Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

vai trò của thị trường chứng khoán và sự cần thiết của việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở việt nam TIỂU LUẬN CAO học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.22 KB, 33 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sau cuộc cải cách kinh tế Việt Nam đã có nhiều thành công trong sự nghiệp
phát triển kính tế của mình.Cuộc cải cách này đã có những tác động rất lớn tới toàn
bộ đời sống kính tế xã hội và tạo ra những chuyên biến tích cực trong nền kính tế
.Chính vì vậy mà đã xuất hiện những cơ sở vững chắc và ngày càng lớn mạnh để hình
thành thị trường tài chính ,quan trọng nhất là sự hình thành thị trường chứng khoán
tại Việt Nam. Cách đi từng bước và chính xác trên con đường để đi tới một nền kinh
tế thị trường phát triển là một điều rất hoan nghênh. Tiến trình cải cách cũng cho ra
đời một thị trường tiền tệ với sự xuất hiện hàng loạt các hợp tác xã tín dụng, ngân
hàng thương mại cổ phần, công ty tài chính song song với sự chuyển đổi các ngân
hàng quốc doanh trở thành những ngân hàng chuyên doanh. Một số ngân hàng liên
doanh với nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng bắt đầu được cấp
giấy phép hoạt động tại Việt Nam. Điều này đã chứng tỏ nhu cầu về vốn ngày càng
tăng mà đòi hỏi phải có những biện pháp và công cụ hữu hiệu để mở rộng việc huy
động vốn nhãn rỗi cả của khu vực dân cư ở trong nước và của nước ngoài. Để làm
được điều này vào năm 1990, Việt Nam đã ban hành đạo luật về công ty trách nhiệm
hữu hạn và Công ty cổ phần. Các doanh nghiệp theo mô hình cổ phần, đặc biệt trong
lĩnh vực: dịch vụ, thương mại, tài chính, ngân hàng đã được thành lập. Thêm vào đó
từ năm 1993 trở đi, nhà nước Việt Nam cũng đã thực hiện rộng rãi việc cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước gần đây Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng được sửa
đổi cho phép người nước ngoài tham gia trực tiếp đâù tư dưới hình thức góp vốn cổ
phần vào các công ty cổ phần tại Việt Nam.
Tất cả các điều trên nói lên một thị trường vốn mà đỉnh cao là thị trường chứng
khoán đã có cơ sở để hình thành tại Việt Nam. Sự ra đời của thị trường chứng khoán
tại Việt Nam cũng là một yêu cầu tất yếu. Cách thức huy động vốn trên thị trường
chứng khoán rất thuận tiện khắc phục được những nhược điểm của các biện pháp huy
1


động vốn hiện nay. Hiện tại cách huy động vốn của Việt Nam hiện nay là phát hành
tín phiếu, kỳ phiếu kho bạc và tiền gửi tiết kiệm. Theo cách huy động vốn này, chỉ


khi đến hạn người sở hữu các loại kỳ phiếu mới được thanh toán cả gốc và lãi, còn
đối với người gửi tiền tiết kiệm nếu rút tiền trước thời hạn thanh toán, họ sẽ mất
quyền được hướng lãi. Trong điều kiện hiện nay thì vấn đề đầu tư vốn gặp phải khó
khăn thực sự. Sự ra đời của thị trường chứng khoán sẽ giải quyết được các trở ngại
nói trên. Trên thị trường chứng khoán người thừa vốn (các nhà đầu tư ) có thể mua và
bán chứng khoán bất kỳ lúc nào họ muốn, không bị câu nệ về thời gian và không bị
làm phiền hà, ràng buộc về thủ tục mua bán. Chính nhờ sự thuận tiện và thông thoáng
này mà từ lâu thị trường chứng khoán đã trở thành môi trường đầu tư hấp dẫn đối với
những người có vốn nhàn rỗi, những người kinh doanh chứng khoán. Thông qua thị
trường chứng khoán nhiều nuớc đã huy động được một khối lượng lớn vốn đầu tư
nước ngoài và tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi trong nước bỏ vào phát triển sản
xuất kinh doanh.
Để đáp ứng những nhu câu trên phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, ngày
28/11/1996, Thủ tướng Chính phủ đã kỳ Nghị định 75/CP khai sinh ra Uỷ Ban chứng
khoán Nhà nước Việt Nam ( UBCKNN ) với mong muốn thúc đẩy sự ra đời có trật tự
và có hiệu quả của thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Sau một thời gian vừa ổn
định tổ chức, vừa tiến hành một số công việc chuẩn bị, ngày 25 tháng 8 năm 1997 tại
Hà Nội, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã chính thức làm lễ ra mắt ( sau nay là Thị
trường Chứng khoán Việt Nam). Cùng với sự chuẩn bị chính thức hình thành này
việc tạo ra các hàng hoá lưu thông trên thị trường chứng khoán Việt Nam là một vấn
đề hết sức quan trọng để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của một tổ chức mới này.
Trong khuôn khổ bản bài viết này, em xin trình bày về vai trò của thị trường chứng
khoán và sự cần thiết của việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt
Nam , đặc biệt là một số biện pháp tạo ra hàng hoá cho TTCK Việt Nam.

2


PHẦN A
VAI TRÒ CỦA TTCK ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

I. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN - KHÁI NIỆM VÀ CHỨC NĂNG
1) Khái niệm
Thị trường chứng khoán(tiếng Latinh- nghĩa là cái ví tiền) là nơi mà cung va
cầu của các loại chứng khoán gặp nhau để xác định giá cả, số lượng của từng loại
chứng khoán được giao dịch trên thị trường.
Với cách hiểu như vậy thì thị trường chứng khoán bao gồm cả hoạt động mua
bán trong sở giao dịch và ngoài sở giao dịch, baogồm cả hoạt động mua bán chính
thức và không chính thức.
Như vậy khái niệm thị trường chứng khoán bao trùm lên khái niệm sở giao
dịch chừn khoán .Sở giao dịch chứng khoán thường gắn với một địa danh nào đó như
New York, Tokyo, Lndon, Paris . . .

3


Ngay từ khi sở giao dịch chứng khoán đầu tiên được thành lập năm 1531 tại
Anwerpen (Bỉ) tại toà trụ sở của nó đã có dòng chữ nổi tiếng "Phục vụ khách hàng tất
cả các dân tộc và tiếng nói khác nhau". Điều đó một phần nào giải thích phạm vi và
quy mô hoạt động của thị trường chứng khoán, nó không giới hạn trong một không
gian mà ngày từ đầu nó đã thể hiện tính chất quốc tế. Với sự thành lập của hãng Hà
Lan-Đông Ấn năm 1602 sở giao dịch chứng khoán Amsterdam (Hà Lan) được thành
lập, nó trở thành sở giao dịch chứng khoán quan trọng nhất trên thế giới vào thời kỳ
đó với kỹ thuật kinh doanh chứng khóan ở một trình độ khá cao. Sau đó các sở giao
dịch chứng khoán được thành lập ở một loạt nước như Đức vào cuối thế kỷ 17, ở Anh
và Mỹ thế kỷ 18, Thụy sĩ năm 1850, và ở Nhật bản năm 1878.
Ngày nay có khoảng 160 sở giao dịch chứng khoán ở 55 nước tư bản. Các sở
giao dịch chứng khoán này đều có mối liên hệ trực tiếp hoặc gian tiếp với nhau bởi vì
việc buôn bán chứng khoán đã từng bước được quốc tế hoá. Tuy có sở giao dịch
chứng khoán như vậy, nhưng chỉ có một số sở giao dịch chứng khoán như New York,
Tokyo, London, Frankfurt, Zurich và Paris. . . chiếm vị trí quan trọng nhất, đặc biệt là

sở giao dịch chứng khoán New York .
Khi một quốc gia bàn đến việc thiết lập thị trường chứng khoán , chúng ta hiểu
đó là việc thiết lập một thị trường chứng khoán có tổ chức (sở giao dịch chứng
khoán). Đó là ly do để người ta đồng nghĩa thị trường chứng khoán với Sở Giao dịch
chứng khoán. Nhiều người nghĩ rằng Sở Giao dịc chứng khoán là nơi mua vào và bán
ra các loại chứng khoán. Sở Giao dịch chứng khoán không phải là cơ quan sở hữu
chứng khoán, do đó nó không mua vào hoặc bán ra bất cứ một loại chứng khoán nào
cả. Sở Giao dịch chứng khoán là nơi gặp gỡ các nhà môi giới chứng khoán, để
thương lượng đấu giá mua bán chứng khoán, và là cơ quan phục vụ cho hoạt động
giao dịch mua bán chứng khoán.
Như vậy sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán đã chứng tỏ sự cần
thiết của nó cho đời sống kính tế xã hội của các nước.
4


2) Chức năng của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán có chức năng cơ bản sau đây :
- Thứ nhất : TTCK được xem như các cầu vô hình nối liền giữa người thừa
vốn và người thiếu vốn, để họ giúp đỡ nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu, hay
nói cách khác, thị trường chứng khoán sinh ra để huy động vốn nhàn rỗi trong nền
kinh tế, bỏ vào phát triển sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao
động, giảm thất nghiệp, góp phần ổn định đời sống dân cư, ổn định xã hội.
- Thứ hai : TTCK đóng vai trò tự động điều hoà vốn giữa nơi thừa sang nơi
thiếu vốn. Vì vậy, nó góp phần giao lưu và phát triển kinh tế. Mức độ điều hoà này
phụ thuộc vào quy mô hoạt động của thị trường chứng khoán. Chẳng hạn, những thị
trường chứng khoán lớn như London, New York, Paris, Tokyo v.v . . . thì phạm vi
ảnh hưởng của nó vượt ra ngoài khuôn khổ quốc gia vì đây là những thị trường chứng
khoán từ lâu được xếp vào loại hoạt động có tâm cỡ quốc tế. Cho nên biến động của
thị trường này không những tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế của bản thân nước sở
tại mà còn ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán nước khác.

- Thứ ba : TTCK bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời (cho các nhà đầu tư và
các nhà kinh doanh chứng khoán) về tình hình cung - cầu, thị giá của từng loại chứng
khoán trên thị trường mình và trên các thị trường chứng khoán hữu quan.
- Thứ tư : TTCK bảo đảm cho các loại chứng khoán được phép lưu hành có nơi
mua bán thuận tiện theo quy luật cung - cầu, như mọi hàng hoá khác. Tuy nhiên, giá
cả trên thị trường chứng khoán không còn do cung cầu trên thị trường quyết định nữa
mà do sự bùng nổ của cuộc cách mạng thông tin và viễn thông nên giá cả của các loại
chứng khoán do cung cầu trên nhiều thị trường chứng khoán hữu quan quyết định. Vì
vậy thị giá của cùng một loại chứng khoán trên các thị trường khác nhau không chênh
lệch nhau nhiều lắm, do đó làm giảm sự di chuyển chứng khoán giữa các thị trường.
5


Tóm lại, thị trường chứng khoán hoạt động lấp đi hố ngăn cách giữa cung và
cầu về vốn, giữa người mua và bán chứng khoán. Đặc biệt thị trường chứng khoán đã
đáp ứng được nhu cầu vay vốn dài hạn trong nền kinh tế vì các chứng khoán dài hạn
vẫn được các nhà đầu tư ngắn hạn mua, khi cần tiền họ có thể bán các chứng khoán
đó trên thị trường chứng khoán. Như vậy thị trường chứng khoán đã đáp ứng được
đồng thời nhiều yêu cầu tồn tại trong nền kimh tế.
II. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Sự tạo lập và phát triển thị trường chứng khoán có ý nghĩa rất quan trọng trong
sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế phát triển. Nó là kênh bổ
sung các nguồn vốn trung và dài hàn cho Nhà nước và doanh nghiệp. Nó là yêu tố hạ
tầng quan trọng nhất, một công cụ có rất nhiều lợi thể. Chính vì vậy, ở hầu hết các
nước có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường đều tồn tại một thị trường chứng
khoán với các vai trò chủ yếu sau đây :
1). Tạo vốn cho sự phát triển kinh tế
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, không có khái niệm về giao lưu vốn
và cũng không tạo ra nhu cầu về tiền và vốn để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Nền
kinh tế của cơ chế này là nền kinh tế gần như đơn nhất, chỉ tồn tại chủ yếu kinh tế

quốc doanh hoạt động theo sự chỉ đạo tập trung thống nhất của nhà nưóc. Nhà nước
giao chỉ tiêu cho các xí nghiệp quốc doanh , xí nghiệp này làm ra sản phẩm giao cho
thương nghiệp quốc doanh là hoàn toàn kế hoạch. Bên cạnh đó, cơ chế phân phối
bình quân theo giá cả bao cấp cho cả sản xuất và tiêu dùng đã làm tê liệt các chức
năng của đồng tiền, phá vỡ mối quan hệ cung cầu và quy luật giá trị. Trên thực tế,

6


đồng tiền trong kế hoạch hoá tập trung không phản ánh được bản chất của sự vận
động kinh tế xã hội.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, xí nghiệp quốc doanh chủ động trong sản
xuất kinh doanh, mọi vấn đề về vốn được thay đổi sự phát triển các thành phần kinh
tế cùng với tự chủ tài chính trong khu vực kinh tế quốc doanh đã thực sự tạo ra môi
trường cạnh tranh cho tất cả các doanh nghiệp. Ở đây, nhu cầu giao lưu vốn đã xuất
hiện, phản ánh quan hệ cung cầu và quy luật giá trị. Nhu cầu này bắt nguồn từ hai
phía: phía những người cần vốn và phía những người có vốn.
Trong cơ chế thị trường, không chỉ bao gồm mối quan hệ cung cầu hàng hóa,
mà đã xuất hiện và ngay càng phát triển quan hệ về tiền và vốn. Quan hệ này tất yếu
sẽ dẫn đến nhu cầu vận động vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu. Sự vận động này phụ
thuộc vào nhịp độ tăng trưởng sản xuất và sự phát triển của nhu cầu đầu tư, bao trùm
toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, yêu cầu vận động của tiền vốn là hết sức phức tạp, đa
dạng và phong phú. Để thoả mãn nhu cầu này, phải có một hệ thống các tổ chức tài
chính ứng với các công cụ thuận lợi nhất để thực hiện giao lưu vốn nói trên, đó là các
loại chứng khoán. Thị trường vốn đỉnh cao là thị trường chứng khoán là nơi tạo ra
môi trường thuận lợi để dung hoà các lợi ích kính tế khác nhau của các thành viên các
nhau trên thị trường thông qua một cơ chế hoạt động hợp pháp nhằm hạn chế những
rủi ro.
Thị trường chứng khoán, như một trung tâm thu gom nguồn vốn tiết tiệm lớn
nhỏ của từng hộ dân cư, như một nam châm cực mạnh thu hút nguồn vốn to lớn từ

nước ngoài, thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các tổ chức tài
chính , chính phủ tạo thành một nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế, mà các
phương thức khác không thể làm được. Nó tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp có vốn
để mở rộng sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận nhiều hơn, đồng thời nó góp
phần quan trọng trong việc kích thích các doanh nghiệp làm ăn ngày càng có hiệu
quả hơn bằng cách vừa sản xuất kinh doanh hàng hóa vừa mua bán chứng khoán tạo
7


thêm lợi nhuận. Nó giúp nhà nước giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách trên thị
trường trái phiếu, có thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng. Nó cũng trực tiếp cái thiện
mức sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm
của họ tốt hơn.
2) Công cụ để thúc đẩy sự phát triển và ổn định nền kinh tế
Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính cực kỳ mạnh trong sự phát
triển và ổn định nền kinh tế, bởi vì nó có những vai trò sau đây :
_ Giúp nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế :
Bất kỳ một nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phat triển kinh tế.
Nguồn kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ này được lấy từ ngân sách nhà nước. Ngân
sách nhà nước càng lớn thì các chương trình phát triển kinh tế càng có điều kiện
thuận lợi để đạt được thành công. Nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước là thuế.
Nhưng thông thường, thuế không đủ để cho chính phủ chi tiêu vì vậy cần thêm các
khoản thu phụ khác đó là từ các kỳ phiếu, tín phiếu kho bạc. Xét về phương diện kinh
tế, đó là biện pháp tích cực. Nhà nước không phải thông qua Ngân hàng trung ương
để phát hành thêm tiền mặt mà phát hành kỳ phiếu vay vốn trong dân cư cho nên
lượng tiền mặt trong dân cư không tăng lên và không gây nên lạm phát.
Hiện nay ở hầu hết các nước, nhà nước phát hành kỳ phiếu thông qua thị
trường chứng khoán. Không có thị trường chứng khoán thì nhà nước vẫn phát hành
được kỳ phiếu. Nhưng có thị trường chứng khoán thì nhà nước bán được một cách
dễ dàng. Vì kỳ phiếu của nhà nước cũng là một loại chứng khoán chuyển nhượng

được và có thể mua bán trên thị trường chứng khoán.
Vì vậy thị trường chứng khoán là một công cụ hữu hiện giúp nhà nước trong
việc huy động vốn cho việc thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội.

8


_ Điều tiết vốn đầu tư :
+ TTCK là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài : thị trường
chứng khoán là công cụ cho phép vừa thu hút, vừa kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài
một cách tốt nhất, vì nó hoạt động theo nguyên tắc công khai. Nghĩa là mọi đối tượng
tham gia mua bán chứng khoán phải công khai hóa và cập nhật hóa toàn bộ những
thông tin liên quan đến giá trị chứng khoán, và công khai khả năng tài chính trong
các giao dịch mua bán chứng khoán.
Như vậy, có thị trường chứng khoán sẽ khắc phục được tình trạng thiếu thông
tin hoặc thông tin không trung thực, thiếu chính xác. Đầu tư qua thị trường chứng
khoán, tức là đầu tư mua bán chứng khoán tại một thị trường chứng khoán có tổ chức.
Trong mỗi loại chứng khoán theo luật định sẽ có một phần bán cho người nước ngoài.
Đó là sự khống chế ở các mức tương tự cho từng ngành kinh tế, quyền kiểm soát
công ty có vốn đầu tư nước ngoài luôn luôn thuộc về nước sở tại.
Đó là ưu điểm cơ bản của phương thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua
thị trường chứng khoán. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với nhà nước trong việc
ổn định nền kinh tế tránh sự lệ thuộc về kinh tế vào các nhà tư bản nước ngoài.
+ TTCK lưu động hóa mọi nguồn vốn trong nước : các cổ phiếu, trái phiếu tương
trưng cho một số vốn đầu tư được mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán như
một thứ hàng hóa. Người có vốn (có cổ phiếu, trái phiếu) không sợ vốn mình bị chôn
vì bất cư khi nào cần họ có thể bán lại các cổ phiếu, trái phiếu này trên thị trường
chứng khoán, để mua lại cổ phiếu, trái phiếu khác, nhờ vậy sinh hoạt kinh tế thêm sôi
động.
Với một thị trường chứng khoán hoạt động tốt, các nhà doanh nghiệp sẵn sàng

bỏ vốn đầu tư phát triển kỹ nghệ, làm cho mọi nguồn vốn được lưu động hóa. Đối với
những người có vốn tiết kiệm nhỏ cũng có thể mua được chứng khoán trên thị trường
chứng khoán, mà không sợ bị kẹt tiền, vì ngay khi cần họ có thể bán số chứng khoán
9


đó ngay. Một khi việc đầu tư vào các doanh nghiệp có lợi đối với các tầng lớp đân
chúng, thì qua thị trường chứng khoán các món tiền tiết kiệm lớn nhỏ đều sẵn sàng từ
bỏ sự bất động hóa, chấp nhận vào quá trình đầu tư.
_ Khắc phục chu kỳ kinh doanh :
+ Thị trường chứng khoán làm giảm áp lực lạm phát :
Lạm phát luôn là nguy cơ đe doạ sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế.Thị
trường chứng khoán hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng đặc biệt là Nhân hàng trung ương
trong việc giảm áp lực lạm phát. Khi xuất hiện hiện tượng lạm phát, Ngân hàng trung
ương sẽ đưa ra bán các loại kỳ phiếu trên thị trường chứng khoán với lãi suất cao để
thu hút bớt số tiền đang lưu thông về và làm giảm áp lực lạm phát. Thị trường chứng
khoán cũng ngăn chặn việc chuyển hoá vốn quá mức trong nền kinh tế. Đó là khi các
ngân hàng thương mại cho các công ty vay nhưng không thu hồi được do một số
công ty làm ăn thu alỗ, số tiền này nằm lại trong lưu thông làm tăng lượng vốn lưu
hành. Do đó hệ thông ngân hàng thương mại sẽ hạn chế cho vay đối với những dự án
có khả năng sinh lời thấp. Trong khi đó, thị trường chứng khoán sẽ bù vào khoản
thiếu hụt này và gây áp lực để các dự án đầu tư đạt hiệu quả cao. Như vậy, thị trường
chứng khoán cũng giúp làm giảm nguy cơ lạm phát.
+ Khắc phục tính trạng suy thoái của nền kinh tế :
Như chúng ta đã biết khi nền kinh tế đang trong tính trạng suy thoái , đó là tổng
sản phẩm sản xuất ra trong nền kinh tế giảm đi. Nó ảnh hưởng một cách mạnh mẽ và
trực tiếp đến đời sống kinh tế, đặc biệt là tất cả chúng ta như khi sản phẩm sụt giảm
thì để tìm được một việc làm tốt là rất khó khăn. Để khôi phục vấn đề này một trong
những biện pháp hữu hiện là mở rộng đầu tư sản xuất(cung tạo ra câu).
Nói đến đầu tư mở rộng sản xuất phải nái đến vốn mà trong đó thị trường chứng

khoán là mọt tổ chức tài chính huy động vốn có hiệu quả nhất. Thông qua thị trường
10


chứng khoán các doanh nghiệp có thể huy động được vốn bằng cách phát hành cổ
phiếu hoặc trái phiếu bán ra để mở rộng quá trình sản xuất kinh doanh, đồng thời
chính phủ có thể mua các loại cổ phiếu, trái phiếu để tạo vốn cho việc đẩy mạnh mở
rộng sản xuất tăng sản phẩm cho nền kinh tế. Khi đó nền kinh tế sẽ được khôi phục
lại.
_ Thúc đẩy hiệu quả kinh tế :
Thị trường chứng khoán là một công cụ tuyệt vời cho các nhà kinh doanh có thể
vay vốn để đầu tư vào sản xuất nhưng cũng đòi hỏi rất cao ở họ. Ban quản trị thị
trường chứng khoán chỉ cho phép cổ phiếu, trái phiếu của các công ty có đủ điều kiện
như : kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, có doanh lợi . . . được lưu hành trên
thị trưòng và công chúng chỉ mua cổ phiếu của những công ty thành đạt. Thêm vào
đó, luật lễ thị trường chứng khoán bắt buộc các doanh nghiệp có chứng khoán lưu
hành trên thị trường chứng khoán phải công bố công khai các báo cáo tài chính, kết
quả kinh doanh qua đó công chúng có cơ hội đánh giá kết quả hoạt động của công ty.
Nếu một công ty làm ăn có lãi, thị giá chứng khoán của nó sẽ tăng trên thị
trường chứng khoán và công ty có thể dễ dàng vay thêm vốn để mở rộng kinh doanh.
Nếu một công ty làm ăn thua lỗ, giá chứng khoán của nó trên thị trường sẽ giảm vì tất
cả những người sở hữu chứng khoán của công ty này sẽ đồng loạt bán chứng khoán
ra thị trường chứng khoán. Việc này làm cho tổng số vốn của công ty giảm sút, công
ty không có khả năng thành toán các khoán nợ đến hạn và dẫn tới phá sản.
Do đó, thị trường chứng khoán gây áp lực rất lớn buộc các công ty có chứng
khoán lưu hành trên thị trường chứng khoán phải làm ăn có lãi. Vì có như vậy các
công ty mới có cơ hội để tồn tại và phát triển mà nhờ đó toàn bộ nền kinh tế xã hội
sẽ tốt hơn.
Tóm lại, chúng ta thấy thị trường chứng khoán đóng một vai trò hết sức quan
trọng trong nền kinh tế. Nó là một công cụ kinh tế nhờ đó người ta có thể huy động

11


được những nguồn vốn khác nhau cho đầu tư, là một công cụ để phát triển và ổn đinh
nền kinh tế mà trong đó bao gồm nhiều vai trò rất đa dạng.
Vì vậy cần phải sớm hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt
Nam để khai thác những ưu việt của nó phục vụ cho sự phát triển kinh tế đát nước.

PHẦN B : TÌNH HÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TTCK Ở VIỆT
NAM
I. TÌNH TẤT YẾU CỦA VIỆC HÌNH THÀNH TTCK Ở VIỆT NAM
1) Do yêu cầu của nền kinh tế
Thực tế ở tất cả các nước có thị trường chứng khoán, khi nền kinh tế thị trường
ra đời thì chưa có thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ ra đời khi nền
kinh tế đã phát triển ở mức độ nhất định và đòi hỏi phải hình thành một tổ chức nào
đó có khả năng tiếp thêm sức mạnh cho thị trương - đó là thị trường chứng khoán với
việc cung cấp vốn cho nền kinh tế. Có thể nói nền kinh tế hàng hóa phát triển làm nảy
sinh thị trương chứng khoán và thị trường chứng khoán đến lượt nó lại tiếp thêm
nguồn lực (vốn) để thục đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển .
Sự phát triển kinh tế ngày càng tăng của phân công lao động theo hướng
chuyên môn hóa theo ngành, nghề trong cơ cấu sản xuất của nền kinh tế. Quá trình
chuyên môn hoá theo ngành càng cao thì tất yếu sẽ đòi hỏi sự giao lưu, sự luân
chuyển các yếu tố của lực lượng sản xuất, trong đó có sự luân chuyển các nguồn vốn
tài chính giữa các doanh nghiệp và công cụ thuận lợi nhất để thực hiện sự giao lưu

12


nói trên là các cổ phiếu và trái phiếu mà chủ yếu hoạt động mua bán các công cụ này
thường diễn ra thông qua thị trường chứng khoán và thị trường "ngầm".

Trong mục tiêu phát triển kinh tế, Việt Nam hiện nay cần rất nhiều vốn. Theo
các chuyên gia kinh tế, để duy trì nhịp độ tăng trưởng hang năm từ 9-10% trong giai
đoạn 1996-2000, cần đảm bảo mức đầu tư hàng năm ít nhất là 27-30% GDP. Với tỉ lệ
đầu tư nói trên, khối lượng cần cho đầu tư trong 5 năm tới sẽ là 40-50 tỷ USD, nghĩa
là mỗi năm Việt Nam phải huy động được hơn 8 tỷ USD cho đầu tư phát triển. Thị
trường ra đời sẽ giúp giải quyết một phần đáng kể số vốn này . Thông qua thị trường
chứng khoán , nhiều nước một số nước đã huy động một khối lượng vốn khổng lồ. Ví
dụ ở thị trường chứng khoán New York năm 1995 tổng giá trị chứng khoán được
niêm yết là 6.013 tỷ USD, ở thị treoèng chứng khoán London là 1.344,425 tỷ USD.
Xem xét tổng nguồn vốn được huy động tại các nước trong khu vực ta thấy (số liệu
năm 1993);: tổng giá trị chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán Kualalumpur là
220,328 tỷ USD, trên Sở giao dịch chứng khoán Thailand là 130,953 tỷ USD, trên Sở
giao dịch chứng khoán Jakarta là 32,953 tỷ USD.
Thị trường chứng khoán ra đời sẽ thu hút được các món tiền còn đang nằm
không trong dân cư, trong các quĩ bảo hiểm, quĩ phục lợi xã hội. Qua các đợt thu đổi
tiền tệ đã cho thấy nguồn vốn bằng tiền nằm trong dân cư chiếm từ 65-70% tổng tiền
tệ trong lưu thông. Theo ước đoán số đôla nằm trong dân cư là khoảng 2 tỷ USD, số
lượng vàng bạc đá quý có giá trị từ 7-10tỷ USD. Đây là nguồn vốn không nhỏ để đầu
tư phát triển.
Thị trường chứng khoán cũng sẽ thu hút người nước ngoài đầu tư vào trong
nước. Trong 45 tỷ USD mà Việt Nam cần tới năm 2000, vốn đầu tư nước ngoài sẽ
chiếm khoảng 13 tỷ USD. Đầu tư trên thị trường chứng khoán đêm lại cho các nhà
đầu tư nước ngoài nhiều thuận lợi do họ có thông tin và giảm bớt được các thủ tục
hành chính.

13


Như vậy, thị trường chứng khoán ra đời tại Việt Nam sẽ huy động được nguồn
vốn đáng kể để đáp ứng nhu cầu bức thiết về vốn cho nền kinh tế phát triển trong giai

đoạn sắp tới.
2) Do yêu cầu của Nhà nước
Để hoàn thiện nhiệm vụ của mình nhà nước luôn phải chi tiêu mà nguồn thu
chủ yếu của nhà nước từ thuế thường không trang trải hết các hoạt động của nhà
nước. Nhà nước buộc phải vay vốn trong dân cư và các tổ chức tín dụng bằng cách
phát hành kỳ phiếu. Thị trường chứng khoán ra đời sẽ giúp cho quá trình phát hành
này được thuận lợi hơn.
Như em đã trình bày ở phần trên, thị trường chứng khoán cũng có tác động tích
cực trong việc giảm áp lực lạm phát. Đặc biệt từ năm 1993, nhà nước Việt Nam đã có
chủ trường cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tức là chuyển các doanh nghiệp
quốc doanh sang hình thức cổ phần. Quá trình này diễn ra còn chậm nếu thị trường
chứng khoán hình thành thì sẽ thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà
nước diễn ra nhanh hơn.
Những ly do cơ bản trên nói trên sự hình thành của thị trường chứng khoán ở
Viẹt Nam là một tính tất yếu và chắc chắn trong tương lai gần Việt Nam sẽ có một thị
trường chứng khoán theo đúng ý nghĩa của nó để đáp ứng các nhu câu của nền kinh
tế.
II. CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ THÀNH LẬP TTCK Ở VIỆT NAM
Xây dựng một thị trường chứng khoán là một vấn đề không mấy khó khăn
nhưng tổ chức nó hoạt động một cách có hiệu quả và đêm lại những tác động tích cực
cho nền kinh tế thì lại là một vấn đề hết sức khó khăn. Để có được một thị trường
14


hoạt động lành mạnh và hạn chế được những tiêu cực mkà nó có thể gây ra cho nền
kinh tế, Việt Nam cần phải chuẩn bị môi trường kinh tế, pháp lý chặt chẽ và phù hợp
với các quy luật của nền kinh tế thị trường. Như vậy cần phải chuẩn bị tốt các yếu tố
về kinh tế, pháp lý, kỹ thuật và để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của thị
trường chứng khoán.
1) Yếu tố kinh tế :

Đây là yếu tố rất quan trọng làm nền tảng để đảm bảo cho khả năng có các loại
chứng khoán lưu thông trên thị trường. Yếu tố này được quyết định bởi các chính
sách phát triển kinh tế và các định chế tài chính của nhà nước.
Việc thông qua các Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Doanh nghiệp và
Công ty . . . là cơ sở để các thành phần kinh tế tư nhân, các công ty liên doanh, công
ty cổ phần ngày càng phát triển cùng với các đơn vị kinh tế quốc doanh. Đây là các
đơn vị kinh tế có thể phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu là hàng hoá để giao dịch
trên thị trường chứng khoán. Việt Nam cũng đang tiến hành các doanh nghiệp nhà
nước , điều này cũng là yếu tố để tạo ra hàng hóa cho thị trường chứng khoán .
Như vậy xét về yếu tố kinh tế, Việt Nam hiện nay có thể nói là đã thoả mãn yếu
cầu của thị trường chứng khoán. Nhà nước đã cho phép các công ty cổ phần hoạt
động, cho phép các loại chứng khoán được lưu hành hợp pháp tức là tạo ra hàng hoá
cho thị trường chứng khoán. Điều này cho phép thị trường chứng khoán có thể ra đời.
2 . Yếu tố pháp lý :
Nếu yếu tố kinh tế là nền tảng để hình thành thị trường chứng khoán thì yêu tố
pháp lý là công cụ duy trì cho thị trương chứng khoán hoạt động đều đặn, lành mạnh,
có hiệu quả và ngày càng phát triển .

15


Có hai điểm khó khăn trong việc nghiên cứu và đề suất khung pháp lý cho thị
trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay. Trước hết đó là vì các hoạt động của thị
trường chứng khoán tinh vi và phức tạp hơn nhiều các loại thị trường khác. Thứ hai;,
Việt Nam chưa có lý luận thực tiễn về nghề nghiệp chứng khoán. Trong quá trình xây
dựng khung pháp lý cho thị trường chứng khoán, một nguyên tắc cần phải thực hiện
triệt để là : luật pháp về chứng khoán phải thể hiện chức năng và quyền hạn quản lý
nhà nước cao nhất về chứng khoán làm nhiệm vụ phát triển và giám sát các hoạt động
có liên quan tới chứng khoán, kinh doanh chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán,
các thị trường phi tập trung (OTC), phát hành và đấu thầu chứng khoán mới, các luật

về thôn tính và sát nhâp, ngăn ngừa các hoạt động kinh doanh bất hợp pháp.
Cũng như các nước khác, Việt Nam sẽ phải xây dựng và ban hành luật chứng
khoán và giao dịch chứng khoán. Trong luật này, các vấn đề sẽ được luật hoá là : các
quy định về các tổ chức phát hành chứng khoán, các phương pháp phát hành chứng
khoán mới, quy chế đấu thấu chứng khoán mới. Ngoài ra quy chế về tổ chức và hoạt
động của Sở giao dịch chứng khoán cũng cần phải được luật quy định chặt chẽ.
Luật pháp về chứng khoán cũng phải có những quy định để điều chỉnh hoạt
động của thị trường chứng khoán. Cần có những quy định chặt chẽ về các loại chứng
khoán được đưa ra thị trường, nguyên tắc định giá chứng khoán, cách thức chuyển
lệnh, đặt giá, đăng ký giao dịch, quy định về kế toán, kiểm toán, các yêu cầu về thông
tin, xử lý tranh chấp, xử phạt vi phạm, các quy định về thanh tra, kiểm tra . . . Quy
chế đầu tư cá nhân đặc biệt là quy chế cho các nhà đầu tư thể chế như các công ty bảo
hiểm, các công ty tài chính, các quỹ đầu tư cũng là bộ phận mà luật chứng khoán cần
phải đề cấp tới.
Hiện nay ở Việt Nam, một số điều khoản liên quan đến quyền huy động vốn của
các công ty cổ phần và các doanh nghiệp nhà nước được quy định trong luật công ty
và luật doanh nghiệp nhà nước. Còn bộ phận lớn các quy định cần thiết khác mà chưa

16


được xác định đầy đủ. Do vậy cần phải làm nhiều việc để xây dựng khung pháp lý
chuẩn bị cho thị trương chứng khoán ra đời ở Việt Nam.
3) Yếu tố kiểm soát và yếu tố kỹ thuật :
Hoạt động của thị trường chứng khoán phải đặt dưới sự kiểm soát của nhà nước
nhằm bảo vệ quyền lợi của những người kinh doanh chứng khoán và hạn chế các yếu
tố tiêu cực của thị trường chứng khoán. Nhà nước cần thành lập Uỷ ban chứng khoán
quốc gia để thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường chứng
khoán. Vào ngày 28 tháng 11 năm 1996 Uỷ ban chứng khoán quốc gia Việt Nam đã
được chính phủ thành lập . Uỷ ban này có nhiệm vụ xây dựng hoàn chỉnh hệ thống

pháp lý cho thị trường chứng khoán đồng thơì xây dựng một hoặc một số Sở giao
dịch chứng khoán, quỹ đầu tư, trung tâm quản lý lưu giữ chứng khoán và thành toán
bù trừ.
Yếu tố kỹ thuật của thị trường chứng khoán bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật
thuần tuý và con người. Cơ sở vật chất thuần tuý là các máy móc thiết bị, phương tiện
thông tin tính toán, văn phòng giao dịch. Đây không phải là khó khăn khi xây dưng
thị trường chứng khoán. Vấn đề khó chính là con người . Việt Nam cần có các nhà
môi giới chứng khoán, các chuyên gia chứng khoán, các nhà tổ chức và điều hành thị
trường chứng khoán. Trước mặt cần phải có chương trình đào tạo khẩn cấp các cán
bộ trong ngành ngân hàng tài chính sau đó sẽ đào tạo với quy mô dài hơn. Đồng thời
cần phải đưa môn học về thị trường chứng khoán vào các trường đại học trung học
kinh tế nhất là trong các chuyên ngành nhân hàng tài chính . Ngoài các yếu tố nêu
trên, cần có sự tuyên truyền sâu rộng trong dân cư về tính hấp dẫn khi đầu tư vào thị
trường chưng khoán cũng như đưa ra những đảm bảo cho quyền lợi hợp pháp của các
nhà đầu tư.

17


Đã có những cơ sở để hình thành và phát triển thị trương chứng khoán, Việt
Nam cần phải có những cơ sở lý luận và biện pháp để khuyên khích việc tạo ra các
loại chứng khoán mà là hàng hóa cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của thị trường
chứng khoán mới mẻ này.

PHẦN C: TẠO RA HÀNG HÓA CHO TTCK VIỆT NAM
I . PHÂN LOẠI CHỨNG KHOÁN-HÀNG HOÁ CỦA TTCK
Hàng hóa của thị trường chứng khoán là yếu tố quan trọng để duy trì và phát
triển hoạt động của nó. Trong hệ thống thị trường, mỗi loại thị trường có một loại đối
tượng giao dịch riêng của nó. Trên thị trương chứng khoán đối tượng giao dịch của
nó là chứng khoán.

Chứng khoán là một thuật ngữ dùng để chỉ các giấy tờ có giá, tức là giấy tờ ghi
nhận khoản tiền tệ mà người sở hữu chúng bỏ ra sẽ được quyền hưởng những khoanr
lợi tức nhất định theo kỳ hạn. Hay nói cách khác,là các loại công cụ tài chính dài hạn,
bao gồm các loại cổ phiếu và trái phiếu.
Ngoài ra, trên thị trường chứng khoán còn giao dịch các loại giấy tờ có giá liên
quan đến chứng khoán, được gọi là các công cụ có nguồn gốc chứng khoán, gồm có :
các giấy đảm bảo quyền mua, các quyền chọn và các hợp đồng tương lai . . .
Tuỳ thuộc vào tiêu thức mà ta lựa chọn, sẽ có một cách phân loại chứng khoán
tương ứng, chẳng han như :

1. Căn cứ vào đặc điểm của chứng khoán
Chia chứng khoán thành 2 loại :
18


_ Chứng khoán vốn : là giấy chứng nhận sự hùn vốn vào công ty cổ phần, tức là
các loại cổ phiếu.
_ Chứng khoán nợ : là giấy chứng nhận nợ có kỳ hạn, tức là nói đến các loại trái
phiếu.
2. Căn cứ vào chỉ tiêu pháp lý chứng khoán được shia thành 2 loại :
_ Chứng khoán vô danh : là loại chứng khoán không ghi rõ họ tên sở hữu chủ. Việc
chuyển nhượng loại này rất đơn giản, dễ dàng, không cần phải có thủ tục pháp lý
rườm ra.
_ chứng khoán ký danh : là loại chứmg khoán có ghi rõ họ tên sở hữu chủ. Việc
chuyển nhượng loại chứng khoán này được thực hiện bằng thủtục đăng ký tại cơ quan
phát hành, đôi khi phải có sự chấp nhận trước.
3. Căn cứ vào tính chất tài chính chứng khoán có 2 loại :
_ Chứng khoán có lợi tức ổn định : là loại chứng khoán được xác định tỷ lệ lãi cụ thể
phải trả cho người sở hữu khi đến hạn. Thông thường, loại vốn và lãi được hoàn trả
khi đáo hạn, chẳng hạn như : các loại trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi . . .

_ Chứng khoán có lợi tức không ổn định : là loại chứng khoán không xác định trước
tỷ lệ lãi được hưởng. Loại này tỷ lệ lãi phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh
của công ty, chẳng hạn như : cổ phiếu thông thường.
A. CỔ PHIẾU
1. Khái niệm :
Cổ phiếu là loại chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một
doanh nghiệp cổ phần. Hay nói cách khác, cổ phiếu là giấy chứng nhận việc đầu tư
vốn vào công ty cổ phần.
Cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu.
Cổ phần là phần vốn đóng góp để cùng làm sở hữu chủ công ty.

19


Loại cổ phiếu ra đời đầu tiên là loại cổ phiếu có ghi tên người sở hữu, được gọi là
cổ phiếu ký danh. Hình thức này có nhược điểm là khi muốn chuyển nhượng cho
người khác phải được hội đồng quản trị cho phép. Điều đó đã làm trở ngại cho việc
lưu thông cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Đến thế kỳ 18 cổ phiếu vô danh ra đời và sang thế kỷ 19 cổ phiếu vô danh gần như
hoàn toàn thay thế cho cổ phiếu ký danh.
Có phiếu có những đặc điểm sau :
_ Cổ phiếu là giấy chứng nhận sự hùn vốn vào công ty cổ phần
_ Cổ phiếu không kỳ hạn, nó tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty phát hành ra
nó.
_ Cổ phiếu có thể được phát hành lúc vận động thành lập công ty hoặc lúc công ty
cần gọi thêm vốn để mở rộng hiện đại hoá sản xuất.
_ Người mua cổ phiếu được quyền nhận lợi tức cổ phiếu (hay còn gọi là cổ tức)
hàng năm có thể cố định hay biến động tuỳ theo loại cổ phiếu phát hành.
_ Nhười mua cổ phiếu sẽ là người sở hữu một phần công ty, do đó phải chịu trách
nhiệm hữu hạn về sự lỗ lã, phá sản của công ty và được quyền đầu phiếu cũng như

biểu quyết các vấn đề của công ty.
_ Người mua cổ phiếu được quyền chuyển nhượng quyền sở hữu cho người khác.
_ Người mua cổ phiếu có quyền tham gia kiểm soát sổ sách của công ty khi có ly
do chính đáng.
_ Người mua cổ phiếu còn có chia phần tài sản còn lại khi công ty giải tán.
2. Các loại cổ phiểu
_ Cổ phiếu thường : là lôại cổ phiếu mà người mua có quyền tham gia đại hội cổ
đồng của công ty phát hành nó và được hưởng lợi tức theo nguyên tắc "lời được
hưởng, lỗ phải chịu" vì lợi tức của cổ phần này phụ thuộc rất nhiều vào lợi nhuận của
công ty cổ phần trong năm đố. Người mua cổ phiếu thường phải chấp nhận tính mạo

20


hiểm rủi ro, cho nên cần suy nghĩ kỹ, xem xét thực trạng hoạt động sản xuất kinh
doanh mà phát triển của công ty cổ phần mà mình có ý định mua cổ phần.
_ Cổ phiếu ưu đãi : là loại cổ phiếu mà người mua được hưởng một số quyền lợi đặc
biệt về quyền lực hoạec về kinh tế. Cổ phiếu ưu đãi về quyền lực đã giành cho người
mua nhiều quyền lực hơn trong việc bàn bạc và quyết định mọi hoạt động của công
ty. Cổ phiếu ưu đãi về kinh tế thường bán cho những người có nhiều cống hiến và
làm việc lâu năm ở công ty đã nghỉ hưu.
B. TRÁI PHIẾU
1. Khái niệm :
Trái phiếu là một loại chứng khoán có giá, là giấy chứng nhận nợ do người vay
(chính phủ, công ty hoặc ngân hàng) muốn thu góp vốn mà trong đó người vay phát
hành một chứng chỉ thường là với một lãi suất xác định và đảm bảo cho người mua
vào một thời gian nhất định trong tương lai.
2. Các loại trái phiếu
_ Trái phiếu chính phủ : là chứng chỉ vay nợ của Chính phủ do Bộ tài chính phát
hành để thu hút vốn , chủ yếu giải qyuết nhu cầu tài chính cho đàu tư phát triển kinh

tế và có trách nhiệm trả nợi. Loại trái phiếu này có tín nhiệm cao, người có trái phiếu,
sau một thời gian thu lại vốn theo mệnh giá ghi trên phiếu và nhận được tiền lãi nhất
định.
Cũng như cổ phiếu, trái phiếu chính phủ bao gồm các loại ký danh và vô danh được
phat hành dưới hình thức sau đây :
+ Trái phiếu ngắn hạn hay còn gọi là tin phiếu kho bạc : là loại trái phiếu có thời hạn
là một năm, được phát hành nhằm bù đắp sự thiếu hụt ngân sách nhà nước trong thời
gian ngắn, đặc biệt để góp phần thực hiện tài chính quốc gia, khắc phục tình trạng
lạm phát, đảm bảo được khối lượng tiền tệ trong lưu thông một cách hợp lý.
21


+ Trái phiếu trung hạn : là loại trái phiếu có thời hạn từ 1 năm đến 9 năm . Loại này
thường tạo nguồn thu ngân sách ổn định cho chính phủ và dùng để đầu tư vào các dự
án mà có thể hoàn trả được vốn vay.
+ Trái phiếu dài hạn : là loại trái phiếu có thời hạn từ 10 trở lên được dùng để huy
động vốn đầu tư cho các công trình hạ tầng cơ sở lớn có nguồn thu hoàn trả vốn vay,
nên giảm bớt gánh nặng chi tiêu ngân sách.
_ Trái phiếu công ty : là trái phiếu do các công ty phát hành với mục đích huy động
vốn cho đầu tư phát triển. Công ty phát hành trái phiếu thì công ty là người đi vay và
người mua trái phiếu công ty là chủ nợ của công ty, công ty phải cam kết thanh toán
nợ cả gốc và lãi cho người mua trái phiếu theo những quy định trong hợp đồng phát
hành công ty.
Trá phiếu công ty được chia thành như sau :
+ Trái phiếu tín chấp : là loại trái phiếu chỉ dựa vào uy tin của công ty để phát hàn,
công ty không đưa một tài sản gì để làm bảo đảm.
+ trái phiếu thế chấp ; là loại trái phiếu khi phát hành đòi hỏi phải có một lượng tài
sản tương ứng ký thác tại cơ quan uỷ thác đẻ đảm bảo chắc chắn khả năng hoàn trả
của trái phiếu.
+ Trái phiếu cầm cố ưu tiên : là loại trái phiếu khi phát hành phải được cầm cố toàn

bộ tài sản công ty . Đây là loại trái phiếu an toàn nhất vì chủ sở hữu trái phiếu được
ưu tiên nhất so với người mua loại trái phiếu khác.
+ Trái phiếu thu nhập : là loại trái phiếu mà lợi tức được trả tuỳ thuộc vào lợi nhuận
của công ty và không cao hơn lãi suất ghi trên trái phiếu.
+ Trái phiếu có khả năng chuyển đổi thành cổ phiểu thường : là loại trái phiếu cho
phép người sở hữu nó được quyền đổi sang cổ phiếu thường.
+ Tái phiếu lãi suất chiết khấu : là loại trái phiếu được trả lãi ngay khgi phát hành,
được khấu trừ vào vốn mua trái phiếu.

22


+ Trái phiếu lãi suất thả nổi : là loại trái phiếu có lãi suất được điều chỉnh theo từng
thời kỳ cho phù hợp với lãi suất trên thị trường.
Ngoài cổ phiếu và trái phiếu, còn có các công cụ tài chính khác như các hợp
đồng mua bán có kỳ hạn, các hợp đồng quyền lựa chọn . . . cũng trở thành hàng hoá
và được mua bán trên thị trường chứng khoán.
C. Các loại hàng hoá khác :
1. Giấy đảm bảo mua cổ phiếu :
Trên thương trường có nhiều công ty hoạt động mang lại hiệu quả cao, xu hưởng phát
triển ngày càng mở rộng, Hội đồng quản trị đưa ra quyết định tăng vốn bằng cách
phát hành cổ phiếu bổ sung. Việc phát hành cổ phiếu mới có thể đưa đến tình trạng
một số cổ đông ban đầu không đủ vốn để mua thêm cổ phần mới theo tỷ lệ ban đầu,
từ đó họ mất quyền kiểm soát công ty, trong khi họ là những người có công, cần được
ưu đãi.
Để khắc phục tình trạng trên, người đã áp dụng nhiều phương thức phát hành cổ
phiếu mới đảm bảo quyền kiểm soát công ty vẫn thuộc số cổ đồng ban đầu, bằng sự
ưu tiên cho cổ đồng cũ vẫn nắm quyền kiểm soát công ty nhưng như vậy cổ đông mới
sẽ không mua cổ phiếu. Do đó vào những năm 1950 người ta đã ưu tiên khuyến khích
các cổ đồng cũ được quyền một số cổ phiếu mới tương ứng với tỷ lệ góp vốn ban đầu

theo giá thấp hơn giá thị trường. Quyền này được thể hiện bằng giấy đảm bảo quyền
mua cổ phiếu. Nừu cổ đông cũ không thực hiện quyền mua thì họ có thể đưa ra bán ở
thị trường để nhận một khoảng lãi do chênh lệch giá ưu tiên. Sau khi ưu tiên cho cổ
đông cũ số còn lại mới bán rộng rãi trên thi trường.
2. Hợp đồng mua bán tương lai :
Hợp đồng tương lai là một bản hợp đồng được soạn giữa hai người, hợp đồng
này xác định cho người mua "quyền mua" được một loại chứng khoán với số lượng
23


và giá cả đã được ấn định trong một thời gian nhất định với người bán, hoặc người
mua "quyền bán" được bán một loại chứng khoán với số lượng, giá cả và thời gian đã
ấn định cho người bán. Người mua phải trả một khoản tiền mua "quyền mua hay
quyền bán", nhưng có đặc điểm là người mua không phải cps nghĩa vụ thực hiện
quyền mua hay bán của mình trong tưong lai mà có thể huỷ bỏ được; lúc này chỉ mất
số tiền mua"quyền mua hay quyền bán"mà thôi, còn người bán thì luôn luôn phải
thực hiện nghĩa vụ "mua hay bán" của mình theo yêu cầu của người mua.
Các giao dịch này là một loại trò chơi mang tính "cờ bạc" trong thị trường chứng
khoán. Nhưng đây là trò cờ bạc có tinh toán, có phân tích và nhận định chứ không
phải hoàn toàn may rủi. Các giao dịch này trên thị trường chứng khoán rất tấp nập,
người cũng có thể làm giàu nhanh chóng và cũng bị phá sản tức thời.
Hợp đồng tương lai chỉ là chuyện mua bán giữa hai người, nó không phaỉ là một
loại cổ phiếu nào của công ty phát hành, tuy đã trở thành một bộ phận của thị trường
chứng khoán trong nhiều năm nhưng cho đến năm 1970 nó mới trở thành quan trọng
và mới được giao dịch một cách có tổ chức, nhưng nhưng hình thức này vẫn còn ít
người hiểu biết và tham gia.
Trên đây là những loại hàng hóa của thị trường chứng khoán mà cần phải tạo ra
cho thị trường chứng khoán sắp tới của Việt Nam.
II. GIẢI PHÁP ĐỂ TẠO RA HÀNG HÓA CHO TTCK VIỆT NAM
Cũng như các thị trương khác, muốn có thị trường chứng khoán trước phải có

hang hóa là chứng khoán, chuẩn bị hàng hóa cho thị trường chứng khoán là một nội
dung cơ bản có tính quyết định. Sau đây là một số gải pháp để tạo ra hàng hóa cho thị
trường chứng khoán Việt Nam :

24


1. Đẩy mạnh cổ phần hóa doand nghiệp :
Các doanh nghiệp tham gia thị trương chứng khoán với tư cách là người tạo ra
hàng hoá cho thị trường chứng khoán tại thị trường sơ cấp và với tư cách là người
mua bán chứng khoán tại thị trường thứ cấp.
Trong nền kinh tế thị trường, có ba hình thức tổ chức doanh nghiệp cơ bản:
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp theo chế độ hùn vốn và doanh nghiệp tổ chức
theo hình thức công ty cổ phân. Ở các nước xã hội chủ nghĩa chuyển sang cơ chế thị
trường như Việt Nam còn có thêm hai loại doanh nghiệp nữa đó là doanh nghiệp nhà
nước và hợp tác xã. Trong các loại hình thức tổ chức doanh nghiệp đã nêu trên, công
ty cổ phần là chủ thể quan trọng nhất hoạt động trên thị trường chứng khoán, nó tạo
ra một khối lượng hàng hoá lớn qua việc phát hành cổ phiếu để bán đầu tiên trên thị
trường sơ cấp, để tạo vốn cho một công ty cổ phần mới thành lập hoặc phát hành cổ
phiếu, hoặc trái phiếu để tăng vốn bổ sung cho quá trình sản xuất kinh doanh của các
công ty cổ phần đang hoạt động. Các doanh nghiệp khác cũng có thể phát hành trái
phiếu để bổ sung thêm vốn dùng cho việc mở rông quy mô sản xuất kinh doanh của
mình. Công ty cổ phần không chỉ là chủ thể bán chứng khoán mà nó cũng là người
mua chứng khoán do các công ty khác phát hành với mùc đích sáp nhập, thu tiêu đối
thủ cạnh tranh hoặc khống chế, thao túng nhằm nắm quyền kiểm soát các công ty
khác hoặc chỉ với mục đích đơn giản là tìm kiểm lợi nhuận, các doanh nghiệp khác
cũng vậy đều là những chủ thể mua bán các chứng khoán hoặc tìm kiểm thanh khoản.
Sự ra đời của các công ty cổ phần là một tiền đề quan trọng cho việc hình thành
và phát triển thị trường chứng khoán, chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thúc
đẩy lẫn nhau. Sự có mặt càng nhiều của các công ty cổ phần trên thị trường chứng

khoán sẽ làm phong phú hàng hóa cho thị trường chứng khoán và nhờ đó sẽ làm cho
hoạt động của thị trường chứng khoán càng ngày càng trôi chảy hơn.
Thực tế ở Việt Nam cho thấy, nhà nước đã có chủ trương cho thành lập các công
ty cổ phần và được thể chế hóa bằng luật công ty. Nhưng những bước đi cụ thể,
25


×