Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO KINH tế CHÍNH TRỊ tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về xây DỰNG QUAN hệ sản XUẤT, QUẢN lý KINH tế và PHÂN PHỐI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.86 KB, 13 trang )

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng QHSX, QLKT và phân phối
A, Tư tưởng Hồ Chí Minh về sở hữu
a. Quan niệm của HCM về vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất.
Tư tưởng này được thể hiện chủ yếu qua ba tác phẩm: Đường cách mệnh, viết
năm 1927; Thường thức chính trị, viết năm 1953; Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa
đổi, tại kỳ họp thứ 1, Quốc hội khóa I, nước VN dân chủ cộng hòa. Thể hiện trên các
nội dung:
- Thứ nhất, HCM cho rằng: “Từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế
độ phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - nói chung thì loài
người phát triển theo quy luật nhất định như vậy” . Sự phát triển tất yếu đó là do quá
trình sản xuất vật chất con người đã làm cho LLSX biến đổi không ngừng và do đó
QHSX cũng không ngừng biến đổi để phù hợp với tính chất và trình độ LLSX, Bác
viết: “Lịch sử loài người là do người lao động sáng tạo ra. Người lao động sáng tạo ra
của cải, luôn luôn nâng cao sức sản xuất. Sản xuất phát triển tức là xã hội phát triển.
Chế độ nào hợp với sức sản xuất thì đứng vững. Nếu không hợp thì giai cấp đại biểu
của sức sản xuất mới sẽ nổi lên cách mạng lật đổ chế độ cũ”.
- Thứ hai, sở hữu là một mặt của QHSX. Nó phản ánh mối quan hệ giữa các tầng
lớp, các giai cấp trong XH đối với vấn đề chiếm hữu những TLSX. Khi xuất hiện chế
độ tư hữu thì xã hội cũng phân thành giai cấp.
“Tất cả của cải vật chất trong XH, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ
sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển. Song
những người lao động thì suốt đời nghèo khó, mà có một số người không lao động thì
lại “ngồi mát ăn bát vàng”. Vì đâu có nỗi chẳng công bằng này? Vì số ít người đã
chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xã hội” .
- Thứ ba, với tư cách là một mặt và là mặt quan trọng nhất của QHSX, quan hệ
sở hữu chi phối hoàn toàn quan hệ quản lý và quan hệ phân phối.
Trong XH phong kiến, HCM chỉ ra: “Địa chủ chiếm tư liệu sản xuất, tức là
ruộng đất, nông cụ, vân vân, làm của riêng nhưng họ không cầy cấy. Nông dân buộc
phải mướn ruộng đất của địa chủ, phải nộp tô cho địa chủ, lại còn phải hầu hạ và lễ
lạt địa chủ, nông dân không khác gì nô lệ” .
- Thứ tư, muốn kinh tế phát triển thì QHSX phải phù hợp với tính chất và trình


độ của LLSX. “Lao động tập thể, thì các tư liệu sản xuất và những thứ sản xuất ra,
phải là của chung mới đúng” .
Dưới chế độ PK và chế độ TBCN, lao động đã là tập thể (đã xã hội hóa), nhưng
TLSX lại do những địa chủ và nhà tư bản chiếm giữ. Đó là nguyên nhân dẫn đến tình
trạng kinh tế lậc hậu, dẫn đến mâu thuẫn và bất công xã hội. Đó cũng là nguyên nhân
dẫn đến cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội là nhằm thiết lập một QHSX phù hợp
với LLSX đã xã hội hóa.
* Tư tưởng HCM về các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất ở Việt Nam.
- Trong thời đại mới ngày nay, đi lên CNXH là sự phát triển tất yếu, nhưng đối
với các nước chậm phát triển như VN, HCM cho rằng:“Phải kinh qua chế độ dân chủ
mới, rồi tiến lên CNXH” .
- Về kinh tế, đó là sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu trên thực tế. Theo HCM:
“Trong nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất
như sau:
- Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.
- Sở hữu của HTX tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
- Sở hữu của người lao động riêng lẻ.


- Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản” .
- Mục đích của nước ta là đi lên CNXH. Nền kinh tế của CNXH dựa trên chế độ
sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Với chế độ sở hữu, Người chỉ rõ: “Mục đích của
chế độ ta là xóa bỏ hình thức sở hữu không XHCN làm cho nền kinh tế gồm nhiều
thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân và sở hữu tập thể” .
- Để đạt mục đích trên, Nhà nước phải có cách xử lý khác nhau đối với các hình
thức sở hữu hiện thời. Cụ thể: “Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, nó
lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và Nhà nước phải đảm bảo cho nó phát triển, ưu tiên
kinh tế HTX là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động; Nhà nước đặc biệt
khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển” .

“Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác. Nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu về TLSX của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tạo cách làm ăn,
khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện.
Đối với những nhà tư sản công thương, nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về
TLSX và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho
quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước
khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo CNXH bằng hình thức công tư hợp doanh và
những hình thức cải tạo khác” .
b, Tư tưởng Hồ Chí Minh về các thành phần kinh tế
Tư tưởng HCM về các TPKT chủ yếu nằm trong 3 tác phẩm như đã đề cập ở sở
hữu TLSX, ngoài ra còn được đề cập trong báo cáo của Người trước Quốc hội nước
VN dân chủ cộng hòa Khóa I, Khóa II, trong các kỳ Đại hội II, III, của Đảng.
* Về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta (trong vùng tự do).
Trong nền kinh tế còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu tất yếu còn tồn tại nhiều
TPKT. Mặt khác, nước ta bước vào thời kỳ dân chủ mới (Thời kỳ chuyển tiếp từ chế
độ thực dân lên CNXH) nên tất yếu còn tồn tại những TPKT của chế độ cũ mà chúng
ta chưa cải tạo được và những TPKT mới được xây dựng.
HCM khẳng định: “Hiện nay kinh tế nước ta có những TPKT như sau:
- Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô.
- Kinh tế quốc doanh có tính chất chủ nghĩa xã hội.
Vì tài sản các xí nghiệp ấy là của chung của nhân dân, của Nhà nước, chứ không
phải của riêng. Trong các xí ngiệp quốc doanh thì xưởng trưởng, công trình sư và
công nhân đều có quyền tham gia quản lý, đều là chủ nhân. Việc sản xuất thì do sự
lãnh đạo thống nhất của Chính phủ nhân dân.
- Các HTX tiêu thụ và HTX cung cấp, có tính chất nửa CNXH. Nhân dân góp
nhau để mua những thứ mình cần dùng, hoặc để bán những thứ mình sản xuất không
phải kinh qua các người con buôn, không bị họ bóc lột.
Các hội đổi công ở nông thôn, cũng là một loại HTX.
- Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ, họ thường tự túc ít có gì
bán và cũng ít khi mua gì. Đó là một thứ kinh tế lạc hậu.

- kinh tế tư bản tư nhân. Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp
phần vào xây dựng kinh tế.
- Kinh tế tư bản quốc gia là nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do
Nhà nước lãnh đạo. Trong loại này, tư bản của tư nhân là CNTB. Tư bản của Nhà
nước là CNXH”.
* Về chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các TPKT trong thời kỳ dân chủ
mới.


- Đối với kinh tế địa chủ phong kiến và tư sản mại bản.
Bản chất của giai cấp địa chủ PK và tư sản mại bản là bóc lột và phản động. Do
đó thái độ rứt khoát của Đảng và Nhà nước ta là phải kiên quyết từng bước xóa bỏ
TPKT này thông qua con đường cải tạo QHSX và cải cách ruộng đất. Trong Chính
cương vắn tắt của Đảng do HCM biên soạn năm 1930 đã thể hiện rõ chủ trương này.
Cụ thể:
“a, Thủ tiêu hết các thứ quốc trái.
b, Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản
đế quốc chủ nghĩa Pháp giao cho Chính phủ công nông binh quản lý.
c, Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân
nghèo…” .
Trong báo cáo trước Quốc hội nước VN dân chủ cộng hòa, khóa I, Kỳ họp thứ 3
ngày 1/12/1953, HCM đã trình bày rõ các vấn đề về cải cách ruộng đất như sau:
“Ý nghĩa của cải cách ruộng đất là:
Cách mạng ta là cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân chống đế quốc xâm lược
và chống phong kiến, chỗ dựa của đế quốc…
Nông dân ta chiến 90% dân số mà chỉ chiếm được 3 phần 10 ruộng đất, mà
quanh năm khó nhọc, suốt đời nghèo nàn.
Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5% dân số, mà chúng và thực dân chiếm
7 phần 10 ruộng đất, ngồi mát, ăn bát vàng. Tình trạng ấy thật là không công bằng…
Chỉ có thực hiện cải cách ruộng đất, người cầy có ruộng, giải phóng sức SX ở

nông thôn khỏi ách trói buộc của giai cấp địa chủ phong kiến, mới có thể chấm dứt
tình trạng bần cùng và lạc hậu của nông dân, mới có thể phát động mạnh mẽ lực
lượng to lớn của nông dân để phát triển SX và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi
hoàn toàn.
Mục đích của cải cách ruộng đất là: tiêu diệt chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng
đất, thực hiện người cầy có ruộng, giải phóng sức SX ở nông thôn, phát triển SX đẩy
mạnh kháng chiến.
Phương châm của cải cách ruộng đất là: Phóng tay phát động quần chúng nhân
dân, dựa vào quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng, tổ chức giáo dục và lãnh
đạo quần chúng nông dân đấu tranh một cách có kế hoạch, làm từng bước, có trật tự,
có lãnh đạo chặt chẽ.
Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông dân, một cuộc đấu tranh giai
cấp ở nông thôn, rất rộng lớn, gay go và phức tạp, cho nên chuẩn bị phải thật đầy đủ,
kế hoạch phải thật rõ ràng, lãnh đạo phải thật chặt chẽ, địa điểm phải định cẩn thận,
thời hạn phải nắm chắc chắn” và “phải kiên quyết làm cho việc cải cách ruộng đất
thành công” .
Tuy nhiên trong gần 4 năm thực hiện với nhiều đợt cải cách, trong quá trình thực
hiện nhiều địa phương có tư tưởng nóng vội và thái độ quan liêu đã vấp phải những
sai lầm, thậm chí sai lầm nghiêm trọng. Chính phủ và HCM đã đau sót thừa nhận và
đã phải tiến hành sửa sai.
Năm 1957, cải cách ruộng đất ở các vùng tự do cả nước cơ bản đã hoàn thành.
Thành phần kinh tế phong kiến đã bị xóa bỏ. Nền kinh tế dân chủ mới chỉ còn 5
TPKT:
A, Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH, vì nó là của chung của nhân dân).
B, Các HTX (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến đến CNXH).
C, Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào HTX,
tức là nửa CNXH).


D, Tư bản của tư nhân.

E, Tư bản của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh
doanh).
Trong 5 loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên
kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng CNXH chứ không theo CNTB” .
- Chính sách đối với các TPKT trong chế độ dân chủ.
HCM khẳng định 4 chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ như sau:
“1. Công tư đều có lợi. Kinh tế quốc doanh là công. Nó là nền tảng và sức lãnh
đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân
ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm cắp của công, khai gian lậu
thuế, thì phải trừng trị.
Tư là những nhà tư bản dân tộc và kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công
nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho công cuộc xây dựng kinh tế nước nhà. Cho
nên Chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh
tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân.
2, Chủ thợ đều lợi. Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột nhưng Chính phủ ngăn
cấm họ bóc lột công nhân quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của công nhân.
Đồng thời vì lợi ích lâu dài, anh chị em thợ cũng để cho chủ được số lợi hợp lý,
không yêu cầu quá mức.
Chủ và thợ đều tự giác tự động, tăng gia SX lợi cả đội bên.
3, Công nông giúp nhau. Công nhân ra sức SX nông cụ và các thứ cần dùng
khác, để cung cấp cho nông dân. Nông dân thì ra sức tăng gia SX để cung cấp lương
thực và các thứ nguyên liệu cho công nhân. Do đó mà càng thắt chặt liên minh giữa
công nông.
4, Lưu thông trong ngoài. Ta ra sức khai lâm thổ sản để bán cho các nước bạn và
để mua những thứ ta cần dùng. Các nước bạn mua các thứ ta đưa ra và bán cho ta
những hàng hóa ta chưa chế tạo được. Đó là những chính sách mậu dịch, giúp đỡ lẫn
nhau rất có lợi cho kinh tế ta.
Bốn chính sách ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế nước ta” .
Một điều rất đặc biệt là trong các bài viết, bài nói, HCM chưa bao giờ đề cập đến
TPKT có vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng tuyệt nhiên người không có thái độ đối lập,

kỳ thị với những người nước ngoài đang làm ăn sinh sống tại VN. Trong lời kêu gọi
nhân ngày Thủ đô giải phóng 10/10/1954: “Nhân dịp này tôi có vài lời cùng các bạn
ngoại kiều. Các bạn người buôn bán, kinh doanh, tiểu thương, tiểu chủ, công nhân và
trí thức, đã chung sống với nhân dân Việt Nam, các bạn đã khai cơ lập nghiệp ở Việt
Nam… Vì vậy, tôi khuyên các bạn: Các bạn cứ yên lòng làm ăn như thường. Nhân
dân và Chính phủ Việt Nam sẽ giúp đỡ và bảo hộ các bạn” . Đó là tư duy rất cởi mở
và tiến bộ.
c, Phát triển kinh tế hợp tác xã - nội dung trọng tâm trong tư tưởng HCM về
thành phần kinh tế
Trong tất cả các TPKT tồn tại ở nước ta. HCM quan tâm nhiều nhất đến phát
triển của kinh tế HTX. Người đã dành nhiều thời gian và công sức để nghiên cứu lý
luận tuyên truyền, vận động và chỉ đạo thực hiện phong trào hợp tác hóa nhằm thúc
đẩy sự ra đời, phát triển và củng cố HTX. Sự quan tâm đặc biệt của người đến TPKT
này xuất phát từ tình thương đối với nhân dân lao động và xuất phát từ tình hình KT CT - XH cụ thể của nước ta thời kỳ trước và sau CM tháng 8.
a, Thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám


HCM đã nhận định chắc chắn rằng: Cách mạng sẽ thành công và sau cách mạng
thành công phải xây dựng đời sống mới. Do đó một phần nội dung trong tác phẩm
“Đường cách mệnh” đã được HCM trình bày một cách hệ thống, toàn diện và chặt
chẽ những vấn đề lý luận về HTX. Trong tác phẩm được chia thành nhiều phần nội
dung: Tư cách một người cách mệnh; Cách mệnh là gì?; Lịch sử cách mệnh mỹ; Cách
mệnh Pháp; Lịch sử cách mệnh Nga; Quốc tế và các tổ chức quốc tế; Cách tổ chức
công hội; tổ chức dân cày; Hợp tác xã.
* Về mục đích của HTX
“Tuy cách làm thì có khác nhau ít nhiều, nhưng mục đích thì nước nào cũng như
nhau. Mục đích ấy thì trong Tuyên ngôn của HTX Anh đã nói: “Cốt làm cho những
người vô sản giai cấp hóa ra anh em. Anh em thì phải làm giùm nhau, nhờ lẫn nhau.
Bỏ hết thói cạnh tranh”; “HTX trước là có ích lợi cho dân, sau là bớt sức bóp nặn của
tụi tư bản và đế quốc chủ nghĩa” .

* Về lý luận hình thành HTX
“Tục ngữ An Nam có những câu: “Nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó” và
“Một cây làm chẳng nên non, nhiều cây nhóm lại thành hòn núi cao”. Lý luận HTX ở
trong những điều ấy” .
* Về các hình thức HTX
“HTX có bốn cách:
1. HTX tiền bạc;
2. HTX mua;
3. HTX bán;
4. HTX sinh sản” .
* Về cách thức tổ chức HTX
“Không phải làng nào cũng lập mỗi làng một HTX. Cũng không phải mỗi làng
phải lập cả mấy HTX. Cũng không phải có HTX này thì không lập được HTX kia.
Chẳng qua theo hoàn cảnh nơi nào lập được HTX nào và có khi hai HTX - mua và
bán - lập chung cũng được… HTX chỉ có hội viên mới được hưởng lợi, chỉ có hội
viên mới có quyền, nhưng những việc kỹ thuật như tính toán, xem hàng hóa, cầm
máy, v.v, thì có phép mướn người ngoài.
Đã vào hội thì bất kỳ góp nhiều góp ít, vào trước vào sau, ai cũng bình đẳng như
nhau” .
b, Trong thời gian cải tạo và xây dựng CNXH ở miền Bắc
Sau khi hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế (1955 - 1957), miền Bắc bước
vào thời kỳ cải tạo và xây dựng CNXH, mặc dù bận rất nhiều công việc nhưng HCM
luôn quan tâm đến việc xây dựng và củng cố HTX. Trên giường bệnh Bác vẫn cố
gắng viết lời giới thiệu Điều lệ tóm tắt HTX sản xuất nông nghiệp.
* Về đường lối xây dựng HTX
HCM đã chỉ rõ: “Muốn phát triển nông nghiệp thì trước hết phải xây dựng tốt
phong trào đổi công ở khắp mọi nơi và trên cơ sở đó sẽ xây dựng HTX nông nghiệp
từ thấp đến cao” và “Đường lối cải tạo XHCN của Đảng đối với nông nghiệp là đưa
nông dân làm ăn riêng lẻ đi dần từ tổ đổi công (có mần mống XHCN), tiến lên HTX
cấp thấp (nửa XHCN), rồi tiến lên HTX cấp cao (XHCN)” .

* Về mục đích của việc tổ chức HTX
“Là cải thiện đời sống của nông dân, làm cho nông dân được lo ấm, mạnh khỏe,
được học tập, làm cho dân giàu, nước mạnh. Dân có giàu thì nước mới mạnh. Đó là
mục địch riêng và mục đích chung của việc xây dựng HTX” .
* Về nguyên tắc tổ chức và quản lý HTX


- Việc xây dựng các tổ đổi công và HTX phải làm từ nhỏ đến lớn và “phải theo
nguyên tắc tự nguyện, tự giác, không gò ép” .
- Việc quản lý phải dân chủ, tránh quan liêu mệnh lệnh.
- Việc phân phối “phải chú ý phân phối cho công bằng” và “Phải làm thế nào
cho xã viên trong HTX thu nhập nhiều hơn thu nhập của nông dân trong tổ đổi công
và tổ viên trong tổ đổi công thu nhập cao hơn thu nhập của nông dân còn làm ăn riêng
lẻ” .
* Về nhiệm vụ của HTX
“Để tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, các HTX cần phải làm đúng 9 điều
sau đây:
1. Mọi người phải nâng cao tinh thần đoàn kết, tinh thần làm chủ, thực hiện cần
kiệm xây dựng HTX, chống lãng phí, tham ô.
2. Sản xuất phải toàn diện, sản xuất thóc là chính, đồng thời phải rất coi trọng
hoa màu, cây ăn quả, cây nông nghiệp, chăn nuôi, thả cá và nghề phụ, phải coi trọng
tăng vụ, vỡ hoang và tăng năng suất.
3. Phát triển SX chung của HTX là chính, nhưng cần chiếu cố đúng mức SX gia
đình của xã viên.
4. Về quy mô HTX chỉ nên có từ 150 hộ đến 200 hộ, không nên quá nhiều, quá
nhiều thì khó quản lý.
5. HTX bậc cao thì SX và thu nhập cũng phải cao mới xứng danh cao của nó.
7. Quản trị phải dân chủ, công bằng, minh bạch.
8. Cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên lao động và dân quân tự vệ cần phải
xung phong gương mẫu trong mọi công việc.

9. Phải chú ý phát triển công nghiệp địa phương nhằm phục vụ cho nông
nghiệp” .
* Nhà nước đối với HTX
“Chính phủ phải cố gắng phục vụ lợi ích của HTX của nông dân và nhân dân nói
chung. HTX nông dân phải bảo đảm làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Làm như
vậy thì ích nước lợi nhà, xã viên có lợi, HTX có lợi” .
* Sự lãnh đạo của Đảng đối với HTX
“Ngày nay Đảng lãnh đạo nông dân xây dựng HTX. Phong trào hợp tác hóa phát
triển mạnh mẽ, mở đường cho nông dân tiến tới no ấm. Đảng lại đề ra kế hoạch 5
năm phát triển nông nghiệp… Để hoàn thành kế hoạch đó, Đảng phải tăng cường sự
lãnh đạo của mình… cái gốc trong việc lãnh đạo HTX vẫn là chi bộ đảng ở cơ sở” .
B. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý kinh tế
a, Tư tưởng HCM về quản lý nền kinh tế quốc dân
* Về cơ cấu kinh tế trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta
- Về cơ cấu của nền kinh tế quốc dân.
Xuất phát từ đặc điểm đất nước, ngay từ đầu, HCM đã xác định cơ cấu kinh tế
nước ta là: cơ cấu công - nông nghiệp hiện đại và đưa ra quan niệm độc đáo về cơ cấu
công - nông nghiệp và vai trò của thương nghiệp trong phát triển KT - XH ở TKQĐ.
i, Công nông nghiệp là hai ngành SX ra những SP đáp ứng những nhu cầu khác
nhau của nền kinh tế và XH.
ii, Hai ngành không tách rời nhau mà có mối quan hệ hữu cơ với nhau:
“Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế… Công nghiệp phát
triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp
đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ
nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích” .


iii, Tại Hội nghị BCT bàn về những phương hướng khôi phục và phát triển kinh
tế sau hòa bình lập lại, có ý kiến muốn tập trung lực lượng vào XD, phát triển CN
nặng để nhanh chóng đưa nền kinh tế tiến lên, HCM cho rằng: “Mấy năm kháng

chiến ta chỉ có nông thôn, bây giờ mới có thành thị, nếu muốn CNH gấp thì chủ
quan…, cho nên trong kế hoạch phải tăng tiến nông nghiệp… Ta cho nông nghiệp là
quan trọng và ưu tiên, rồi đến thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ, sau mới đến công
nghiệp nặng” .
iiii, Lý do HCM lựa chọn con đường phát triển kinh tế sau 1954 là ưu tiên phát
triển nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm gốc.
Một là, Miền Bắc vừa thoát khỏi hậu quả chiến tranh, hậu quả do địch lập vành
đai trắng, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi, nhất là các tỉnh đồng bằng rất nghiêm trọng nên
vấn đề quan trọng hàng đầu là giải quyết cái ăn, cái mặc, rồi mới đến các vấn đề khác.
Hai là, phát triển nông nghiệp tạo cơ sở để phát triển nông nghiệp, vì nước ta là
một nước nông nghiệp, mọi việc phải dựa vào nông nghiệp.
“Phải có một nền nông nghiệp phát triển thì công nghiệp mới phát triển nhanh”;
“Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy phát triển nông
nghiệp làm gốc, làm chính. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở để
phát triển công nghiệp vì nông nghiệp cung cấp nguyên liệu, lương thực cho công
nghiệp và tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp làm ra” .
Ba là, nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp.
Đó là 3 nhân tố “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, vì vây, phải đi từ nông nghiệp,
phải coi “phát triển nông nghiệp là cực kỳ quan trọng” .
Nhiệm vụ quan trọng trong suốt TKQĐ lên CNXH là CNH để biến nước ta từ
một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp: “Nhiệm vụ quan trọng
nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội” .
Sự tồn tại và khả năng tương tác giữa công nghiệp và nông nghiệp được thực
hiện qua một mắt khâu trung gian là thương nghiệp. Vì vậy, việc cải tạo và xây dựng
nông nghiệp, công nghiệp không thể tách rời cải tạo và xây dựng ngành thương
nghiệp. Vì: “Trong nền kinh tế quốc dân có 3 mặt quan trọng nông nghiệp, công
nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt công tác quan hệ mật thiết với nhau. Thương nghiệp
là khâu giữa nông nghiệp và công nghiệp. Thương nghiệp đưa hàng đến nông thôn
phục vụ nông dân, thương nghiệp lại đưa nông sản, nguyên liệu cho thành thị tiêu

dùng. Nếu khâu thương nghiệp bị đứt thì không liên kết được giữa nông nghiệp và
công nghiệp, không củng cố được công nông liên minh. Công tác thương nghiệp
không chạy thì hoạt động nông nghiệp, công nghiệp sẽ bị rời rạc” .
- Về cơ cấu thành phần của nền kinh tế.
+ HCM là người đầu tiên chủ trương phát triển nền kinh tế với CCNTP trong
TKQĐ lên CNXH ở nước ta.
Về lý luận, Người kế thừa trực tiếp các luận điểm của Lênin về nền kinh tế nhiều
thành phần trong NEP. Cách sắp xếp thứ tự các TPKT của Lênin là làm rõ sự vận
động của các chế độ sở hữu trong lịch sử theo hướng từ thấp đến cao, đồng thời chỉ ra
tính chất tiệm cận và mức độ gần gũi của các TPKT khác nhau với TPKT xã hội chủ
nghĩa (Kinh tế nông dân gia trưởng, có tính chất tự nhiên; SX hàng hóa nhỏ; chủ
nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước; chủ nghĩa xã hội).
Theo HCM, dưới chế độ dân chủ mới: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại
kinh tế khác nhau:
A. Kinh tế quốc doanh (thuộc CNXH…).


B. Các HTX (nó là nửa CNXH…).
C. Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ…
D. Tư bản của tư nhân.
E. Tư bản nhà nước” .
Cách sắp xếp TPKT của HCM bề ngoài ngược với cách xếp của Lênin nhưng
không tạo nên sự đối lập mà là sự bổ sung hợp lý. HCM căn cứ vào vai trò thực tế của
từng TPKT trong đời sống KTXH Việt Nam. Theo tiêu trí này, TPKT XHCN ở vị trí
cao nhất, bởi nó là nền tảng kinh tế của chế độ mới, là chỗ dựa của Nhà nước.
+ HCM cũng là người Việt Nam đầu tiên dành sự quan tâm đặc biệt đến sự phát
triển kinh tế hợp tác. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” HCM đã dành hẳn một
chương viết về HTX.
+ Ngoài TPKT xã hội chủ nghĩa, HCM còn thừa nhận sự tồn tại khách quan, tất
yếu, lâu dài của các TPKT khác (Như đã trình bầy ở trên).

* Về cơ chế quản lý kinh tế.
- Hệ thống bộ máy quản lý kinh tế quốc dân.
Theo HCM hạnh phúc của ND từng bước được nhân lên, trước hết do thành quả
lao động của chính họ; song để đem lại hạnh phúc thực sự, lâu bền và toàn diện cho
toàn XH thì vai trò của Nhà nước hết sức to lớn, có ý nghĩa quyết định, vì nhà nước là
của dân, do dân và vì dân.
+ Vai trò thể hiện ở chính sách cụ thể phát triển KT - XH trong từng gia đoạn,
thời kỳ, theo mục tiêu chiến lược…
+ Thể hiện ở hệ thống pháp luật đầy đủ, toàn diện, chặt chẽ, bảo đảm cho mọi
người trong xã hội thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, được hưởng những quyền lợi
chung.
+ Đặc điểm cơ bản trong tư duy quản lý kinh tế của HCM là tất cả mọi thao tác
đều quy về nhân tố người lao động. Tổ chức SX và QLKT cũng xuất phát từ nhân tố
con người và nhằm mục đích phục vụ con người. Sử dụng đúng người, đúng việc như
dụng mộc. Sử dụng không đúng người đúng việc thì không có ĐK để tăng năng suất
LĐ, nâng cao chất lượng. Tổ chức lao động hợp lý là vì việc xếp người, không vì
người mà đặt việc.
i, Quản lý kinh tế, trước hết là phải quản lý người lao động. Quản lý chặt chẽ
phải đi đôi với giáo dục; giáo dục hệ thống luật, giáo dục tính tự giác cho người lao
động “Ở xí nghiệp phải biết quản lý; có quản lý mới biết thu vào, tiêu ra, mới biết lỗ
lãi, mới biết ai làm tốt, ai làm xấu, ai làm vượt mức, ai không vượt múc, muốn làm
được như thế phải biết quản lý” .
ii, Muốn quản lý tốt phải có người quản lý giỏi, nhưng trước hết người quản lý
phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, làm đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn. HCM
yêu cầu “Cán bộ tham gia lao động, công nhân tham gia quản lý”.
iii, Tham gia quản lý, người lao động thực sự thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi
công dân của mình; có điều kiện phát hiện những hợp lý hay chưa hợp lý để đề xuất
với người quản lý cách thức phát huy hoặc biện pháp khắc phục, giúp người QL điều
chỉnh phương pháp, biện pháp kịp thời, làm tốt nhiệm vụ quản lý.
iiii, HCM cho rằng công tác cải tiến quản lý, công tác cải tiến kỹ thuật và cải

tiến tổ chức như kiềng ba chân. Ba cái chân phải bằng nhau thì kiềng mới đứng vững
được. Muốn làm tốt cả 3 việc phải thực hiện dân chủ; dân chủ là động lực phát triển,
mất dân chủ là mất đi thái độ thực sự cầu thị, lắng nghe ý kiến thẳng thắn, làm mất đi
sự bàn bạc để đi tới khẳng định sáng kiến, có khả năng thực hiện để đem lại nhiều lợi
ích cho tập thể. Cái yếu kém nhất và cũng là cái xấu nhất của người quản lý là bóc


nghẹt dân chủ. Bác nhắc nhở: ‘Phải tìm cách tổ chức sắp đặt cho hợp lý, để 1 người
có thể làm việc như 2 người, 1 ngày có thể làm việc của 2 ngày, 1 đồng có thể dùng
bằng 2 đồng” .
- Về phương thức tác động
+ Hệ thống các mục tiêu phát triển kinh tế và quản lý kinh tế.
i, Về mục tiêu phát triển kinh tế
Năm 1945, HCM khẳng định: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập tự do rồi mà
dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị
của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” , “Tất cả đường lối, phương
châm, chính sách… của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống nhân dân” .
Sau này khi bàn về CNXH, Bác cho rằng: “Làm cho dân giàu, nước mạnh” vì
vậy, phải đẩy mạnh SX, phát triển KT nhằm “Làm cho người nghèo thì đủ ăn;
Người đủ ăn thì khá giàu;
Người khá giàu thì giàu thêm” .
ii, Về mục tiêu quản lý.
Đây là lĩnh vực được HCM đặc biệt quan tâm và coi đó là “Cái chìa khóa” để
phát triển kinh tế quốc dân. Muốn phát triển LLSX, tăng W thì phải quản lý tốt. Quan
điểm cơ bản của HCM về QLKT là quan điểm hạch toán, làm ăn phải có HQKT:
“Quản lý một nước cũng như quản lý một doanh nghiệp: phải có lãi. Cái gì ra, cái gì
vào, việc gì phải làm ngay, việc gì chờ, hoãn, món gì đáng tiền, người nào đáng dùng,
tất cả mọi thứ đều phải tính toán cẩn thận. Về mặt này thì chúng ta thiếu sót nhiều” .
+ Công tác kế hoạch hóa.
Trước lúc đi xa, Người căn dặn Đảng ta: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để

phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân” . Công
tác KHH là một trong những phương thức tác động quan trọng đến đối tượng quản lý.
i, Kế hoạch phải nhìn xa, thấy rộng: “Khi kế hoạch phải nhìn xa. Có nhìn xa mới
quyết định đúng đắn thời kỳ nào phải làm công việc gì là chính. Phải thấy rộng. Có
thấy rộng mới sắp đặt các ngành hoạt động một cách cân đối. Khi đi vào thực hiện thì
mỗi ngành, mỗi nghề phải rất tỷ mỷ, chu đáo, thật sát với mỗi cơ sở. Đó là “một bộ
ba” để hoàn thành tốt kế hoạch” .
ii, Phải đảm bảo vấn đề dân chủ trong việc làm kế hoạch, phải từ trên xuống
dưới và từ dưới lên trên.
iii, “Phải thiết thực, phải làm được. Chớ làm kế hoạch đẹp mắt, to tát, kể hàng
triệu nhưng không thực hiện được” .
iiii, Có chỉ tiêu kế hoạch, biện pháp rồi, “Phải có tinh thần cố gắng rất cao để
thực hiện bằng được kế hoạch đã đề ra. Chỉ tiêu kế hoạch một phần, biện pháp phải
hai phần, cố gắng phải ba phần” .
+ Các công cụ quản lý kinh tế cụ thể.
Để kích thích SX phát triển, HCM đã sớm nhận thấy phải biết tác động vào nhu
cầu và lợi ích thiết thân của người lao động. Có cơ chế, chính sách phải làm sao kết
hợp được lợi ích của nhà nước, của tập thể và của cá nhân người lao động. Ngoài ra
phải sử dụng các công cụ đòn bẩy trong quản lý kinh tế.
i, Công cụ tiền lương: “Bây giờ anh em mong được lên lương có chính đáng
không? Có. Nhưng lương tăng gấp đôi mà hàng đắt, vẫn không ăn thua gì… Tiền và
hàng phải đi đôi với nhau” .
ii, Công cụ khoán sản phẩm.
Người đã đề cập đến vấn đề khoán trong nông nghiệp và trong công nghiệp.
Khoán sản phẩm là một công cụ quản lý có tính đòn bẩy đem lại lợi ích cho tập thể và


người lao động. Là đòn bẩy kinh tế vì khoán có tác dụng khuyến khích tăng WLĐ,
nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế. “Chế độ khoán là một điều kiện của CNXH,
nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán

là ích chung và lại lợi riêng. Công nhân SX ra nhiều vải, cố gắng nhiều, hưởng nhiều;
làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay. Nếu người công nhân
nào thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu kỷ luật lao động thì làm cho mau nhưng không
tốt, như vậy là không đúng và làm khoán phải nâng cao số lượng nhưng luôn luôn
phải giữ chất lượng” .
iii, Thực hành tiết kiệm.
Bác mong mọi người hiểu nội dung, ý nghĩa sâu sắc của tiết kiệm. Tiết kiệm là
để tích lũy vốn, “Nó giúp chúng ta dành dụm từng đồng thành những số vốn lớn…
Như vậy mới dồn được phần lớn vốn của nhà nước vào việc CNH xã hội chủ nghĩa” .
Để thực hành tiết kiệm cũng như “xây” phải đi liền với “chống” lãng phí, xa
hoa. Bác kêu gọi thực hành tiết kiệm đi đôi với chống xa hoa lãng phí:
“Trăm năm trong cõi người ta,
Cần kiệm xây dựng nước nhà mới ngoan,
Mừng xuân, xuân cả thế gian,
Phải đâu lãng phí cỗ bàn mới xuân” .
Để thực hành tiết kiệm, ngăn chặn sự lãng phí, phải có biện pháp quản lý một
cách hiệu quả. Theo Bác, tăng cường quản lý ngân sách nhà nước là biện pháp quan
trọng hàng đầu. “Đúng, chế độ chi tiêu của Nhà nước là một sự “ràng buộc”, nhưng
đó là một sự ràng buộc rất cần thiết và rất hay. Nó ràng buộc những kẻ lãng phí,
những người thích phô trương. Nó ràng buộc cả những người chỉ biết việc trước mắt
mà không thấy việc lâu dài, chỉ biết việc của bộ phận mình mà không thấy việc chung
của cả nước. Nhưng chính nhờ đó mà nó lại chặt xiềng, chắp cánh cho kinh tế nước ta
tiến lên như ngựa thần trên con đường XHCN. Nó giúp chúng ta dành dụm từng đồng
xu thành những số vốn lớn. Nó vít kín các lỗ thủng, các khe hở, không để của cải
dành dụm của chúng ta bị hao hụt, phân tán” .
Một cách thức khác nhằm thực hành tiết kiệm là mở rộng đầu tư. Đó là việc
khuyến khích các tầng lớp nhân dân gửi tiền tiết kiệm. Huy động vốn nhàn rỗi trong
dân nhằm đưa vào SX, thì đồng vốn ấy mới sinh sôi nảy nở càng thêm nhiều.
iiii, Cải cách hành chính cũng là một công cụ đòn bẩy quan trọng trong quản lý
kinh tế. Bộ máy hành chính phình ra bao nhiêu thì trở thành gánh nặng cho ngân sách

nhà nước bấy nhiêu. Lượng tiền bỏ ra chi trả lương cho khối hành chính càng lớn, thì
lượng tiền đưa vào SX càng hạn chế. Đó là chưa kể sự thất thoát đồng tiền qua việc
mua sắm những thứ đắt tiền không cần thiết, như xây dựng trụ sở làm việc quá lớn…
b, Tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý sản xuất
* Quản lý sản xuất phải toàn diện
Để thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân cần xây dựng nền sản
xuất vững mạnh. Để đạt được cần có sự cố gắng, đóng góp của tất cả các ngành, các
TPKT trong nền kinh tế quốc dân.
- Để phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa cần phải cải tiến quản lý SXKD
“Chúng ta cần phải tập trung lực lượng làm cho nước ta sản xuất ngày càng nhiều
lương thực; trồng nhiều cây công nghiệp; chăn nuôi ngày càng nhiều trâu, bò, lợn,
gà…” và như vậy, “nhất định phải cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật” .
- Để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ không thể chỉ dựa vào một ngành, một
lĩnh vực mà cần phải tạo ra sự phát triển đồng đều, vững chắc. Cán bộ quản lý phải


nhận thức: CN và nông nghiệp như là hai chân của nền kinh tế đất nước. Chân phải
thật vững chắc, thật khỏe thì kinh tế mới tiến bộ thuận lợi và nhanh chóng.
i, Đối với ngành CN nặng “Nhiệm vụ công nghiệp nặng rất nặng nề nhưng rất vẻ
vang”, vai trò của CN nặng như một công cụ đắc lực “Để nâng cao không ngừng đời
sống của nhân dân, để xây dựng thắng lợi CNXH” .
ii, Đối với ngành công nghiệp nhẹ, Người nhắc nhở: “Ngành công nghiệp nhẹ
quan hệ rất khăng khít với đời sống hằng ngày của nhân dân. Vì vậy, nhiệm vụ CN
nhẹ là rất quan trọng” .
iii, Lĩnh vực thủ công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp hàng hóa, coi đó là một bộ
phận, một yếu tố quan trọng cùng với CN địa phương thúc đẩy sự tăng trưởng của
nền kinh tế.
* Quản lý sản xuất theo phương châm “nhanh, nhiều, tốt rẻ”
Trong bài báo trên báo nhân dân số tháng 3/1960, Bác phân tích từng chữ
“nhanh, nhiều, tốt, rẻ”, Người viết “Nhiều, nhanh, tốt, rẻ là phương châm của chúng

ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước hết nói về nhiều. Vì có làm ra nhiều của cải, mới có thể vừa tăng tích lũy
để mở rộng sản xuất, vừa nâng cao mức tiêu dùng của nhân dân lao động.
Muốn làm ra nhiều của cải phải có hai điều kiện: Một là, phải có nhiều người
SX. Hai là, mỗi người phải SX được nhiều. Hai điều này thật ra không hề tách rời
nhau” .
“Chúng ta làm nhiều, làm nhanh là cốt tăng nhanh mức sống của nhân dân lao
động và tăng nhanh tích lũy để xây dựng CN, mở mang kinh tế. Cho nên, nhiều,
nhanh phải đi đôi với tốt, rẻ. Nếu chỉ vì nhiều, nhanh mà không nghĩ đến tốt, rẻ thì
kết quả cuối cùng vẫn là không nhiều, không nhanh” .
HCM kết luận:
“Làm nhanh mà không tốt,
Có gì là vẻ vang,
Đã là người làm chủ,
Tính toán phải đàng hoàng,
Nhiều, nhanh, tốt, rõ ràng,
Lợi dân, lợi nước đôi đàng vẹn đôi » .
Người nói: «Điều quan trọng trước hết vẫn là nâng cao W LĐ. Tăng WLĐ là
tiết kiệm sức người, tiết kiệm thời gian lao động. Đó là cách làm vừa nhanh, vừa rẻ
» ; « Nhưng còn một cách tiết kiệm vốn nữa mà công nhân ta thường ít nghĩ đến. Đó
là việc làm cho vốn « quay vòng nhanh... Biết làm cho vốn quay vòng nhanh, thì có ít
vốn mà dùng được nhiều lần, nên SX được nhiều » .
C. Quản lý và phân phối phải được tiến hành công khai, minh bạch.
+ HCM khẳng định trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta, tất yếu tồn tại nền kinh tế
nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai
trò lãnh đạo, làm nền tảng cho xã hội mới. Từ việc nhận thức nhiều hình thức sở hữu
đến tất yếu thừa nhận nhiều hình thức quản lý và phân phối khác nhau: “Từ làm chủ
tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ việc quản lý kinh tế, làm chủ phân phối sản
phẩm lao động” “Một xã hội bình đảng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền
lao động”

+ Người chỉ rõ, CNXH là công bằng, hợp lý, nhưng sự công bằng hợp lý đó phải
theo nguyên tắc làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng,
những người già yếu, bệnh tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm non. Trên cơ sở
những nguyên tắc phân phối của CNXH. Người cho rằng “Chế độ khoán là một điều


kiện của CNXH”; theo Bác: “Làm khoán là ích chung mà lại lợi riêng… làm khoán
tốt, thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay”.
+ Ngay sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân, nhận thức thực trạng
nhân dân đang đói, HCM đã đưa ra mục tiêu hàng đầu là cứu đói.
“Một là, nhân dân ta đang đói - Ngoài những kho chứa thóc mà Pháp, Nhật vơ
vét của nhân dân, bọn Nhật, Pháp còn bắt đồng bào chúng ta … làm việc như nô lệ.
Nguyên tắc sinh hoạt là: “Ai không làm thì không được ăn” và làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít”.
Không có đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động chân tay và lao
động trí óc. Vì thôn quê ngày càng văn minh, công nông ngày càng thông thái”.
+ Lợi ích kinh tế, vật chất của cá nhân người LĐ là một nhân tố kích thích quan
trọng mà Bác luôn nhắc nhở không được xem nhẹ. Tại Hội nghị lần thứ bẩy, Ban
chấp hành TW Đảng LĐVN người nói: “VN ta có câu tục ngữ “Có thực mới vực
được đạo”. Trung Quốc cũng có câu tục ngữ “Dân dĩ thực vi thiên”.
Hai câu ấy tuy đơn giản nhưng rất đúng lẽ.
Muốn nâng cao đời sống của nhân dân thì trước hết phải giải quyết tốt vấn đề ăn
(rồi đến vấn đề mặc và các vấn đề khác). Muốn giải quyết vấn đề ăn thì phải làm thế
nào cho có đầy đủ lương thực. Mà lương thực là do nông nghiệp làm ra. Vì vậy phát
triển nông nghiệp là cực kỳ quan trọng”
Bởi vì “Dân lấy ăn làm gốc, có thực mới vực được đạo. Nếu bụng đói thì các cô
các chú nói gì hay mấy cũng không ai nghe”
Bác nói: “Nước ta còn nghèo. Muốn sung sướng thì phải có tinh thần tự lực cánh
sinh, cần cù lao động. Phải cố gắng sản xuất. Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là
nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Trong xã hội ta không có nghề nào thấp

kém, chỉ có kẻ lười biếng, ỷ lại mới đáng xấu hổ”. “Lười biếng là kẻ thù của chữ cần,
vì vậy lười biếng là kẻ thù của dân tộc”.
Bác rất coi trọng người lao động, coi người lao động là vốn quý nhất và đòi hỏi
phải lao động cho tốt để tiết kiệm lao động: “Phải biết quý trọng sức người là vốn quý
nhất của ta. Chúng ta cần hết lòng chăn sóc sức khỏe và sử dụng hợp lý sức lao động
của nhân dân ta”
+ Kết hợp hài hòa các loại lợi ích.
Là người VN đầu tiên nêu vấn đề kết hợp hài hòa các lợi ích đó là lợi ích của
Nhà nước, của tập thể và của ND lao động: “Mua bán phải có giá cả thích đáng… Giá
cả phải bảo đảm cho Nhà nước, HTX và xã viên cùng có lợi để xây dựng nước nhà.
Về thuế cũng phải làm sao cho Nhà nước, HTX và nông dân cùng có lợi. Thuế
phải khuyến khích SX” .
+ Xử lý đúng đắn mối quan hệ giừa lợi ích chung và lợi ích riêng. Luôn đặt vấn
đề thống nhất lợi ích tập thể và lợi ích XH: “Lợi ích cá nhân nằm trong lợi ích của tập
thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi
ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thỏa mãn… Nếu lợi ích cá nhân mâu
thuẫn với lợi ích tập thể, thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích riêng của cá nhân phải
phục tùng lợi ích chung của tập thể” .
+ Thực hiện công bằng xã hội trong phân phối lợi ích.
Để khuyến khích động lực cá nhân, Người yêu cầu phải chống chủ nghĩa bình
quân, cào bằng trong phân phối. Dùng các biện pháp khoán, thưởng, phạt trong kinh
tế: “Phải thực hiện ba khoán, một thưởng. Nếu ai thực hiện vượt mức quy định thì
được thưởng. Có như thế mới khuyến khích được mọi người cố gắng hơn nữa.


Thưởng phạt phải công bằng. Hơn nữa, nếu làm xấu, làm hỏng, “có khi phải phải bồi
thường lại cho Nhà nước. Chính phủ không phát lương cho người ngồi ăn không” .




×