Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

NGUYỄN TUÂN NHÀ VĂN CỦA CHỦ NGHĨA DUY MĨ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.3 KB, 27 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Đời sống văn học cũng có những khúc mắc, những tranh đấu, tranh luận như
chính nhịp sống đời thường. Phải có sự đối lập mới có sự phát triển. Tư duy phân
biệt nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh đã từng dấy lên một trận
bút chiến nảy lửa giữa các văn nghệ sĩ. Kết quả cuối cùng cũng đã có nhưng sau
trận bút chiến ấy, người theo chủ nghĩa nào càng dấn mình sâu hơn trên con đường
mình đã chọn. Vì con đường nghệ thuật là một quá trình khám phá và chứng minh,
không có một ranh giới và sự đúng - sai chuẩn mực nào để ta tuân theo. Nguyễn
Tuân trong trận bút chiến theo quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật, tuy kết quả cuối
cùng không thuộc về mình, Nguyễn Tuân (cùng các tác giả có cùng quan điểm)
hứng chịu nhiều sự chỉ trích, bị lên án tiêu cực, nhưng đến ngày hôm nay, nhìn lại
những đóng góp của ông, ông xứng đáng được xem là tác gia của một thời đại văn
học và là nhà văn của chủ nghĩa duy mĩ. Văn học đến hôm nay vẫn luôn cần có sự
nhìn lại để sửa chữa lỗi lầm của mình.

2


CHƯƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1

Các vấn đề lý luận

1.1.1 Khái niệm duy mĩ và chủ nghĩa duy mĩ trong nghệ thuật
Theo chiết tự từ nguyên, duy mĩ hiểu đơn giản: duy là duy nhất, là độc tôn,
mĩ là cái đẹp, vậy duy mĩ là tính từ chỉ việc cái đẹp được tôn sùng và trở thành mối


quan tâm duy nhất. Theo từ điển Hán Nôm, duy mĩ (唯唯) là thiên về cái đẹp, chỉ biết
cái đẹp, là tình yêu cái đẹp ở trạng thái cao nhất.
Chủ nghĩa duy mĩ là danh từ chỉ quan điểm duy tâm về nghệ thuật, khẳng
định giá trị duy nhất của nó là cái đẹp, được coi như tách khỏi mọi nội dung xã hội
và đạo đức. Các nền tảng triết học của nó được đặt vào thế kỷ 18 bởi Immanuel
Kant, người đã đưa ra giả thuyết về tính tự chủ của các tiêu chuẩn thẩm mĩ, tách
chúng ra khỏi sự cân nhắc về đạo đức, tiện ích hay niềm vui.
Theo Từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia, chủ nghĩa duy mĩ được định
nghĩa là: “Aestheticism (also the Aesthetic Movement) is an intellectual and art
movement supporting the emphasis of aesthetic values more than social-political
themes for literature, fine art, music and other arts.This meant that Art from this
particular movement focused more on being beautiful rather than having a deeper
meaning - 'Art for Art's sake'.” (Tạm dịch: Chủ nghĩa thẩm mĩ (cũng là Phong trào
Thẩm mĩ) là một phong trào trí thức và nghệ thuật hỗ trợ nhấn mạnh các giá trị
thẩm mĩ nhiều hơn các chủ đề chính trị xã hội đối với văn học, nghệ thuật, âm nhạc
và các nghệ thuật khác. Điều này có nghĩa là Nghệ thuật từ phong trào đặc biệt này
tập trung nhiều hơn vào việc đẹp hơn chứ không phải có ý nghĩa sâu sắc hơn "Nghệ thuật vì nghệ thuật".) Cũng theo Wikipedia thì “The artists and writers of
Aesthetic style tended to profess that the Arts should provide refined sensuous
pleasure, rather than convey moral or sentimental messages. As a consequence,
they did not accept John Ruskin, Matthew Arnold, and George MacDonald's
3


conception of art as something moral or useful, "Art for truth's sake". Instead, they
believed that Art did not have any didactic purpose; it only needed to be beautiful.
The Aesthetes developed a cult of beauty, which they considered the basic factor of
art.” (Tạm dịch: “Các nghệ sĩ và nhà văn có phong cách Thẩm mĩ có khuynh hướng
cho rằng nghệ thuật nên cung cấp những khoái cảm cảm giác tinh tế hơn là truyền
đạt những thông điệp tinh thần hoặc tình cảm. Do đó, họ không chấp nhận John
Ruskin, Matthew Arnold, và quan niệm của George MacDonald về nghệ thuật như

một cái gì đó đạo đức hay hữu ích, "Nghệ thuật vì lợi ích của sự thật". Thay vào đó,
họ tin rằng nghệ thuật không có mục đích giảng dạy; nó chỉ cần được đẹp. Chủ
nghĩa thẩm mĩ đã phát triển một tôn giáo của vẻ đẹp, mà họ coi là yếu tố cơ bản của
nghệ thuật.)
Dựa vào ý tưởng rằng vẻ đẹp là yếu tố quan trọng nhất trong cuộc đời, các
nhà văn, họa sĩ và nhà thiết kế đã cố gắng tạo ra những tác phẩm được ngưỡng mộ
đơn giản chỉ vì vẻ đẹp của họ chứ không phải là bất kỳ chức năng tường thuật hay
đạo đức nào. Tất nhiên, điều này là một cái tát đối với truyền thống nghệ thuật, cho
rằng nghệ thuật cần thiết để dạy một bài học hoặc cung cấp một thông điệp nâng
cao đạo đức. Phong trào này nở rộ thành một nền văn hoá cống hiến cho việc tạo ra
vẻ đẹp trong tất cả các con đường của cuộc sống từ nghệ thuật và văn học, đến
trang trí nhà, thời trang.
1.1.2 Chủ nghĩa duy mĩ trong văn học
Nguồn gốc của tính thẩm mĩ có thể được bắt nguồn từ những năm 1860; tuy
nhiên, chỉ đến những năm 1880 rằng phong trào này đã có được sự nổi tiếng đáng
chú ý. Phong trào thẩm mĩ thường gắn với thuật ngữ tiếng Pháp "fin de siècle" hoặc
"cuối thế kỷ", đề cập đến việc kết thúc một thời đại hiện tại và ngụ ý bắt đầu một
phong trào mới. Nó thường được sử dụng để mô tả nước Anh cuối thế kỷ XIX, thời
điểm khi các lí tưởng của thời đại Victoria đã mất ưu tiên và được thay thế bởi các
giá trị thẩm mĩ. Phong cách sống của người Victoria đã bị phá vỡ một phần vì uy
4


quyền chính trị và kinh tế của Anh phải đối mặt với những thách thức mới dưới
hình thức các cường quốc mới nổi, như Hoa Kì. Về cơ bản, những ngày vinh quang
của đế quốc Anh đã chấm dứt, tạo cơ sở cho một phương pháp tư tưởng mới, chống
lại Victoria. Phong trào thẩm mĩ tố cáo đạo đức trầm trọng và các giá trị tầng lớp
trung lưu đặc trưng cho Thời đại Victoria và chấp nhận vẻ đẹp như là sự theo đuổi
chính của cả nghệ thuật và cuộc sống. Phong trào này thường được coi là đã kết
thúc với các thử nghiệm của Oscar Wilde, bắt đầu từ năm 1895.Tính thẩm mĩ

không đột nhiên nổi lên độc lập với ảnh hưởng bên ngoài. Giống như tất cả các
phong trào, nó phát triển từ những ý tưởng của những người tiền nhiệm và cuối
cùng phát triển những đặc điểm riêng của mình.Trong khi nhiều người ảnh hưởng
đến thẩm mĩ, hai người quan trọng nhất là Walter Pater và Charles Baudelaire.
Cũng như những ngành nghệ thuật khác, phòng trào thẩm mĩ đã ảnh hưởng sâu
rộng đến văn học thế giới và văn học Việt Nam lúc bấy giờ.
1.1.2.1 Chủ nghĩa duy mĩ trong văn học thế giới
Trong văn chương, tính thẩm mĩ được bảo vệ bởi Oscar Wilde và nhà thơ
Algernon Swinburne. Sự hoài nghi về ý tưởng của họ có thể được nhìn thấy trong
số lượng lớn các tài liệu châm biếm liên quan đến hai tác giả đã xuất hiện trong
thời gian đó.
Trong bối cảnh văn học Anh, có nhiều tranh cãi về thời gian và nơi mà chủ
nghĩa thẩm mĩ ra đời; nhưng một số tài liệu cho rằng có thể được bắt nguồn từ
những lời phê bình nghệ thuật của John Ruskin trong những năm 1850, thông qua
các nghệ sĩ, nhà văn của phong trào Pre-Raphaelite và các tác phẩm của Walter
Pater, các tác phẩm của Oscar Wilde và sự ra đời của thơ suy đồi của những năm
1890 . Phong trào này dựa trên công thức "l'art pour l'art" - nghệ thuật vì nghệ thuật
- được viết bởi nhà văn Pháp Théophile Gautier trong lời mở đầu năm 1836 của
ông với Mademoiselle de Maupin. Gautier là một trong số các nhà văn và nghệ sĩ
người Pháp thời đó, người lập luận rằng nghệ thuật nên được đánh giá dựa trên các
5


tiêu chí của chính nó. Về mặt thẩm mĩ, quan điểm chủ quan về vẻ đẹp trở thành
phương tiện chính để đánh giá giá trị: khi xem xét liệu một bài thơ hay một bức
tranh có tốt hay không thì chủ nghĩa thẩm mĩ chỉ đơn thuần hỏi liệu nó đẹp hay có
ý nghĩa như một tác phẩm nghệ thuật. Điều này tạo nên sự tương phản rõ rệt với
phong tục tập quán và văn chương lâu đời của con người, dựa trên những bài học
đạo đức mà nó có thể dạy cho người đọc hoặc người xem (tính hữu ích của xã hội)
hoặc tương quan với đời sống thực. Sự từ chối này phủ nhận tính ưu việt của đạo

đức trong nghệ thuật và đề cao tính thẩm mĩ đã tạo nên một phong trào gây tranh
cãi từ giữa thế kỷ XIX trở đi.
Baudelaire là một nhà thơ Pháp, người được coi là người tiên phong của các
nhà tượng trưng cho Pháp, một phong trào có nhiều điểm tương đồng với Thẩm mĩ
học Anh.Thơ của Baudelaire thể hiện nhiều phẩm chất thẩm mĩ sau đó sẽ được
thông qua.Ví dụ, Baudelaire là một trong những tác giả đầu tiên đưa các tài liệu
khiêu dâm vào trong những bài thơ của ông, như một số chủ đề của ông là những
người đồng tính nữ và ma cà rồng (Charles Baudelaire). Các nhà thẩm mĩ, theo
gương của ông, tiếp tục đẩy lùi những ranh giới, bao gồm tình dục, trong công việc
của họ. Họ cũng thu được từ Baudelaire một khao khát mãnh liệt cho sự gợi cảm và
nhu cầu hiểu được mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Wilde tuyên bố rằng
"Cuộc sống bắt chước nghệ thuật hơn nhiều so với nghệ thuật bắt chước cuộc
sống.”. Về cơ bản ông ta cho rằng nghệ thuật là cao hơn cuộc sống vì cuộc sống
phụ thuộc vào nghệ thuật như một phương tiện để tìm ra vẻ đẹp và vẻ đẹp trở thành
một phần quan trọng của học thuyết thẩm mĩ.
Ở Nhật Bản, thời Heian cảm thức thẩm mĩ được đưa lên hàng đầu, mà theo
Ivan Morris thì đây có thể là “phần cống hiến vĩ đại nhất của xứ sở đối với nhân
loại”. Đây là thời đại ra đời của cảm thức aware (đầy đủ là mono no awere), là
niềm bi cảm, nỗi lòng xao xuyến trước vẻ đẹp vô thường của con người và tạo vật,
một cảm thức thẩm mĩ mang màu sắc Phật giáo.Tiếp nối và phát triển truyền thống
6


thẩm mĩ aware, thời trung đại mang đến cảm thức yugen, wabi, sabi. Và thời đại thị
dân tràn đầy tinh thần tự do, phóng khoáng Tokugawa cho biết thế nào là iki. Ngay
cả ngày nay tất cả những giá trị thẩm mĩ đó vẫn còn là tiêu chí căn bản của các loại
hình nghệ thuật như văn học, thơ ca, tuồng Nô, trà đạo, cắm hoa…
1.1.2.2 Chủ nghĩa duy mĩ trong văn học Việt Nam
Chúng ta, những ai đã từng tìm hiểu về văn học Việt Nam, không thể quên
được trận bút chiến giữa hai nhóm: một bên là nhóm ông Hoài Thanh quan niệm

“nghệ thuật vị nghệ thuật”, và một bên là nhóm ông Hải Triều quan niệm “nghệ
thuật vị nhân sinh”. Cuộc bút chiến này, đã diễn ra liên tiếp, kéo dài trên các báo:
Tin Văn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Tràng An, Ðời Mới... xuất bản vào thời bấy giờ.
Cuộc bút chiến này tuy đã kết thúc với phần thắng nghiêng về phía Hải Triều
nhưng những tư tưởng của chủ nghĩa duy mĩ cũng đã xác lập được vị trí không nhỏ
trong văn chương Việt Nam lúc này. Những người theo phái nghệ thuật vị nghệ
thuật mở đầu là Thiếu Sơn, rồi Hoài Thanh, Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư, Lan
Khai,…
Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn duy mĩ nổi tiếng của Việt Nam.
1.2 Tác gia Nguyễn Tuân
1.2.1 Cuộc đời và sự nghiệp
Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 ở phố Hàng Bạc, Hà Nội, quê
ở thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục (tên nôm là làng Mọc), nay thuộc phường Nhân
Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông trưởng thành trong một gia đình nhà Nho
khi Hán học đã tàn.
Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung Nam Định (tương đương với
cấp Trung học cơ sở hiện nay, tiền thân của trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong,
Nam Định ngày nay) thì bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo
7


viên Pháp nói xấu người Việt (1929). Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì đi qua biên giới
tới Thái Lan không có giấy phép. Ở tù ra, ông bắt đầu viết báo, viết văn.
Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1935, nhưng nổi tiếng từ
năm 1938 với các tác phẩm tùy bút, bút kí có phong cách độc đáo như Vang bóng
một thời, Một chuyến đi... Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam một lần nữa và
gặp gỡ, tiếp xúc với những người hoạt động chính trị.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham
gia cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học
mới. Từ 1948 đến 1957, ông giữ chức Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.

Các tác phẩm chính sau cách mạng của Nguyễn Tuân là tập tùy bút Sông Đà
(1960) là kết quả chuyến đi thực tế vùng Tây Bắc, một số tập ký chống Mỹ (1965 1975) và nhiều bài tùy bút về cảnh sắc và hương vị đất nước. Ông chủ trương chủ
nghĩa xê dịch không thích cuộc sống trầm lặng, bình ổn nên ông đi suốt chiều dài
đất nước để tìm những điều mới mẻ, độc đáo. Nguyễn Tuân yêu Việt Nam với
những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ông yêu tha thiết Tiếng Việt, những
kiệt tác văn chương của Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà..., những
nhạc điệu hoặc đài của các lối hát ca trù hoặc dân dã mà thiết tha, những nét đẹp rất
riêng của Việt Nam.
Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm 1987. Năm 1996 ông được nhà nước
Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).
1.2.2 Phong cách văn học
Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc.
Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể
thâu tóm trong một chữ "ngông”.

8


Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài
hoa uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được
quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật.
Trước Cách mạng tháng Tám, ông đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại và
ông gọi là Vang bóng một thời. Sau Cách mạng, ông không đối lập giữa quá khứ,
hiện tại và tương lai. Văn Nguyễn Tuân bao giờ cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ kính,
vừa trẻ trung hiện đại.
Nguyễn Tuân học theo "chủ nghĩa xê dịch". Vì thế ông là nhà văn của những
tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong
cảnh tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội...
Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu thiên nhiên tha thiết. Ông có nhiều
phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi sông cây cỏ trên đất nước mình. Phong

cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân
tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu.
Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ
văn học Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi
quan trọng. Ông vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương diện văn hóa
nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở cả nhân
dân đại chúng. Giọng khinh bạc thì chủ yếu chỉ để ném vào kẻ thù của dân tộc hay
những mặt tiêu cực của xã hội.
1.2.3 Quá trình sáng tác và các đề tài chính
Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công
ngay từ những tác phẩm đầu tay. Ông đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút kí,
truyện ngắn hiện thực trào phúng. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra
9


sở trường của mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm: Một chuyến đi, Vang
bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua...
Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay quanh ba
đề tài: "chủ nghĩa xê dịch", vẻ đẹp "vang bóng một thời", và "đời sống truỵ lạc".
Nguyễn Tuân đã tìm đến lý thuyết "chủ nghĩa xê dịch" này trong tâm trạng bất mãn
và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về "chủ nghĩa xê dịch", Nguyễn Tuân lại có
dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh sắc và phong vị của đất
nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi bút đầy trìu mến, yêu thương và tài hoa
(Một chuyến đi).
Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của quá khứ
còn "vang bóng một thời". Ông mô tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong
tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã. Tất cả được thể hiện
thông qua những con người thuộc lớp người nhà Nho tài hoa bất đắc chí, tuy đã
thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân (như Huấn Cao Chữ

người tử tù).
Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài đời sống truỵ lạc. Ở những tác phẩm này,
người ta thường thấy có một nhân vật "tôi" hoang mang bế tắc. Trong tình trạng
khủng hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc,
phàm tục niềm khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao (Chiếc lư đồng mắt
cua).
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông chân thành đem ngòi bút phục vụ
cuộc chiến đấu của dân tộc, nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ trên
cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc
đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và
đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân lao động trong chiến
đấu và sản xuất.
10


CHƯƠNG 2. CHỦ NGHĨA DUY MĨ TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN
TUÂN

2.1 Chủ nghĩa duy mĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân qua hai giai đoạn
2.1.1 Chủ nghĩa duy mĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân trong giai đoạn 1930 1945
2.1.1.1 Nội dung
Trong sáng tác của Nguyễn Tuân giai đoạn 1930 - 1945, tập truyện ngắn
Vang bóng một thời đã thể hiện một cách thành công đặc điểm ngòi bút của ông.
Nhà văn đã quy hồi quá khứ để tái tạo vẻ đẹp của các mẫu hình con người. Trong
các tác phẩm của Nguyễn Tuân, con người văn hoá đồng hiện cùng không gian lịch
sử cổ xưa. Nguyễn Tuân tìm về với vẻ đẹp của một thời vang bóng mà chỉ ở đó tâm
hồn nghệ sĩ của ông mới được dạo bước một cách thoải mái và tự tin trong cuộc săn
tìm và ngợi ca cái đẹp.Với nhà văn, cái đẹp của quá khứ là cái đẹp của những con
người nghệ sĩ, thuần thục và tài năng.
Trong quan niệm của Nguyễn Tuân, con người tài hoa, tài tử với một nhân

cách tiêu biểu là hiện thân cho cái đẹp của một thời vang bóng đã qua. So với thời
cuộc hiện tại đầy ô trọc thì những mẫu hình con người tài hoa, tài tử được Nguyễn
Tuân khắc hoạ mang một ý niệm riêng cùng giá trị tinh thần, văn hoá sâu sắc.
Nguyễn Tuân rất trân trọng cái đẹp. Ông luôn nhìn con người và cuộc đời dưới góc
độ thẩm mỹ. Qua đó, người đọc thấy được những phát hiện tinh tế, sắc sảo, tìm ra
những nét tương phản giữa cái thẩm mỹ và phản thẩm mỹ.
Với tư cách là một nhà văn theo chủ nghĩa duy mĩ, Nguyễn Tuân khẳng định
giá trị cái đẹp chỉ là nhằm thoả mãn cảm giác chủ quan hơn là quan tâm đến hiện
thực đời sống như: “Mỹ thuật vốn không là bà con với luân lý của thời đại. Một
thằng ăn cắp đã trở nên đẹp đẽ vô cùng khi hắn cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh”.
11


Với thú thưởng trà thì Nguyễn Tuân đã xây dựng hình tượng cụ Ấm với hành động
“chủ nhân phải tự tay mình chế nước, nhất nhất cái gì cũng làm lấy cả, không dám
nhờ đến người khác, sợ làm như thế thì mất hết cả thành kính” chính vì vậy mà
“trong ấm trà pha ngon, người ta nhận thấy có một mùi thơ và một vị triết lý”. Dưới
con mắt của Nguyễn Tuân thì cụ Ấm là một con người tài hoa, là một người sáng
tạo ra cái đẹp khi cụ nhúng đá cuội vào nồi kẹo rồi đặt nó vào lòng chậu hoa một
cách nhẹ nhàng hay cái khéo léo của cụ Ấm khi đảo tàn than trong hoả và nhỏ một
chút nước xuống đất để thử độ sôi của nước. Để từ đây, ta nhận thấy được hành
động thưởng trà của cụ Ấm là một cái đẹp của một con người tài hoa mà “chỉ có
những người tao nhã, cùng một thanh khí, mới có thể cùng nhau ngồi bên một ấm
trà”. Viết về những con người của một thời đã qua và về những thú chơi cũng của
một thời đã qua có lẽ vì thiên về hướng đó nên nhân vật chính trong đa số truyện
ngắn của tập truyện này đều là những cụ già, những vị quan về hưu an hưởng tuổi
già bên thú điền viên, bên thú chơi lan, bên tách trà với viên kẹo thạch lan hương
ngày Tết, bên những người bạn thơ, bên chiếc lồng đèn kéo quân cho con cháu vui
trung thu,… Rõ ràng tất cả những điều đó ít nhiều đều đượm hương quá khứ, đều
như một nhắc gợi khẽ khàng cho tất cả những ai ít nhiều có nặng lòng với một thời

vàng son của văn hoá dân tộc. Nguyễn Tuân đã thể hiện sự phủ định hiện thực bằng
việc trở về tìm những đẹp xưa của một thời vang bóng. Ông ngợi ca những thú chơi
thanh tao: thả thơ, đánh thơ, uống trà, chơi hoa,… Nguyễn Tuân đưa chúng ta về lối
sống của người xưa và bản thân ông cũng đắm chìm trong những vẻ đẹp ấy trong
sự tiếc nuối, ngậm ngùi cho một cái gì đã mất hút vào xa xưa. Có thể thấy những
thú vui ông thường nhắc đến là: thú ẩm thực (thưởng thức hương cuội, uống trà,
nhắm rượu), thú chơi đàn, thú đánh cờ, thú vui thi ca (làm thơ, ngâm thơ, xướng
hoạ, thả thơ, đánh thơ,...), thú chơi hoa kiểng. Tất cả những thú vui này đều có nét
chung đặt biệt: chúng đều là thú vui truyền thống của cha ông, là những giá trị tinh
thần của một thời đã qua, đã mất và không quay lại được. Nguyễn Tuân chỉ chú ý
12


đến giá trị tinh thần của chúng, đến cảm xúc thẩm mĩ mà chúng mang đến cho
người tiếp nhận, đến khả năng bồi dưỡng tâm hồn cho con người.
Về ẩm thực, ông chỉ nhắc tới sự hài hoà, hoà hợp cả bề nổi và bề sâu của món ăn,
tức là chỉ tiếp cận linh hồn của chúng. Đối với Nguyễn Tuân, món ăn thức uống cái mà người ta cho là bình thường, thậm chí tầm thường - luôn gợi lên trong ông
cảm xúc thẩm mĩ mà ít ai có được. Viết về ẩm thực hay về các thú vui khác, dưới
ngòi bút Nguyễn Tuân không bao giờ có sự “đại trà” như thế. Tiêu chí để ông chọn
lựa không phải là ngon, là lạ, mà là “thú”. Cái đẹp của chuyện ẩm thực trong văn
Nguyễn Tuân không chỉ nằm ở đồ ăn, cách ăn, người ăn, không khí của bữa ăn mà
còn nằm ở chất văn hoá trong từng miếng ăn. Đối với Nguyễn Tuân, cái đẹp của
bữa ăn có lẽ chính là cái đã tạo nên cảm xúc nơi người thưởng thức. Ít nhất, bữa ăn
đó phải có sự hài hoà nội tại: “Cơm dọn có rất nhiều mắm Huế. Và mấy đĩa chuối
chát, rau thơm và dưa món. Đã một đĩa ớt xanh, lại một đĩa ớt đỏ.Trông vui mắt
lạ.Nếu dùng bữa cơm này làm mẫu để vẽ một bức hoạ tĩnh vật thì cái giá trị bài trí
của mâm cơm thực là hoàn toàn”.Đây là bữa cơm mà ông huyện Cẩm Phả đãi Bạch
và Hồ (Thiếu quê hương) nơi miền núi hẻo lánh trong đêm gió rét. Thức ăn không
phải nem công chả phượng nhưng màu sắc rất đẹp, hài hoà và cân đối. Người phụ
nữ Huế nổi tiếng với tài bếp núc, nhất là món mắm Huế trứ danh.Loại mắm nào

màu sắc cũng tươi, không phải đều đỏ tươi nhưng là sắc tươi trong màu của chúng.
Hẳn món mắm Huế trong bữa cơm này cũng có sắc tươi như thế, cộng thêm màu
của chuối chát, của rau thơm, của dưa món, của ớt xanh ớt đỏ. Bữa cơm giản dị
nhưng màu sắc dễ làm no mắt người biết thưởng thức.
Như vậy, một bữa ăn đẹp trước hết phải là một bữa ăn hài hoà về màu sắc, có sự
hoà hợp giữa các món ăn. Bên cạnh đó, cách ăn cũng là một trong những yếu tố tạo
nên bữa ăn đẹp. Ở đây Bạch đã nhìn ra cái đẹp của đồ ăn, và cũng chính anh nhận
ra cái không đẹp trong cách ăn của bạn. Chỉ vì không dùng được món mắm mà Hồ
đã làm bận lòng cả Bạch lẫn ông huyện, một kiểu “làm nũng” không đúng chỗ.
13


Cách ăn không đẹp của Hồ đã làm hỏng cái đẹp của bữa ăn. Nguyễn Tuân rất tinh
tế khi đặt vào tác phẩm chi tiết này. Một bữa ăn đẹp đâu phải chỉ cần đồ ăn đẹp mà
cách ăn cũng phải thanh lịch. Và vẻ đẹp ở con người nhiều khi cũng thể hiện ở
ngay cái cách chúng ta cầm đôi đũa bắt đầu một bữa cơm. Trong nghệ thuật ẩm
thực của mình, Nguyễn Tuân không chỉ chú ý đến đồ ăn, không khí bữa ăn, cách ăn
mà còn có quan niệm rất rõ ràng về người ăn… Như vậy, với Nguyễn Tuân, cái đẹp
của thú ẩm thực không chỉ hiện diện trên cái vỏ vật chất bên ngoài của thức ăn mà
còn ở cái đẹp bên trong, cái đẹp của văn hoá, của nhân cách con người, cái đẹp của
sự hài hoà giữa người và người.
Đánh đàn là một trong những thú vui mà Nguyễn Tuân quan tâm khá nhiều trong
tác phẩm của ông trước cách mạng. Nếu việc trồng hoa lan, uống trà tàu hầu như
chỉ dành cho những người lớn tuổi, đa phần là những vị quan bỏ chốn quan trường
về vui thú điền viên, thì đánh đàn và thưởng thức tiếng đàn trong văn Nguyễn Tuân
không giới hạn riêng cho đối tượng nào cả. Chàng công tử rất trẻ mang dáng dấp
một tráng sĩ (Vườn xuân lan tạ chủ) cũng di dưỡng tính tình bằng đàn thập lục.
Những người tham gia cuộc đánh thơ do cụ Nghè Móm khởi xướng cũng không lúc
nào chịu thiếu tiếng đàn của một người con gái (Thả thơ).Anh chàng thèm đi trong
một lần phiêu lưu tận Hương Cảng vẫn nhận ra tiếng đàn tam thập lục giữa tiệc

rượu ồn ào ngập mùi “rượu nồng dê béo” (Một chuyến đi). Một người nghệ sĩ rất
trẻ như Xuân (Một người muốn đập vỡ đàn) cũng thiết tha với loại hình nghệ thuật
này… Giữa xã hội ồn ào ô tạp lúc bấy giờ, tiếng đàn trong trẻo vẳng lên từ những
trang văn của Nguyễn Tuân đã là một sự hiếm, cũng là một niềm an ủi cho những
ai không hoà nhập được với cuộc sống nhưng cũng không thể thoát ra khỏi nó.
Giống như một cách giữ tâm an trước cái bát nháo của đời. Cái hay, cái đẹp, cái
đáng quý của thú vui này là nó thanh lọc tâm hồn con người, kìm giữ con người
khỏi rơi vào vũng bùn ô tạp của xã hội…

14


Có lẽ, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, khi mà xã hội vàng thau lẫn lộn, khi mà
bản thân người nghệ sĩ chưa tìm đến được với ánh sáng cách mạng, thì với người
nghệ sĩ từng thấm nhuần cách giáo dục truyền thống như Nguyễn Tuân, quá khứ
vàng son của những thú chơi, những con người thanh bạch như là một cứu cánh để
tâm hồn ông khỏi rơi vào những truỵ lạc ở đời. Nguyễn Tuân đã tập trung ngòi bút
của mình vào cái đẹp tài hoa giữa lòng cuộc sống.Ông đã miêu tả những con người
mà với ông đó là những nghệ sĩ điêu luyện, những con người tuyệt kĩ.Ông đã
thưởng thức những thú vui tao nhã, cổ xưa của truyền thống dân tộc với một đôi
mắt rất riêng, với một cách cảm rất đặc biệt. Có lẽ chỉ đến với Nguyễn Tuân và
thông qua cảm giác chủ quan của Nguyễn Tuân độc giả mới có cơ hội được tiếp
xúc với những nếp sống cũ, những nghệ thuật cổ thanh cao của một nền văn minh
xưa cũ. Quá khứ trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân là “một thời”, không có thời
gian cụ thể chỉ biết là dĩ vãng, là “một thời vang bóng”. Điều này còn thể hiện nỗi
niềm tiếc nuối, hoài niệm cái đẹp của nhà văn.
Nguyễn Tuân miêu tả cái đẹp thuần túy. Cái đẹp nghệ thuật đứng trên mọi
thứ thiện ác ở trên đời. Chính mở đầu Vang bóng một thời với truyện ngắn Bữa
rượu máu đã cho ta thấy được hình ảnh Bát Lê chém “treo ngành” với tài “chém
đầu người chỉ một nhát mà đầu vẫn dính vào cổ bằng lần da gáy”. Dưới con mắt

của nhiều người thì đây là một hành động dã man, vô nhân tính nhưng đối với
Nguyễn Tuân thì “chém treo ngành” là cái nghề mà “không thể truyền cho một
người nào được” của Bát Lê là cái đẹp và thể hiện được Bát Lê là một con người tài
hoa. Hay là hình ảnh của một thằng ăn cắp mà nhà văn dành riêng hai chữ “rất gọn”
và “rất nhanh” để miêu tả hành động “khi hắn cắt túi người ta”. Cái đẹp mà Nguyễn
Tuân nhắc đến chỉ đơn thuần là cái đẹp như bản chất của nó. Ở đó, những con
người nghệ sĩ chỉ đơn giản là tập trung cao độ vào công việc của bản thân, hoàn
thiện mình đến độ thuần thục và đạt đến tuyệt kĩ. Ở ngòi bút của Nguyễn Tuân ông
nhất nhất tôn thờ cái đẹp. Cái đẹp của Nguyễn Tuân không đồng nhất với cái tốt,
15


xấu của đạo đức, của phẩm chất con người. Cái đẹp trong quan điểm của Nguyễn
Tuân đơn giản chỉ là cái đẹp thuần túy, cái đẹp tuyệt đích, tuyệt kĩ.
Song Nguyễn Tuân không hẳn chỉ dừng lại ở vẻ đẹp của tài năng mà ông
cũng đã không ít lần hướng đến nhân cách, thiên lương của con người. Trong
truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã xây dựng một thế giới đối lập với
những nhân vật hoàn toàn khác biệt nhưng cùng chung sự trân quý cái đẹp. Đó là
Huấn Cao - người đại diện cho cái đẹp nhưng lại bị gông xiềng. Đó là viên quản
ngục người phải sống chốn bùn lầy với những mánh khóe của một người cai trị tù
nhân nhưng vẫn thiết tha bảo vệ cái đẹp bằng một tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và
thiên lương cao cả. Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thấy được một cái đẹp rất khác.
Đó không chỉ là cái đẹp của những tay nghề, của những thú vui mà cái đẹp có số
phận, cái đẹp mong manh và có thể bị tiêu diệt. Cái đẹp của nét chữ tài hoa Huấn
Cao được con người như viên quản ngục và thầy thơ lại cảm mến, tôn vinh và khao
khát bảo vệ càng khiến cho cái đẹp trở nên thăng hoa và giá trị. Trong ngục tối, nơi
gian ác, xấu xa và hôi hám nhưng cái đẹp, cái tài, sự trong sạch của tâm hồn vẫn
gặp gỡ: “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi trên ba cái đầu người đang
chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”.
2.1.1.2 Nghệ thuật

Với sự tài hoa uyên bác của mình, Nguyễn Tuân đã tạo dựng nên những chi
tiết nghệ thuật độc đáo với hình tượng thiên nhiên và sự vật ở phương diện văn hoá
thẩm mĩ. Đó là những giá trị văn hoá dân tộc ở một thời quá vãng nhưng đã được
Nguyễn Tuân tạo dựng lại không gian văn hoá vô cùng sinh động. Cùng với sự tài
nghệ trong việc xây dựng các hình tượng nhân vật ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ
đã làm cho nhân vật thể hiện được cái tài nghệ, tài hoa của mình.Từ những tài
nghệ, tài hoa ấy đã kiến tạo nên những cái đẹp, cái tài rất riêng mà không thể lẫn
vào đâu được.
16


Với vốn từ vựng phong phú của mình, Nguyễn Tuân đã sử dụng linh hoạt các
con chữ trong tác phẩm để tạo nên một phong cách ngôn ngữ nghệ thuật rất riêng
mang dấu ấn cá nhân đậm nét. Đặc biệt Nguyễn Tuân đã sử dụng những từ ngữ cổ,
từ hán để nói về một thời đại văn hoá của dân tộc Việt, chính vì sự uyên bác của
mình, ông đã làm sống dậy những giá trị văn hoá mang tâm thức của cái đẹp, sự tài
hoa uyên bác. Bên cạnh đó, trong các tác phẩm của mình, Nguyễn Tuân còn sử
dụng một số lượng lớn các từ láy. Nhờ lớp từ này, nhà văn có thể bày tỏ cảm xúc,
tâm tình một cách dễ dàng.Từ đó, tạo nên giọng văn Nguyễn Tuân tha thiết với câu
văn giàu nhịp điệu, giàu âm thanh. Có thể nói, việc sử dụng từ láy đã chứng tỏ khả
năng vận dụng ngôn ngữ tuyệt vời và sáng tạo của Nguyễn Tuân.
Trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước cách mạng, ông sử dụng nhiều biện
pháp tu từ, trong đó phép so sánh tỏ ra rất đắc dụng. Trong tác phẩm của Nguyễn
Tuân, biện pháp so sánh thực sự là một công cụ nghệ thuật độc đáo, không chỉ giúp
thể hiện ý tưởng, nội dung mà còn góp phần quan trọng tạo nên vẻ đẹp của cả chỉnh
thể nghệ thuật. Khi cần so sánh, nhà văn luôn có ý thức sáng tạo nên những hình
ảnh liên tưởng, đối sánh tạo nên sự phong phú và hấp dẫn cho câu văn.
2.1.2 Chủ nghĩa duy mĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân trong giai đoạn sau
1945
2.1.2.1 Nội dung

Sau năm 1945 thì sáng tác của Nguyễn Tuân có một sự chuyển biến rõ rệt về
nội dung, tư tưởng. Ông đã chuyển mình trên địa hạt văn học từ thể loại truyện
ngắn sang thể kí. Thể kí là thể loại phát triển mạnh mẽ trong thời kì xã hội có nhiều
biến động. Nó phản ánh sự việc và con người trong cuộc sống với tính chính xác
cao. Chính vì vậy mà thể kí rất phù hợp với tính cách của Nguyễn Tuân trong giai
đoạn này. Nguyễn Tuân chia tay với mảnh đất chỉ còn “vang bóng một thời” và ông
bắt đầu thực hiện dấn thân với những chuyến xê dịch, rong ruổi dài ngày. Sự lột xác
của Nguyễn Tuân trong giai đoạn này là kết quả của niềm tin về sự tốt đẹp, tin yêu
17


và lạc quan yêu đời. Ông không ngừng khát khao “đi tìm những định thức rung
động cho đúng nhịp với đời sống cao rộng”. Chính vì vậy mà sự ra đời của các tác
phẩm như Tuỳ bút kháng chiến (1955), Tuỳ bút sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mĩ
giỏi (1972), Cảnh sắc và hương vị đất nước (1988),...đã khẳng định được tài năng
văn chương của ông trước những biến động của xã hội, ông đã bắt kịp, hoà điệu
cùng với nó để tạo sinh ra những tác phẩm có giá trị.
Với hai tập tùy bút Đường vui (1949) và Tình chiến dịch (1950) Nguyễn
Tuân đã thể hiện một con người mới, với niềm tin vào lí tưởng Đảng và dấn thân
vào con đường chiến dịch. Khát vọng tìm kiếm cái đẹp chưa bao giờ ngừng nghỉ
trong hành trình của nhà văn. Ở giai đoạn này, Nguyễn Tuân đã khai thác một cách
sâu sắc hiện thực cuộc sống, khám phá những chất liệu đời thường với một niềm
hạnh phúc vô biên. Bằng tình yêu chân thành đối với quê hương, nhà văn đã bày
biện một những trang văn vô cùng sinh động về “hương vị và cảnh sắc đất nước”
qua hàng loạt các tùy bút: Phở, Cây Hà Nội, Con rùa thủ đô,…
Trong giai đoạn sau năm 1945 thì nội dung tư tưởng của Nguyễn Tuân vẫn
hướng đến những mẫu người tài hoa nghệ sĩ nhưng đó là những con người lao động
bình thường trong mọi tầng lớp xã hội. Bên cạnh đó, với kiến thức về địa lí, xã hội,
hội họa,… Nguyễn Tuân đã đi khai phá những cái đẹp có trong tự nhiên, những cái
đẹp mang tính to lớn và hùng vĩ. Như Vương Trí Nhàn đã viết: “Đi đến đâu, ông

cũng tìm thấy những nét đẹp, đẹp trong cảnh sắc thiên nhiên, và nhất là đẹp trong
hình ảnh con người vượt qua gian khổ khẳng định ý chí của mình”. Như trong tuỳ
bút Người lái đò sông Đà hình ảnh ông lái đò hiện lên là một con người nghệ sĩ tài
hoa với tay lái ra hoa của mình hoà trong khung cảnh con sông Đà hùng vĩ với hai
thuộc tính vừa hung bạo nhưng cũng rất trữ tình. Là một người lao động từng trải,
có nhiều kinh nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và
cả sự quyết đoán, ông lái đò đã phải vượt qua các thạch trận, những xoáy nước trên
sông Đà. Nguyễn Tuân đã xây dựng nhân vật ông lái vào một hoàn cảnh khốc liệt
18


để từ đó mới bộc lộ hết phẩm chất của con người tài hoa trong lao động. Người lái
đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ
lao động mà chinh phục được dòng sông dữ và trở nên lớn lao, kì vĩ. Nhờ ý chí
kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên.
Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã
ca ngợi những chiến tích trong lao động, ông cho rằng: “đồng tiền tụ máu cũng là
hình ảnh quí giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò
sông Đà”. Đây là cách so sánh thể hiện tình cảm yêu quí và lòng trân trọng của tác
giả với người lái đò sông Đà.
Hành trình đi và viết của nhà văn Nguyễn Tuân với đề tài đấu tranh bảo vệ
Tổ quốc đã để lại nhiều tác phẩm giá trị như: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972),
Ký(1976), Hương vị và cảnh sắc đất nước (1978). Hăng hái tham gia vào công
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, Nguyễn Tuân đã làm giàu thêm cho những
sáng tác của mình và bổ sung một cách trọn vẹn bức tranh cuộc sống và những
tháng ngày lịch sử hùng hồn của dân tộc. Ngay từ cách đặt tên tùy bút Hà Nội ta
đánh Mĩ giỏi, chúng ta cũng đã nhận thấy sự mộc mạc, giản dị và quen thuộc.
Nguyễn Tuân đã tìm đến với vùng chiến sự để ghi chép lại những diễn biến của
cuộc kháng chiến. Ông đã đặt bút để miêu tả lại những gì mình được nghe, được
thấy ở thủ đô.Với những tháng ngày lịch sử, không gì quý giá bằng tinh thần và ý

chí kiên cường của con người. Với ngòi bút đam mê và nhiệt huyết của mình, nhà
văn Nguyễn Tuân đã mang đến cho bạn đọc một bức tranh thật sống động về công
cuộc chống Mỹ của nhân dân ta. Từ đó, bóc trần tội ác của kẻ thù và góp phần động
viên quần chúng trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
2.1.2.2 Nghệ thuật
Nguyễn Tuân là một bậc thầy trong thể loại kí nên tác giả đã khai thác mặt
mạnh của kí để miêu tả dòng sông, đặc biệt là phần khảo cứu, tìm hiểu sông Đà từ
ngọn nguồn về mặt lịch sử, địa lí và sinh hoạt ở hai bờ sông. Tác giả đã đem lại một
19


kiến thức về sông Đà cho người đọc khi tiếp cận tác phẩm.Bên cạnh đó, ông đã
miêu tả trực tiếp với những hình ảnh khắc hoạ khi ông miêu tả thạch trận.Trên mặt
sông nổi lên những tảng đá chắn ngang, chắn dọc, những pháo đài đá mà người lái
đò phải vượt qua. Nguyễn Tuân đã nhân cách hoá xem chúng như những tên giặc
đang dàn bày thế trận sẵn sàng giao chiến với người lái đò “Mặt hòn đá lúc nào
cũng trông ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhó, méo mó”. “Những hòn đá bệ vệ oai
phong lẫm liệt, hòn thì như thách thức với người lái đò”
Nguyễn Tuân đã kết hợp, vận dụng một cách nhuần nhuyễn lối miêu tả văn
học với điện ảnh khi tả viễn cảnh, cận cảnh, kết hợp miêu tả âm thanh. Hay khi
miêu tả cảnh vật lộn trên sông nước như một trận đánh và ông sử dụng nhiều từ
ngữ về quân sự, về võ thuật như “đánh khuýp, quật vu hồi, đánh giáp lá cà, đánh
thúc gối…”. Tác giả cũng đã sử dụng những từ ngữ cổ xưa để gợi không khí trang
nghiêm như “bờ tiền sử”, “bờ sông hoang dài”, “niềm cổ tích xưa”, rồi những từ
ngữ gợi màu sắc như “xanh ngọc bích” “sông Đà lừu lừ chín đỏ”.
Nhận xét về giọng điệu tùy bút trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân sau giai
đoạn 1945 là sự đa dạng, phong phú với nhiều sắc thái tình cảm. Có lúc nhà văn thể
hiện giọng điệu triết lý, lịch lãm nhưng cũng có lúc đó là giọng điệu đằm thắm,
thiết tha. Đọc những câu văn của Nguyễn Tuân người đọc có cảm tưởng như một
khúc ngân của một bài thơ ngọt ngào và dịu êm. Dường như không gian xinh đẹp

của thiên nhiên đất nước, sự hùng vĩ của đất trời đã khiến lòng người càng thêm
miên man. Cảm xúc của nhà văn như được chảy trôi vô biên tạo nên những âm điệu
du dương, tha thiết.
Với tài năng trong việc vận dụng các thủ pháp nghệ thuật kết hợp với vốn từ
vựng phong phú, các sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân trau chuốt đến từng dấu
câu, từng con chữ. Ông đã dùng ngôn ngữ đặc sắc của mình để ngợi ca tổ quốc,
ngợi ca những người lao động thầm lặng vẫn ngày đêm âm thầm cống hiến và làm
đẹp cho quê hương.
20


2.2 Nguyễn Tuân - nhà văn của chủ nghĩa duy mĩ riêng biệt
2.2.1 Quá trình lột xác chủ nghĩa duy mĩ giữa hai giai đoạn
Trước cách mạng tháng Tám, các sáng tác của Nguyễn Tuân chủ yếu xoay
quanh ba đề tài: “Chủ nghĩa xê dịch”, vẻ đẹp “Vang bóng một thời” và đời sống
trụy lạc. Với cá tính ngông cùng với sự bất mãn, bất lực trước thời cuộc, đã khiến
Nguyễn Tuân tìm lối thoát trong cái lối giang hồ, xê dịch, xu hướng thoát li hiện
thực, hoài cổ.Trong giai đoạn khủng hoảng tinh thần, Nguyễn Tuân cũng đã viết rất
nhiều về đề tài đời sống trụy lạc.
Từ sau cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân thoát khỏi những bế tắc trong
cuộc sống và sáng tác nghệ thuật, cuộc đời đem đến cho ông một cảm hứng sáng
tạo mới. Nguyễn Tuân đến với cách mạng và kháng chiến, hăng hái đi thực tế, dùng
ngòi bút để ca ngợi đất nước và con người Việt Nam trong chiến đấu cũng như
trong lao động sản xuất. Nếu như nhân vật trung tâm trong các tác phẩm trước cách
mạng của ông là những ông Nghè, ông Cử, ông Tú, là những con người tài hoa bất
đắc chí thì ở giai đoạn này hình tượng chính trong các sáng tác của ông là nhân dân
lao động và những người chiến sĩ, những con người bình thường mà vĩ đại.
Nếu trước cách mạng tháng Tám Nguyễn Tuân luôn bi quan đối với hiện tại
và tương lai. Ông chỉ tin vào cái đẹp của quá khứ. Người tài hoa, cái đẹp luôn lạc
lõng, cô độc giữa cuộc đời phàm tục thì sau cách mạng tháng Tám ông vẫn ngợi ca

những con người tài hoa ấy, vẫn hướng đến những cái gì phi thường, mãnh liệt, vẫn
vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật để quan sát và mô tả vẫn tô
đậm phong cách và cá tính độc đáo của mình. Điều khác là tinh thần dân tộc và
lòng yêu nước được phát huy mạnh mẽ trong tác phầm của ông.Cái đẹp của người
tài hoa có thể tìm thấy trong nhân dân trên mọi lĩnh vực.
Đặc biệt, dù ở giai đoạn nào, và mức độ đậm nhạt khác nhau, vẫn thấy chứa
đựng trong những trang văn đẹp đẽ của Nguyễn Tuân là tấm lòng của một người
21


con với mẹ Việt Nam. Đó là lòng yêu mến những phong tục truyền thống của cha
ông, là cảnh sắc đất nước dọc bước đường qua, là thái độ trân trọng tiếng Việt, mà
trên hết là tình cảm tự hào dân tộc sâu sắc.
2.2.1.1 Quan điểm nghệ thuật
“Nói đến Nguyễn Tuân người ta thường nghĩ đến một nhà văn của quan
điểm duy mĩ, chỉ trọng cái đẹp hình thức không cần nội dung, chủ trương viết văn
không khuynh hướng, nghĩa là muốn đặt nghệ thuật lên trên mọi thứ thiện ác ở
đời.”. Quan điểm nghệ thuật về cái đẹp của Nguyễn Tuân không bao gồm chân và
thiện, đẹp chưa hẳn phải có đạo đức. Cái đẹp đẹp bởi vốn dĩ sinh ra nó đã là một
thứ để người ta ngưỡng mộ. Các nhân vật của ông trước cách mạng là những con
người tài hoa, dù tĩnh hay là xê dịch thì với họ, cuộc sống này họ chỉ là những con
người sống tạm, ở nhờ, những con người được sinh ra chỉ để ngắm đời và để trổ tài,
… chứ không chịu gánh vác một trách nhiệm nào với xã hội.
Cái tôi trước cách mạng tháng Tám của Nguyễn Tuân về căn bản là cái tôi cá
nhân chủ nghĩa có phần xa rời với xã hội hiện tại. Với ông, giá trị ngòi bút là ở bản
ngã người nghệ sĩ có độc đáo hay không. Nguyễn Tuân đã từng vẽ ra mình như một
con người cô độc mà kiêu ngạo: “Rồi tôi vẫn vênh váo đi giữa cuộc đời như một
viễn khách không có quê hương nhất định, cái gì cũng ngờ hết, duy chỉ có tin chắc
ở cái kho cái vốn tình cảm và cảm giác của mình” (Tóc chị Hoài). Nhưng thực tế
mà nói đó là một nhân cách, một tâm hồn chưa bao giờ hoàn toàn đóng kín với

cuộc đời.
Sau cách mạng, Nguyễn Tuân không đối lập giữa xưa và nay mà tìm thấy sự
gắn bó giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, “ông thấy cái có thật bây giờ đẹp, và cái
đẹp bây giờ có thật trong cuộc đời” (Nguyễn Đình Thi). Tầm mắt của ông mở rộng
hơn: Cái đẹp không chỉ có trong quá khứ mà còn có thật trong cuộc sống hiện tại;
còn chất tài hoa nghệ sĩ cũng không chỉ có trong lớp người đặc tuyển của thời xưa
cũ mà còn có thể tìm thấy trong đại chúng nhân dân, ở những người bình thường
22


nhất như ông lái đò, anh bộ đội, chị dân quân,... Cái khiến giác quan người nghệ sĩ
chấn động giờ đây là những thành tích của nhân dân trong chiến đấu và sản xuất.
2.2.1.2 Chủ thể thẩm mĩ
Nguyễn Tuân thực sự là một chủ thể thẩm mĩ đặc biệt, với cung cách một
chủ thể xã hội có khả năng, vai trò, vị thế của người biết thưởng thức, sáng tạo,
đánh giá và định hướng thẩm mĩ. Đôi lúc nhà văn còn bao quát nhiều biểu hiện và
năng lực thẩm mĩ.Cốt cách bắt nguồn từ mạch nguồn tài hoa nghệ sĩ cùng với bản
lĩnh đã giúp Nguyễn Tuân vượt lên trên tất cả để chiếm lĩnh thế giới thẩm mĩ của
mình.
Biệt tài tìm kiếm và khám phá cái đẹp muôn hình, vạn trạng của Nguyễn
Tuân thể hiện rõ từ Vang bóng một thời, với vẻ đẹp xưa đến những tác phẩm ký, tùy
bút trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ (Tùy bút kháng chiến và hòa bình,
Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, Cảnh sắc và hương vị đất nước,…) chính là sự
lên ngôi của vẻ đẹp xã hội tiến bộ ngày nay. Đối tượng thẩm mĩ có sự thay đổi, mở
rộng kích thích những cảm xúc thẩm mĩ của chủ thể, chủ thể như tìm thấy sự đồng
điệu trong chính đối tượng mà mình cảm giác.
Ý thức thẩm mĩ của Nguyễn Tuân dù ở giai đoạn nào cũng đều đau đáu một
thiên hướng: tôn trọng, ca ngợi, sùng bái cái đẹp và dù cho chủ thể từng có giai
đoạn ý thức thoát li xã hội rồi lội ngược dòng trở về với cuộc sống đang diễn tiến
ngoài trang văn thì Nguyễn Tuân vẫn quan niệm: duy mĩ - duy chỉ tìm kiếm cái

đẹp.
Cảm xúc thẩm mĩ trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân là sự thống nhất
trong cả hai giai đoạn: yêu - khao khát - tôn thờ. Với mạch cảm xúc mãnh liệt như
vậy, cái đẹp hiện lên tràn trề, đầy sức sống, tự bản thân cái đẹp đã có một cuộc sống
đáng khao khát trước khi ta tìm kiếm thấy nó.

23


Với Nguyễn Tuân, quan điểm thẩm mĩ thiên về tính tư tưởng, cảm xúc thẩm
mĩ là tình cảm của chủ thể, thị hiếu thẩm mĩ lại thiên về sở thích và dưới sự tác
động của xã hội nó đã có nhiều chiều hướng thay đổi.
2.2.1.3 Bút pháp nghệ thuật
Sự duy mĩ trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân không chỉ thể hiện ở phương
diện nội dung mà còn ở cả phương diện nghệ thuật. Với một người luôn tìm kiếm
cái đẹp, Nguyễn Tuân trau chuốt cho tác phẩm của mình ở mặt hình thức, con chữ
sau khi khám phá ra cái đẹp. Trong tác phẩm của ông, dù là giai đoạn nào, cũng có
những con chữ do chính nhà văn tạo ra.Nguyễn Tuân đã góp thêm cho từ điển tiếng
Việt những từ độc nhất.Những câu chữ, hình ảnh được sử dụng trong tác phẩm có
mức độ tương thích cao nhất, đó là từ ngữ, hình ảnh đắc địa.Quan niệm cái đẹp
luôn có vị thế cao nhất, độc đáo nhất đã thể hiện rõ nét trong nghệ thuật thể hiện
của tác giả.
2.2.2 Chủ nghĩa duy mĩ khác biệt với các tác giả cùng thời
Các tác giả theo khuynh hướng lãng mạn ở Việt Nam những năm 1932 1945, mỗi người có cách nhìn hiện thực khác nhau, cốt sao thể hiện được cảm xúc
và cái tôi mãnh liệt đang tràn trề trong người văn. Nhưng tựu chung lại vẫn là hai
khuynh hướng: thoát li hiện thực và bám trụ hiện thực. Thoát li hiện thực có chiều
hướng quay về quá khứ và tìm kiếm cái gì đó mông lung trong tương lai. Trong
chiều hướng này, Nguyễn Tuân gặp gỡ Huy Cận, Chế Lan Viên,… Nhưng nếu Huy
Cận cảm nhận quá khứ bằng nỗi sầu, Chế Lan Viên tìm về một cõi ma mị thì
Nguyễn Tuân chỉ cốt tìm cái đẹp, cái đẹp tỏa sáng từ quá khứ, truyền thống với thái

độ trân trọng, độc tôn và ca ngợi sự thiên lương ngàn đời của nó.
So với các nhà văn lãng mạn cùng thời như Thạch Lam, Khái Hưng,… thì
Nguyễn Tuân được xem là nhà văn có tài hoa, uyên bác và được biết đến như là nhà

24


văn của chủ nghĩa duy mĩ. Bởi lẽ những sáng tác của ông chỉ toàn là đề cao cái đẹp
duy nhất, cái đẹp xuất hiện trong mọi hoàn cảnh và vượt trên mọi hoàn cảnh.
Nguyễn Tuân là nhà văn sáng tác vắt qua hai giai đoạn, trước và sau cách
mạng tháng Tám, nhưng dù ở giai đoạn nào Nguyễn Tuân vẫn thể hiện được sự tài
hoa nghệ thuật của mình, điều mà không phải tác giả nào cũng làm được. Xuân
Diệu cũng sáng tác ở trước và sau cách mạng tháng Tám, từ vị thế của một nhà thơ
mới nhất trong các nhà Thơ Mới, yêu cuộc đời, khao khát cuộc đời trần thế trở
thành một tác giả thấm được tư tưởng của cách mạng, gắn bó đời sáng tác của mình
với nhân dân, với kháng chiến, nhưng dường như với hồn thơ dào dạt Xuân Diệu sự
chuyển dịch này có phần trật khớp. Nguyễn Tuân khi tìm đến với cuộc sống, cách
mạng, nhân dân đã có sự lột xác, ngọn lửa nghệ thuật có dịp được đốt cháy.
Đối với các tác giả theo khuynh hướng hiện thực, Nguyễn Tuân với họ có sự
khác biệt trên rất nhiều phương diện, nhưng khi xã hội có nhiều sự chuyển biến
chấn động, ý thức của người nghệ sĩ đều được quy về một mối. Từ trước cách mạng
tháng Tám, Nam Cao đã là một cây bút hiện thực chủ nghĩa, có ý thức sâu sắc về
trách nhiệm xã hội và khuynh hướng nghệ thuật của mình (Trăng sáng, Đời thừa,...
là những tuyên ngôn nghệ thuật chủ yếu của ông). Tác phẩm của Nam Cao chủ yếu
xoay quanh đề tài người nông dân nghèo và trí thức nghèo. Cả hai đề tài này vốn
không có gì mới lạ đối với văn học nước ta từ những năm 1920, tuy nhiên Nam
Cao đã có những khám phá mới rất độc đáo, đúng như yêu cầu ông đặt ra cho một
nhà văn chân chính: “...khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa
có” (Đời thừa). Trong khi đó, Nguyễn Tuân lại viết về ba đề tài: chủ nghĩa xê dịch
(đi không mục đích, đi để thay đổi thực đơn cho giác quan); “vang bóng một thời”

(dựng lại vẻ đẹp xưa với những thú chơi tao nhã); đời sống trụy lạc (rượu, thuốc
phiện, ả đào). Nguyên Tuân say mê cái đẹp, suốt đời đi tìm và diễn tả cái đẹp.
Nhưng sau cách mạng tháng Tám, cả hai nhà văn đều có những chuyển biến sâu sắc
về tư tưởng và nghệ thuật. Nguyễn Tuân hăng hái tuyên bố “lột xác” và tích cực
25


×