Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

nhan đề và lời đề từ bài thơ tràng giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (37.48 KB, 3 trang )

Nhan đề: Tràng giang
Bài thơ hấp dẫn người đọc ngay từ nhan đề. Có những người
suốt đời lặn lội với văn chương nhưng cũng chẳng để lại cho
đời một áng văn hay, một bài thơ đẹp. Vì vậy, khi người nghệ sĩ
sáng tác ra được một thi phẩm nghệ thuật, họ thường trăn trở
băn khoăn cho cách đặt nhan đề. Nhan đề của một tác phẩm
thường chứa đựng nội dung của nó. Viết về một xã hội tăm tối
trước cách mạng, Ngô Tất Tố có tiêu thuyết “Tắt Đèn”. Để ca
ngợi cái tâm của người nghệ sĩ, những nho sĩ cuối mùa nay
vẫn còn vang bóng, Nguyễn Tuân có tác phẩm “Chữ người tử
tù”,…Nhan đề của bài thơ là “Tràng Giang” cũng là một trong
những dụng ý nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận. “Tràng Giang”
vốn là hai từ Hán Việt để chỉ dòng sông dài. Đó là dòng sông
Hồng-dòng sông đã gợi ý gợi tứ để nhà thơ Huy Cận viết thành
công bài thơ này. Dòng sông ấy vĩnh viễn thuộc về đất nước
Việt Nam, nó có từ thuở khai thiên lập địa. Nó không chỉ dài về
không gian địa lý mà còn dài về khoảng thời gian lịch sử. Trong
bài thơ “Người đi tìm hình của nước”, Chế Lan Viên có viết:
“Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây”.
Trong Tiếng Việt hiện hành có hai từ nhằm miêu tả chiều
dài đó là từ “Tràng” và từ “Trường”. Ở đay nhà thơ Huy Cận
không viết là “Tường Giang” mà lại viết là “Tràng Giang”. Như
vậy đủ thấy sự tinh tế của Huy Cận khi sử dụng Tiếng Việt. Bởi
chữ “Trường” chỉ đơn thuần là miêu tả chiều dài. Còn chữ
“Tràng” với âm “vang” vốn là âm mở, nó không chỉ miêu tả
chiều dài của dòng sông mà còn gợi lên chiều rộng của con
sông. Đó là một con sông được vẽ lên với không gian ba chiều:
sâu chót vót; rộng mênh mông; dài dằng dặc. Dòng sông càng
mênh mông, càng vô biên, vô cùng bao nhiêu thì tâm hồn thi


nhân càng cô liêu, cô sầu bấy nhiêu. Như vậy, bài thơ với nhan
đề “Tràng Giang”đã phần nào bộc lộ được sở trường và phong
cách thơ Huy Cận-một nhà thơ luôn bị ám ảnh bởi bước đi của
không gian


Bìa thơ “Tràng Giang” có lời đề từ: “Bâng khuâng
trời rộng nhớ sông dài”.
Trong một số thi phẩm nghệ thuật, ta bắt gặp một số lời đề từ. Lời đề
từ không phải là một thứ đồ trang sức làm đẹp da cho thi phẩm nghệ
thuật. Trái lại lời đề từ là một xuất phát điểm, là một dụng ý nghệ thuật.
Nó cung cấp cho người yêu thơ chiếc chìa khóa nghệ thuật để khám
phá nội dung của thi phẩm. Có lời đề từ là những câu văn xuôi mà tác
giả mượn lời của người khác. Ta nhớ tới lời đề từ của Nam Cao trong
tác phẩm “Nước mắt” khi ông mượn lời của nhà văn Pháp Francois
Coppée, ông viết:
“Người ta chỉ xấu xa hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích
kỷ. Nước mắt là miếng kính biến hình vũ trụ”.
Có lời đề từ là những câu văn vần của chính tác giả mà ta có thể kể
đến lời đề từ của Chế Lan Viên trong bài thơ “Tiếng Hát Con Tàu”:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ Quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?”.
Lời đề từ còn cung cấp những thi liệu chính mà tác giả xây dựng
trong bài thơ. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã gợi lên
trước mắt người đọc hai thi liệu chính: đó là trời rộng và sông dài. Điều
này được kết tinh trong hai câu thơ được xem là trung tâm của bài thơ
“Tràng Giang”:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”.
Hai khổ thơ còn lại của bài thơ này. Nếu khổ ba tác giả vẽ lên hình
ảnh dòng sông dài, mênh mông, dợn ngợp thì khổ thơ thứ tư tác giả lại
vẽ lên hình ảnh bầu trời cao rộng.
Hơn nữa, lời đề từ còn thể hiện rõ âm điệu, xúc cảm của bài thơ. “Tràng
Giang” là bài thơ có âm điệu buồn. Đó là nỗi sầu vạn kỉ thấm sâu vào
trong mạch cảm xúc của bài thơ này mà Lê Di viết:
“Là Tràng Giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nước. Là Huy Cận khổ
nào cũng lặng lẽ u sầu”.


Đồng thời lời đề từ còn thể hiện tình yêu quê hương đất nước thầm
kín trong tâm hồn Huy Cận nói riêng, của một thời đại trong thi ca nói
chung. Đó là những con người:
“Sống giữa giữa quê hương mà vẫn thấy mình thiếu quê hương” (nói
như Nguyễn Tuân).
Còn Chế Lan Viên viết:
“Nhân dân ở quanh ta mà sao chẳng thấyTổ quốc ở quanh mình mà có
cũng như không”.
Nên chăng ta mượn lại lời nhận định của Hoài Thanh, Hoài Chân
trong “Một thời đại trong thi ca” để kết thúc bài viết của mình:
“Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu,
nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu
lưu trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử,
Chế Lan Viên, đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình
yêu không bền, điên cuồng lại tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn
buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận
Nguồn />



×