quảng Trị hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu, có tính khả thi nhằm góp phần nâng
cao chất lượng CTTT của đảng bộ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Quảng Trị đáp
ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tăng cường CTTT
của Đảng bộ xã, phường, thị trấn. Những kinh nghiệm về CTTT của Đảng bộ
xã, phường, thị trấn trong tình hình hiện nay.


- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong việc giảng dạy, nghiên cứu và học tập bồi dưỡng nghiệp vụ tuyên
giáo, CTTT của Đảng bộ trên địa bàn tỉnh Quảng Trị và các cấp uỷ đảng
trong việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.
- Trên cơ sở phân tích, đánh giá khách quan thực tiễn CTTT của
Đảng bộ xã, phường, thị trấn ở tỉnh Quảng Trị, luận văn tổng kết một số bài
học kinh nghiệm, đưa ra phương hướng và hệ thống các giải pháp cơ bản,

khả thi, phù hợp để tăng cường CTTT của Đảng bộ xã, phường, thị trấn ở
tỉnh Quảng Trị; góp phần nâng cao chất lượng công tác CTTT trước yêu
cầu, nhiệm vụ mới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn có kết cấu 3 chương 8 tiết.


Chương 1
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG BỘ XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Công tác tư tưởng của đảng bộ xã, phường, thị trấn
1.1.1. Khái niệm tư tưởng và hệ tư tưởng
1.1.1.1. Tư tưởng
Trên thế giới cũng như ở nước ta hiện nay, có nhiều cách tiếp cận và
định nghĩa khác nhau về khái niệm tư tưởng, nhưng đều có điểm chung là: nói
đến tư tưởng là nói đến sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là sự suy nghĩ,
hay ý nghĩ của con người. Tuy nhiên, không phải bất kỳ sự phản ánh hay sự
suy nghĩ nào cũng đều được coi là tư tưởng; mà chỉ khi nào, sự phản ánh đó
phát triển đến một mức độ khái quát nhất định, nó mới trở thành kinh nghiệm
và hiểu biết của con người về một vấn đề nhất định, về thế giới tự nhiên, về
xã hội và con người, thì sự khái quát đó mới được coi là tư tưởng.
Với tư cách là sản phẩm của tư duy, nên tư tưởng luôn tồn tại và xuất
hiện một cách tự nhiên do nhu cầu nhận thức của con người. Tuy thế, nhưng
tư tưởng của mỗi người lại phụ thuộc vào đối tượng mà nó phản ánh, phụ
thuộc vào trình độ nhận thức, mục đích cách tiếp cận của họ. Do đó, tư tưởng
có thể là sự phản ánh đúng đắn hay phản ánh xuyên tạc hiện thực. Tư tưởng
không chỉ đơn thuần là sự phản ánh thế giới khách quan, mà hơn thế nữa, trên
cơ sở phản ánh thế giới khách quan, tư tưởng còn có vai trò là sẽ định hướng
cho con người phương pháp tiến hành cải tạo thế giới khách quan để phục vụ

cho nhu cầu của mình. Vì vậy, nội dung của tư tưởng nào cũng bao hàm
những mục đích và những nhiệm vụ của hoạt động thực tiễn. Đó chính là chỗ
khác nhau căn bản giữa tư tưởng với các hình thức phản ánh khác. Cũng như
mối quan hệ giữa tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, khi được hình thành thì
tư tưởng cũng có tính độc lập tương đối của nó và nó tác động trở lại đối với


hiện thực. Những tư tưởng khác nhau có tác động tới hiện thực theo những
cách thức và chiều hướng khác nhau. Là một phạm trù thuộc hình thái YTXH,
nên trong xã hội có giai cấp, thì tư tưởng mang tính giai cấp.
Các nhà kinh điển Mác xít đã chỉ ra rằng, trong đời sống xã hội con
người có hai nhu cầu: một là nhu cầu vật chất; hai là nhu cầu tinh thần. Để
đáp ứng nhu cầu vật chất, con người tiến hành lao động sản xuất để sản xuất
ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất của con người. Để đáp ứng
nhu cầu tinh thần, con người phải sáng tạo ra những giá trị tinh thần để phục
vụ cho nhu cầu mình.
Cũng như vậy, trong mối quan hệ tư tưởng xã hội và YTXH thì bao giờ
tư tưởng xã hội cũng quyết định YTXH, nhưng khi đã hình thành nên YTXH
có tính độc lập tương đối của nó, nó không chỉ chịu sự quy định đó mà nó còn
tác động trở lại đối với tư tưởng xã hội. Ph. Ăngghen viết: "nhân tố lịch sử
một khi được những nhân tố khác, xét tới cùng là nguyên nhân kinh tế, làm
nảy sinh ra thì nhân tố lịch sử đó cũng có thể tác động trở lại đến môi trường
của nó, và thậm chí đến những nguyên nhân đã tạo ta nó" [14, tr.778].
Trong quá trình lao động sản xuất và giao tiếp xã hội, con người không
ngừng khám phá, nhận thức thế giới mà mình đang sống. Như vậy, tư tưởng là
nhận thức, quan điểm, là ý nghĩ của con người đối với hiện thực khách quan
và đối với xã hội.
Theo từ điển Triết học giản yếu, xuất bản năm 1987 đã nêu: tư tưởng là
hình thức phản ánh thế giới bên ngoài, trong đó bao hàm sự ý thức về mục
đích, triển vọng của việc tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới bên ngoài.

Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trong đề tài KHXH 05 - 02
cho rằng, tư tưởng, theo nghĩa chung nhất, là một hình thức tồn tại của YTXH được
hình thành một cách bền vững, sâu sắc trong tâm trí con người, có tác dụng lôi cuốn
mạnh mẽ, hướng dẫn hành động của con người trong thời gian tương đối dài.


Những khái niệm nêu trên đều có những điểm tương đồng đó là: tư
tưởng là một hình thức tồn tại của YTXH; là kết quả của quá trình nhận thức
hiện thực khách quan; nó trở thành kinh nghiệm và sự hiểu biết của tâm thức
con người.
Trên cơ sở đó ta có thể hiểu tư tưởng như sau: Tư tưởng là sản phẩm của
tư duy con người, phản ánh hiện thực khách biểu hiện thông qua mối quan hệ
giữa con người với bản thân con người và giữa con người với thế giới tự nhiên.
1.1.1.2. Hệ tư tưởng
Chúng ta đều biết rằng, trong xã hội có giai cấp thì HTT bao giờ cũng
mang tính giai cấp. HTT thống trị ở một thời đại bao giờ cũng là HTT của giai
cấp thống trị về chính trị hay về kinh tế ở thời đại đó.
Điều đó có nghĩa là, HTT luôn luôn mang tính giai cấp và phản ánh lợi
ích của giai cấp. Đồng thời, nó bảo vệ địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp
thống trị. Cuộc đấu tranh giữa các lợi ích giai cấp tất yếu biểu hiện thành cuộc
đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ. HTT gồm những quan điểm, tư tưởng của
một giai cấp nhất định về các vấn đề như: chính trị, pháp quyền, triết học, tôn
giáo, đạo đức, nghệ thuật...
HTT được hình thành bởi các nhà tư tưởng nhưng bao giờ cũng mang
tính kế thừa và chỉ có giai cấp nào đại diện cho một phương thức sản xuất
nhất định mới có HTT. Những giai cấp thống trị xã hội hoặc là chấp nhận
những quan điểm tư tưởng đã có, hoặc là xây dựng cho mình những quan
điểm tư tưởng mới và sử dụng nó làm HTT để bảo vệ địa vị thống trị, bảo vệ
lợi ích của giai cấp mình.
Là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, xét cho cùng, HTT phản ánh

những quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội đang tồn tại. Tức là, nó phản ánh địa vị
thống trị và lợi ích của giai cấp mà nó đại diện, dưới hình thức lý luận. Vì vậy, các
quan hệ tư tưởng và quá trình tư tưởng cũng chi phối bởi lợi ích giai cấp.


Với cách hiểu như trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm HTT như sau:
Hệ tư tưởng là những quan điểm, quan niệm đã được hệ thống hóa thành lý
luận hoặc thành học thuyết về xã hội được đảng phái hay giai cấp chấp nhận,
truyền bá để bảo vệ địa vị thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp.
1.1.1.3. Công tác tư tưởng
Trong lịch sử phát triển của xã hội con người, CTTT chỉ xuất hiện khi
xã hội con người đã phân chia thành giai cấp. Giai cấp thống trị xã hội bao
giờ cũng tiến hành làm CTTT để truyền bá và phát triển HTT, để bảo vệ địa vị
và bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. HTT của giai cấp thống trị tác động vào
YTXH thông qua hệ giá trị xã hội, từ giáo dục đến định hướng các giá trị,
chuẩn mực đạo đức, từ sáng tạo tri thức đến hình thành các quan điểm triết
học, tôn giáo và các lĩnh vực khác nhau thuộc đời sống tinh thần của xã hội.
Theo Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng ghen, toàn bộ CTTT của Đảng
là nhằm giáo duc, huấn luyện quần chúng, làm cho quần chúng giác ngộ, có ý
chí quyết tâm thực hiện được công việc lâu dài gian khó là phá bỏ tất cả
những cản trở của chế độ cũ, xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn, do đó
CTTT có một vị trí, vai trò quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của giai
cấp vô sản. Xét về bản chất, CTTT của ĐCS là một phương thức lãnh đạo,
nhằm thực thi quyền lực chính trị của giai cấp vô sản; CTTT là toàn bộ hoạt
động trên lĩnh vực ý thức của con người nhằm biến tư tưởng cách mạng, tiến
bộ và nhân văn thành lực lượng vật chất để cải tạo xã hội, xây dựng chế độ
mới. Mục tiêu cơ bản của CTTT là làm cho HTT của Đảng, của giai cấp công
nhân, những giá trị tốt đẹp trong văn hoá dân tộc và những tinh hoa văn hoá
thế giới trở thành HTT và các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ chiếm vị trí
chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.

Khi bàn về CTTT, V.I. Lênin cho rằng, CTTT và công tác lý luận không
có mục đích tự thân, vừa phải phục vụ cho CTTT vừa tiến hành trên cơ sở công


tác lý luận. Theo V.I. Lênin, làm công tác lý luận của Đảng tức là dựa trên cơ
sở lý luận, trên cơ sở những kết luận khoa học đúc rút được từ lý luận và thực
tiễn để phổ biến, tuyên truyền và tổ chức thực hiện tư tưởng của Đảng. Chính
vì CTTT và công tác lý luận có mối quan hệ biện chứng nên không thể coi nhẹ
mặt nào. Bất kỳ một đảng cách mạng nào cũng phải coi cả hai công tác đó là
một nhiệm vụ quan trọng, cần phải tiến hành đồng thời như nhau. Đúng như V.
I. Lênin đã nói: " Không thể là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại không làm
công tác lý luận, cũng như không thể là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại
không hướng công tác đó theo những nhu cầu của sự nghiệp, mà lại không
tuyên truyền trong công nhân những kết luận của lý luận đó"[ 45, tr 382].
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, CTTT, lý luận có vai trò
rất quan trọng. Đó là khâu đột phá mở đường để trang bị cơ sở lý luận cho
hoạt động thực tiễn. Theo quan điểm của các nhà kinh điển mácxít, CTTT, lý
luận có vai trò rất lớn, do đó, Đảng của giai cấp vô sản cần phải xác định
CTTT, lý luận là một nhiệm vụ quan trọng và phải được tiến hành thường
xuyên trong suốt quá trình thực hiện mục tiêu của Đảng.
Theo tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và nghiệp vụ CTTT” do Ban Tư
tưởng - văn hóa Trung ương biên soạn và phát hành năm 1996 thì tập thể tác
giả trong tác phẩm đó cho rằng:
CTTT là hoạt động đa dạng và quan trọng vào bậc nhất của
Đảng Mác - Lênin và Nhà nước XHCN, nhằm xây dựng, xác lập,
phát triển HTT xã hội chủ nghĩa, hình thành niềm tin, định hướng
giá trị đúng đắn, góp phần xây dựng thế giới quan khoa học cho
con người, thúc đẩy con người hành động tích cực và sáng tạo, để
thực hiện tháng lợi lý tưởng và mục tiêu XHCN [9, tr.23].
Theo tác giả Đào Duy Tùng, trong tác phẩm “Một số vấn đề về công

tác tư tưởng” phát hành năm 1999, thì:


CTTT là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong toàn bộ hoạt
động cách mạng của Đảng. CTTT cùng với công tác tổ chức góp phần
xây dựng Đảng thành đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó có nhiệm vụ giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chủ trương của Đảng cho cán bộ, đảng
viên và quần chúng, nhằm nâng cao tính tự giác, chủ động sáng tạo của
họ trong việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị cụ thể do Đảng đề ra;
đồng thời, nó cũng góp phần vào việc hình thành đường lối, chủ trương
của Đảng...góp phần xây dựng con người mới XHCN [43, tr.7-8].
Trong tác phẩm “Nguyên lý công tác tư tưởng” (tập I) thì PGS, TS.
Lương Khắc Hiếu cho rằng:
CTTT là hoạt động có mục đích của giai cấp công nhân - thông
qua Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị nhằm bảo vệ, phát triển và
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối chính sách của Đảng và Nhà nước, xây dựng ý thức XHCN, hình
thành niềm tin khoa học, thúc đẩy quần chúng tham gia vào sự
nghiệp đổi mới đưa đất nước tiến lên CNXH [23, tr. 12].
Kế thừa các quan điểm và kết quả nghiên cứu về CTTT của các nhà
khoa học chúng tôi xin được trình bày khái niệm CTTT như sau: CTTT là
hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng, nhằm hình thành,
phát triển, truyền bá HTT trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành động
vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng.
Khi nghiên cứu CTTT dưới CNXH chúng tôi đồng nhất với quan điểm
của PGS, TS. Lương Khắc Hiếu, đó là: “Công tác tư tưởng là hoạt động có
mục đích của một giai cấp, một chính đảng nhằm hình thành và phát triển hệ
tư tưởng, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành
động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng”[23, tr.11]



CTTT có ba bộ phận hợp thành: công tác lý luận, công tác tuyên truyền
và công tác cổ động.
Công tác lý luận là bộ phận quan trọng hàng đầu của CTTT, nhằm tổng
kết thực tiễn, phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, từng bước làm phong phú HTT của Đảng.
Công tác tuyên truyền là một bộ phận của CTTT có nhiệm vụ truyền bá sâu
rộng chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, nhằm làm cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân
từng bước nhận thức được quy luật tồn tại và phát triển của xã hội loài người,
thấm nhuần đường lối chủ trương của Đảng có căn cứ khoa học, trên cơ sở đó
nâng cao niềm tin, hành động tự giác và sáng tạo của quần chúng.
Công tác cổ động nhằm tác động trực tiếp vào tâm lý, tình cảm của
quần chúng. Thông qua việc thông tin, giải thích cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân hiểu biết kịp thời những sự kiện đang diễn ra trong đời sống giúp
cho họ nắm bắt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; cổ
vũ động viên mọi người hành động vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam
giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ba bộ phận CTTT tuy có khác nhau về tính chất của nhiệm vụ và phương
thức tiến hành, song nó có mối quan hệ tác động biện chứng và gắn bó với nhau.
1.1.1.4. Công tác tư tưởng của đảng bộ xã, phường, thị trấn
Cấp xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính nhà nước ở địa phương
cơ sở, có vị trí hết sức quan trọng trong bộ máy hành chính bốn cấp ở nước ta.
Nói về vai trò, vị trí của cấp xã, phường, thị trấn, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: "cấp xã là cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp
xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi"[35, tr.371].
Điều đó cũng có nghĩa là, Đảng bộ xã, phường, thị trấn là nơi truyền
đạt quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước cũng



như những chủ trương, biện pháp để hiện thực hóa đường lối chủ trương đó ở
địa phương, cơ sở trong quần chúng nhân dân.
Cấp xã, phường, thị trấn là nơi thể hiện tâm tư, nguyện vọng chính
đáng của quần chúng nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Cấp xã, phường,
thị trấn không những là cấp kiểm nghiệm tính đúng đắn của đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước, mà còn là cấp đóng góp những ý kiến, những
nguyện vọng chính đáng của nhân dân, để Đảng và Nhà nước nghiên cứu, bổ
sung, sửa đổi, cho đường lối, chính sách phù hợp hơn với thực tiễn ở cơ sở.
Mặt khác, Đảng bộ xã, phường, thị trấn là nơi xây dựng thế trận lòng dân,
đấu tranh chống lại sự phá hoại của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách
mạng XHCN ở Việt Nam, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa.
Tổ chức cơ sở đảng ở xã, phường, thị trấn có vai trò quyết định đối với
chất lượng công tác chính trị tư tưởng trong phạm vi lãnh đạo của mình. Do
đó, xây dựng Đảng bộ xã, phường, thị trấn vững mạnh toàn diện là điều kiện
quyết định để nâng cao chất lượng CTTT. Cấp ủy và đảng viên ở tổ chức cơ
sở Đảng xã, phường, thị trấn phải nắm vững các nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy
cấp trên, các chính sách, pháp luật của Nhà nước; nắm vững tình hình cơ sở,
nhất là các động thái tư tưởng của nhân dân trên địa bàn, từ đó chủ động, sáng
tạo đề ra các kế hoạch, biện pháp thúc đẩy các mặt sản xuất, đời sống, an
ninh, văn hóa, xã hội ở xã, phường, thị trấn.
Tổ chức đảng ở xã, phường, thị trấn phải biết khai thác triệt để và sử
dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp CTTT phù hợp với từng đối tượng,
với trình độ giác ngộ chính trị của quần chúng. Tổ chức đảng chỉ đạo bộ máy
chính quyền cơ sở quản lý chặt chẽ các hoạt động thông tin, tuyên truyền;
khuyến khích các hoạt động lành mạnh, đồng thời ngăn chặn những tác dụng
xấu tới quần chúng. Cần phải phát huy thế mạnh của các đoàn thể quần chúng,
nêu cao vai trò của các tổ chức này trong công tác chính trị - tư tưởng.



Ngoài những đặc điểm chung nêu trên, mỗi loại hình cơ sở, đặc biệt là
loại hình cơ sở xã, phường, thị trấn có những điểm đặc thù về điều kiện sản
xuất, cơ cấu xã hội - giai cấp, dân tộc, tôn giáo, phong tục, tập quán... Vì thế,
chỉ có cấp xã, phường, thị trấn mới hiểu biết những đặc thù đó để đề ra chủ
trương, biện pháp giải quyết thích hợp, mới tìm ra nội dung và hình thức tiến
hành CTTT và giáo dục chính trị - tư tưởng đạt hiệu quả.
Một vấn đề cũng cần đặc biệt quan tâm trong khi nghiên cứu tình hình
tư tưởng ở xã, phường, thị trấn là: sau 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới đất
nước, CTTT đã đạt những thành tựu quan trọng, nhưng cũng còn không ít
những yếu kém bất cập. Sự nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu càng xuất
hiện nhiều vấn đề mới mẻ, phức tạp, đang tác động đến các mặt của đời sống
xã hội. Trong lúc đó, những diễn biến nhanh chóng khó lường của tình hình
quốc tế đã tạo ra những thách thức, nguy cơ lớn bên cạnh những thời cơ, vận
hội lớn. Chính vì vậy, CTTT của Đảng ở xã, phường, thị trấn có ý nghĩa hết
sức quan trọng, đòi hỏi phải được đổi mới mạnh mẻ hơn nữa, phục vụ có hiệu
quả quá trình thực hiện nghị quyết Đại hội đảng bộ các cấp và nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc qua từng giai đoạn cách mạng nhất định.
Đổi mới và nâng cao chất lượng CTTT của Đảng bộ ở xã, phường, thị
trấn hiện nay trở thành nhiệm vụ cấp bách; muốn toàn Đảng vững mạnh về tư
tưởng và có tác động định hướng tư tưởng tích cực đến toàn dân, thì tất cả các
tổ chức đảng ở cơ sở xã, phường, thị trấn phải thường xuyên vững mạnh về tư
tưởng và làm tốt CTTT.
Chất lượng, hiệu quả công tác chính trị tư tưởng ở cơ sở xã, phường, thị
trấn còn tùy thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở, trước hết là Bí thư và các
cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Do đó, cùng với những yêu cầu cao về trình độ, trí tuệ,
năng lực tổ chức, quản lý kinh tế - xã hội, cần phải nâng cao khả năng làm CTTT.
Công tác tư tưởng của đảng bộ xã, phường, thị trấn là bộ phận của CTTT của


Đảng. CTTT được thực hiện trên địa bàn xã, phường, thị trấn, nhằm xây

dựng, xác lập, phát triển hệ tư tưởng XHCN; động viên cổ vũ tính tích cực,
sáng tạo của nhân dân trên địa bàn, góp phần hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ
chính trị của địa phương và đất nước.
CTTT ở Đảng bộ cấp xã, phường, thị trấn là hoạt động tổng hợp, bao gồm:
- Hoạt động tư tưởng của Đảng và Nhà nước ta tác động đến đối tượng
là nhân dân cấp xã, phường, thị trấn.
- Hoạt động tư tưởng của đảng bộ, chính quyền, đoàn thể...cấp xã, phường,
thị trấn tác động lên chính đối tượng trên phạm vi địa bàn cấp xã, phường, thị trấn
và sự chỉ đạo đối với hoạt động tư tưởng của cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể
xã, phường, thị trấn. Đây là hoạt động chủ yếu và trực tiếp.
Các hoạt động này thống nhất với nhau về mục đích, nội dung, tổ chức
và tác động đến một đối tượng là cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn
cấp xã, phường, thị trấn.
Từ đó có thể hiểu công tác tư tưởng của đảng bộ xã, phường, thị trấn
như sau: Công tác tư tưởng của đảng bộ xã, phường, thị trấn là hoạt động
của tổ chức đảng tác động vào tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân, nhằm trang bị tri thức, hình thành và củng cố niềm tin; động viên,
cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong quá trình tham gia
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.1.2. Các yếu tố cấu thành hệ thống công tác tư tưởng của đảng bộ
xã, phường, thị trấn
CTTT bao gồm các yếu tố sau đây: Chủ thể, khách thể của CTTT, mục
đích, nội dung, nguyên tắc, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức và
hiệu quả CTTT.
- Chủ thể CTTT ở đảng bộ xã, phường, thị trấn: CTTT mang tính giai


cấp rõ rệt, do đó nói đến chủ thể CTTT trước phải nói đến ĐCS. Đảng làm
CTTT thông qua hoạt động của Trung ương Đảng, của các cấp uỷ đảng, của

các cơ quan tham mưu CTTT và của các đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết: "Kinh qua đảng viên và các tổ chức của đảng, Đảng liên hệ chặt chẽ với
quần chúng, tuyên truyền, giáo dục và tổ chức quần chúng, lãnh đạo các đoàn
thể cách mạng của quần chúng"[36, tr. 232-233]. Toàn Đảng tham gia làm
CTTT, tuy nhiên, trách nhiệm chính thuộc về cấp uỷ đảng và cơ quan tham
mưu cho cấp uỷ đảng về CTTT là Ban Tuyên giáo các cấp.
Đúng như trong Nghị quyết Trung ương V ( khóa X ) đã chỉ rõ: "Công
tác tư tưởng là nhiệm vụ của toàn Đảng, của tất cả đảng viên, trước hết là cấp
uỷ đảng các cấp và đồng chí Bí thư cấp uỷ, của cả hệ thống chính trị với sự
tham gia đóng góp của nhân dân, trong đó lực lượng nòng cốt là đội ngũ
chuyên trách làm công tác tư tưởng..."[20, tr. 42].
Chủ thể trực tiếp làm CTTT ở đảng bộ xã phường, thị trấn là đội ngũ
cán bộ CTTT cả trong và ngoài Đảng (cả chuyên trách và không chuyên
trách) bao gồm các cán bộ tuyên truyền giáo dục (đội ngũ báo cáo viên, tuyên
truyền viên, cán bộ các ban tuyên giáo...); cán bộ thông tin cổ động (chủ yếu
là các cơ quan thông tin đại chúng, văn hoá, văn nghệ...). Sự phân định này
chỉ có tính chất tương đối, vì một cán bộ có thể tham gia cả ba bộ phận của
công tác tư tưởng với tư cách không chuyên trách.
- Khách thể công tác tư tưởng ở đảng bộ xã, phường, thị trấn: bao gồm
các các tầng lớp nhân dân, các cộng đồng dân tộc, các tập thể và cá nhân
trong toàn xã hội tiếp nhận tác động của CTTT. Đối tượng của CTTT không
tiếp nhận tác động CTTT một cách thụ động, mà còn chủ động hướng tới
CTTT và có tác động trở lại đối với chủ thể CTTT ở một số mặt nào đó.
Khách thể của CTTT là đối tượng chịu sự tác động về mặt tư tưởng của
chủ thể. Khách thể của CTTT là các quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với


người trong xã hội, trong mối quan hệ này là chủ thể nhưng trong mối quan
hệ khác lại là khách thể. Do đó, CTTT phải được tiến hành cả trong Đảng và
ngoài xã hội, trong các tầng lớp xã hội.

Vì vậy, CTTT ở đảng bộ xã, phường, thị trấn phải gắn chặt với các
điều kiện kinh tế - xã hội và phải không ngừng đổi mới, nâng cao chất
lượng, hiệu quả để tác động vào đối tượng trong mối quan hệ nhiều chiều và
không ngừng vận động, phát triển. Trong đó, đặc biệt chú ý đến lợi ích của
khách thể CTTT.
Là các hoạt động mà chủ thể CTTT phải tiến hành nhằm thực hiện mục
tiêu đề ra. CTTT của ĐCSVN hướng vào ba mục tiêu chủ yếu: xây dựng
Đảng về tư tưởng, xây dựng hình thái YTXH cho chế độ XHCN và xây dựng
con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Theo quan niệm truyền thống, cấu trúc CTTT bao gồm nhiều bộ phận
như: công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động.
* Nội dung CTTT ở đảng bộ xã, phường, thị trấn gồm:
- Công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục truyền thống cách mạng
là nội dung quan trọng hàng đầu, nhằm bồi dưỡng và nâng cao nhận thức lý
luận chính trị, lòng yêu nước, tình cảm cách mạng cho cán bộ đảng viên và
nhân dân ở cơ sở, thông qua việc tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt nhị
quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tổ chức học tập
lịch sử, truyền thống đấu tranh cách mạng của đảng bộ và nhân dân địa
phương. Trên cơ sở đó tạo ra sự nhất trí, tin tưởng và quyết tâm thực hiện
thắng lợi các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của
cán bộ đảng viên và nhân dân.
- Công tác tuyên truyền, giải thích đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền phổ biến kiến thức khoa
học, kỹ thuật, công nghệ phục vụ sản xuất, đời sống; thông tin tình hình thời


sự, chính trị...định hướng tư tưởng kịp thời trước các sự kiện tác động đến tư
tưởng, tình cảm, tâm trạng của quần chúng ở cơ sở.
- Công tác cổ động, nêu gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến,
nhằm cổ vũ hành động của quần chúng nhân dân, biến nhận thức tư tưởng

thành niềm tin, hành động các mạng cụ thể, thành phong trào quần chúng
rộng rãi...
Ngoài các nội dung trên CTTT ở đảng bộ xã, phường, thị trấn còn có
các nội dung khác như: thông qua các hoạt động của công tác khoa giáo, giáo
dục thẩm mỹ, giáo dục thể dục thể lực, giáo dục về sinh thái môi trường...
Tất cả các nội dung trên đòi hỏi CTTT ở đảng bộ xã, phường, thị trấn
phải tập trung lãnh đạo và thực hiện có hiệu quả ngay từ cơ sở những nội dung
cơ bản nhất nhằm góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương.
* Nhiệm vụ CTTT ở đảng bộ xã, phường, thị trấn:
- Giáo dục kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa;
kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới
của Đảng; rèn luyện cho cán bộ đảng viên và nhân dân luôn giữ vững trước
mọi khó khăn, thách thức. Kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm sai
trái, thù địch.
- Các cấp uỷ chủ động nắm được diễn biến nhận thức, tư tưởng chính
trị của cán bộ, đảng viên để thường xuyên thông tin giúp nhau hiểu đúng, hiểu
rõ các vấn đề, tạo sự nhất trí cao về quan điểm, đường lối của Đảng. Kịp thời
uốn nắn những nhân thức, tư tưởng mơ hồ, lệch lạc. Phê phán và xử lý
nghiêm minh những đảng viên vi phạm nguyên tắc tổ chức đảng.
- Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức và năng lực
thực tiễn của cán bộ, đảng viên và nhân dân, khắc phục mọi biểu biện của chủ
nghĩa thực dụng; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của địa phương, cơ sở,
góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.


- Chỉ đạo, hướng dẫn, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước, coi trọng việc
bồi dưỡng, nhân rộng các điển hình, nhân tố mới; tạo nên các phong trào thi
đua sôi nổi hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của từng địa phương trong
từng giai đoạn.
- Giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân nâng cao cảnh giác chống

"diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch. Kịp thời giải quyết các mâu
thuẫn nội bộ nhân dân, không để xảy ra khiếu kiện kéi dài, khiếu kiện tập thể
và không có điểm nóng ở cơ sở.
Các nhiệm vụ trên ứng với từng giai đoạn, từng thời kỳ, từng thực tế
địa phương để các đảng bộ xã, phường, thị trấn vận dụng thực hiện trong
CTTT một cách có hiệu quả, có chất lượng để tạo sự đồng thuận, nhất trí cao
trong toàn đảng bộ, tạo niềm tin vững chắc trong nhân dân.
* Hiệu quả công tác tư tưởng là phạm trù so sánh giữa chi phí và kết
quả thu được trong CTTT, hiệu quả được đánh giá bằng sự phấn đấu của chủ
thể CTTT và những chuyển biến nhận thức, tư tưởng của khách thể. Hiệu quả
chung của CTTT biểu hiện ở việc đóng góp phần tích cực nhất vào thắng lợi
trên tất cả các lĩnh vực, trong từng giai đoạn của sự nghiệp cách mạng do
Đảng lãnh đạo.
Hiệu quả CTTT được đánh giá theo các mức độ khác nhau:
- Hiệu quả lâu dài áp dụng ở tầm vĩ mô, thể hiện ở lý luận và những kết
quả nghiên cứu lý luận, những phát hiện mới về lý luận, cung cấp cho việc
hoạch định đường lối, chiến lược đúng đắn, xác lập hệ thống giá trị XHCN.
- Hiệu quả trước mắt, thể hiện trong hiệu quả kinh tế, văn hoá, xã hội,
chính trị hoặc trong các hoạt động trước mắt. Hiệu quả này liên quan đến các
quá trình tâm lý xã hội và vai trò tác động giáo dục của cán bộ làm CTTT.
- Hiệu quả trực tiếp là hiệu quả của một biện pháp, một hoạt động tác
động tư tưởng xác định như tác dụng của một bài báo, một bài giảng, một


buổi nói chuyện. Đây là hiệu quả cụ thể và trực tiếp cả trên hai mặt tuyên
truyền, giáo dục, cổ vũ hành động.
1.2. Vai trò công tác tư tưởng của đảng bộ xã, phường, thị trấn ở
tỉnh Quảng Trị hiện nay
1.2.1. Quan điểm của Đảng ta về công tác tư tưởng và đổi mới công
tác tư tưởng

CTTT có vị trí quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của
Đảng, nhất là trong công tác xây dựng Đảng và vận động quần chúng. Trải
qua các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm đẩy mạnh CTTT trong
Đảng và trong xã hội. CTTT được đánh giá là "có sự đóng góp to lớn vào
thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của Đảng". Ngày nay, trong sự nghiệp đổi
mới đất nước, CTTT vẫn luôn luôn đặt ở "vị trí hàng đầu". Trong ba bộ phận
cấu thành của CTTT, công tác lý luận có vai trò quan trọng, là cơ sở lý luận
của công tác tuyên truyền và cổ động. Đảng ta rất quan tâm nghiên cứu, vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - lênin vào thực tiễn Việt Nam, làm
phong phú thêm HTT của giai cấp vô sản. Đó là cơ sở lý luận, nền tảng CTTT
của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói "Muốn có lập trường vô sản vững chắc
thì đảng viên phải có ý thức giai cấp, đồng thời phải có lý luận cách mạng.
Không có lý luận của chủ nghĩa khoa học thì không thể có lập trường giai cấp
vững vàng"[37, tr.149].
Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, định hướng XHCN, chủ động hội nhập quốc tế; trong bối cảnh tình hình
quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, CTTT càng có vai trò quan trọng để tạo ra
sự thống nhất về tư tưởng, hành động trong Đảng và trong xã hội. Nhiều văn
kiện của Đảng đã khẳng định vị trí, vai trò, xác định nhiệm vụ của CTTT.
Đổi mới nội dung CTTT phải xuất phát từ mục đích nhằm xây dựng
HTT của giai cấp trở thành HTT chi phối hoạt động toàn xã hội. Đổi mới


phương pháp và hình thức CTTT để đáp ứng và phù hợp với điều kiện khách
quan của cuộc sống, đặc điểm tâm lý và trình độ nhận thức của đối tượng.
Điều kiện khách quan không ngừng biến đổi, trình độ nhận thức của đối
tượng CTTT không ngừng được nâng cao. Chính vì vậy, yêu cầu khách quan
phải đổi mới thường xuyên CTTT.
CTTT của Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng và cả HTCT. Tuy nhiên, do
đặc điểm của nội dung, phương pháp và hình thức, CTTT cần thiết phải có

một lực lượng chuyên môn, chuyên nghiệp, tức đội ngũ những người chuyên
làm CTTT. Đổi mới và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của những
người làm CTTT là nhiệm vụ khó khăn phức tạp, phải làm thường xuyên, liên
tục, lâu dài. Đổi mới CTTT phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của cấp uỷ, tổ
chức đảng các cấp, sự chỉ đạo, sự hướng dẫn, định hướng của Đảng và cơ
quan chức năng cấp trên, sự đồng tình, tích cực tham gia hưỡng ứng của đội
ngũ cán bộ, đảng viên.
Từ những nội dung trình bày trên có thể hiểu: đổi mới CTTT của Đảng
là quá trình đổi mới tư duy, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, của Đảng; đổi
mới nội dung, phương pháp, hình thức CTTT sao cho phát huy được sức
mạnh tổng hợp của các lực lượng và phương tiện CTTT để truyền bá, phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước và cổ vũ, động viên quần chúng nhân dân tự
giác, tích cực hiện thực hóa các nhiệm vụ chính trị do Đảng đặt ra trong từng
giai đoạn nhất định.
* Yêu cầu đổi mới CTTT của Đảng thể hiện ở những nội dung sau:
Một là, CTTT phải gắn chặt hơn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị,
với phong trào cách mạng của quần chúng, với từng đối tượng.
Hai là, đổi mới CTTT cần kết hợp chặt chẽ các nội dung giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của


Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiến thức khoa học, phẩm chất và
đạo đức cách mạng; kết hợp nghiên cứu và giáo dục lý luận.
Ba là, đổi mới CTTT cần kết hợp hài hoà CTTT với công tác tổ chức
và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Bốn là, đổi mới CTTT cần kết hợp giáo dục tư tưởng với việc rèn
luyên trong thực tiễn cách mạng.
Năm là, đổi mới CTTT cần kết hợp giáo dục tư tưởng trong sinh hoạt
của tất cả các tổ chức, kết hợp CTTT trong Đảng với CTTT trong xã hội.

Sáu là, Đổi mới CTTT cần kết hợp bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cách
mạng với phê phán triệt để những biểu hiện tư tưởng phi vô sản; biểu dương
ưu điểm đi đôi với phê bình nghiêm khắc khuyết điểm.
1.2.2. Vai trò của công tác tư tưởng ở đảng bộ xã, phường, thị trấn
1.2.2.1. CTTT góp phần quan trọng vào việc tuyên truyền các chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước chính là ý chí và nguyện vọng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong quá trình xây dựng và cải tạo
xã hội. Vì vậy, để chủ trương, đường lối đi sâu vào quần chúng, để quần chúng
thấm nhuần và tích cực thực hiện chính là nhiệm vụ trọng tâm của CTTT.
CTTT ở xã, phường, thị trấn có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc
đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến
với mỗi người dân; khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự
cường, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhằm biến các đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành hiện thực, thành
phong trào hành động cách mạng của quần chúng. Đồng thời, CTTT ở xã,
phường, thị trấn còn có vai trò quan trọng trong việc tạo nên sự thống nhất
cao trong tổ chức đảng, đồng thuận trong xã hội, góp phần giữ vững ổn định
chính trị, phát triển kinh tế, văn hoá ở cơ sở.


CTTT ở xã, phường, thị trấn có vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển
kinh tế, chính trị và văn hoá ở cơ sở; xây dựng cơ sở vững mạng toàn diện.
Vai trò CTTT ở cơ sở là chủ động, tích cực phát hiện và đấu tranh có hiệu
quả đối với mọi biểu hiện trái với chủ trương, chính sách của Đảng; cổ vũ động
viên, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tích
cực tham gia đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt
là các cơ quan chuyên trách làm CTTT giữ vai trò tham mưu tin cậy nhất của
các cấp uỷ đảng, chính quyền trong việc hoạch định các chủ trương, chính sách

của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đây được coi là việc làm có ý nghĩa rất to
lớn, thể hiện rõ vai trò của CTTT ở xã, phường, thị trấn. Thông qua công tác
tuyên truyền, cổ động, CTTT sẽ giúp cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân
dân hiểu được một cách sâu sắc, đúng đắn hơn những quan điểm, chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trên mọi mặt của đời sống xã hội. Từ
đó, giúp họ nhận thức rõ trách nhiệm, bổn phận của mình trong cuộc sống, tạo
niềm tin chính trị hướng mọi nổ lực vì sự nghiệp cách mạng của Đảng.
1.2.2.2. Công tác tư tưởng góp phần quyết định trong việc cổ vũ động
viên nhân dân tích cực, tự giác tham gia vào hành động cách mạng.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Vì vậy, nâng cao giác ngộ của
quần chúng là nhiệm vụ hết sức quan trọng của CTTT trong mỗi giai đoạn
cách mạng. Đối với nước ta, sự nghiệp đổi mới diễn ra trong bối cảnh quốc tế
trong nước có nhiều bất lợi, lại càng khó khăn phức tạp. Thực tiễn xây dựng
CNXH và công cuộc đổi mới đất nước ta, có biết bao nhiêu vấn đề phức tạp
đã và đang đặt ra trong mọi lĩnh vực, mọi ngành, mọi tập thể, mọi tổ chức.
Nhiệm vụ đó chỉ có thể thực hiện thành công khi Đảng nâng cao được tính tự
giác, tự nguyện của mọi lực lượng trong HTCT, biến nó thành phong trào
hành động cách mạng rộng lớn ngay từ cơ sở.


Hơn 80 năm hoạt động và lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, Đảng ta
luôn luôn khẳng định: CTTT là một trong những lĩnh vực trọng yếu nhất của
Đảng. CTTT, với ý nghĩa là toàn bộ hoạt động trên lĩnh vực ý thức của con
người nhằm biến tư tưởng tiến bộ, cách mạng thành lực lượng để xây dựng
chế độ mới, làm cho HTT của Đảng, của giai cấp công nhân, truyền thống tốt
đẹp của dân tộc chiếm vị trí chủ đạo của đời sống xã hội. CTTT càng trở nên
đặc biệt quan trọng trong những thời điểm bước ngoặt lịch sử, ở những thời
điểm này càng cần phải tập trung xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, làm
cho Đảng kiên định mục tiêu, lý tưởng, nền tảng tư tưởng và những nguyên
tắc cơ bản trong hoạt động của Đảng; đồng thời, vận dụng sáng tạo, phù hợp

với thực tiễn cách mạng nước ta .
Trong những năm gần đây, trước những diễn biến cực kỳ phức tạp trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị- xã hội trong nước và quốc tế, CTTT
của Đảng đã tích cực chủ động bám sát thực tiễn đời sống, nắm vững, đánh
giá và dự báo đúng diễn biến của tình hình, phát hiện, đề xuất, làm tham mưu
và góp phần chỉ đạo, kiểm tra, triển khai và xử lý kịp thời những vấn đề đặt
ra; kiên định mục tiêu, lý tưởng và những nguyên tắc xây dựng Đảng, giữ
vững ổn định chính trị, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
CTTT đã góp phần vào việc tuyên truyền, giáo dục và cổ vũ động viên nhân
dân tích cực, tự giác, và nâng cao ý thức, trách nhiệm nhằm khơi dậy phong
trào cách mạng của nhân dân trong việc tổ chức thực hiện thắng lợi những
nhiệm vụ kinh tế- xã hội đã đề ra.
CTTT của Đảng ở cơ sở xã, phường, thị trấn phải kịp thời giải đáp
những thắc mắc của quần chúng, uốn nắn những nhận thức lệch lạc của cán
bộ, đảng viên và của nhân dân, xử lý những vấn đề tư tưởng mọi phát sinh,
ngăn chặn những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù và của những phần tử xấu
ngay từ cơ sở, đảm bảo sự đoàn kết thống nhất ý chí, hành động trong Đảng


×