Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tiểu luận cao học kinh tế chính trị - quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế của nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.67 KB, 34 trang )

TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ

LỜI MỞ ĐẦU
Cơ cấu kinh tế có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân
của mỗi quốc gia trên thế giới, bởi vì cơ cấu hợp lý sẽ thúc đẩy kinh tế phát
triển nhanh và vững chắc hơn. Hiện nay, khi toàn cầu hóa kinh tế đã trở thành
xu thế tất yếu khách quan thì việc xây dựng cơ cấu kinh tế nói chung và cơ
cấu ngành kinh tế nói riêng không thể chỉ căn cứ vào điều kiện trong nước,
mà còn phải tính đến yếu tố bên ngoài, trong đó có xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực.
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa
đất nước, để đáp ứng yêu cầu và bước đi trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế thì việc chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế là một trong những nội dung
quan trọng của đường lối đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, cơ cấu ngành kinh tế
nước ta đã có sự chuyển đổi theo hướng tích cực, góp phần làm cho nền kinh
tế tăng trưởng nhanh và khá ổn định, đồng thời tạo điều kiện để quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế của nước ta diễn
ra còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Chính vì vậy, muốn đạt mục
tiêu: đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, thì vấn đề chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế cần được tiếp tục
nghiên cứu.

1


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ

NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM VỀ CƠ CẤU, NGÀNH KINH TẾ, CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU


KINH TẾ, MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ.

1. Khái niệm cơ cấu ngành kinh tế.
Triết học duy vật biện chứng, cơ cấu (hay kết cấu) là một khái niệm
dùng để chỉ cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu thị sự thống
nhất của các mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó. Cơ cấu,
khi chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa bộ phận và tổng thể, biểu hiện ra như
là một thuộc tính của sự vật hiện tượng, và biến đổi cùng với sự biến đổi của
sự vật hiện tượng. Như vậy, có thể thấy có nhiều trình độ, nhiều kiểu tổ chức
cơ cấu của khách thể và các hệ thống.
Nền kinh tế quốc dân, khi xem nó là một hệ thống phức tạp, chúng ta
nhận thấy có rất nhiều bộ phận và các kiểu cơ cấu hợp thành tuỳ theo cách
tiếp cận khi nghiên cứu hệ thống đó. Sự vận động và phát triển của nền kinh
tế quốc dân đã chứa đựng trong nó sự thay đổi của chính bản thân các bộ
phận, các kiểu cơ cấu. Do đó, có thể hiểu: cơ cấu kinh tế quốc dân là tổng thể
hợp thành của các bộ phận các kiểu cơ cấu trong mối quan hệ hữu cơ, tương
tác lẫn nhau cả về chất lượng và số lượng, trong không gian, thời gian và
những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Dựa vào những đặc trưng của các bộ phận cấu thành hệ thống và cách
thức chúng quan hệ với nhau trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc
dân, cơ cấu nền kinh tế quốc dân bao gồm: cơ cấu các thành phần kinh tế
(quan hệ sản xuất trong nền kinh tế), cơ cấu tái sản xuất xã hội, cơ cấu vùng
lãnh thổ và cơ cấu ngành kinh tế. Các loại cơ cấu nói trên có mối quan hệ gắn
kết, tương tác với nhau.

2


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
" Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp các ngành, hợp thành tương quan tỷ lệ,

biểu hiện mối liên hệ giữa các ngành đó của nền kinh tế quốc dân"1.
Có nhiều cách phân loại các ngành hợp thành trong cơ cấu ngành kinh
tế.
* Dựa theo tính chất tác động vào đối tượng lao động, gồm có khối
ngành khai thác (nông nghiệp, các ngành công nghiệp khai thác), khối ngành
chế biến và khối ngành dịch vụ.
* Dựa vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật, bao gồm: công nghiệp, xây dựng
cơ bản, nông nghiệp, dịch vụ.
* Dựa trên cơ sở phân công lao động chung, nền kinh tế phân thành các
ngành lớn: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ: dựa vào phân công lao động
đặc thù, trong mỗi loại ngành lớn lại có các phân ngành (trong nông nghiệp
có trồng trọt, chăn nuôi; trong công nghiệp có cơ khí, điện lực, hoá chất…
trong dịch vụ có thương mại, du lịch…); dựa vào phân công lao động cá biệt
mà dưới phân ngành có các phân nhánh ngành (ví dụ trong trồng trọt có trồng
lúa, màu…).
* Căn cứ theo chu kỳ vận động của bản thân ngành, sẽ phân thành
ngành "mới ra đời" ngành "sắp lặn".
* Dựa vào vị trí, tầm quan trọng và xu thế vận động gồm có các ngành
mũi nhọn, trọng điểm, và các ngành khác.
Cơ cấu ngành kinh tế quốc dân không ở trạng thái tĩnh, "đứng im" mà
luôn vận động và phát triển dưới tác động của những nhân tố khách quan
cũng như nhân tố chủ quan, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế hiện nay. Vì vậy, việc phân tích cơ cấu ngành kinh tế, xác định
xu hướng biến đổi và đưa ra hướng điều chỉnh cơ cấu ngành thích hợp với yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế là rất cần thiết.
1

Đỗ Hoài Nam: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành trọng điểm
mũi nhọn ở Việt Nam. NXB. Khoa học xã hội. Hà Nội, 1996, tr.245.


3


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
2. Khái niệm chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế quốc dân là sự vận động, phát triển
của các ngành làm thay đổi vị trí, tương quan tỷ lệ và mối quan hệ, tương tác
giữa chúng theo thời gian, dưới tác động của những yếu tố kinh tế - xã hội
nhất định của đất nước và quốc tế.
Sự chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế ở tầm vĩ mô là kết quả của qúa
trình, trong đó bản thân các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hoặc
từng phân ngành của chúng vận động, phát triển dẫn đến sự thay đổi trong
tương quan tỷ lệ đã hình thành trước đó cũng như mối quan hệ tương đối ổn
định vốn có của chúng. Sự thay đổi này, nếu xem xét cụ thể trong một khoảng
thời gian xác định, được thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, sự thay đổi về số lượng và loại ngành trong nền kinh tế, do
sự xuất hiện thêm những ngành mới hoặc mất đi một số ngành đã có. Với việc
phân loại ngành kinh tế được chi tiết tới nội bộ từng ngành, tới các phân
ngành trong các ngành lớn như công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ… thì sự
thay đổi này sẽ dễ dàng nhận thấy.
Thứ hai, sự tăng trưởng về quy mô và tốc độ không đồng đều giữa các
ngành. Kết quả của sự không đồng đều này dẫn tới thay đổi tương quan tỷ lệ,
mối quan hệ giữa các ngành so với thời kỳ trước đó. Như vậy cơ cấu ngành
kinh tế quốc dân đã có sự thay đổi. Ngược lại, sự tăng trưởng đồng đều về
quy mô và tốc độ sau một giai đoạn phát triển của các ngành và duy trì tương
quan tỷ lệ, mối quan hệ giữa chúng như thời kỳ trước đó, sẽ không dẫn đến sự
thay đổi cơ cấu ngành. Điều này cho thấy, chỉ có xem xét đồng thời cả tốc độ
tăng trưởng, quy mô phát triển và tương quan tỷ lệ giữa các ngành trong mỗi
thời kỳ so với thời kỳ trước đó mới đánh giá đúng quá trình chuyển đổi cơ cấu

ngnàh.
Thứ ba, sự thay đổi tương quan hệ tác động qua lại giữa các ngành,
được thể hiện bằng số lượng các ngành có liên quan lẫn nhau, thể hiện qua
quy mô đầu vào mà các ngành này cung cấp cho các ngành kia hay ngược lại
4


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
ngành kia nhận được từ ngành này. Đây là sự thay đổi về mặt chất lượng cơ
cấu ngành, nó có liên quan đến thay đổi công nghệ sản xuất sản phẩm.
Chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế là sự thay đổi có mục đích, có định
hướng từ trạng thái này sang trạng thái khác hợp lý và hiệu quả hơn căn cứ
trên cơ sở lý luận và thực tiễn của đất nước trong từng thời kỳ. Đối với những
nước đang phát triển như Việt Nam, chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế là một
nội dung cơ bản, cốt lõi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phương
hướng chuyển đổi căn bản của cơ cấu ngành kinh tế quốc dân là tăng tỷ trọng
công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP và hướng vào
xuất khẩu.
Hiện nay, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa diễn ra trong điều
kiện nước ta mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, chuyển đổi
cơ cấu ngành kinh tế không chỉ chịu tác động của những yếu tố kinh tế - xã
hội trong nước mà còn chịu tác động lớn (đôi khi là tác động quyết định) của
những biến đổi kinh tế - xã hội khu vực và quốc tế (được làm sáng tỏ ở những
phần sau). Vì vậy, chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế quốc dân chỉ có thể thành
công theo mong muốn nếu xác định được phương hướng chuyển đổi và
những giải pháp thúc đẩy có tính toán đến các thay đổi kinh tế - xã hội trong
nước, những thay đổi nhanh chóng, khó lường của tình hình quốc tế và khu
vực. Ngược lại, xây dựng một cơ cấu ngành không tính đến những biến đổi
điều kiện trong nước, khu vực và quốc tế sẽ phải trả giá đắt trong tương lai.
3. Một số lý thuyết về chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế trong điều

kiện "mở cửa", hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
3.1. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối, lý thuyết lợi thế tuyệt đối (lợi thế so
sánh) thường được coi là cơ sở lý luận xuất phát của chiến lược công nghiệp
hóa và cơ cấu ngành hướng về xuất khẩu. Trong những năm gần đây, người ta
sử dụng khái niệm lợi thế cạnh tranh và coi khái niệm này rộng hơn so với
khái niệm "lợi thế so sánh" trong việc lý giải các hiện tượng và quá trình diễn
ra trong hoạt động thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế khu
5


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
vực và quốc tế trở thành xu thế tất yếu. Điểm khác nhau rất cơ bản giữa hai
khái niệm này là lợi thế so sánh được đo bằng chi phí cơ hội còn lợi thế cạnh
tranh được đo bằng giá cả thị trường. Một sản phẩm hay một công ty trong
nước có lợi thế cạnh tranh so với một sản phẩm hoặc một công ty nước ngoài
khác nếu nó có giá thành sản xuất thấp hơn và do đó có thể bán với giá rẻ
hơn. Lợi thế cạnh tranh chính là sức mạnh tổng hợp của những ưu thế cả yếu
tố đàu vào và yếu tố đầu ra của sản phẩm. Đó là chi phí cơ hội thấp nhất, năng
suất lao động cao (lợi thế so sánh), chất lượng sản phẩm đảm bảo, nguồn cung
cấp ổn định, chi phí vận chuyển và bảo quản thấp, môi trường thương mại tự
do, thuận lợi,v.v1. Có thể nói lợi thế so sánh là cơ sở đầu tiên của lợi thế cạnh
tranh và lợi thế cạnh tranh chỉ thực sự có khi lợi thế so sánh phát huy được
hiệu quả của nó. Bởi vậy, việc tận dụng các lợi thế so sánh, làm cho chúng
phát huy được hiệu quả thực sự trong cạnh tranh quốc tế luôn được các chính
phủ coi trọng. Ngoài các biện pháp chính sách như thuế quan, hạn chế nhập
khẩu, trợ cấp xuất khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, chính sách tỷ giá hối
đoái,v.v… các biện pháp chính sách của chính phủ nhằm khuyến khích phát
triển kỹ thuật và công nghệ, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, ổn định
và mở rộng thị trường, v.v… cũng có vai trò rất quan trọng trong việc nâng
cấp các lợi thế so sánh.

Có nhiều chỉ số để đánh giá về lợi thế so sánh hoặc khả năng cạnh
tranh, bao gồm: năng suất lao động, nhập khẩu (thể hiện nhu cầu), xuất khẩu
(thể hiện khả năng sản xuất). Năng suất lao động tăng cho thấy đã có sự cải
thiện về lợi thế so sánh. Nhập khẩu tăng nhưng là tăng nhập khẩu và các yếu
tố sản xuất với giá cả hợp lý, còn giảm nhập khẩu các sản phẩm tiêu dùng và
xuất khẩu cao thì lợi thế so sánh hay khả năng cạnh tranh của sản phẩm vẫn
được cải thiện.
3.2. Lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân đối hay "cực tăng
trưởng". Các nhà kinh tế học như A.Hirschman, F. Perrons, G.Pestane de
1

Trần Quang Minh: Lý thuyết lợi thế so sánh: sự vận dụng trong chính sách công nghiệp
và thương mại của Nhật Bản 1955 - 1990, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr.50

6


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
Bernis… là những người đưa ra "lý thuyết phát triển cơ cấu ngành không cân
đối" hay "cực tăng trưởng", cho rằng, không thể và không nhất thiết phải đảm
bảo tăng trưởng bền vững bằng cách duy trì cơ cấu cân đối liên ngành đối với
mọi quốc gia. Bởi vì:
Thứ nhất, do thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hóa, các nước đang
phát triển rất thiếu vốn, lao động kỹ thuật, công nghệ, thị trường nên không
đủ điều kiện để cùng một lúc phát triển đồng bộ tất cả các ngành hiện đại.
Thứ hai, trong mỗi giai đoạn phát triển của thời kỳ công nghiệp hóa,
vai trò "cực tăng trưởng" của các ngành trong nền kinh tế là không giống
nhau. Do đó, cần tập trung những nguồn lực khan hiếm cho một số lĩnh vực,
ngành trong một số thời điểm nhất định.
Thứ ba, việc phát triển cơ cấu ngành kinh tế không cân đối gây nên áp

lực, tạo ra sự kích thích đầu tư.
Với những căn cứ lý luận như vậy, các nhà kinh tế học kết luận rằng,
các nước phải phát triển cơ cấu ngành không cân đối. Lý thuyết này lúc đầu
không được người ta chú ý, do nó ngược với lý thuyết phát triển cân đối liên
ngành với ý tưởng xây dựng một nền kinh tế độc lập có cơ cấu ngành cân đối
để chống lại chủ nghĩa thực dân. Hơn nữa, nếu chấp nhận phát triển cơ cấu
kinh tế không cân đối và mở cửa là chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế, trong đó các nước chậm phát triển ở vào thế bất lợi. Nhưng, với
những hạn chế của việc thực hiện công nghiệp hóa và chuyển đổi cơ cấu
ngành kinh tế theo mô hình "thay thế nhập khẩu", "kế hoạch hoá tập trung" và
những thành công "thần kỳ" của các NICs Đông á, lý thuyết phát triển cơ cấu
ngành không cân đối hay các cực tăng trưởng đã được thừa nhận phổ biến. Từ
những năm 1980 trở đi, mô hình cơ cấu ngành không cân đối theo hướng
công nghiệp hóa, mở cửa, hướng ngoại đã trở thành xu thế chính ở các nước
đang phát triển.
3.3. Lý thuyết phát triển theo mô hình "đàn nhạn bay" do giáo sư
Kaname Akamatsu đề xướng. Từ những phân tích thực tế lịch sử phát triển
7


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
kinh tế của các nước và dựa trên lý thuyết lợi thế so sánh trong quan hệ quốc
tế, ông đã đưa ra những kiến giải về quá trình "đuổi kịp" (catch up) các nước
tiên tiến của các nước kém phát triển hơn. Theo ông, với những nước bắt đầu
công nghiệp hóa muộn hơn so với các nước đã phát triển, quá trình phát triển
công nghiệp hiện đại thường được bắt đầu với việc nhập khẩu một sản phẩm
mới từ các nước tiên tiến hơn, tiếp theo là sản xuất để thay thế nhập khẩu,
cuối cùng tiến tới sản xuất để xuất khẩu ra nước ngoài. Kaname Akamatsu đã
nhấn mạnh chuỗi phát triển: nhập khẩu - sản xuất - xuất khẩu trong nghiên
cứu thống kê của ông về thương mại và sản xuất của một số ngành công

nghiệp hiện đại ở Nhật Bản trước Chiến tranh thế giới thứ hai.
Đến năm 1973, Kojima, sau khi kết hợp với mô hình chu kỳ sản phẩm
của Raymond Vernon, đã phát triển mô hình này và gọi bằng tên mới "Rượt
đuổi chu kỳ sản phẩm (CPC)". Mô hình CPC, hay còn gọi là chuỗi nhập khẩu
- sản xuất - xuất khẩu - tái nhập khẩu, bao gồm 5 giai đoạn:
Giai đoạn 1 - du nhập sản phẩm: Đây là giai đoạn các nước nhập sản
phẩm mới từ nước ngoài về và bắt đầu tự sản xuất ra chúng, tuy nhiên sản
phẩm lúc này chưa thể cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu.
Giai đoạn 2 - thay thế nhập khẩu. Đây là giai đoạn phát triển tiếp theo
khi sản phẩm mới đã gia tăng mạnh thị phần trên thị trường nội địa. Được
khuyến khích phát triển bởi nhu cầu tiêu dùng trong nước, kỹ thuật - công
nghệ được triển khai và ngày càng được tiêu chuẩn hoá, làm cho sản xuất
trong nước có thể được thực hiện trên quy mô lớn với năng suất cao, chất
lượng được cải thiện, có thể tiến tới thay thế nhập khẩu.
Giai đoạn 3 - bành trướng xuất khẩu. Trong giai đoạn này, nhu cầu nội
địa đối với sản phẩm đã được đáp ứng về căn bản, kỹ thuật - công nghệ sản
xuất sản phẩm đã đựoc cải tiến và hoàn thiện. Sản phẩm được xuất khẩu ra
nước ngoài ngày càng tăng.
Giai đoạn 4- Hoàn thiện. Đây là thời kỳ cả nhu cầu nội địa lẫn nhau
cầu xuất khẩu sau khi được thoả mãn tối đa sẽ dần dần giảm xuống. Sản phẩm
8


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
bắt đầu giảm sút năng lực cạnh tranh so với sản phẩm của những nước phát
triển muộn hơn. Về mặt kỹ thuật, nền công nghiệp đã đạt đến mức ngang
bằng với các nước công nghiệp phát triển bắt đầu chuyển giao công nghệ sang
các nước kém phát triển hơn.
Giai đoạn 5 - nhập khẩu trở lại. Sản phẩm trong nước không còn đủ
sức cạnh tranh với các sản phẩm từ nước ngoài tràn vào và có giá rẻ hơn, chất

lượng cao hơn. Việc tiếp tục sản xuất các sản phẩm trở nên kém hiệu quả,
buộc phải chuyển sang sản xuất sản phẩm mới khác. Bước chuyển này là tất
yếu, và do đó phải nhập khẩu trở lại những sản phẩm trước đây đã xuất khẩu.
Năm giai đoạn trên của mô hình CPC thể hiện vòng đời phát triển của
một ngành công nghiệp. Mô hình CPC thực chất là một mô hình lợi thế so
sánh được xem xét trong trạng thái động đã được áp dụng ở Nhật Bản. Trong
quá trình phát triển theo mô hình CPC, lợi thế so sánh sẽ vận động và biến
đổi. Cụ thể, lợi thế so sánh của Nhật Bản đã chuyển dịch dần từ những sản
phẩm ban đầu sử dụng nhiều lao động sang các sản phẩm có hàm lượng vốn
và kỹ thuật ngày càng cao, công nghệ hiện đại. Quá trình chuyển dịch lợi thế
so sánh này diễn ra đồng thời với sự thay đổi cơ cấu của nền kinh tế Nhật Bản
dưới tác động của các chính sách kinh tế của chính phủ.
Mô hình "đàn nhạn bay" hay mô hình "Rượt đuổi chu kỳ sản phẩm" là
khuôn khổ lý thuyết chung về quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế trên
phạm vi thế giới. Với việc phân chia các giai đoạn như trên, sự chuyển đổi cơ
cấu ngành kinh tế là một quá trình liên tục mang tính khách quan. Khái niệm
"liên tục" ở đây như một sự rượt đuổi thực sự về sản phẩm và công nghệ giữa
các nước. Cũng theo cách phân chia này, quan điểm chuyển đổi cơ cấu ngành
của lý thuyết "đàn nhạn bay" có nhiều điểm tương đồng với "lý thuyết phát
triển cơ cấu ngành không cân đối", các cực tăng trưởng ở đây thay đổi theo
từng giai đoạn và nhân tố lợi thế so sánh trong quan hệ thương mại có ý nghĩa
quyết định sự thay đổi này.

9


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
II. THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở VIỆT
NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ KHU VỰC VÀ QUỐC TẾ TỪ
NĂM 1991 ĐẾN NAY.


1. Tổng quan về chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế.
1.1. Kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh và ổn định
Từ năm 1991 đến nay, nền kinh tế nước ta từng bước cấu trúc lại theo
chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP và các ngành kinh tế
thời kỳ 1991 - 2002.
Đơn vị tính: %
1991

1992

1994

1995

1996

1997

1998

1999

200

2001

2002


GDP
Nông - lâm -

5,8
2,18

8,7
6,88

8,8
3,37

9,54
4,8

9,34
4,4

8,15
4,33

5,76
3,53

4,77
5,23

0
6,79
4,63


6,89
2,98

7,04
4,06

thủy sản
Công nghiệp

7,71

12,8

13,4

13,6

14,5

12,6

8,33

7,68

10,1

10,4


9,44

và xây dựng
Dịch vụ

7,4

7,6

9,56

9,83

8,8

7,14

5,08

2,25

5,32

6,1

6,54

Nguồn: Niên giám thống kê năm 1996, 1999, 2001, 2002.
Tăng GDP như trên là kết quả của những thay đổi tích cực của nhiều
yếu tố.

Trước hết, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần kinh
tế đã thay đổi tích cực theo hướng chiến lược xác định trong từng thời kỳ.
Thứ hai, do tăng trưởng tiết kiệm, đầu tư, xuất nhập khẩu: sự tăng
trưởng của các ngành công, nông nghiệp và dịch vụ, trong đó công nghiệp
làm đầu tàu cho tăng trưởng chung của nền kinh tế; sự gia tăng của các sản
phẩm chủ yếu của nền kinh tế v.v…
Thứ ba, nhờ sự gia tăng khối lượng đầu tư phát triển xã hội, đầu tư của
khu vực nhà nước (xem bảng 2)
Thứ tư, mở cửa, hội nhập vào kinh tế khu vực và quốc tế đã có tác
động thúc đẩy mạnh đối với nền kinh tế nước ta, thể hiện ở những đóng góp
to lớn của tăng trưởng ngoại thương, đầu tư nước ngoài vào tăng trưởng của

10


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
các ngành cũng như toàn bộ nền kinh tế; tăng thu nhập, tạo việc làm, nâng cao
trình độ công nghệ - kỹ thuật. Những năm 1994- 1996, đầu tư nước ngoài và
xuất khẩu tăng mạnh đã đóng góp to lớn đẩy tốc độ tăng trưởng GDP lên cao:
năm 1995 đạt 9,54%, năm 1996 là 9,34%. Trong 2 năm 1998 - 1999 do tác
động của khủng hoảng tài chính - tiền tệ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu
giảm đã tác động làm giảm tốc độ tăng trưởng GDP.
Kết quả tăng trưởng GDP và các ngành lớn trong nền kinh tế đã góp
phần đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảng; tạo lòng tin của nhân
dân vào đường lối chuyển đỏi sang kinh tế thị trường định hướng XHCN của
Đảng và Nhà nước; tạo thế phát triển vững chắc để đi nhanh vào giai đoạn
tăng trưởng và phát triển cao hơn.
1.2. Cơ cấu ngành kinh tế đã chuyển đổi theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, phát huy các lợi
thế so sánh.


11


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
Tỷ trọng của ngành công nghiệp và xây dựng, dịch vụ - thương mại có
xu hướng tăng lên khá nhanh, tỷ trọng nông nghiệp giảm tương ứng; tỷ trọng
công nghiệp chế biến và các sản phẩm có giá trị gia tăng cao tăng lên. Xu
hướng này phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cùng với sự thay đổi mạnh mẽ tỷ trọng, giá trị sản lượng của các ngành
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ cũng tăng nhanh, nhờ có thay đổi cơ chế
kinh tế từ kế hoạch tập trung, khép kín sang cơ chế thị trường - mở cửa đã mở
đường cho lực lượng sản xuất có bước phát triển mới và tạo khả năng huy
động, phân phối, sử dụng các nguồn lực hiệu quả.
Cơ cấu ngành chuyển đổi mạnh theo hướng tăng tỷ phần công nghiệp
và dịch vụ. Công nghiệp và dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn là do mức
đầu tư phát triển, đầu tư nước ngoài dành cho hai nhóm này tăng nhanh hơn.
Còn khu vực nông nghiệp do chỉ dựa chủ yếu vào vốn đầu tư của các hộ gia
đình nông dân, còn mức đầu tư phát triển xã hội dành cho ít hơn, lại bị cản trở
bởi điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cho nên tốc độ tăng trưởng đạt được thấp
hơn hai khu vực kia.
Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế chuyển đổi theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hóa. Tuy diễn ra còn chậm và kết quả chuyển đổi cơ cấu
sản lượng theo ngành chưa tỷ lệ thuận với chuyển đổi cơ cấu lao động, nhưng
tiến trình chuyển đổi cơ cấu lao động trên đây là một bước tiến bộ trong phân
bổ nguồn lực lao động xã hội vào quỹ đạo chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

12



TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
1.3. Cơ cấu ngành kinh tế đã chuyển đổi theo chính sách mở cửa, hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế, định hướng tăng trưởng xuất khẩu.
Thứ nhất, sự thay đổi cơ cấu đầu tư phát triển xã hội đã hỗ trợ, thúc
đẩy chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa mở cửa và hội nhập.

13


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ

Bảng 2: Vốn đầu tư phát triển qua các năm
(Theo giá thực tế)
Chia ra
Tổng số
Năm
Nghìn tỷ
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999

2000
2001
2002

Tăng

đồng
%
7.581
13.470
79.2
24.736
84.3
42.176
74.3
54.296
31.9
72.447
26.8
87.394
20.6
108.371
24.0
117.134
8.0
131.170
12.0
145.333
10.8
163.543

12.5
193.099 18.07

Khu vực nhà

Ngoài quốc doanh

nước
Nghìn tỷ Tăng
đồng
3.057
5.114
8.687
18.555
20.796
30.447
42.894
53.570
65.034
76.958
83.567
95.020
106.231

Nghìn tỷ

%
67.3
69.9
13.6

12.0
46.4
40.8
12.9
21.4
18.3
8.6
13.7
11.8

đồng
3.544
6.430
10.864
13.000
17.000
20.000
21.800
24.500
27.800
31.542
34.593
38.512
52.111

Tăng %
81.4
68.9
19.6
30.7

17.6
9.0
12.3
13.4
13.4
9.6
11.3
35.3

Khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài
Nghìn tỷ
Tăng
đồng
0.990
1.926
5.185
10.621
16.500
22.000
22.700
30.30
24.30
22.670
27.171
30.011
755

%
94.5

69.2
104.8
55.3
33.3
22.7
12.2
-19.8
-6.7
19.8
10.4
15.8

Nguồn: - Số liệu thống kê - kinh tế - xã hội Việt Nam 1975 - 2000
- Niên giám thống kê năm 1996, 1999, 2001, 2002.
Đầu tư phát triển xã hội tăng lên cả về quy mô và tốc độ tăng trưởng
tạo nguồn lực cho phát triển sản xuất.
Nhà nước đã có chính sách thu hút nguồn vốn khác nhau vào phát triển
các vùng kinh tế trọng điểm và tài trợ cho các vùng chậm phát triển, vùng khó
khăn.
Đầu tư phát triển đã hướng vào sản xuất xuất khẩu, phát triển nhanh các
ngành công nghiệp, nông nghiệp làm hàng xuất khẩu, phát triển các ngành
dịch vụ thu ngoại tệ, tăng hiệu quả sử dụng vốn luôn đặt ra đối với tất các các
khu vực kinh tế: nhà nước, ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài đã trở thành mối quan tâm lớn đối với các ngành, các khu vực của nền
kinh tế.
Thứ hai, đầu tư của khu vực kinh tế trong nước, trong đó khu vực nhà
nước chiếm tỷ trọng lớn, đã hướng vào các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu.

14



TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
Đầu tư của khu vực kinh tế trong nước (khu vực nhà nước và khu vực
ngoài quốc doanh) chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư xã hội và đã đóng
góp với tỷ trọng lớn vào xuất khẩu hàng hóa.
Đầu tư nhà nước chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng vốn đầu tư phát triển
xã hội và đã đóng góp nhất định vào tăng trưởng. Đầu tư nhà nước tăng nhanh
là một nhân tố quan trọng chặn đà giảm sút tốc độ tăng trưởng những năm
qua, mặc dù nguồn đầu tư đó còn dựa chủ yếu vào ngân sách nhà nước.
Đầu tư nhà nước theo ngành từ nguồn ngân sách đã được cơ cấu lại
hướng vào việc tạo lập môi trường, các điều kiện chung cho sự chuyển đổ cơ
cấu ngành và phát triển các yếu tố thị trường, thay vì đầu tư trực tiếp cho sản
xuất của ngành theo cơ chế bao cấp trước đây. Chính những tác động của việc
"mở cửa" nền kinh tế, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường làm thay đổi
phương hướng đầu tư nhà nước.
Vốn đầu tư Nhà nước dành cho nông - lâm nghiệp - thủy sản được đầu
tư cho thuỷ lợi tới 70%, ngoài ra còn dành cho phát triển cây công nghiệp dài
ngày, phổ biến và ứng dụng khoa học - kỹ thuật nông nghiệp và phát triển một
số hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp như giao thông, điện khí hoá nông
thôn. Trong công nghiệp đầu tư công cộng được ưu tiên cho các ngành then
chốt như điện, xi măng, thép, phân bón, hoá dầu và chế biến nông sản, sản
xuất hàng tiêu dùng phục vụ xuất khẩu như dệt, may, giày dép, lắp ráp điện
tử.
Đầu tư nhà nước cho cơ sở hạ tầng, thương mại, khoa học - kỹ thuật,
giáo dục và đào tạo, y tế cũng tăng nhanh. Đây được coi là một bước chuyển
biến tích cực nhằm cơ cấu lại đầu tư theo hướng phát triển mạnh các ngành
dịch vụ hiện đại, thích ứng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đầu tư của doanh nghiệp nhà nước được tập trung vào các ngành khai
thác lợi thế sẵn có như lao động dồi dào, giá rẻ, phát triển những sản phẩm có
hàm lượng lao động cao như dệt may, giày dép, nước giải khát… Hiện nay,

trước yêu cầu phải chặn đà giảm sút tăng nhanh trở lại tốc độ tăng trưởng,
doanh nghiệp nhà nước hướng đầu tư vào các ngành công nghiệp được bảo
hộ, các ngành sử dụng nhiều vốn và các ngành xuất khẩu theo hạn ngạch ưu
đãi, một số ngành độc quyền hoặc độc quyền bán phần.

15


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã hướng đầu tư vào chiều sâu, cải tiến
kỹ thuật, đổi mới thiết bị để nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh sản
phẩm. Đầu tư của doanh nghiệp nhà nước đã dần dần hướng vào phục vụ
nông nghiệp và nông thôn, tạo sự liên kết ngày càng chặt chẽ giữa công
nghiệp và nông nghiệp.
Đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh đã đóng góp tích cực, thúc đẩy
chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng hội nhập.
Thứ ba, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã thúc đẩy quá trình
chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế quốc dân hướng vào tăng trưởng xuất khẩu.
FDI ở Việt Nam là một nguồn vốn bổ sung vào vốn đầu tư phát triển xã
hội, đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng nền kinh tế (xem bảng 3).
Bảng 3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành

100
5,2
4,0
1,2
46,3
35,2
5,6
11,1

48,5
13,7
7,5

Từ 1988 đến hết năm
2002
Tổng vốn
đăng ký
%
(Tr.USD)
43.194,0
100
1.813,7
4,2
1.433,3
3,3
380,4
0,9
24.132,2
55,9
19.422,4
45,0
4.709,8
9,7
4.696,5
10,9
17.248,1
39,9
5.013,5
11,6

3.676,8
8,5

0,64
1,0
25,7

248,4
607,6
7.702,1

Từ 1988 đến hết năm 1996
Tổng vốn
đăng ký
(Tr.USD)
Tổng vốn
26.974,3
1. Nông - lâm - thủy sản
1.394,6
- Nông, lâm nghiệp
1.086,8
- Thủy sản
307,8
2. Công nghiệp và XD
12.490,5
- Công nghiệp
9.508,5
Trongđó: CN dầu khí
1.504,6
- Xây dựng *

2.982,0
3. Dịch vụ
13.089,1
- Khách sạn, du lịch
3.692,1
- Giao thông vận tải, bưu 2.006,0
điện
- Tài chính - ngân hàng
174,3
- Văn hóa - y tế- giáo dục
276,5
- Dịch vụ khác**
6.940,2
Ngành

%

* Bao gồm cả xây dựng khu chế xuất
** Bao gồm cả xây dựng văn phòng và căn hộ.
Nguồn: Niên giám thống kê năm 1996, 1999, 2001, 2002.

16

0,6
1,4
17,8


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
FDI đã có tác dụng làm tăng cả số lượng và chất lượng đầu tư,bởi vì

nguồn vốn này thường đi kèm với công nghệ, kỹ thuật và trình độ quản lý tiên
tiến. FDI đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình
chuyển đổi cơ cấu ngành hướng vào xuất khẩu, thể hiện:
- Thay đổi tỷ trọng giữa ba khu vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch
vụ.
- FDI đã hướng vào các ngành phục vụ xuất khẩu và đã đóng góp tỷ
trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả nước. Có hai ngành chiếm
tỷ trọng xuất khẩu cao là dầu khí và công nghiệp thực phẩm.
- FDI đã có hướng chuyển đầu. Nếu những năm đầu đổi mới, FDI tập
trung vào lĩnh vực thăm dò dầu khí và xây dựng khách sạn, các ngành công
nghiệp xi măng, đồ uống, sản phẩm kim loại, lắp ráp điện tử và lắp ráp ô tô,
xe máy, thì gần đây, FDI có sự dịch chuyển, hướng sang các ngành giao thông
vận tải, bưu chính - viễn thông, xây dựng văn phòng cho thuê và khu công
nghiệp.
Thứ tư, chuyển đổi cơ cấu ngành theo chiến lược tăng trưởng hướng
vào xuất khẩu được thể hiện qua sự thay đổi cơ cấu thương mại.
Chuyển đổi cơ cấu ngành được thể hiện ở sự thay đổi cơ cấu mặt hàng
xuất khẩu:
Kim ngạch và tốc độ tăng xuất khẩu đạt cao làm tăng mức độ mở cửa
nền kinh tế, thúc đẩy cơ cấu ngành từng bước chuyển đi phù hợp theo xu
hướng mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu đã có bước chuyển biến tích cực ngày càng đa dạng.
Trước năm 1989, mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nông lâm nghiệp - thủy sản, chiếm 62,7%, mặt hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ
công nghiệp chiếm 29,8%, công nghiệp nặng và khai khoáng chiếm 7,5%. Từ
năm 1989, nước ta đã xuất khẩu dầu thô và gạo với khối lượng lớn nên lần
đầu tiên kim ngạch xuất khẩu Việt Nam vượt con số 1 tỷ, đạt 1.946. Tỷ trọng
các nhóm hàng xuất khẩu có biến đổi: công nghiệp nặng và khai khoáng có xu
17



TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
hướng giảm xuống (năm 1992 là 37% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa,
đến năm 2002 là 29.0%); xuất khẩu hàng nông sản cũng có xu hướng giảm
(năm 1991 là 52.1%, đến năm 2002 còn chiếm 30.0%) nhưng vẫn chiếm tỷ
trọng cao; xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng lên,
từ 14,4% năm 1992 lên 41,0% vào năm 2002.
Số lượng, kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã tăng lên và
nhiều mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD.
Bảng 4: 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực giai đoạn 1991 - 1995.
Mặt hàng

1991
Triệu

1.Dầu thô
2. Dệt may
3. Thuỷ sản
4. Gạo
5. Giầy dép
6.Than đá
7. Cà phê
8. Cao su
9. Hạt điều
10.
Lạc

USD
580
116
252

230
15
47
74
51
24
40

nhân
% tổng kim

%
27.9
5.6
12.1
11.0
00.7
22.3
33.6
22.4
1.2
19
68.7

1992
Triệu
USD
840
161
305

40.4
16
51
91
64
41
32

1993
Triệu

%
33.9
6.5
12.3
16.4
0.6
2.1
3.8
2.6
1.7
1.3
81.2

USD
866
450
427
358
24

60
119
71
58
47

%
29.0
15.1
14.3
12.3
0.8
2.0
4.0
2.4
1.9
1.6
83.1

1994
Triệu
USD
976
554
551
423
100
88
249
143

110
78

%
24.1
13.7
13.6
10.4
2.5
2.2
6.1
3.5
2.7
1.9
80.7

1995
Triệu
USD
1074
700
620
550
250
119
560
77
92
46


%
19.7
12.8
11.7
10.1
4.6
2.2
10.3
1.4
4.6
0.8
77.9

ngạch XK

Nguồn: Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu Việt Nam tới năm 2010
+ Chất lượng hàng xuất khẩu đã từng bước được cải thiện: Chất lượng
gạo (gạo phẩm cấp cao tăng), thủy sản (một số mặt hàng thủy sản đã thâm
nhập được những thị trường khó tính như EU), các mặt hàng may mặc, giầy
dép, hàng điện tử, máy tính v.v… đã được nâng lên, khối lượng xuất khẩu
hàng tiếp sang các thị trương tiêu thụ tăng đáng kể.
* Chuyển đổi cơ cấu ngành được thể hiện ở sự chuyển đổi tích cực cơ
cấu mặt hàng nhập khẩu.
Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, do đầu tư
nước ngoài giảm cho nên nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị giảm làm giảm

18


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ

tốc độ tăng trưởng nhập khẩu. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu, tỷ trọng nhập
khẩu tư liệu sản xuất tăng lên, hàng nhập khẩu quan trọng nhất là xăng,
dầu,thép, phân bón, linh kiện điện tử và máy tính, nguyên liệu cho dệt may,
giầy da. Trong số đó, chỉ có nguyên liệu cho hàng dệt may và giầy da phục vụ
gia công xuất khẩu, đa số nhập khẩu còn lại là phục vụ sản xuất thay thế nhập
khẩu. Cơ cấu nhập khẩu như vậy vừa là kết quả, vừa là nhân tố thúc đẩy phát
triển cơ cấu xuất hướng vào thị trường trong nước, thay thế nhập khẩu.
Khu vực FDI tăng nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng các công
trình, nhằm phát triển sản xuất và nhập khẩu nguyên liệu sản xuất gia công để
bán trên thị trường nội địa hơn là xuất khẩu.
* Chuyển đổi cơ cấu ngành thể hiện ở sự thay đổi cơ cấu thương mại
trong nước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ở thị trường trong
nước năm 2002 tăng 1,87 lần so với năm 1996. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ bình quân hàng năm thời kỳ 1991 - 2002 tăng 23,24%/năm.
Tuy vậy, nhìn chung, tổng mức bán lẻ trên thị trường trong nước tăng chậm,
chất lượng hàng hoá thấp, chủng loại nghèo nàn, đơn điệu, mẫu mã còn chưa
hấp dẫn. Về cơ bản nền thương nghiệp còn nhỏ bé, phân tán, manh mún, hệ
thống luật pháp còn chưa đồng bộ, công tác quản lý thị trường, chống buôn
lậu và gian lận thương mại hiệu quả chưa cao.
* Đa phương hóa thị trường xuất nhập khẩu đã góp phần thúc đẩy
chuyển đổi cơ cấu ngành hướng vào tăng trưởng xuất khẩu (xem bảng 5)

19


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ

Bảng 5: Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 1991 - 2002.
Đơn vị tính: %

+ Châu á
- Đông Nam á
- Các nước
Châu Á khác
+ Châu Âu
+Châu Mỹ
- Mỹ
+ Châu Phi
+Châu Úc

1991
76.9
25.1
51.8

1994
72.0
22.0
50.0

1995
72.4
20.4
52.0

1996
72.4
24.5
47.9


1997
65.51
22.02
43.49

1999
56.8
21.8
35.0

2001
55.0
16.0
39.0

2002
50.4
14.5
35.9

17.1
0.3

13.9
3.4
2.3
0.5
1.2

18.0

4.4
3.1
0.7
1.0

16.15
4.13
2.8
0.37
1.0

24.03
4.64
3.17
0.54
2.78

25.19
5.73
5.01
0.6
5.39

21.6
8.1
2.54

19.3
15.7
14.5


7.06

8.2

0.6
0.2

Nguồn: Niên giám thống kê năm 1996, 1999, 2001, 2002.
2. Nhà nước và thị trường cùng tham gia vào qúa trình chuyển đổi
cơ cấu ngành kinh tế.
Vai trò kinh tế nhà nước tăng lên, nhưng sự can thiệp trực tiếp có xu
hướng giảm. Là người khởi xướng công cuộc đổi mới kinh tế. Nhà nước đã
thông qua việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội dài hạn, trung hạn, ngắn hạn để định hướng chiến lược và thực hiện
chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế quốc dân. Những nỗ lực hoàn thiện các chính
sách kinh tế vĩ mô, việc ban hành các luật phù hợp với yêu cầu thị trường và
hội nhập quốc tế: Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài, Luật Hải quan,
Luật thuế GTGT và nhiều văn bản dưới luật, việc công bố lịch trình, danh
mục cắt giảm thuế quan và phi thuế quan,v.v… phù hợp với thông lệ khu vực
AFTA/ASEAN, APEC, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và những thông lệ
quốc tế (WTO) đã thể hiện bước đầu thích ứng của nhà nước với tình hình
mới. Nhà nước đã cố gắng tạo môi trường pháp lý, kinh tế cho các chủ thể
kinh tế hoạt động và cạnh tranh lành mạnh bằng việc nỗ lực thực hiện cải
cách hành chính, hoàn thiện cơ chế, chính sách, phương thức tác động, ổn
định chính trị - xã hội, cung cấp các dịch vụ công cộng và tăng cường gắn kết
vai trò của Chính phủ với doanh nghiệp. Nhà nước vừa tạo điều kiện thuận
20


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ

lợi, tháo gỡ những vướng mắc trong hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, vừa điều tiết hoạt động và phân phối lợi ích công bằng
thông qua các công cụ chính sách như thuế, tín dụng, v.v… Những nỗ lực của
Nhà nước trong những năm qua đã có tác dụng tích cực trong việc thực hiện
chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
mở cửa, hội nhập. Tuy vậy, việc phát huy vai trò của Nhà nước trong việc
điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế cũng bộc lộ nhiều hạn chế (trong công tác
quy hoạch, trong việc tạo môi trường pháp lý và kinh tế, môi trường cạnh
tranh, tiếp cận bình đẳng các nguồn lực giữa các chủ thể,v.v.) làm chậm tốc độ
chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế quốc dân.
+ Giải pháp thị trường thực hiện điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế theo
hướng CNH, HĐH và mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế được áp dụng ngày
càng tăng. Thực hiện chủ trương chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN và có sự quản lý của Nhà nước, yếu tố thị
trường (trong nước và ngoài nước) đã bắt đầu tham gia trong việc định hướng
phân bổ nguồn lực đầu tư, lựa chọn ngành nghề, hình thức kinh doanh.Cùng
với sự "cởi trói" của Nhà nước, dưới tác động của thị trường, các thành phần
kinh tế, các chủ thể tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng đa
dạng hoá, kinh tế ngoài quốc doanh đã phát triển "bùng nổ", nhiều ngành
nghề kinh doanh mới xuất hiện, nhiều sản phẩm phục vụ tiêu dùng nội địa và
xuất khẩu, nhiều loại hình dịch vụ được phát triển. Sự điều chỉnh của thị
trường đối với sự chuyển đổi cơ cấu ngành đã bắt đầu có tác dụng khắc phục
những hạn chế của sự điều tiết mang tính hành chính của Nhà nước, mặc dù
vẫn còn rất khiêm tốn. Trên thực tế mặt trái của sự điều tiết qua thị trường
trong việc điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế nói riêng, và đối với quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hóa nói chung đã bộc lộ. Sự tự phát trong đầu tư,
phát triển những ngành nghề dẫn đến cơ cấu dàn trải, chồng chéo, trùng lắp,
trang bị công nghệ lạc hậu.Sự "bùng nổ" dịch vụ nông thôn kém chất lượng
làm giảm hiệu quả của những giải pháp điều tiết của thị trường.
21



TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
Qua phân tích thực trạng chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế trên đây có
thể khái quát những thành tựu to lớn của quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành
kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tiến trình mở
cửa hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực từ năm 1991 đến nay như sau:
+ Trong cơ cấu nội dung của nền kinh tế quốc dân, xét về giá trị sản
phẩm và về lao động thì tỷ trọng ngành công nghiệp tăng lên, còn tỷ trọng
nông nghiệp giảm.
+ Cơ cấu ngành công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ có sự biến chuyển
tích cực theo hướng CNH và từng bước HĐH, mở cửa, hướng vào tăng
trưởng xuất khẩu, phát huy các lợi thế so sánh gắn với đáp ứng nhu cầu thị
trường (trong nước và quốc tế), giải quyết nhiệm vụ xã hội, tạo việc làm và
bước đầu gắn kết với chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu thành phần
kinh tế.
+ Các ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch theo hướng tiếp cận các công
nghệ tiên tiến, hiện đại, tốc độ chuyển giao công nghệ tăng lên, trình độ công
nghệ của một số ngành đã có tiến bộ rõ rệt.
+ Nền kinh tế nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng, suy thoái và đã vượt
qua giai đoạn suy giảm tăng trưởng, đạt mức tăng trưởng cao, chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh của một số sản phẩm, một số lĩnh vực có sự
chuyển biến tích cực.Danh mục sản phẩm có khả năng cạnh tranh khá trên thị
trường ngày càng được mở rộng và một số sản phẩm thương hiệu Việt Nam
đã đạt tiêu chuẩn quốc tế.
3. Những hạn chế chủ yếu của quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành
kinh tế theo chiến lược CNH, HĐH mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế.
Thứ nhất, sự chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế quốc dân theo chiến
lược CNH, HĐH và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực còn rất chậm,

cả về tỷ trọng lẫn chất lượng. Xét về lượng, từ năm 1991 đến năm 1997, về cơ
bản sự chuyển đổi cơ cấu ngành tuân theo quy luật chuyển đổi cơ cấu trong
22


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (tỷ trọng trong GDP của công nghiệp
và dịch vụ tăng lên, nông nghiệp giảm xuống). Nhưng từ năm 1998, sự
chuyển đổi cơ cấu ngành không tuân theo triệt để quy luật đó: tỷ trọng trong
GDP của ngành công nghiệp tăng nhanh và tỷ trọng của ngành nông nghiệp
giảm xuống là thể hiện sự phù hợp, còn tỷ trọng dịch vụ giảm xuống (chuyển
dịch ngược).Sự chuyển đổi cơ cấu ngành chậm còn thể hiện trong nội bộ các
ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
Xét một cách tương đối, mức độ chuyển đổi cơ cấu ngành theo quy luật
chuyển đổi cơ cấu ngành trong quá trình CNH, HĐH và theo chiến lược tăng
trưởng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay còn ở trình độ tương đương các nước
ASEAN vào khoảng trước năm 1980. Chẳng hạn, Philippin năm 1980 tỷ
trọng công nghiệp trong GDP chiếm 38,8%; nông nghiệp 25,1%; dịch vụ
36,1%. Cùng năm đó ở Malaixia, công nghiệp chiếm tỷ trọng 35,8% GDP,
nông nghiệp 22,9%, dịch vụ 41,3%. Kể từ năm 1980, các nước ASEAN đã
chuyển sang chiến lược hướng vào xuất khẩu dựa vào tăng trưởng xuất khẩu
các sản phẩm chế tạo và chế biến, còn ở Việt Nam hiện nay, cơ cấu ngành vẫn
nghiêng về thay thế nhập khẩu. Trong công nghiệp đầu những năm 1980, Đài
loan bắt đầu chiến lược phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp có
giá trị gia tăng cao và công nghiệp tiết kiệm năng lượng. Đến năm 1990, sản
phẩm công nghệ cao là đã chiếm tới 40,2% tổng giá trị xuất khẩu, bao gồm
các sản phẩm điện tử, tin học và thiết bị đạt tiêu chuẩn quốc tế. Từ đầu những
năm 1990, Đài Loan vừa phát triển mạnh các ngành công nghệ cao đồng thời
chuyển các ngành công nghiệp truyền thống ra nước ngoài. Hàn Quốc đầu
những năm 1980 đã điều chỉnh và cải tổ cơ cấu kinh tế theo các ngành có hàm

lượng kỹ thuật cao, thực hiện tự do hóa và mở cửa nền kinh tế. Còn ở Việt
Nam hiện nay, nền kinh tế về cơ bản đang ở giai đoạn chuyển từ nền kinh tế
nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, chủ yếu khai thác lợi thế "tĩnh"
(tài nguyên đất đai, lao động) để thực hiện chiến lược hướng vào xuất khẩu.
Ngành dịch vụ Việt Nam năm 2002 mới chỉ chiếm 38,46% GDP, trong khi đó
23


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
năm 1986, ngành dịch vụ của Malaixia chiếm tới 40% GDP, Inđônêxia là
41,0%, Philippin là 40,66%. Trong nội bộ ngành dịch vụ mỗi nước, dịch vụ
tài chính của Malaixia chiếm 13,7%, Inđônêxia chiếm 17,5%, Philippin chiếm
7,7% thì ở Việt Nam năm 2002, dịch vụ tài chính tín dụng mới chiếm 4,73%.
Tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ nước ta thấp và tỷ trọng ngành dịch vụ
trong GDP giảm sút kể từ năm 1996 tới nay là do giảm sút tỷ trọng của các
ngành thương mại (từ 37,3% năm 1996 xuống 36,67% năm 2002), du lịch
khách sạn (từ 8,45% xuống 8,32%) và tốc độ tăng chậm của các ngành dịch
vụ khác như: hoạt động khoa học và công nghệ, dịch vụ tư vấn và kinh doanh
tài sản,v.v…
Quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành còn chưa làm thay đổi căn bản về
chất của cơ cấu ngành, chưa tạo được sự nhảy vọt trong cơ cấu, chưa tăng
cường sự gắn kết chặt chẽ giữa các ngành công, nông nghiệp và dịch vụ, giữa
các phân ngành, phân nhánh ngành của nội bộ ngành đó. Có thể nhận thấy
hạn chế này trong công tác quy hoạch phát triển cơ cấu ngành, cơ cấu đầu tư,
cơ cấu phân công lao động xã hội theo ngành. Chẳng hạn: tác động của công
nghiệp tới phát triển nông nghiệp và nông thôn còn hạn chế, cụ thể như, công
nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản còn yếu, phát triển chậm, chưa đáp ứng
yêu cầu chế biến nguyên liệu nông - lâm - thủy sản; cơ khí nông nghiệp phát
triển không ổn định, lao động trong khu vực liên quan đến cơ khí hoá nông
nghiệp giảm sút, mức độ cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp còn thấp,

chế biến nông sản còn dừng ở trình độ sơ chế và dùng lao động thủ công
làchủ yếu v.v… Các ngành, loại hình dịch vụ tài chính - ngân hàng, khoa học
- công nghệ, tư vấn, các dịch vụ sử dụng nhiều trí tuệ, chất xám phát triển
chậm, chưa đáp ứng kịp thời và ngày càng cao cho phát triển các ngành công,
nông nghiệp, cũng như toàn bộ nền kinh tế.
Thứ hai, xu hướng cơ cấu ngành nghiêng về hướng nội, thay thế nhập
khẩu, chưa triệt để theo chiến lược tăng trưởng hướng vào xuất khẩu. Trong
cơ cấu công nghiệp, phát triển các ngành nghiêng về hướng nội, sử dụng
24


TiÓu luËn Kinh tÕ chÝnh trÞ
nhiều vốn, sử dụng ít lao động, thậm chí sử dụng lãng phí vốn xã hội, không
tạo điều kiện nhảy vọt cơ cấu và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa đi
vào kinh tế tri thức. Cụ thể như: trong danh mục các sản phẩm chủ yếu và
tăng trưởng nhanh có đa số các sản phẩm có xu hướng tiêu thụ chủ yếu trên
thị trường nội địa, còn xuất khẩu chiếm phần nhỏ, đa số là những ngành đòi
hỏi nhiều vốn, như thép, xi măng, khai thác dầu khí, đồ uống, lắp ráp điện tử,
xe máy; nhiều sản phẩm tăng trưởng quá nhanh, cung đã vượt cầu nhưng vẫn
tiếp tục đầu tư mở rộng trên quy mô (điển hình như thép, xi măng, mía
đường). Những ngành mức tăng trưởng thấp và là ngành gia công, hầu như
không có tác động cải biến kỹ thuật và công nghệ, có tỷ lệ xuất khẩu cao và
sử dụng nhiều lao động thì được chú trọng phát triển, như dệt, may; các ngành
mũi nhọn phát triển, có hàm lượng công nghệ - kỹ thuật và lao động cao như
điện và điện tử và một số ngành chế tạo ô tô, xe máy thì còn "non trẻ" vẫn còn
ở trình độ lắp ráp, chưa đủ sức cạnh tranh quốc tế.
Trong cơ cấu sản phẩm khu vực nông - lâm nghiệp - thủy sản chủ yếu
là sản xuất tự cung tự cấp, tuy trong cơ cấu ngành đã có nhiều sản phẩm
hướng vào xuất khẩu, như gạo, cà phê, chè, hạt tiêu, hạt điều, thịt lợn chế
biến, các sản phẩm thủy sản, nhưng những ngành mới thay thế ngành sản xuất

khai thác lợi thế có sẵn chưa nhiều, các ngành sản xuất sản phẩm nông nghiệp
hàng hóa còn chiếm tỷ lệ nhỏ.
Trong khu vực dịch vụ, cơ cấu ngành, loại hình dịch vụ chất lượng cao
hướng đi xuất khẩu còn chiếm tỷ trọng nhỏ, các ngành dịch vụ "xuất khẩu tại
chỗ", dịch vụ cho nền kinh tế hiện đại để hội nhập sâu vào kinh tế khu vực và
quốc tế còn chưa phát triển mạnh.
Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu chậm đổi mới, còn rõ nét "thay thế nhập
khẩu", mặc dù tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao, kim ngạch xuất khẩu gia
tăng mạnh hơn chục năm qua. Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu sản phẩm thô, hàng
sơ chế hiện vẫn còn chiếm trên 60%, trong khi tỷ trọng này ở Trung Quốc
cách đây 10 năm chỉ còn là 25,6%. Tỷ trọng nhóm hàng nguyên liệu nhập
25


×