Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Thực hành quyền công tố đối với các tội phạm về hối lộ ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 166 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ THÀNH ĐỦ

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI
CÁC TỘI PHẠM VỀ HỐI LỘ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 9.38.01.04

LUẬN ÁNTIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. ĐINH XUÂN NAM
2. TS. LÊ THÀNH DƯƠNG

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ ‘Thực hành quyền công tố đối với các tội
phạm về hối lộ ở nước ta hiện nay” đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các
số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận án chưa được công bố trong bất kỳ công
trình khoa học nào.
Nghiên cứu sinh

Võ Thành Đủ



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU........................................8
1.1. Tình hình nghiên cứu.............................................................................................8
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu ..............................................................................22
1.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu của luận án ........................................ 23
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ HỐI LỘ..........................................................26
2.1 Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội phạm hối lộ ..........................................26
2.2. Cơ sở lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố đối với các tội phạm về
hối lộ…….....................................................................................................................49
2.3. Mối quan hệ giữa Viện Kiểm sát nhân dân với Cơ quan điều tra và Tòa án
nhân dân trong thực hành quyền công tố đối với các tội phạm về hối lộ ............ 80
Chương 3: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ HỐI LỘ Ở NƯỚC TA.........................................86
3.1. Diễn biến tình hình các tội phạm về hối lộ có ảnh hưởng và tác động đến công
tác thực hành quyền công tố các tội phạm về hối lộ ...............................................................86
3.2. Hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân đối với các tội
phạm về hối lộ ..............................................................................................................90
Chương 4: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ HỐI LỘ Ở NƯỚC TA .....124
4.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành quyền công tố
các tội phạm về hối lộ...................................................................................................124
4.2. Tăng cường trách nhiệm, năng lực quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Viện
kiểm sát nhân dân các cấp đối với công tác thực hành quyền công tố các tội phạm về
hối lộ…… .............................................................................................................................. 126
4.3. Kiện toàn công tác tổ chức, cán bộ làm công tác thực hành quyền công tố các
tội phạm về hối lộ .........................................................................................................129



4.4. Tăng cường công tác tổng kết kinh nghiệm và hướng dẫn nghiệp vụ công tác
thực hành quyền công tố các tội phạm về hối lộ ..........................................................134
4.5. Triển khai thực hiện các đạo luật về tư pháp hình sự có liên quan đến hoạt
động thực hiện chức năng thực hành quyền công tố ...................................................135
4.6. Tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về
hối lộ.............................................................................................................................137
4.7. Tăng cường mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong khởi tố, điều
tra, truy tố và xét xử sơ thẩm các tội phạm về hối lộ ...................................................140
KẾT LUẬN .................................................................................................................147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ.......149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật Hình sự

TTHS

Tố tụng Hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

VKS


Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

TAND

Tòa án nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1: THỐNG KÊ CÁC TỘI PHẠM ĐÃ XÉT XỬ VỀ TỘI THAM NHŨNG
Bảng 2: THỐNG KÊ CÁC TỘI PHẠM ĐÃ XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM KHÁC VỀ
CHỨC VỤ
Bảng 3: THỐNG KÊ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN
NHẬN HỐI LỘ (Đ 279)
Bảng 4: THỐNG KÊ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN
ĐƯA HỐI LỘ (Đ289)
Bảng 5: THỐNG KÊ KẾT QUẢ ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN
MÔI GIỚI HỐI LỘ (Đ290)


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm về hối lộ là loại tội phạm truyền thống xuất hiện từ rất lâu; lịch
sử đã cho thấy đấu tranh phòng chống tội phạm hối lộ, là mục tiêu của các quốc gia

trên thế giới.Ngày nay, ở nước Tòa ántrong xu thế hội nhập quốc tế và phát
triển kinh tế thị trường,tình hình tội phạm về hối lộ diễn ra hết sức phức tạp,
tinh vi;số lượng vụ việc tội phạm ngày một tăng, mặt khác còn thể hiện tính
đặc thù cơ bản, gây nhiều khó khăn cho công tác thực hành quyền công tố.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, tội phạm về hối lộ được hiểu thống
nhất bao gồm ba loại hành vi phạm tội tương ứng với ba tội cụ thể đó là tội
nhận hối lộ thuộc các tội phạm về tham nhũng, tội đưa hối lộ và tội làm môi
giới hối lộ thuộc các tội phạm khác về chức vụ. Những quan điểm, tư tưởng
phong kiến của một bộ phận nhân dân là muốn được việc thì phải hối lộ, cán
bộ làm quan thì phải có bổng lộc. Chính những quan niệm đó đã dẫn đến một
số cá nhân kể cả cán bộ công chức khi cần giải quyết công việc cá nhân đã sẵn
sàng đưa hối lộ và những người giải quyết công việc cũng coi việc nhận hối lộ
là bình thường. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tội phạm về hối lộ xảy ra
tinh vi, rất khó phát hiện và diễn ra trong tất cả lĩnh vực đời sống xã hội.
Về phương thức thủ đoạn thực hiện tội phạm khác với các loại tội phạm
khác, tội phạm về hối lộ thể hiện ở những đặc thù cơ bản như: loại tội phạm
này diễn ra bằng lời nói và hành động trực tiếp không để lại hiện trường,
thường không có người làm chứng, tội phạm diễn ra nhanh chóng; của hối lộ là
tài sản, tiền bạc hoặc các lợi ích khác được chuyển giao bằng nhiều hình thức
tinh vi. Mặc khác đối tượng lại lợi dụng sự thiếu đồng bộ của pháp luật để
phạm tội … dẫn đến việc phát hiện, thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh tội
phạm gặp rất nhiều khó khăn. Ngay cả trường hợp tội phạm bị bắt quả tang,
các đối tượng phạm tội vẫn chối tội vì có sự đồng thuận của các đối tượng.

1


Các yếu tố có tính đặc thù của loại tội phạm đã tác động và ảnh hưởng
mạnh mẽ đến công tác điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này. Là cơ quan
do Quốc hội thành lập và thừa hành quyền lực từ Quốc hội, VKSND được

Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho trọng trách phối hợp với các cơ quan
chức năng trực tiếp đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm nói chung và tội
phạm về hối lộ nói riêng trên địa bàn cả nước, đồng thời tham mưu với Đảng,
Nhà nước đề ra chủ trương, biện pháp đấu tranh mạnh mẽ và phòng, chống
hiệu quả đối với tội phạm về hối lộ, góp phần quan trọng nhằm thực hiện công
cuộc đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội ở nước Tòa án. Trong những năm
vừa qua, toàn ngành Kiểm sát đã phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng
tấn công mạnh mẽ và có hiệu quả vào các tội phạm tham nhũng nói chung, tội
phạm về hối lộ nói riêng và đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần to
lớn trong việc giữ gìn và bảo đảm tình hình trật tự trị an, ổn định tình hình
chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội được Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi
nhận. Thực tiễn công tác thực hành quyền công tố đối với các tội phạm về hối
lộ của VKSND các cấp trong thời gian qua cho thấy đã có sự tiến bộ rõ rệt, góp
phần bảo đảm cho hoạt động điều tra, xét xử của CQĐT, TAND các cấp tuân
thủ theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã
đạt được, công tác thực hành quyền công tố đối với các tội phạm về hối lộ còn
gặp nhiều khó khăn vướng mắc và bộc lộ một số tồn tại, thiếu sót như: Công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm chưa được tiến hành đầy đủ, chưa quản lý được diễn biến tình hình
tội phạm ngay từ đầu nên dẫn tới tình trạng vẫn còn một số tố giác tin báo tội
phạm về hối lộ chưa được CQĐT kiểm tra xác minh kịp thời; chất lượng công
tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra chưa cao: thực hành quyền
công tố trong việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can chưa chặt chẽ dẫn đến còn bỏ
lọt tội phạm và người phạm tội, làm oan người vô tội. Việc phê chuẩn các
quyết định của CQĐT chưa kịp thời để xảy ra một số trường hợp lợi dụng bắt
khẩn cấp, việc bắt việc tạm giữ, tạm giam quá thời hạn quy định của pháp luật.

2



Một số Kiểm sát viên chưa bám sát tiến độ điều tra để kịp thời đề ra yêu cầu
điều tra hoặc có đề ra yêu cầu điều tra nhưng chưa đầy đủ do đó khi hồ sơ
chuyển sang VKS để truy tố mới phát hiện còn nhiều mâu thuẫn chưa được làm
rõ phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, thậm chí có một số trường hợp trong giai
đoạn truy tố Kiểm sát viên vẫn không phát hiện được vi phạm pháp luật trong
quá trình điều tra nên khi hồ sơ chuyển sang tòa, trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử hoặc trong quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử mới
phát hiện hồ sơ vụ án còn thiếu các chứng cứ quan trọng hoặc có vi phạm pháp
luật phải trả hồ sơ điều tra bổ sung; việc áp dụng pháp luật vào từng trường
hợp phạm tội hối lộ cụ thể còn chưa thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng cũng như giữa các địa phương; hoạt động xét hỏi, tranh luận giữa Kiểm
sát viên với luật sư và những người tham gia tố tụng tại phiên toà còn chưa
thực chất và thiếu tính chủ động… Dẫn đến hậu quả một số tội phạm về hối lộ
quá trình điều tra còn kéo dài hoặc vụ án đã được đưa ra xét xử sơ thẩm nhưng có
kháng cáo, kháng nghị, bị cấp phúc thẩm cải sửa, huỷ án để điều tra lại làm ảnh
hưởng đến việc xử lý tội phạm và người phạm tội. Những hạn chế, tồn tại đó đã
ảnh hưởng đến chất lượng điều tra, truy tố và chất lượng xét xử các tội phạm về hối
lộ trên địa bàn cả nước thời gian qua.Thực trạng công tác thực hành quyền công
tố trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về hối lộ còn nhiều yếu
kém, bất cập là do nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân cơ bản là VKSND chưa
thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố đối với loại tội phạm này.
Do đó, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề "Thực hành quyền công tố đối
với các tội phạm về hối lộ ở nước ta hiện nay " làm đề tài luận án tiến sĩ nhằm
giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với tội
phạm về hối lộ ở Việt Nam là cấp thiết khách quan.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài luận án là nhằm tiếp cận một cách có hệ
thống và toàn diện công tác thực hành quyền công tố đối với các tội phạm về


3


hối lộ trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở thống nhất về mặt
nhận thức và đánh giá thực trạng, kết quả nghiên cứu của luận án tìm ra những
khó khăn vướng mắc, tồn tại, bất cập và nguyên nhân làm ảnh hưởng đến kết
quả hoạt động của công tác này. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, kiến
nghị góp phần hoàn thiện cả lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác thực hành quyền công tố đối với các tội phạm về hối lộ ở
nước Tòa án, góp phần cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác đấu tranh
phòng, chống hiệu quả với loại tội phạm này trong thời gian tới.
Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề tài luận án cần giải quyết các nhiệm
vụ cụ thể sau đây:
- Khảo sát, đánh giá tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nước công tác thực
hành quyền công tố đối với các tội phạm về hối lộ của VKSND.
- Xây dựng những lý luận cơ bản tội phạm về hối lộ và hoạt động của
VKSND trong công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và xét
xử sơ thẩmđối với các vụ án về hối lộ.
- Khảo sát thực trạng hoạt động của VKSND trong công tác công tác thực hành
quyền công tố đối với các tội phạm về hối lộ thời gian qua. Tìm ra nguyên nhân của
những kết quả đạt được và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế cần khắc phục.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
thực hành quyền công tố đối với các tội phạm về hối lộ ở nước Tòa án trong giai đoạn
hiện nay và thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Căn cứ vào mục tiêu nhiệm vụ đã nêu trên đối
tượng nghiên cứu của đề tài luận án tập trung vào những vấn đề sau đây:
+ Thứ nhất: các công trình nghiên cứu khoa học, các sách chuyên khảo, các
bài viết của các nhà khoa học các học giả trong nước và nước ngoài có liên quan
trực tiếp đến chức năng thực hành quyền công tố của VKSND và công tác đấu

tranh phòng chống tội phạm về hối lộ làm cơ sở cho việc phân tích lý luận và pháp
luật về thực hành quyền công tố của VKSND đối với loại tội phạm này.

4


+ Thứ hai: Quan điểm của Đảng và nhà nước về chức năng thực hành quyền
công tố của VKSND và đấu tranh phòng chống tội phạm về hối lộ; hệ thống pháp
luật của Việt Nam trong lĩnh vực thực hành quyền công tố của VKSND đối với tội
phạm về hối lộ; vấn đề về công tố, thực hành quyền công tố của VKSND; nội dung,
phương pháp thực hành chức năng thực hành quyền công tố.
Nêu căn cứ các quy định của pháp luật Việt Nam về các khái niệm có liên
quan đến tội phạm về hối lộ, trong từng tội phạm cụ thể về hối lộ; các khái niệm về
công tố và quyền công tố, thực hành quyền công tố của VKSND đối với tội phạm
về hối lộ.
+ Thứ ba: diễn biến tình hình tội phạm về hối lộ, tổ chức lực lượng của
VKSND trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đối với tội phạm
về hối lộ; đánh giá kết quả thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đối với tội
phạm về hối lộ của VKSND trong những năm vừa qua.
+ Thứ tư: các biện pháp nhằm tăng cường công tác thực hành quyền công tố
của VKSND đối với các tội phạm về hối lộ trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn về thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra và xét xử sơ thẩm các vụ án về hối lộ trong khoảng thời gian 10
năm từ năm 2007 đến 2016.
+Về không gian: Địa bàn khảo sát, phân tích đánh giá được thực tiễn thực
hành quyền công tố đối với các tội phạm về hối lộ trên phạm vi cả nước trong đó
tập trung ở những tỉnh, thành phố trọng điểm, những ngành thường xảy ra tội phạm
về hối lộ.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận của luận án là phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước Tòa án trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm nói chung và đấu tranh phòng, chống tội phạm về hối lộ
nói riêng.

5


- Phương pháp nghiên cứu: Luận án được nghiên cứu bằng nhiều phương
pháp khác nhau như: Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, điều
tra xã hội học; bằng các biện pháp khảo sát, sử dụng biểu đồ minh hoạ; phỏng
vấn, tọa đàm với các Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán có nhiều kinh
nghiệm về đấu tranh phòng chống tội phạm về hối lộ; khảo cứu các văn bản, tài
liệu có liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
5.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án đã góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận khoa học pháp lý chuyên
ngành kiểm sát; làm rõ nội dung có tính đặc thù của công tác thực hành quyền công
tố đối với các tội phạm về hối lộ nhằm góp phần nâng cao nhận thức lý luận về vị
trí, vai trò của VKSND trong đấu tranh phòng chống tội phạm về hối lộ và nâng
cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố của ngành kiểm sát.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ cho công tác đào tạo, bồi
dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ kiểm sát trong Trường Đại học kiểm sát Hà Nội;
Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát tại thành phố Hồ Chí Minh; là nguồn
tài liệu giúp CQĐT và VKSND tham khảo xây dựng qui chế phối hợp liên ngành
trong phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm về hối lộ nói riêng; cung cấp cho
các Kiểm sát viên kiến thức cơ bản, thao tác nghiệp vụ kiểm sát khi thực hành quyền
công tố đối với các tội phạm về hối lộ. Một số đề xuất giải pháp của luận án là tài liệu
phục vụ các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, tham khảo khi sửa đổi, bổ sung

BLHS và Bộ luật TTHS, Luật phòng chống tham nhũng, Luật tố cáo...
6. Những đóng góp mới của luận án
Với phương pháp tiếp cận hiện đại, phương pháp tiếp cận liên ngành khoa học xã
hội, luật hình sự, luật TTHS, khoa học điều tra tội phạm, xã hội học, tâm lý học…
Luận án là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách có hệ thống, tương
đối hoàn thiện về lý luận và thực tiễn công tác thực hành quyền công tố đối với các

6


tội phạm về hối lộ, những kết quả rút ra qua nghiên cứu của luận án có đóng góp
mới cho khoa học chuyên ngành cụ thể là:
- Bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận về công tác thực hành quyền
công tố đối với các tội phạm về hối lộ và vị trí, vai trò của VKSND trong đấu tranh
phòng chống loại tội phạm này.
- Xây dựng những khái niệm, nội dung, phương pháp cơ bản về thực hành
quyền công tố đối với các tội phạm về hối lộ.
- Phân tích làm rõ các dấu hiệu mang tính đặc thù của các tội phạm về hối lộ.
- Khảo sát, thống kê, đánh giá tình hình và tập trung nghiên cứu sâu một số
hoạt động thực hiện công tác thực hành quyền công tố đối với các tội phạm về hối
lộ. Qua đó phân tích, rút ra những kết quả đạt được đồng thời làm rõ những hạn
chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém đó góp phần vào việc
tổng kết lý luận và thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND trong
đấu tranh phòng chống tội phạm tội phạm về tham nhũng nói chung và tội phạm về
hối lộ nói riêng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
- Nghiên cứu đề xuất bổ sung những quy định về thể chế, cơ chế để bảo đảm
cho việc thực hiện công tác thực hành quyền công tố đối với tội phạm về hối lộ
có hiệu quả.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của luận

án được kết cấu thành bốn chương như sau:
Chương 1: Tình hình nghiên cứu đề tài và những vấn đề có liên quan đến đề
tài luận án.
Chương 2: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố
đối với các loại tội phạm về hối lộ.
Chương 3: Thực trạng thực hành quyền công tố đối với các tội phạm về hối
lộ ở nước ta.
Chương 4: Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
đối với các tội phạm về hối lộ ở nước ta.

7


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài
- Các công trình nghiên cứu về vị trí, vai trò, chức năng của Viện Kiểm sát/
Viện công tố, các luận án tiến sĩ nước ngoài.
Đối với các quốc gia tại khu vực Đông Nam Á: Tại Indonesia, Công trình
nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Indonesia (2010) của
TS.Simon Butt, Đại học Sydney phân tích Luật Công tố viên 2004 của
Indonesia:“Công tố viên trực tiếp tiến hành điều tra các tội phạm liên quan đến
tham nhũng, buôn lậu và lật đổ chính quyền. Công tố viên phối hợp với Điều tra
viên cảnh sát hoàn tất hồ sơ vụ án, bao gồm cả điều tra bổ sung trước khi chuyển
hồ sơ cho Tòa án” [64].
Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra các quy định về TTHS còn nhiều bất
cập, sự hợp tác và mối quan hệ giữa Công tố viên và Điều tra viên thuộc lực lượng
Cảnh sát Indonesia cũng như mối quan hệ giữa Cơ quan công tố và Tòa án nói
chung khá căng thẳng và không thực sự hiệu quả. Lực lượng Cảnh sát và Công tố

thường chỉ trích nhau về tình trạng thiếu năng lực trong giai đoạn điều tra. Trong
giai đoạn xét xử, chất lượng chứng cứ được sử dụng bởi Công tố viên trước tòa
thường không được các Thẩm phán đánh giá cao.
Luận án tiến sĩ của Tony Paul Marguery,“Sự thống nhất và đa dạng của các
cơ quan công tố tại châu Âu”là công trình nghiên cứu chuyên sâu về Cơ quan công
tố của bốn quốc gia châu Âu bao gồm Pháp, Hà Lan, Ba Lan và Cộng hòa Séc [69].
Kết quả nghiên cứu của công trình về hoạt động của cơ quan công tố như sau:
Cộng hòa Pháp là một quốc gia đại diện cho các nước theo truyền thống
pháp luật châu Âu lục địa, TTHS mang đặc trưng của mô hình tố tụng thẩm vấn.
Viện công tố Pháp có tư cách đại diện cho xã hội, trách nhiệm chính là tìm kiếm,
đòi hỏi các hoạt động điều tra phải tuân thủ đúng pháp luật khi điều tra các tội

8


phạm, bảo vệ lợi ích chung của xã hội. Viện công tố ở Pháp đặt bên cạnh Tòa sơ
thẩm, đóng vai trò chính tố có vị thế và những quyền hạn đặc biệt quan trọng khi
thực hành quyền công tố các vụ án hình sự như: Quyền được yêu cầu tham gia vào
hoạt động điều tra; quyền được xem hồ sơ bất kỳ lúc nào trong quá trình tố tụng
(nhưng trong vòng 24 giờ phải trả cho Dự thẩm). Dự thẩm phải xin ý kiến Viện
công tố trong phần lớn các trường hợp liên quan đến quyền công tố như: Ra quyết
định như trả tự do, lệnh tạm giữ, lệnh tạm giam. Cơ quan công tố có quyền kiểm sát
các hoạt động điều tra hình sự. Để đảm bảo Cơ quan công tố có thể thực hiện quyền
này, Cảnh sát có nghĩa vụ thông báo kịp thời cho Công tố viên có thẩm quyền về các
tội phạm hình sự trong đó đặc biệt là tội phạm hối lộ và phải gửi cho Công tố viên mọi
tài liệu, chứng cứ mà mình có được. Để thực hiện trách nhiệm, chức năng thực hành
quyền công tố của mình, Viện công tố có quyền ra các quyết định như: Mở cuộc điều
tra, tiến hành điều tra dưới sự trợ giúp của Cảnh sát tư pháp; khởi tố vụ án hình sự,
Công tố viên với quyền năng công tố được giao toàn quyền thực hiện hoạt động thẩm
tra (thực tế hiếm xảy ra), đưa ra những quyết định tố tụng quan trọng. Công tố viên có

thẩm quyền tùy nghi trong việc quyết định có khởi tố vụ án hay không; có quyền chỉ
đạo, đưa ra các yêu cầu và kiểm sát hoạt động điều tra.
Tại Hà Lan, Công tố viên thực hành quyền công tố và phải giám sát giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự, đặc biệt các vụ án hối lộ, tham ô cũng như các vụ
án kinh tế, chức vụ. Khoản 2 Điều 148 Bộ luật này quy định thêm rằng khi thực
hành quyền công tố, Công tố viên có thể đề ra yêu cầu cho tất cả những người tham
gia tố tụng. Công tố viên bảo đảm việc điều tra chỉ tập trung vào những vấn đề liên
quan thực hành quyền công tố.
Tại Ba Lan, Cảnh sát tiến hành hầu hết các hoạt động điều tra. Cảnh sát
không có nghĩa vụ thông báo cho Công tố viên về việc nhận được tin báo tội phạm,
trừ khi tin báo này liên quan đến các tội phạm mà bắt buộc Công tố viên phải trực
tiếp điều tra (các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra khác như
lực lượng kiểm lâm, biên phòng, thanh tra thương mại… cũng không có nghĩa vụ
này). Công tố viên thực hành quyền công tố có thể thực hiện toàn bộ quyền công tố

9


trong những vụ việc mà Công tố viên được thông báo từ đầu theo luật định. Trong
những vụ việc đó, Công tố viên có trách nhiệm đảm bảo tính đúng đắn và hiệu quả
của quá trình điều tra. Nếu không trực tiếp tiến hành điều tra thì Công tố viên phải
kiểm sát toàn bộ quá trình điều tra. Thực hiện việc kiểm sát điều tra là nhiệm vụ bắt
buộc của Công tố viên và luật chỉ quy định những ngoại lệ. Công tố viên phải đảm
bảo việc điều tra tuân thủ đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên
liên quan.
Tại Cộng hòa Séc, Cảnh sát có nghĩa vụ thông báo kịp thời với Công tố viên về
việc phát hiện tội phạm. Công tố viên có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát toàn bộ hoạt động điều tra. Công tố viên thực hiện quyền công tố đồng thời phải
đảm bảo các hoạt động điều tra được thực hiện một cách đúng thủ tục, hợp pháp, đảm
bảo nhân quyền và các quyền tự do cơ bản của công dân. Để thực hiện nhiệm vụ của

mình, Công tố viên được thực hiện các quyền về công tố như: Đề ra yêu cầu điều tra,
yêu cầu xem xét hồ sơ, tài liệu, chứng cứ mà cảnh sát thu thập được, cùng tham gia
vào việc điều tra, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ và thay thế các quyết định và
biện pháp do Cảnh sát sử dụng, yêu cầu thay đổi Điều tra viên...
- Sách chuyên khảo, báo cáo và bài viết có liên quan đến đề tài luận án
Sách chuyên khảo của tác giả P.J.P. Tòa ánk (2008), “Hệ thống TTGHS Hà
Lan”. Trong tác phẩm này, tác giả nêu lên một thực trạng là ở giai đoạn trước, cơ quan
Công tố Hà Lan đã không thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động điều tra một cách
thích đáng. Cho đến khi Luật về các biện pháp điều tra của Cảnh sát được thông qua vào
năm 2000 và cơ quan Công tố được tái cấu trúc thì chức năng thực hành quyền công tố
của cơ quan Công tố mới được cải thiện [72].
Báo cáo thảo luận nhóm tại khóa đào tạo quốc tế lần thứ 107 của UNAFEI
(năm 1997),“Mối quan hệ giữa Cơ quan công tố với Cảnh sát và Trách nhiệm điều
tra”. Báo cáo này là kết quả của quá trình thảo luận chuyên sâu giữa mười chín
quốc gia tham gia khóa đào tạo về mối quan hệ giữa Cảnh sát và Cơ quan công tố,
trong đó có vai trò của Công tố viên trong việc khắc phục những khiếm khuyết và
vấn đề mà Điều tra viên mắc phải. Các quốc gia được chia thành hai nhóm: nhóm

10


một, bao gồm các quốc gia mà tại đó chỉ có Cảnh sát có quyền thực hiện hoạt động
điều tra (gồm CosTòa án Rica, Ghana, Ấn Độ, Kenya, Malaysia, Nepal, PakisTòa
ánn, Singapore, Sri Lanca, Thái Lan, Zambia) và Nhóm hai, bao gồm các quốc gia
mà trong đó cả Cảnh sát và Công tố viên cùng có quyền thực hiện hoạt động điều
tra (gồm Cameroon, Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào,
Philippines). Vai trò của Công tố viên trong giai đoạn điều tra ở từng quốc gia được
phân tích cụ thể, từ đó tạo điều kiện cho việc đánh giá những lợi ích có được khi
Công tố viên tham gia vào hoạt động điều tra. Với kinh nghiệm và kiến thức pháp
lý của mình, Công tố viên có thể đưa ra những chỉ đạo, cố vấn hợp lý cho các Điều

tra viên, đảm bảo kết quả tốt, hợp pháp của hoạt động điều tra. Vì vậy, các quốc gia
tham gia thảo luận cùng kết luận rằng vai trò của Công tố viên cần phải được tăng
cường trong hoạt động TTGHS [75].
Sách chuyên khảocủa Hiệp hội Công tố viên quốc tế (1999), “Những tiêu
chuẩn trách nhiệm nghề nghiệp và Tuyên bố về những nhiệm vụ và quyền hạn cốt yếu
của công tố viên” nhấn mạnh vai trò tích cực của Công tố viên trong quá trình
TTGHS. Khi trực tiếp tham gia điều tra hoặc chỉ đạo hoạt động điều tra, Công tố viên
phải thực hiện nhiệm vụ một cách khách quan, công bằng, chuyên nghiệp. Khi thực
hành chức năng công tố kiểm sát hoạt động điều tra, Công tố viên phải đảm bảo rằng
hoạt động điều tra là tuân thủ pháp luật, tôn trọng nhân quyền [74].
Sách chuyên khảo của tiến sĩ Despina Kyprianou (2008), “Vai trò của Cơ
quan công tố trong hoạt động điều tra và những nguyên tắc và chính sách công
tố”đã nghiên cứu vai trò của cơ quan Công tố trong hoạt động điều tra tại nhóm các
quốc gia theo truyền thống luật án lệ và nhóm các quốc gia theo truyền thống pháp
luật châu Âu lục địa. Qua đó, tác giả nhận định rằng ở cả hai nhóm quốc gia, vai trò
của cơ quan Công tố đã thay đổi so với mô hình truyền thống. Ở các quốc gia theo
truyền thống luật án lệ, cơ quan Công tố đã có sự tham gia tích cực hơn trong giai
đoạn điều tra, được ghi nhận trong luật (tại Anh và xứ Wales) hoặc thông qua thỏa
thuận không chính thức với Cơ quan điều tra. Ở nhóm các quốc gia theo truyền
thống luật châu Âu lục địa, Công tố viên chỉ trực tiếp chỉ đạo hoạt động điều tra

11


trong những vụ án rất quan trọng nhưng vẫn luôn kiểm sát và chịu trách nhiệm chung
về giai đoạn điều tra [68].
Sách chuyên khảo của Ủy ban Bộ trưởng - Hội đồng châu Âu(2000),
“Khuyến nghị về vai trò của cơ quan công tố trong hệ thống tư pháp hình sự”, đã
có những đề xuất cụ thể về mối quan hệ giữa Công tố viên và Cảnh sát. Theo nội
dung khuyến nghị, Công tố viên nên kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong hoạt

động điều tra của Cảnh sát chậm nhất là vào thời điểm quyết định có hay không
việc truy tố, trong đó phải kiểm sát cả việc đảm bảo nhân quyền. Đối với những
quốc gia như: Cộng Hòa Pháp, ITòa ánlia, Cộng hòa Liên bang Đức thì Cảnh sát
chịu sự chỉ đạo của Công tố viên khi thực hiện hoạt động điều tra thì phải có các
biện pháp nhằm đảm bảo Công tố viên có thể thực hiện hiệu quả quyền hạn của
mình, có thể đánh giá và kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra
của Cảnh sát. Đối với những quốc gia mà Cảnh sát có vai trò độc lập khi tiến hành
hoạt động điều tra thì phải đảm bảo có sự hợp tác thích hợp giữa Cảnh sát và Công
tố viên [73].
Tài liệu chuyên khảo của Liên hợp quốc (1990), tại Havana, Cuba, “Hướng
dẫn về vai trò của công tố viên” được thông qua tại Hội nghị lần thứ tám về phòng
chống tội phạm và xử lý người phạm tội nhằm cung cấp các thông tin thiết thực và
lý luận pháp lý để các quốc gia nghiên cứu đưa vào nội luật. Vai trò tích cực của
Công tố viên trong quá trình TTHS được khẳng định, bao gồm chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Công tố viên thực hiện nhiệm vụ của
mình, góp phần đảm bảo quá trình TTHS diễn ra suôn sẻ và đúng thủ tục. Khi biết
hoặc nghi ngờ những chứng cứ bất lợi cho bị can, bị cáo được thu thập một cách
bất hợp pháp hoặc vi phạm nghiêm trọng về nhân quyền, đặc biệt là liên quan đến
tra tấn hoặc sử dụng các biện pháp dã man, vô nhân đạo, hạ thấp nhân phẩm khác
thì Công tố viên sẽ từ chối sử dụng các chứng cứ này, thông báo cho Tòa án và tiến
hành mọi biện pháp cần thiết, đảm bảo người sử dụng các biện pháp trên phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật [77].

12


Trong báo cáo Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc (2010), “Báo cáo
nghiên cứu về tổ chức và chức năng của hệ thống tư pháp ở năm quốc gia chọn lọc
(Trung Quốc, Liên bang Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc và Indonesia)” , nội dung của mỗi
báo cáo thành phần là cung cấp những thông tin cơ bản nhất về thực trạng và vấn đề

cải cách tư pháp ở mỗi quốc gia được nghiên cứu. Trong đó trực tiếp đề cập đến chức
năng, nhiệm vụ của Cơ quan công tố tại các quốc gia được chọn, nhấn mạnh và đề cao
chức năng công tố, chỉ đạo điều tra và thực hành quyền công tố trong các vụ án hình
sự nghiêm trọng và phức tạp như: Hối lộ, tham nhũng, rửa tiền.... [62].
Bài tham luận của Jorg-Martin Jehle tại Hội nghị UNDP-POGAR Cairo (năm
2005), “Chức năng của Cơ quan công tố từ góc nhìn so sánh tại châu Âu - Các nghiên
cứu quốc tế có thể đóng góp cho sự phát triển tư pháp hình sự như thế nào”. Ở hầu
hết các nước châu Âu (trừ Anh và Ailen), Cơ quan công tố được xem như cơ quan
đứng đầu trong hoạt động tư pháp hình sự đặc biệt ở giai đoạn điều tra, nghĩa là Cơ
quan Công tố phải kiểm sát tất cả các bước điều tra tội phạm của Cảnh sát cho tới hoạt
động tiến hành xét xử tại Tòa. Tuy nhiên, trong thực tiễn TTGHS ở nhiều quốc gia
châu Âu, Cơ quan công tố hiếm khi tham gia kiểm sát giai đoạn điều tra. Thông
thường Cơ quan công tố chỉ được thông báo sau khi Cảnh sát đã hoàn thành việc điều
tra, trừ trường hợp, đối với những tội nghiêm trọng như hối lộ thì Cơ quan công tố
phải tham gia ngay từ đầu giai đoạn điều tra. Thực tế này thể hiện sự thiếu nhân lực
của Cơ quan công tố nhưng không vì đó mà Cảnh sát được coi là cơ quan độc lập
trong giai đoạn điều tra. Cảnh sát có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ chứng cứ cho Cơ quan
công tố và đảm bảo rằng việc thu thập chứng cứ tuân thủ đúng pháp luật. Cảnh sát
thực hiện theo hướng dẫn điều tra do Tổng công tố ban hành. Trong phạm vi địa
phương, Cơ quan công tố và Cảnh sát phối hợp chặt chẽ với nhau để đưa ra các quy
tắc tiến hành điều tra và Cảnh sát phải tuân thủ theo những quy tắc này [66].
Theo Báo cáo thảo luận nhóm tại Hội nghị quan chức cấp cao lần thứ 120
của Viện Phòng ngừa và xử lý tội phạm tại Khu vực châu Á và Viễn Đông của Liên
Hiệp quốc (UNAFEI), (2002), “Sự hợp tác giữa Cảnh sát và các Công tố viên” đã
xác định phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan công tố ở các nước rất khác

13


nhau. Ví dụ, theo quy định của pháp luật, Cơ quan công tố ở Đức và Hàn Quốc có

trách nhiệm chỉ đạo hoạt động điều tra và Cảnh sát phải tuân theo chỉ đạo của Cơ
quan công tố nhưng ở Nhật Bản thì trách nhiệm điều tra chủ yếu thuộc về Cảnh sát,
dù Cơ quan công tố cũng có quyền điều tra một số loại tội phạm. Ở các nước theo
hệ thống luật án lệ như Anh, Kenya, PakisTòa ánn, Papua New Guinea, Tòa
ánnzania, Cơ quan công tố không thực hiện hoạt động điều tra mà chỉ có vai trò cố
vấn hoặc giám sát. Báo cáo đã phân tích những ưu điểm và hạn chế khi hoạt động
điều tra được tiến hành hoàn toàn bởi Cảnh sát và khi được giao hẳn cho Công tố
viên chỉ đạo, thực hiện. Từ đó, báo cáo khẳng định nhu cầu hợp tác giữa Cảnh sát
và Công tố viên trong khi tiến hành hoạt động điều tra. Mười lăm quốc gia tham gia
nhóm thảo luận đều công nhận Cơ quan công tố cần có vai trò giám sát sự tuân thủ
pháp luật trong hoạt động điều tra [76].
Báo cáo nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Nhật Bản
(2010) của PGS. Luke NotTòa ánge, Đại học Tổng hợp Sydney, GS. Kent Anderson,
Đại học Quốc gia Úc, GS. Makoto Ibusuki, Đại học Tổng hợp Seijo, GS. David
Johnson, Đại học tổng hợp Hawai nghiên cứu, phân tích: Viện Công tố Nhật Bản,cũng
có chức năng, nhiệm vụ rất quan trọng trong TTHS. Bộ luật TTHS Nhật Bản quy định
về trách nhiệm phát hiện tội phạm và thẩm quyền rất lớn của Công tố viên, về trách
nhiệm Cảnh sát phải thực hiện chỉ đạo của Công tố viên theo các hình thức, nguyên tắc
liên quan đến các vấn đề cần thiết để tiến hành điều tra phù hợp và để thực hiện việc
truy tố [70].
Bài viết trên website />nêu quan điểm về tội phạm hối lộ và nhiệm vụ của Công tố viên trong việc chứng minh
hành vi phạm tội. Theo bài viết hối lộ là sự đề nghị hoặc đòi hỏi giữa cá nhân có nhu cầu
nhận lợi ích và một bên có thẩm quyền điều chỉnh lợi ích đó, ví dụ như các hợp đồng xây
dựng của chính phủ hoặc việc sắp xếp nhân sự trong một cơ quan, tổ chức. Tòa ánng vật
của vụ án hối lộ có thể tồn tại dưới dạng vật chất như tiền, nữ trang, quà tặng giá trị cao
hoặc bất động sản… nhưng cũng có thể được chấp nhận dưới hình thức quà tặng tình dục
hoặc các ưu đãi cho người nhà quan chức. Tội phạm hối lộ bị xem là trọng tội theo pháp

14



luật liên bang cũng như tiểu bang tại Hoa Kỳ. Không phải trong bất kì vụ án hối lộ nào
cũng có các văn bản dạng hợp đồng thể hiện sự trao đổi bất hợp pháp, nhiệm vụ của Công
tố viên là xác minh, tìm các căn cứ xác đáng và chịu trách nhiệm với những bằng chứng
buộc tội mà mình đưa ra trong quá trình thực hành quyền công tố.
Bài

viết

trên

website

/>
request-shows-more-bribery-act-2010-prosecutions/ giới thiệu về tổ chức công
tố chuyên trách phụ trách các vụ án hối lộ tại liên hiệp Vương quốc Anh. Tại
Liên hiệp vương quốc Anh, chính phủ thành lập cơ quan Công tố hoàng gia đặc
biệt Crown Prosecution Service (CPS), Cơ quan công tố này thực hành quyền công tố
tại Anh và xứ wales, phụ trách các vụ án hối lộ, áp dụng luật chống hối lộ 2010. Năm
2013, CPS đã truy tố một học sinh Trung Quốc là Li Yang hối lộ 5000 bảng Anh để
thay đổi kết quả thi của mình. Mặc dù giảng viên phụ trách từ chối khoản tiền trên
nhưng CPS vẫn tiến hành truy tố và xét xử theo luật định. Li Yang đã bị kết án chính
thức vào ngày 23 tháng 4 năm 2013 và phải chịu hình phạt 12 tháng tù giam và số tiền
phạt 4800 bảng Anh. Vụ án trên được thụ lý và xét xử tại TÒA ÁN Hoàng gia Anh Tòa chuyên trách hình sự Tối cao Liên hiệp Anh.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
- Các sách chuyên khảo và luận án liên quan đến đề tài luận án
Võ Khánh Vinh (1996) “Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm
về chức vụ” đây là một trong những cuốn sách đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu và
phân tích các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về chức vụ được quy định trong
BLHS 1985 (BLHS năm 1985 không quy định các tội phạm về tham nhũng mà chỉ

quy định các tội phạm về chức vụ trong đó có tội nhận hối lộ tại Điều 226 và tội
đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ tại Điều 227). Trong đó có các dấu hiệu của tội
đưa hối lộ và nhận hối lộ, tội làm môi giới hối lộ đã đi sâu nghiên cứu phân tích
trách nhiệm hình sự của các tội phạm về chức vụ trong mối quan hệ với các loại tội
phạm khác qua đó làm rõ tính đặc thù về trách nhiệm hình sự đối với những người
phạm các tội phạm về chức vụ. Có thể nói mặc dù sách chuyên khảo này nghiên
cứu về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ theo quy định của

15


BLHS năm 1985. Tuy nhiên những quan điểm về khái niệm các tội phạm về chức
vụ trong đó có tội nhận hối lộ và tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ vấn đề về
trách nhiệm hình sự của người phạm tội vẫn có giá trị về mặt nghiên cứu lý luận và
thực tiễn áp dụng pháp luật trong điều kiện hiện nay.
Tạp chí kiểm sát (2011), “VKSND trong tiến trình cải cách tư pháp”, tập
hợp nhiều bài phát biểu của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và của ngành Kiểm sát về
chức năng, nhiệm vụ của VKSND hiện tại và xu hướng đổi mới theo yêu cầu cải
cách tư pháp. Nội dung các bài phát biểu rất phong phú, nhưng đều khẳng định
VKSND tiếp tục thực hiện hai chức năng theo quy định của Hiến pháp năm 1992
quy định, đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Đỗ Ngọc Quang (2001), sách chuyên khảo “Mối quan hệ giữa Cơ quan điều
tra với các cơ quan tiến hành TTHS”. Trên cơ sở pháp luật thực định, tác giả đã
phân tích cơ sở pháp lý mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra với Viện kiểm sát, Tòa
án và các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp trong TTgHS; đồng thời, đề xuất các giải
pháp hoàn thiện mối quan hệ này. Trong đó, tác giả kết luận: Cơ quan điều tra và
VKS phải phối hợp, chế ước lẫn nhau và sự chế ước của Cơ quan điều tra không
mạnh mẽ như quan hệ kiểm sát của VKS đối với Cơ quan điều tra.
Lê Hữu Thể (2008),“Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra”, Nhà xuất bản Tư pháp, sách chuyên khảo đã đề cập

các quan điểm và lý luận chung về chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự, đối tượng, phạm vi quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự trong giai đoạn điều tra. Trong đó, mối quan hệ giữa quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là hai chức năng
độc lập nhau, nhưng có quan hệ mật thiết với nhau.
Dương Thanh Biểu (2007), “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm”, nhà xuất bản
Tư pháp. Sách chuyên khảo đã tập trung làm rõ khái niệm, bản chất của tranh luận
tại phiên tòa, vai trò của Kiểm sát viên với trách nhiệm là người thực hành quyền
công tố tại Tòa. Trước hết, tác giả đề cập đến kỹ năng chuẩn bị thực hành quyền
công tố tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự như: Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án; kỹ

16


năng xây dựng bản cáo trạng, bản luận tội, xây dựng đề cương xét hỏi, kế hoạch xét
hỏi... Thông qua việc phân tích những vụ án đã từng xảy ra, tác giả đã làm nổi bật
tầm quan trọng của kỹ năng thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
như: Kỹ năng đọc cáo trạng; kỹ năng xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa; kỹ năng
tranh luận tại phiên tòa của Kiểm sát viên và kỹ năng đối đáp của Kiểm sát viên.
Sách chuyên khảo của VKSND tối cao (1993), “Đấu tranh chống và phòng
ngừa tội tham ô, cố ý làm trái và hối lộ trong cơ chế thị trường”, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, đã chỉ ra những tác động tiêu cực phát sinh trong thời kì chuyển
đổi cơ chế, cụ thể một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên do giảm sút ý chí và
phẩm chất cách mạng đã sa vào tệ nạn tham nhũng. Nhờ có chức vụ và quyền hành,
những người này đã lợi dụng công cuộc đổi mới để tham ô, cố ý làm trái và hối lộ,
mưu cầu lợi ích cho bản thân. Bằng những phân tích khách quan, sách chuyên khảo
đã trình bày những nguyên nhân của tình trạng tham ô, hối lộ dưới góc độ kinh tế xã hội; những nguyên nhân từ góc độ cơ chế quản lý; những nguyên nhân dưới góc
độ tâm lý - xã hội; những nguyên nhân dưới góc độ công tác tổ chức cán bộ. Từ đó,
đề ra các giải pháp cho công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm tham ô, hối lộ
và cố ý làm trái.

Tạp chí Kiểm sát (2007), “Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về tham
nhũng trong Bộ luật hình sự Việt Nam”. Nội dung sách chuyên khảo nhận định
tham ô, hối lộ là một hiện tượng xã hội thuộc phạm trù lịch sử, nó gắn liền với sự ra
đời và phát triển của Nhà nước, còn Nhà nước là còn tham nhũng, không phân biệt
chế độ kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên, tùy thuộc vào tình hình kinh tế, chính
trị, xã hội, chính sách hình sự và các biện pháp phòng chống tội phạm hối lộ, tham
ô ở mỗi quốc gia mà có hướng xử lý khác nhau. Để phục vụ công cuộc đấu tranh
chống hối lộ, tham ô trên mọi mặt trận, sách chuyên khảo đã tập hợp các bài viết
phân tích, bình luận khoa học về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm về tham
nhũng nói chung và hối lộ nói riêng quy định trong BLHS 1999. Đây có thể được
xem là nguồn tư liệu quý giá để hoàn thiện BLHS cũng như Bộ luật TTHS trong
thời gian tiếp theo.

17


Nguyễn Tiến Sơn, (2012), Luận án tiến sĩ“Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra
với VKS trong TTHS Việt Nam”, tác giả đã nghiên cứu dưới góc độ lý luận một cách
có hệ thống, toàn diện và chuyên sâu về mối quan hệ giữa CQĐT và VKSND trong
TTHS Việt Nam. Trong đó, đã nghiên cứu vị trí, chức năng, nhiệm vụ của CQĐT và
VKS trong bộ máy Nhà nước Tòa án, phân định chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong TTHS. Luận án đã tiến hành nghiên
cứu, xây dựng các khái niệm, đặc điểm, vai trò, nguyên tắc, nội dung, hình thức của
mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và VKS trong TTHS. Trong đó đã xây dựng được
khái niệm phối hợp, chế ước giữa CQĐT và VKS và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về mối
quan hệ giữa CQĐT và VKS trong từng chế định TTHS. Luận án đã khái quát sự hình
thành hoạt động giám sát ở nước Tòa án qua các thời kỳ phong kiến, thuộc địa Pháp và
quá trình hoàn thiện mối quan hệ giữa CQĐT và VKSND trong TTHS trước khi có Bộ
luật TTHS đầu tiên ở nước Tòa án đến nay. Tác giả xác định mối quan hệ giữa CQĐT
và VKSND trong hoạt động điều tra là mối quan hệ phối hợp và chế ước từ khi phát

hiện tội phạm đến khi kết thúc điều tra vụ án hình sự.
Lê Thị Tuyết Hoa, Luận án tiến sĩ luật học (năm 2005), với đề tài “Quyền công
tố ở Việt Nam”, đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về vấn đề quyền công tố ở một số
nước trên thế giới và quyền công tố trong TTHS ở Việt Nam; khái niệm, đối tượng,
phạm vi quyền công tố, nội dung và thực trạng tổ chức thực hành quyền công tố trong
TTHS ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động công
tố ở nước Tòa án; Luận án đã xác định quyền công tố trong TTHS là “Quyền của Nhà
nước giao cho VKS thực hiện theo quy định của Hiến pháp và pháp luật để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thực hiện sự buộc tội đối với người đó tại
Tòa án”.
Đào Lệ Thu (2011), “Các tội phạm về hối lộ theo luật hình sự Việt Nam trong sự
so sánh với luật hình sự Thụy Điển và Ốt-xtray-lia”, Luận án tiến sĩ luật học. Luận án đã
tập hợp và so sánh những dấu hiệu pháp lý của tội phạm về hối lộ theo luật hình sự Việt
Nam, luật hình sự Thụy Điển và luật hình sự Ốt-xtray-lia; các quy định về chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt và đồng phạm đối với tội phạm về hối lộ theo quy định của pháp

18


luật ba quốc gia; một số kinh nghiệm về việc áp dụng pháp luật trong xử lý tội phạm hối
lộ tại Thụy Điển và Ốt-xtray-lia. Từ đó, luận án định hướng xây dựng nhóm các đề xuất
kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định về đường lối xử lý tội phạm hối lộ tại Việt Nam
theo yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế hiện nay.
Tôn Thiện Phương (2017) “Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự từ
thực tiễn tỉnh Nghệ An”, luận án tiến sĩ luật học tác giả đã nghiên cứu phân tích chức
năng thực hành quyền công tố, đối tượng, phạm vi của chức năng thực hành quyền
công tố theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở đó luận án đã phân
tích đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố của VKSND theo quy định của luật
TTHS đối với các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Nghệ An từ đó đưa ra một số giải
pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố của

VKSND.
- Các giáo trình, bài báo cáo, chuyên đề và bài viết có liên quan đến đề tài
luận án
Trường đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát (2004) “Kỹ năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử vụ án hình sự ”. Đây là tập bài giảng tập
trung xây dựng các kĩ năng nghiệp vụ của Kiểm sát viên trong thực tiễn hành nghề.
Tập bài giảng được biên soạn với những nội dung chủ yếu bao gồm kĩ năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra, truy tố
các vụ án hình sự; kĩ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự; kĩ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
một số loại án cụ thể trong đó có các vụ án hối lộ.
VKSND tối cao, đề tài khoa học cấp Bộ (2010), “ Thực trạng và giải pháp
nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự”.
Đề tài này chú trọng vào các vấn đề vị trí, vai trò, nội dung và phạm vi của công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự; chỉ ra mối quan hệ
của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự với các
công tác khác trong ngành Kiểm sát nhân dân; tổng kết công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử hình sự từ năm 2005 đến tháng 06 năm 2010, nêu các

19


×