Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.18 KB, 40 trang )

Bài 3: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
I. Đặt vấn đề
Năm 1987, Nghị quyết số 24C/18.65 của UNESCO về kỷ niệm 100 năm
ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh, một biểu
tượng xuất sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh
chung của các dân tộc vì hoàn bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”
1
.
Thật vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn cố gắng đem lại độc lập, tự do cho Tổ quốc và cuộc sống ấm no,
hạnh phúc cho nhân dân. Sự thật, Việt Nam đã trở thành một nước độc lập, nhân
dân Việt Nam từ thân phận nô lệ, nghèo hèn đã trở thành người chủ đất nước, tự
quyết định vận mệnh của mình. Đây chính là một trong những cống hiến vĩ đại của
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam.
Nghiên cứu, vận dụng và phát triển những luận điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giả phóng dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay là một việc
làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất sâu sắc.
II. Mục đích, yêu cầu
1. Mục đích: Bài giảng này giúp cho học viên:
- Về kiến thức:
+ Trình bày được những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc và cách mạng giải phóng dân tộc.
+ Thấy được giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và
cách mạng giả phóng dân tộc trong thực tiễn cách mạng Việt Nam; nêu cao ý thức
1
Trích từ Tập biên bản của Đại hội đồng khóa họp 24 tại Pari, ngày 20/10 – 20/11/1987, do UNESCO xuất bản năm
1988, tr.144. Bản dịch của Ủy ban UNESCO của Việt Nam.
1


vận dụng những quan điểm quan trong này vào công cuộc đổi mới đất nước hiện
nay.
- Về tư tưởng, thái độ:
+ Xây dựng cho học viên niềm tin vững chắc vào con đường cách mạng mà
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn; tích cực đấu tranh chống lại các quan điểm sai
trái.
+ Giúp học viên thấy được những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đối với cách mạng Việt Nam, từ đó xây dựng tình cảm, niềm tin và sự kính trọng
đối với vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng, của cách mạng và dân tộc.
- Về kĩ năng:
+ Thu thập, xử lý các tài liệu có liên quan để nghiên cứu vấn đề.
+ Vận dụng kiến thức của bài học để nghiên cứu những vấn đề có liên quan
ở bài học khác, môn học khác và trong cuộc sống.
2. Yêu cầu
- Học viên học tập với tình cảm và trách nhiệm cao nhất, ý thức học tập phải
nghiêm túc, chấp hành tốt kỷ luật.
- Đọc trước giáo trình, tài liệu; nghe, ghi chép và tích cực thảo luận nội dung
của bài học…
III. Nội dung và thời gian
1. Nội dung: gồm 4 phần (Trọng tâm phần II, trọng điểm 2.1 )
- I. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cách mạng giải
phóng dân tộc.
- II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.
- III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
- VI. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải
phóng dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay.
2. Thời gian: toàn bài là 4 tiết
- Thời gian lên lớp:
2
- Thời gian thảo luận, ôn luyện:

IV. Phương pháp
- Giáo viên: Thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề
- Học viên: Đọc tài liệu, nghe, ghi chép, thảo luận
V. Giáo trình, tài liệu
- Giáo trình:
+ HĐTW chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb CTQG, H, 2003 (Tái bản 2008).
- Tài liệu tham khảo:
+ Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Dùng trong
các trường đại học và cao đẳng), Nxb CTQG, H, 2006 (Tái bản 2008, 2010, 2011).
+ Tổng cục Chính Trị, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb QĐND, H, 2006.
+ Song Thành (Chủ biên), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb CTQG, H, 2010
+ Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 1 – 15.
3
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ
DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
* Khái niệm Dân tộc
- Theo các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin, dân tộc là sản phẩm
của quá trình phát triển lâu dài của lịch sử. Trước đó là những tổ chức cộng đồng
tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản
dẫn đến sự ra đời của nhà nước dân tộc tư bản chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa đế quốc ra
đời, chúng đã đi xâm chiếm và thống trị các dân tộc nhược tiểu từ đó xuất hiện vấn
đề dân tộc thuộc địa.
- Từ điển Chính Trị: “Dân tộc – một cộng đồng người ổn định hình thành
trong lịch sử, xuất hiện trên cơ sở cùng chung tiếng nói, lãnh thổ, sinh hoạt kinh tế
và cơ cấu về tâm lý, thể hiện trong nền văn hóa dân tộc. Tất cả những đặc điểm
trên của dân tộc đều liên quan lẫn nhau và chỉ có bao gồm tất cả những đặc điểm
ấy thì một cộng đồng người nào đó mới có thể gọi là dân tộc”
2
.

- Từ điểm Bách khoa Quân sự Việt Nam: “Dân tộc – cộng đồng người ổn
định hình thành trong lịch sử tạo lập một quốc gia, trên cơ sở cộng đồng bền vững
về: lãnh thổ quốc gia, kinh tế, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa, đặc điểm tâm lý, ý
thức về dân tộc và tên gọi của dân tộc”
3
.
 Tóm lại:
- Dân tộc được hiểu theo nghĩa rộng là Dân tộc quốc gia: dân tộc Việt Nam,
dân tộc Trung Quốc Dân tộc quốc gia phải có 4 đặc trưng:
+ Chung về lãnh thổ.
+ Chung về nền kinh tế.
+ Chung về ngôn ngữ.
+ Chung về nền văn hóa.
- Ngoài ra, dân tộc có thể hiểu theo nghĩa hẹp là Dân tộc thiểu số: Dân tộc
Kinh, Tầy, Thái
2
Từ điểm Chính trị, Nxb Sự thật, H, 1961, tr.14
3
Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb QĐND, H, 2004, tr.300
4
- Dân tộc khác với chủng tộc và bộ lạc:
+ Chủng tộc có những đặc trưng nhất định về mặt sinh vật học bên ngoài như
mầu da
+ Bộ lạc là phạm trù nhân chủng học, chỉ có trong chế độ Công xã nguyên
thủy
- Khái niệm dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là khái niệm dân tộc quốc
gia, dân tộc thuộc địa.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và cách
mạng giải phóng dân tộc.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá

trình phát triển lâu dài của lịch sử.
* Mác - Ăngghen đã đặt nền móng tư tưởng cho việc giải quyết vấn đề dân
tộc một cách khoa học. Các ông đã nêu lên quan điểm cơ bản có tính chất phương
pháp luận để nhận thức và giải quyết vấn đề nguồn gốc, bản chất của dân tộc,
những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai cấp công nhân và Đảng của nó.
Các ông đã cho rằng:
- Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân về bản chất mạng tính quốc tế,
nhưng ban đầu phải có hình thức dân tộc, có tinh dân tộc.
- Giai cấp công nhân không tự giải phóng mình nếu không đồng thời và vĩnh
viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi mọi áp bức, bóc lột.
- Có xóa bỏ đối kháng giai cấp thì mới xóa bỏ đối kháng dân tộc, một dân tộc
đi áp bức dân tộc khác thì dân tộc đó không thể tự do.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, các ông cho rằng: “Hãy xáo bỏ tình
trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ bị xáo
bỏ”.
- Trong thời đại ngày nay, chỉ có cuộc cách mạng do chính đảng của giai cấp
vô sản lãnh đạo mới thực hiện được sự thống nhất giữa giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc và giải phóng con người.
5
- Các ông đề cập đến sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
- C. Mác kêu gọi: “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy
chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân
tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”
4
.
Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ Mác và Ăngghen quan tâm và
nhấn mạnh tới vấn đề giai cấp. Mác nêu khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước đoàn
kết lại”.
* Lênin đã phát triển những quan điểm này thành hệ thống lý luận toàn diện
và sâu sắc về vấn đề dân tộc trong điều kiện CNTB chuyển sang giai đoạn CNĐQ,

làm cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các Đảng Cộng sản về vấn đề
dân tộc. Trong đó đáng chú ý là các vấn đề:
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng:
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: là quyền thiêng liêng của các dân tộc, đảm
bảo mọi dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào
được giữ đặc quyền, đặc lợi về địa vị kinh tế - chính trị - văn hoá trong quan hệ
xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế.
- Các dân tộc được quyền tự quyết:
Thực hiện quyền bình đẳng dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự
quyết, trước hết là quyền tự quyết về chính trị, quyền thành lập một quốc gia dân tộc
độc lập.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại:
Khẩu hiệu đó đã phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, phản
ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp GPDT và giải phóng giai cấp
- Người cho rằng vấn đề dân tộc là vấn đề lớn, mang tính quốc tế. Nó phải là
nội dung quan trọng trong chiến lược, sách lược của các ĐCS; phải cương quyết
đấu tranh chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tư sản, của chủ nghĩa sô
vanh; phải tăng cường chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người đưa ra khẩu hiệu: “Vô sản
4
C.Mác – Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, t 4, tr 623.
6
tất cả các nước, các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
- Lênin đã chỉ ra hai xu hướng phát triển của vấn đề dân tộc trong điều kiện
của CNTB:
+ Một là, sự thức tỉnh ý thức dân tộc của phong trào đấu tranh chống áp bức
dân tộc sẽ dẫn đến hình thành các quốc gia dân tộc độc lập.
+ Hai là, với việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dân tộc
sẽ dẫn tới việc phá huỷ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, thiết lập sự thống nhất
quốc tế giữa các dân tộc.
- Tuy nhiên, Lênin cho rằng, CNTB, CNĐQ không thể giải quyết được vấn

đề dân tộc, bởi vì: Đây là một trong những nơi cung cấp nguồn nhân lực, vật lực
quan trong nhất cho chủ nghĩa đế quốc tồn tại và phát triển. CNĐQ tạo ra mâu
thuẫn, xung đột, chia rẽ giữa các dân tộc để dễ bề thống trị.
- Lênin coi trọng cách mạng thuộc địa và cho rằng cách mạng thuộc địa và
cách mạng chính quốc có quan hệ gắn bó với nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
1.2. Thực tiễn phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam và thế giới.
* Ở Việt Nam.
- Trước khi thực dân Pháp xâm lược.
- Khi thực dân Pháp xâm lược.
* Trên Thế giới.
- Hồ Chí Minh nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản: Mỹ, Pháp, Anh…
Cách mạng không triệt để.
- Hồ Chí Minh nghiên cứu cuộc cách mạng Tháng Mười Nga  Cách mạng
triệt để.
II. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
* Vấn đề dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
7
- Nếu như Mác – Ăngghen giải quyết vấn đề dân tộc trong cuộc đấu tranh
chống CNTB (Đấu tranh giai cấp), Lênin giải quyết vấn đề dân tộc trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc (Cách mạng ở chính quốc), thì Hồ Chí Minh lại bàn
nhiều và giải quyết vấn đề dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân
của các nước thuộc địa (vấn đề dân tộc thuộc địa). Hồ Chí Minh nêu khẩu hiệu:
“Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại” T1, tr.461
- Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa là: vấn đề đấu tranh của các dân
tộc thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc,
xoá bỏ ách áp bức, bóc lột của thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết và tạo
điều kiện để phát triển đất nước.
2.1. Độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các
dân tộc

2.1.1. Khẳng định các quyền dân tộc cơ bản đó là quyền bình đẳng, độc
lập, tự do, hạnh phúc
- Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên
ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm; trong những quyền
ấy, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Người nhận định,
đây là lời bất hủ, “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”
5
.
- Khi tiếp cận bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng
Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và luôn luôn
phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi”
6
. Người khẳng định: “Đó là những lẽ
phải không ai chối cãi được”
7
.
- Tiếp thu những quan điểm tiến bộ trong hai bản tuyên ngôn đó, trong bản
5
T 4, tr.1
6
T 4, tr.1
7
T 4, tr.1
8
Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945, Người đã
trịnh trọng tuyên bố và khẳng định với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân

tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy”
8
.
 Như vậy, từ việc tìm hiểu và tiếp thu những nhân tố có giá trị trong hai
bản tuyên ngôn ấy, người đã khái quát nên một chân lý bất di bất dịch về quyền cơ
bản của dân tộc: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra có quyền bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Đó là những
quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm.
2.1.2. Khẳng định nội dung cơ bản của Độc lập dân tộc

Độc lập dân tộc gắn với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia
- Trong chuyến thăm chính thức nước Pháp (1946), trước khi lên đường, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nắm tay và dặn lại cụ Huỳnh Thúc Kháng – nhà cách mạng
lão thành, quyền Chủ tịch nước: “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít
lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ ở Cụ cùng với anh em giải quyết. Mong cụ “dĩ bất
biến, ứng vạn biến”
9
. Tinh thần “Dĩ bất biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là
lấy mục tiêu không thay đổi là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và tự do, hạnh
phúc của nhân dân làm gốc, tùy điều kiện hoàn cảnh, tùy từng lĩnh vực và đối
tượng cụ thể mà có sự vận dụng linh hoạt, uyển chuyển những phương pháp cách
mạng khác nhau cho phù hợp.
- Trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ, năm 1946, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song
chân lý ấy không bao giờ thay đổi”
10
.
- Người nhấn mạnh: “Nước ta là một, dân tộc ta là một”, “Miền Nam là
máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”. Vì thế, lúc còn sống, Người

8
T 4, tr.4
9
Song Thành, Hồ Chí Minh Tiểu sử, Nxb Chính trị Quốc Gia, H, 2010, tr.400
10
T4, tr.246
9
luôn theo sát từng bước đi của cách mạng giải phóng miền Nam. Ngày, đêm Người
tưởng nhớ đến đồng bào và chiến sỹ miền Nam với tấm lòng thương yêu vô bờ bến.
- Với tinh thần hễ còn một tên xâm lược nào trên đất nước thì chúng ta phải
chiến đấu quét sạch nó đi, Đảng ta và Bác Hồ luôn dương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc, lãnh đạo toàn thể dân tộc đứng lên đấu tranh, “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho
Ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, giang sơn thu
về một mối, đưa cả nước vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
 Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự
- Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự, phải đi tới
quyền dân tộc tự quyết, tức là quyền lựa chọn con đường phát triển, không phụ
thuộc vào bên ngoài.
- Độc lập dân tộc thực sự trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, đối
nội, đối ngoại… Độc lập thực sự đòi xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột và nô dịch
dân tộc trên tất cả các lĩnh vực.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với hòa bình – một nền hòa bình thực sự, hòa
bình trong độc lập tự do, không phải thứ hòa bình giả hiệu.

Độc lập dân tộc gắn với ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân
- Hồ Chí Minh cho rằng đây là vấn đề lớn, bởi nếu dân không được hưởng
ấm no, hạnh phúc thì độc lập tự do cũng chẳng có nghĩa lý gì.
- Sau cách mạng tháng Tám, trong Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng đăng trên báo Cứu quốc, số 69 (17/10/1945), Người nhấn mạnh:
“Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có

nghĩa lý gì”
11
.
- Trong Bài phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế
họach kiến quốc (10/1/1946), Người khẳng định: “Chúng ta tranh được tự do, độc
lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ
biết có giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta
11
T4, tr.56
10
phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn; 2. Làm cho dân có mặc; 3. Làm cho
dân có chỗ ở; 4. Làm cho dân có học hành. Cái mục đích mà chúng ta đi đến là 4
điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức cho tự do
độc lập”
12
.
 Như vậy, theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải đi đến dân có ăn, có
mặc, có chỗ ở và được học hành.
2.1.3. Kiên quyết chống lại sự xâm phạm độc lập dân tộc
- Độc lập dân tộc là khát vọng thiêng liêng nhất của các dân tộc thuộc địa. Vì
vậy, bằng mọi cách, nhân dân các nước thuộc địa luôn cố gắng và quyết tâm chống
lại sự xâm lược của đế quốc, thực dân để bảo vệ và giữ vững nền độc lập của dân
tân tộc.
- Là một người dân mất nước, lại được chứng kiến cảnh sống nô lệ, khổ cực
của nhân dân mình trước sự áp bức, bóc lột dã man của kẻ thù, Hồ Chí Minh sớm
nhận thấy giá trị của độc lập, tự do. Vì thế, Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu
nước, giành độc lập tự do cho Tổ quốc.
- Thực tiễn trong hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc, Hồ Chí Minh
luôn cố gắng đấu tranh chống lại sự xâm lược của kẻ thù, để bảo vệ các quyền dân
tộc cơ bản.

+ Trong bài Trả lời phỏng vấn của các nhà báo nước ngoài, đăng trên Báo
cứu quốc số 147 (21/1/1946), Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc ai cũng được học
hành”
13
.
+ Người nhấn mạnh: “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó
là tất cả những gì tôi muốn, tất cả những gì tôi hiểu”, “cái mà tôi cần nhất trên đời
là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”
14
.
12
T4, tr.152
13
T4, tr.161
14
Hội đồng Trung ương chỉ đại biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, H, 2008, tr.57
11
+ Năm 1919, thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước, Người gửi đến
hội nghị Vecxay bản ưu sách 8 điểm, đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân
Việt Nam với hai nội dung chính là:
• Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông
Dương như đối với châu Âu, xoá bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế
độ đạo luật.
• Hai là, đòi quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân như các quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, tự do cư trú
Mặc dù lời lẽ ôn hòa, nhưng bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái
Quốc rút ra bài học: “Muốn bình đẳng thực sự phải đấu tranh giành độc lập dân

tộc. Muốn giải phóng dân tộc chỉ có thể trông cậy vào chính mình, vào lực lượng
của bản thân mình”
15
.
+ Năm 1930, trong Chính cương, Sách lược vắn tắt và Lời kêu gọi sau khi
thành lập Đảng, Người đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là:
• Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
• Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
16
+ Năm 1941, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng do Hồ Chí Minh
chủ trì, Đảng ta xác định tình thế cách mạng đã xuất hiện, nguyện vọng của nhân
dân ta lúc này là giành độc lập dân tộc. Do đó, nhiệm vụ giải phóng dân tộc được
đặt lên hàng đầu: “Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc
lập, tự do thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu
mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”
17
.
Trong thư kính cáo đồng bào, Người cũng chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi
dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”
18
.
15
Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb Văn học, H, 1970, tr.30
16
T3, tr 1
17
ĐCSVN, Văn kiện đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 7, tr.136
18
T3, tr.198
12

Năm 1945, khi thời cơ cách mạng chín muồi, Người khẳng đinh: “Dù phải
hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành
cho được độc lập, tự do”
19
.
+ Cách mạng Tháng Tám thành công, trong bản Tuyên ngôn độc lập, Người
tiếp tục nhấn mạnh tư tưởng này: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc
lập và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giũ vững quyền tự
do, độc lập ấy”
20
.
+ Sau đó hơn một tháng, Người viết Lời kêu gọi Liên hợp quốc. Trong đó,
Người trịnh trong tuyên bố rằng: “Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa
bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng cương quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ
những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ và độc lập cho đất nước”
21
.
- Mong muốn hòa bình, Đảng và Hồ Chí Minh đã thực hiện sách lược khôn
khéo để giữ hòa bình. Nhưng khi không nhân nhượng được nữa, Người nhất trí
phát động kháng chiến toàn quốc để bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc.
Năm 1946, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người khẳng định:
“Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ”
22
.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hồ Chí Minh cũng xác định
quyết tâm: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa.
Hà nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân
dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”

23
.
 Tóm lại: Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” không chỉ là tư
tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lý do
19
Hoàng Trang, Hỏi và đáp tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTHC, H, 2009, tr.34
20
T4, tr.4
21
T4, tr. 469
22
T4, tr.480
23
T12, tr.108
13
chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đồng
thời cũng là nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
2.2. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở tất cả các nước đang đấu
tranh giành độc lập
- Chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải theo cái nghĩa
như chủ nghĩa tư bản hiểu, tức là chủ nghĩa dân tộc sôvanh, vị kỷ, hẹp hòi. Chủ
nghĩa dân tộc mà Người nói ở đây là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân
chính. Đây là một động lực lớn của đất nước và chủ nghĩa dân tộc chân chính này
sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế vô sản.
- Hồ Chí Minh là một trong những người sớm phát hiện ra chủ nghĩa yêu
nước, chủ nghĩa dân tộc ở các nước thuộc địa và sức mạnh của nó.
+ Theo Hồ Chí Minh, trong hệ thống thuộc địa, chủ nghĩa đế quốc thực hiện
chính sách cai trị, áp bức, bóc lột tàn bạo. Do đó tất cả các tầng lớp nhân dân: công,
nông, trí thức, tư sản dân tộc, một bộ phận địa chủ yêu nước… đều mâu thuấn gay
gắt với chủ nghĩa thực dân, tạo nên chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc.

+ Người phân tích rằng, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển nên sự phận
hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không
giống ở phương Tây. Bởi vì, xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc xét về
cấu trúc xã hội không giống các xã hội phương Tây, đấu tranh giai cấp ở đó không
quyết liệt như ở đây. Ở phương Đông dù là địa chủ hay nông dân thì họ đều là
những người nô lệ mất nước. Do đó, họ phải đoàn kết trên tinh thần yêu nước và
tinh thần dân tộc để đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng chính mình. Những
người cộng sản phải nắm lấy sức mạnh ấy để làm cách mạng. Đó là một chính sách
mà Hồ Chí Minh cho rằng mang tính hiện thực tuyệt vời.
- Thực tiễn hoạt động cách mạng, ngay từ năm 1924, trong Báo cáo về Bắc
kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Người khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của
đất nước”
24
. Theo Người, trong cách mạng giải phóng dân tộc, “người ta sẽ không
24
T1, tr.466
14
làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại và duy nhất
của đời sống xã hội của họ”
25
, sẽ không giải phóng được dân tộc nếu không dựa
trên động lực ấy.
 Do đó, Người đã kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng
sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản… Khi chủ
nghĩa dân tộc của họ thắng lợi…nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ
nghĩa quốc tế”
26
.
2.3. Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế

 Vấn đề dân tộc và giai cấp có quan hệ khăng khít vơi nhau
- Hồ Chí Minh luôn đứng trên quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm
của giai cấp công nhân để giải quyết vấn đề dân tộc.
+ Mác – Ăngghen cho rằng, có triệt để xóa bỏ tình trạng bóc lột và áp bức
giai cấp mới có điều kiện xóa bỏ áp bức dân tộc, mới đem lại độc lập thực sự cho
dân tộc. Chỉ có giai cấp vô sản mới thực hiện được điều này.
+ Lênin cho rằng, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không
thể giành được thắng lợi nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc của các dân tộc bị áp bức ở các thuộc địa. Người nêu khẩu hiệu: “Vô
sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bước đoàn kết lại”.
 Rõ ràng, xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu của cuộc cách mạng vô sản ở
châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp, vẫn “đặt lên hàng
đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể
giai cấp vô sản”
27
.
- Tiếp thu lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, xuất phát từ thực tiễn dân tộc
thuộc địa, Hồ Chí Minh cho rằng, các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức của mình,
đồng thời phải biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ của giai cấp vô sản và
25
T1, tr.467
26
T1, tr.467
27
T2, tr.136
15
nhân dân lao động thế giới để trước hết đấu tranh giành độc lập dân tộc, từ thắng
lợi này làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, góp phần vào tiến trình cách mạng thế
giới.
- Năm 1924, trong Báo cáo về Bác kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ, Người viết rằng:

“Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản toàn thế giới;
mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi trong một nước nào đó…
thì đó càng là thắng lợi cả cho người An Nam”
28
. Rõ ràng, Hồ Chí Minh đã nhận
thức được mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải
phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
- Cụ thể, ở một nước thuộc địa cùng với những tàn tích phong kiến, xã hội đó
tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa dân tộc với đế quốc xâm lược và
mâu thuẫn giữa nhân dân mà chủ yếu là nông dân với địa chủ phong kiến. Trong
đó, nổi bật và gay gắt hơn là mâu thuẫn dân tộc. Cho nên vấn đề dân tộc là vấn đề
nổi bật, chủ yếu, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, có giải phóng được dân
tộc mới giải phóng được giai cấp. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề cho giải phóng
giai cấp, có giải quyết được quyền lợi dân tộc mới giải quyết được quyền lợi giai
cấp.
- Tuy nhiên, ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam, nhiệm vụ
chống đế quốc gắn với nhiệm vụ chống phong kiến, cho nên vấn đề dân tộc và
quyền lợi giai cấp vẫn phải tiến hành nhưng rải ra từng bước để phục vụ cho quyền
lợi dân tộc, để đoàn kết các giai tầng trong mặt trận dân tộc thống nhất, mặt khác để
cải thiện đời sống cho công nông - chủ lực quân cách mạng.
Tháng Tám năm 1945, khi thời cơ tổng khởi nghĩa vũ trang đến gần, Hồ Chí
Minh phân tích: “Trong lúc này quyền lợi của giai cấp đặt dưới sự sinh tử, tồn
vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề
dân tộc tự giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì
chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi
28
T1, tr.469
16
của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”
29

.
- Ở Việt Nam, cách mạng dân tộc dân chủ phải do giai cấp công nhân lãnh
đạo, thông qua đội tiên phong là ĐCS. Như vậy, vấn đề dân tộc được giải quyết
theo quan điểm của giai cấp công nhân, trong phạm trù của cách mạng vô sản.
 Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
- Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc sớm thấy
được mối quan hệ chặt chẽ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải
phóng giai cấp của giai cấp vô sản, nên Người khẳng định: “Cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của CNCS và của cách mạng thế giới”
30
.
- Năm 1930, khi thành lập Đảng, trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, Hồ Chí Minh xác định con đường của cách mạng Việt Nam phải trải qua hai
giai đoạn: làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (CMDTDC) để
đi tới xã hội cộng sản (CMXHCN)”.
- Năm 1960, Hồ Chí Minh xác định “chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô
lệ”
31
.
- Theo Hồ Chí Minh ĐLDT phải đi tới CNXH mới xóa bỏ tận gốc cơ sở áp
bức dân tộc, áp bức giai cấp. Sự gắn bó giữa ĐLDT và CNXH vừa phản ánh quy
luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản,
vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với các mục
tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Do đó, giành được độc lập rồi phải
tiến lên CNXH, phải làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người được ăn no, mặc
ấm, sung sướng, tự do.
- Hồ Chí Minh yêu cầu: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu
CNXH, vì có tiến lên CNXH thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc
mỗi ngày một giàu mạnh thêm”

32
.
29
ĐCSVN, Văn kiện đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tr.113
30
T1, tr.416
31
T10, tr.128
32
T9, tr.173
17
 Như vậy, ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển
thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
 Độc lập cho dân tộc mình và cho tất cả các dân tộc khác
- Nói đến quyền dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên
thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do”
33
. Do vây, các dân tộc phải tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của
nhau. Tức là, ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
- Năm 1941, khi ở Anh, người đã đem toàn bộ số tiền dành dụm được từ
đồng lương ít ỏi để ủng hộ quỹ kháng chiến của người Anh và nói với bạn mình
rằng: “Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là
tranh đấu cho dân tộc ta vậy”
34
.
- Với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh
cho độc lập dân tộc mình mà còn đấu tranh cho tất cả các dân tộc bị áp bức. Người
luôn nêu cao tinh thần tự quyết của dân tộc, song không quên nghĩa vụ quốc tế cao

cả của mình trong việc giúp đỡ các Đảng Cộng sản ở một số nước Đông Nam Á,
ủng hộ nhân dân Trung Quốc chống Nhật, ủng hộ Lào và Campuchia chống Pháp.
Theo Hồ Chí Minh, lấy thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng
lợi chung của cách mạng thế giới.
 Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mạng tính khoa học
đúng đắn, vừa có tính chất cách mạng sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng, giữa độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Điều đó hoàn toàn phù hợp
với quan điểm của Ăngghen: “Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào
công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính”
35
.
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG
33
T 4, tr.1
34
Hoàng Trang, Hỏi và đáp tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTHC, H, 2009, tr.39
35
C.Mác – Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M, 1981, t33, tr.374
18
DÂN TỘC
∗ Thế nào là Cách mệnh (Cách mạng).
Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927)
36
, Hồ Chí Minh đã giải thích rất rõ
cách mệnh là gì? Vì sao phải làm cách mệnh?
- Cách mệnh là gì:
Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt.
Ví dụ: Galile (1633): Trái đất tròn và xoay quanh mặt trời.
Stêphenxông (1800): chế tạo ra xe lửa.

Đácuyn (1859): Thuyết tuyến hóa.
- Cách mệnh có mấy thứ? Có 3 thứ:
+ Tư bản cách mệnh: như Pháp cách mệnh (1789), Mỹ cách mệnh (1776),
Nhật cách mệnh (1864).
+ Dân tộc cách mệnh: như Italia đuổi cường quyền Áo (1859), Tầu đuổi Mãn
Thanh (1911).
+ Giai cấp cách mệnh: như công nông Nga làm cách mạng đuổi tư bản và
giành lấy quyền (1917).
- Vì sao có cách mệnh?
+ Cách mệnh tư bản: Do mâu thuẫn Tư bản > < địa chủ.
+ Cách mệnh Dân tộc: Do mẫu thuẫn Dân tộc bị áp bức > < Dân tộc đi áp
bức.
+ Cách mệnh giai cấp: Do mâu thuẫn Vô sản > < Tư sản.
3.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường của cách mạng vô sản
3.1.1. Cơ sở của luận điểm.
36
Xem T2, tr. 263
19
* Cơ sở lý luận:
- Năm 1892, trong lời mở đầu tác phẩm Tuyên ngôn Đảng Cộng sản,
Ph.Ăngghen viết: “Chỉ trong tay giai cấp vô sản thì độc lập dân tộc mới giành được
vĩnh viễn”.
- V.I.Lênin khẳng định: “Muốn giải phóng dân tộc thuộc địa phải bằng con
đường cách mạng vô sản” (in trên báo Luymanitê tháng 7/1920).
* Cơ sở thực tiễn:
 Hồ Chí Minh nhận thấy các con đường cứu nước của phong kiến và
nông dân cuối thế kỷ XIX đã thất bại
- Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Suốt từ đó đến những năm
đầu thế kỷ XX, nhân dân miền Nam tiêu biểu là Nguyễn Trung Trực, Trương Định

đã nổi dạy chống Pháp. Tiếp đến là phong trào Cần Vương diễn ra sôi nổi ở Trung
Kỳ và phong trào khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Nguyễn
Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám ở Bắc Kỳ. Mặc dù cũng có một số thắng lợi, song
tất cả các phong trào ấy đều chung một kết cục là thất bại vì chưa có đường lối và
phương pháp đấu tranh đúng đắn.
- Lớn lên trên quê hương, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã chứng kiến
phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, cuộc vận động Duy Tân của Phan Chu
Trinh đều không có kết quả. Năm 1908, cụ Phan Chu Trinh bị Pháp bắt đầy ra Côn
Đảo. Cũng trong năm đó, Nhật Bản đã trục xuất lưu học sinh Việt Nam về nước,
phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu thất bại.
- Hồ Chí Minh khâm phục lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của các bậc
tiền bối văn thân sỹ phu, nhưng không tán thành con đường cứu nước của họ. Ngọn
cờ văn thân sỹ phu phong kiến dù là bạo động hay ôn hòa đều thất bại trước nhiệm
vụ của lịch sử. Từ kinh nghiệm thất bại của các bậc tiền bối, Nguyễn Ái Quốc
quyết tâm sang châu Âu – sang Pháp tìm đường cứu nước.
 Nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản, Người cho rằng đó là những
cuộc cách mạng không triệt để, không thể giải phóng được dân tộc và giai cấp
20
- Trong khoảng 10 năm (1911- 1920), Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, khảo sát
3 cuộc cách mạng lớn trên thế giới: Cách mạng tư sản Anh (1640 - 1689), cách
mạng tư sản Mỹ (1773 - 1783), cách mạng tư sản Pháp (1789 – 1794); Người cũng
tiếp xúc và nghiên cứu bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791.
- Mặc dù hai bản Tuyên ngôn đó có những lời lẽ rất tiến bộ, nhưng thực tế
hai cuộc cách mạng đó không làm cho xã hội được như vậy.
+ Đặt chân lên nước Mỹ, Hồ Chí Minh thấy rằng, đằng sau những tòa nhà
chọc trời và cuộc sống xa hoa của những người tư bản giàu có ở thành phố Niuooc
là những con người đau khổ, sống vật vờ dưới bóng của các tòa nhà đó. Vì thế,
Người cho rằng: “Tuy rằng cách mệnh đã thành công hơn 150 năm nay, nhưng
công nông vẫn cực khổ, vẵn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. Ấy là vì cách mệnh

Mỹ là cách mệnh tư bản, mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi”
37
.
+ Đến với nước Pháp – quê hương của khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác
ái”. Người cũng nhận thấy rõ bộ mặt của bọn thống trị và cuộc sống cực khổ của
công nhân và những người lao động ở đây. Vì thế, Người cho rằng: “Cách mệnh
Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến
nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì tước lục công nông, ngoài thì
áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi mà nay công nông Pháp hãy còn mưu
cách mệnh lần nữa mới hòng thoát vòng áp bức”
38
.
 Từ những nhận xét đó, Người kết luận: Cách mạng tư sản là những cuộc
cách mạng không triệt để, không thể giải quyết được vấn đề dân tộc và giai cấp. Do
đó, “Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy”
39
.
 Đến với cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác - Lênin, Người
khẳng định, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con
đường cách mạng vô sản.
37
T2, tr.270
38
T2, tr.270
39
T2, tr.270
21
- Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga
(1917), Hồ Chí Minh thấy rằng:
+ Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc cách mạng vô sản, mà

còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương sáng về sự giải
phóng các dân tộc thuộc địa. Người nhận xét: “Trong thế giới bây giờ chỉ có Cách
mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật sự, không phải tự do và bình đẳng giả
dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã
đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công nông các nước và dân bị áp
bức thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong
thế giới”
40
.
+ Vì thế, theo Người, sự thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra
một thời đại mới: “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân
tộc”
41
.
+ Do đó, Người khẳng định: “Cách mệnh Nga dậy cho chúng ta rằng muốn
cách mệnh thành công thì phải dân chúng công nông làm gốc, phải có đảng vững
bền, phải bền gan hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã
Khắc Tư và Lênin”
- Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, Người hoàn toàn tin theo Lênin, tin
theo Quốc tế thứ ba, bởi vì Lênin và QT thứ ba đã bênh vực cho các dân tộc bị áp
bức.
+ Năm 1960, trong bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Người viết:
“Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng
bào mình”
42
.
+ Người thấy trong lý luận của Lênin một phương hướng mới để giải phóng
dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản. Khi đọc Luận cương của Lênin về các
40

T2, tr.280
41
T2, tr.274
42
T10, tr 126. 128
22
vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên Báo Nhân đạo, Người đã tìm ra con đường
cứu nước, giải phóng dân tộc. Sau này, Người kể lại cảm tưởng của mình lúc đó:
“Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu, nhưng cứ đọc đi đọc lại
nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm
cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sánh tỏ, tin tưởng biết bao? Tôi vui mừng đến
phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước
quần chúng đông đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta! Từ đó tôi hoàn toàn tin theo
Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”
43
.
- Trong bài Cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có giải phóng
giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc cách mạng này chỉ có
thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”
44
. Người nhấn
mạnh thêm: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới”
45
.
- Năm 1959, trong bài Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc trong thời
đại ngày nay, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”
46

.
3.1.2. Nội dung của luận điểm.
Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng vô sản ở thuộc địa bao hàm nội
dung sau:
- Về Mục tiêu: Làm cách mạng giải phóng dân tộc giành chính quyền, dần
dần làm cách mạng xã hội chủ nghĩa: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”
47
- Về lực lượng lãnh đạo cách mạng: là giai cấp công nhân mà đội tiên phong
là Đảng Cộng sản.
43
T10, tr.127
44
T1, tr.419
45
T10, tr.128
46
T9, tr.314
47
T3, tr.1
23
- Về lực lượng làm cách mạng: là khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là
liên minh công – nông – trí.
- Về phương pháp cách mạng: Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng
nhân dân.
- Về đoàn kết quốc tế: Cách mạng thuộc địa phải gắn chặt với cách mạng vô
sản chính quốc. Cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới.
3.1.3. Ý nghĩa của luận điểm.
- Đây là một luận điểm khoa học, đúng đắn của Hồ Chí Minh, thể hiện sự
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh thực tiễn

nước ta.
- Góp phần tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, phá vỡ sự bế tắc
về đường lối cứu nước kéo dài suốt máy chục năm ở nước ta.
- Con đường cách mạng vô sản là con đường cách mạng hoàn toàn đúng đắn,
phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã
chứng minh sự đúng đắn đó.
- Quan điểm này đã trở thành nền tảng tư tưởng cho Đảng ta trong việc
hoạch định đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
- Đồng thời góp phần định hướng cho các dân tộc thuộc địa trên con đường
đấu tranh giành độc lập, tự do.
3.2. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng
Cộng sản lãnh đạo.
Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với
phong trào công nhân; là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Đảng đấu tranh để bảo vệ quyền lợi cho giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc.
 Cách mạng trước hết phải có Đảng lãnh đạo.
- Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc là một công việc to lớn.
Cho nên, muốn làm được cách mạng “trước hết phải làm cho dân giác ngộ … phải
24
giảng giải lý luận cho dân và chủ nghĩa cho dân hiểu”
48
. “Cách mạng phải hiểu
phong trào thế giới, phải bày sách lược cho dân. Vậy sức mạnh phải tập trung,
muốn tập trung phải có Đảng cách mạng”
49
.
- Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Người khẳng định: “Cách mệnh
trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động
tổ chức nhân dân, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi

nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy”
50
.
- Theo Hồ Chí Minh, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân; là
cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, khó khăn. Do đó, quần chúng, nhân dân phải được
giác ngộ, tổ chức, lãnh đạo thì mới phát huy được sức mạnh to lớn để đưa cách
mạng đến thành công. Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò tập hợp, đoàn kết và
lãnh đạo toàn thể nhân dân để tiến hành cách mạng. Người khẳng định: “Lực lượng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận.
Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”
51
. Người nhấn
mạnh: “Giai cấp mà không có Đảng lãnh đạo thì không làm cách mạng được”
52
.
- Hồ Chí Minh khẳng định, chỉ có sự lãnh đạo của Đảng biết vận dụng một
cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình, mới có
thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi, cách mạng XHCN đến thành
công.
- Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh điều đó.
 Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt
Nam.
- Trong những năm 20 của thế kỷ XX, ở Việt Nam đã diễn ra hai xu hướng
cách mạng: xu hướng tư sản và xu hướng vô sản. Sự thất bại của của giai cấp tư sản
48
T2, tr.276
49
T2, tr 267 - 268
50

T2, tr.267-268
51
T9, tr. 29
52
T8, tr.295
25

×