Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

VAI TRÒ của KHOA học và CÔNG NGHỆ TRONG PHÁT TRIỂN KINH tế xã hội TIỂU LUẬN CAO học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.31 KB, 20 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Thành quả phát triển kinh tế- xã hội của các nước trên thế giới (kể cả
các nước tiên tiến hay đang phát triển) đều phản ánh rõ vai trò to lớn của khoa
học công nghệ khi nó được đặt vào vị trí trung tâm của sự quan tâm trong
chiến lược phát triển kinh tế. Tiến bộ khoa học của nhân loại đang ngày càng
thúc đẩy lực lượng sản xuất ngày một lớn mạnh và nguồn của cải vật chất,
tinh thần của nhân loại ngày thêm phong phú, sung túc.
Nước ta, một nước đi ra từ cuộc chiến tranh khốc liệt, tiềm lực kinh tế
mỏng manh nghèo nàn lạc hậu, trình độ khoa học kỹ thuật chậm phát triển thì
con đường đi đến sự phồn vinh của dân tộc không có con đường nào khác là
con đường công nghiệp hóa- hiện đại hoá đất nước. Vì vậy trong chiến lược
phát triển đất nước Đảng ta, Nhà nước ta đã và đang quan tâm sâu sắc đến sự
phát triển khoa học, coi sự phát triển khoa học và công nghệ là một trong hai
quốc sách hàng đầu ( giáo dục- đào tạo và khoa học- công nghệ) và khoa học
và công nghệ được coi là nền tảng, động lực của con đường công nghiệp hóahiện đại hoá đất nước. Chủ trương đó được thể hiện qua nhiều quyết sách của
các kỳ đại hội Đảng và được thể hiện rõ nhất trong chiến lược phát triển khoa
học và công nghệ đến năm 2010- 2020. Trước khi đi vào nội dung của các chủ
trương chính sách của Đẩng chúng ta xem xét vai trò của khoa học và công
nghệ trong phát triển kinh tế- xã hội nói chung.
I. VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
I.1 Tác động của khoa học và công nghệ đến sự phát triển kinh tếxã hội
Từ rất xưa sự phát triển tăng trưởng kinh tế của xã hội chủ yếu dựa vào
nguồn lợi tự nhiên như tài nguyên, sức lao động của con người. Sự tăng
trưởng kinh tế thường được nhận thức dựa vào các yếu tố là đất đai, lao động

15


và vốn. Dần dần về sau này trong sự tăng trưởng kinh tế có sự đóng góp của
các thành tựu tiến bộ công nghệ và yếu tố công nghệ cũng từ đó được tách


riêng ra với ý đồ đánh giá và phân tích sự đóng góp của tiến bộ công nghệ vào
tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ đó được khái quát hóa thành công thức dạng
hàm số mũ Cobb- Douglas sau đây:
Y= AK L1-  , với 0<<1

Y- Tổng sản phẩm quốc nội
K- vốn
L- Lao động
A-

Năng suất tổng nhân tố, bao gồm cả tiến bộ công nghệ.

Dựa theo số liệu thống kê kinh tế ở nhiều nước tư bản trong khoảng
thời gian 1950- 1985, hai nhà nghiên cứu M.J. Boskin và L. J. Lan đã tính
được sự đóng góp chủ yếu và to lớn của tiến bộ công nghệ vào tăng trưởng
kinh tế của các nước tư bản phát triển như bảng sau:
Đơn vị %

Tên nước

Tư bản

Lao động

Tiến bộ
công

Pháp

28


4

nghệ
68

Đức

32

10

68

Nhật

40

5

55

Anh

32

5

63


Mỹ

24

27

49

15


Và cũng chính xuất phát từ vai trò và sự đóng góp to lớn ngày càng
tăng của khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế- xã hội mà Uỷ ban
Kinh tế và Xã hội Châu Á- Thái Bình Dương đã khẳng định rằng: nếu có kế
hoạch sử dụng công nghệ thích hợp, nó có thể là chìa khoá cho một xã hội
phồn vinh. Kết luận này thật là xác đáng với ví dụ là nước Nhật, một nước tài
nguyên không lấy làm giàu có, phần lớn nguyên vật liệu cho công nghiệp phải
mua từ nước ngoài nhưng biết vận dụng khoa học công nghệ vào sản xuất đời
sống đã trở thành một nước có tổng sản phẩm quốc nội đạt hơn 4000 tỷ đôla,
đứng hàng thứ hai trên thế giới.
Lý luận và thực tiễn về quá trình tiến hoá và phát triển xã hội loài
người đều chỉ ra vai trò ngày càng tăng và có tính chất quyết định của khoa
học và công nghệ. Tác động hiệu quả và to lớn của tiến bộ khoa học công
nghệ và việc áp dụng chúng trong hoạt động kinh tế không những đã làm tăng
của cải vật chất phục vụ cho cuộc sống của con người mà còn làm tăng ý
nghĩa, vai trò của khoa học và công nghệ. Vai trò quyết định ngày càng tăng
lên của khoa học và công nghệ sẽ được xác định, quy định bởi chính nhu cầu
tăng lên của sự tiến bộ xã hội nói chung, của nền kinh tế nói riêng. Sự phát
triển của kinh tế thị trường, sự toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế sẽ kéo
theo sự mở rộng không chỉ phạm vi mà cả tính chất khốc liệt của sự cạnh

tranh. Tiến bộ khoa học và công nghệ được coi là chìa khoá, là vũ khí để
chiến thắng mọi cạnh tranh và các bí quyết công nghệ, các chuyên gia khoa
học và công nghệ giỏi được các hãng sản xuất bảo vệ, giữ gìn như bảo vệ con
ngươi của mắt mình. Trong số các tiêu chí thể hiện sức mạnh, trình độ phát
triển cũng như tính bền vững của sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia
đã có mặt tiêu chí về tiềm lực khoa học công nghệ như số lượng, cơ cấu, trình
độ của đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ trên một vạn dân.

15


Trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay
sự xuất hiện một số sản phẩm mới, một ngành công nghiệp mới bao giờ cũng
gắn liền với các nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ; bất cứ sự tăng
trưởng kinh tế nào cũng phải gắn liền với sự đổi mới phát triển công nghệ.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu mà mọi quốc gia đều phải
trải qua để phát triển khoa học và công nghệ và chính nó sẽ quyết định lợi thế
cạnh tranh của các quốc gia. Chính vì vậy mà khi đặt mục tiêu phát triển kinh
tế câu hỏi đi liền với nó là bằng phương tiện gì để đạt được mục tiêu?. Câu trả
lời là đổi mới và phát triển khoa học công nghệ. Đây là phương thức nhanh
nhất để đạt được mục tiêu đề ra. Mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội càng cao
thì nhu cầu về công nghệ càng lớn. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng một mặt
phát triển công nghệ sản xuất ra sản phẩm dịch vụ có trình độ chế biến cao và
do vậy có giá trị cao nhưng mặt khác việc áp dụng công nghệ trong sản xuất,
khai thác, chế biến có thể gây tổn hại tới môi trường sinh thái (ô nhiễm môi
trường, sự cố môi trường), đe doạ chính sự phát triển lâu dài của các hoạt
động kinh tế và đời sống xã hội như nhiều nước trên thế giới đang mắc phải.

15



Trong cuốn sách “Những thách thức ở phương Nam”- công trình
nghiên cứu của Ban Phương Nam- một tổ chức khoa học của các nước Không
liên kết đã nhận định rằng “ hơn bao giờ hết khoa học và công nghệ đã đóng
góp vào việc xác định nhịp độ biến đổi kinh tế- xã hội và xác định cơ cấu
quyền lực ở tầm thế giới. Nếu phương Nam không làm chủ được khoa học và
công nghệ hiện đại thì không khi nào đạt được cả mục đích phát triển lẫn
tham gia có hiệu quả vào quản lý một thế giới phụ thuộc lẫn nhau”. Như vậy
thì các nước này nếu có sự tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao, thì sẽ giảm
bớt được sự phụ thuộc vào các nước phát triển và thông qua đó mới xác định
được vị trí của mình trong cơ cấu quyền lực thế giới. Kinh nghiệm của các
nước “Con Rồng Châu Á” đã cho thấy, các nước này đã thành công trong phát
triển kinh tế trước hết là nhờ vào phát huy yếu tố khoa học và công nghệ mà
trước hết là yếu tố con người trong hoạt động khoa học và công nghệ. Các
nghiên cứu, phân tích những kết quả gây ấn tượng mạnh trong hoạt động xuất
khẩu của các nước “ Con Rồng” đều có chung kết luận là các sản phẩm dịch
vụ xuất khẩu của các nước này đều gắn với tiến bộ công nghệ thông tin. Nhờ
có sự tiến bộ trong công nghệ thông tin, công nghệ sinh học mà Singapore
trong những năm 80 của thế kỷ trước đã thoát khỏi nạn suy thoái kinh tế sau
ngày độc lập và trở thành một quốc gia có nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao vào
loại bậc nhất trên thế giới. Thực tế kinh tế của thế giới cho thấy rằng những
thất bại trong phát triển kinh tế- xã hội thậm chí sự sụp đổ của một quốc gia
có nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ tình trạng lạc hậu, kém phát triển về khoa
học và công nghệ được ứng dụng trong hoạt động kinh tế. Công trình nghiên
cứu về sự “Hưng thịnh và suy vong của các cường quốc” trên thế giới của
Paul Kennedy đã đi đến kết luận rằng sự phát triển khoa học và công nghệ là
một trong 3 trụ cột tạo nên quyền lực của các cường quốc.
Ngày nay, các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế đều hướng
về nghiên cứu tác động của tiến bộ công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế. Có
nghĩa là chỉ có tiến bộ công nghệ mới đem lại mức tăng trưởng lâu dài và bền


15


vững. Những biến động xấu của kinh tế , ví dụ, của một loạt nước trong khối
Asian trong mấy năm vừa qua đã được lý giải khác nhau trong đó có cả cách
lý giải do thiếu nền tảng công nghệ vững chắc cho sự phát triển.
Do vậy có thể nói, trình độ phát triển khoa học công nghệ của một quốc
gia là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, là lực lượng sản
xuất và động lực phát triển của xã hội đó. Tuy nhiên khoa học công nghệ
không nên nhìn nhận như là “đầu vào” (imput) dưới dạng máy móc, thiết bị,
tri thức, bí quyết… như trước đây mà phải hiểu nó như một nội dung chủ yếu
của quá trình tái sản xuất biểu hiện như là lực lượng sản xuất trực tiếp. Trung
Quốc đã coi khoa học công nghệ là lực lượng sản xuất hàng đầu, là lực lượng
sản xuất chủ yếu trong mọi lĩnh vực. Nước ta cũng xác định khoa học và công
nghệ là động lực của quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Đây
chính là sự thay đổi cốt lõi của mối quan hệ khoa học và công nghệ với phát
triển kinh tế- xã hội. Khoa học và công nghệ từ chỗ được nhìn nhận như là
yếu tố bên ngoài, là đầu vào cho hoạt động kinh tế thì nay được xác định là
yếu tố bên trong, là lực lượng sản xuất quan trọng cấu thành nên nền sản xuất
xã hội- nền kinh tế của một quốc gia.
I.2. Cơ chế tác động của khoa học và công nghệ tới sự phát triển
kinh tế- xã hội

Người ta đã tổng kết và khái
quát
tác động
của hoạt động khoa học
Năng
lựchóa

cạnh
tranh
công nghệ đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia trên 3 phương diện:
- Cơ cấu lại nền công nghiệp Cơ cấu lại kinh tế
- Nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế
- Đảm bảo duy trì tăng trưởng kinh
tế và phồn vinh của đất nước
Năng cao năng
nền mạnh kinh tế, năngPhát
Hoạtlực
động
Hợp
của các phương diệnsuất,
nói hiệu
trên quả
là sức
lựctriển KH
kinh tế

KHCN

- XH

cạnh tranh của một quốc gia. Có thể biểu diễn sự tác động trên dưới dạng một
sơ đồ như sau:
Đảm bảo tăng
trưởng kinh tế
15

Sức mạnh kinh tế



Sự tác động kinh tế- xã hội, về phần mình, lại tạo ra những nhu cầu về
Năng lực cạnh tranh
phát triển khoa học và công nghệ, tác động lôi kéo các hoạt động khoa học
công nghệ vận động theo nguyên lý, quy luật của cơ chế thị trường. Ở phương
Cơ cấu lại kinh tế

diện tác động này người ta nói rằng đó là tác động lôi kéo của nhu cầu thị
trường đối với hoạt động công nghệ. Sơ đồ nêu trên có thể được mở rộng có
cao năng
tính đến cả tác động thúc đẩy và lôi Năng
kéo tương
tác lẫn nhau cũng như những
suất, hiệu quả nền

Hoạt
Phát triển KH
tác nhân
tácđộng
động từ nền kinh tế thế giớikinh
và khu
tế vực (cơ hội và thách thức)
KHCN

- XH

như sơ đồ sau:
Đảm bảo tăng
trưởng kinh tế


Sức mạnh kinh tế

Nhu cầu về phát triển
KHCN
15

Kinh tế thế
giới và khu
vực
- Cơ hội


Trong thực tế đã diễn ra rất nhiều mối liên hệ thể hiện cơ chế tác động
của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế- xã hội cũng như sự
tác động trở lại của phát triển kinh tế xã hội. Sự phát triển của khoa học và
công nghệ không chỉ đem lại sự phồn vinh về vật chất cho con người mà điều
quan trọng hơn là đã làm thay đổi cả phương thức sản xuất, phương thức quản
lý đời sống xã hội của con người, dẫn đến những thay đổi lớn lao của kinh tế
và xã hội, văn hoá trong nhiều thập kỷ qua. Nhờ có khoa học công nghệ mà
loài người đã từng bước chuyển dịch
vị thế của mình từ thế giới tự nhiên của thời kỳ sơ khai sang thế giới
công nghiệp.
Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của công
nghệ thông tin và với sự ứng dụng công nghệ đó tới tận từng gia đình, đã làm
thay đổi phương thức quan hệ xã hội của con người và như vậy là đã xuất
hiện những đặc trưng cho việc chuyển sang giai đoạn phát triển mới của xã
hội – xã hội trí tuệ và thông tin.
Trong lý luận về tiến bộ khoa học- kỹ thuật người ta phân biệt
hai hình thức phát triển của nó: a) tiến hoá và b) cách mạng.


15


Đặc trưng của hình thức tiến hoá tiến bộ KHKT là trong các giai đoạn
lịch sử khác nhau tuy có cùng sử dụng một nguyên tắc KH- KT nhưng ở giai
đoạn sau thì sự phát triển của nó sâu sắc hơn so với giai đoạn trước. Khi
nguyên tắc đó đã được khai thác triệt để thì phải chuyển sang nguyên tắc khác
tiến bộ hơn. Quá trình chuyển đổi như vậy được gọi là hình thức cách mạng
trong KH- KT. Ví dụ về hình thức cách mạng đó có thể là cuộc cách mạng
công nghiệp xảy ra vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khi thành tựu khám phá
của khoa học tự nhiên đã dẫn đến một cuộc cách mạng trong công nghệ mang
lại những ứng dụng to lớn trong sản xuất, kinh doanh; làm thay đổi mang tính
cách mạng đời sống kinh tế và đời sống xã hội. Đó là sự khám phá cấu trúc
bên trong của vật chất và tổng thể vũ trụ. Khoa học vật lý đã đi sâu vào tầng
thứ 5 của vật chất: phân tử, nguyên tử, hạt nhân và điện tử, proton và neutron,
hạt quark và hạt perton. Những thành tựu này được áp dụng trong phát triển
công nghệ tạo ra công nghiệp bán dẫn, đồng vị phóng xạ, laze…, hiện đang
được sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh tế, hay đó là
những khám phá mới về trạng thái sống trong các bộ môn khoa học: tế bào, di
truyền học, sinh hoá học, vi sinh học, vi rút học dẫn đến sự ra đời của kỹ thuật
mới: kỹ thuật tạo gien, nuôi cấy tế bào, nuôi cấy mô đang làm thay đổi ghê
gớm quá trình công nghệ sản xuất trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp
và y học…. Hai hình thức tiến bộ đó của khoa học có sự gắn bó hữu cơ với
nhau trong hoạt động kinh tế.
Mối liên hệ đó cho phép rút ra kết luận rằng, để tăng cường kinh tế một
cách bền vững và có hiệu quả, các quốc gia đều cần tới ít ra 3 loại hình hoạt
động khoa học và công nghệ:
- Nghiên cứu cơ bản
- Nghiên cứu thử nghiệm

- Thiết kế- ứng dụng
Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước mà ưu tiên, chú trọng
đến hình thức nghiên cứu nào. Ví dụ, trên nền KH- KT tiên tiến ngày nay

15


Nhật Bản chú trọng tới nghiên cứu cơ bản nhằm tạo cơ sở và đón đầu các
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới, dự báo sẽ diễn ra trong những
thập kỷ đầu thế kỷ XXI khi mà xã hội loài người chuyển sang nền văn minh
trí tuệ.
Do sự phát triển nhanh như vũ bão và ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát
triển lực lượng sản xuất do cuộc cách mạng KH- KT lần thứ hai xảy ra từ
những năm 50 của thế kỷ qua đã đưa những công nghệ mới vào sản xuất trên
khắp các lĩnh vực của đời sống làm cho kinh tế tăng trưởng nhanh. Trong
cuộc cách mạng này khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, khoa
học và kỹ thuật gắn bó hữu cơ với nhau, thúc đẩy nhau, khoảng cách từ
nghiên cứu đến ứng dụng- triển khai các kết quả ngày càng rút ngắn.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ lần thứ 3, như đã đề cập
ở trên dự báo sẽ diễn ra vào đầu thế kỷ XXI và nhân loại sẽ bước vào xã hội
trí tuệ, xã hội thông tin. Điều đó sẽ dẫn đến sự phân công lao động mới (lần
thứ 4) và lúc đó khoa học công nghệ sẽ được tách ra khỏi hệ thống sản xuất và
trở thành một ngành kinh tế, và nó sẽ tác động to lớn vào hệ thống kinh tế,
làm thay đổi cơ bản toàn bộ đời sống xã hội- văn hoá- chính trị.
Như vậy, cơ chế tác động của khoa học và công nghệ tới phát triển kinh
tế xã hội không chỉ là một phía, một chiều mà là tác động tương hỗ lẫn nhau.
Sự phát triển khoa học và công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật phải căn cứ
vào những mục tiêu, yêu cầu của nền kinh tế, của xã hội đặt ra cho mỗi thời
kỳ phát triển. Và như thế khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế không chỉ
căn cứ vào năng lực thực tế của khoa học công nghệ mà còn phải căn cứ vào

khả năng thực tế mà tiến bộ khoa học có thể mang lại. Sự tiến bộ của khoa
học công nghệ tạo đã điều kiện để con người tác động mạnh mẽ vào thế giới
tự nhiên và môi trường, nhưng nhiều khi sự can thiệp một cách quá thái, thô
bạo của con người đe dọa đến sự phát triển bền vững môi trường sống Trái
đất. Bởi vậy, bên cạnh phát triển kinh tế xã hội để thoã mãn nhu cầu hiện tại

15


cũng cần phải có sự định hướng phát triển khoa học công nghệ để không làm
phương hại đến việc thoả mãn nhu cầu của các thế hệ tiếp theo.
Tóm lại, khoa học công nghệ có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh
tế- xã hội.
Nhờ đó mà cuộc sống nhân loại ngày càng tiến bộ, phồn vinh. Nước ta
đang trên con đường xây dựng đất nước xuất phát từ nền kinh tế lạc hậu. Bởi
vậy muốn cho nền kinh tế nước nhà phát triển vững mạnh Đảng và Nhà nước
ta đang thực hiện nhiều chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển khoa học và
công nghệ.
II. CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ
PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ CHO CÔNG
NGHIỆP HOÁ- HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
II.1. Thực trạng khoa học công nghệ sau hai mươi năm đổi mới
II.1.1. Thành tựu
a. Tiềm lực khoa học
Cho đến nay chúng ta có đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học
tương đối đông đảo với trên 1,3 triệu người có trình độ đại học và cao đẳng;
trên 30 nghìn cán bộ trên đại học trong đó hơn một nửa là tiến sỹ khoa học và
khoảng hơn 2 triệu công nhân kỹ thuật. Thực tế cho thấy đội ngũ này có khả
năng tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ được tri thức, công nghệ hiện đại
trên một số ngành và lĩnh vực quan trọng.

Cùng với đội ngũ đông đảo đó, chúng ta đã xây dựng được một mạng
lưới với hơn 940 tổ chức khoa học công nghệ thuộc mọi thành phần kinh tế,
trong đó có khoảng 450 tổ chức nước ngoài. Đã xuất hiện nhiều tổ chức khoa
học và công nghệ gắn kết tốt giữa nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ
sản xuất kinh doanh.
Sau nhiều năm phấn đấu, năm 2000 lần đầu tiên tỷ lệ chi ngân sách nhà
nước cho khoa học và công nghệ đạt 2% tổng chi ngân sách.

15


b. Khoa học và công nghệ đóng góp tích cực trong phát triển kinh
tế- xã hội
Khoa học xã hội và nhân văn đã cung cấp luận cứ khoa học phục vụ
hoạch định đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; góp
phần vào thành công của công cuộc đổi mới nói chung và vào quá trình đổi
mới tư duy kinh tế nói riêng.
Các kết quả điều tra cơ bản và nghiên cứu về điều kiện tự nhiên,
tài nguyên thiên nhiên của đất nước là cơ sở xây dựng luận cứ khoa học cho
các phương án phát triển vùng và lãnh thổ.
Khoa học công nghệ đã góp phần quan trọng vào việc tiếp thu,
làm chủ, thích nghi và khai thác có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước
ngoài. Nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp đã góp phần đưa nước ta
từ chỗ là nước nhập khẩu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu
trên thế giới.
Các chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm đã góp phần
nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên tiến, nâng
cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế.
Khoa học và công nghệ nước ta trong những năm qua đã góp
phần tích cực vào việc đào tạo và nâng cao trình độ nhân lực khoa học và

công nghệ trong nhiều lĩnh vực chuyên môn; chăm sóc sức khoẻ các tầng lớp
nhân dân; bảo vệ môi trường; giữ gìn bản sắc và phát huy truyền thống văn
hoá tốt đẹp của dân tộc.
c. Cơ chế quản lý khoa học từng bước được đổi mới
Hệ thống quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ được tổ
chức từ trung ương đến địa phương. Các chương trình, đề tài, dự án khoa học
và công nghệ đã bám sát hơn các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Cơ chế
tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học công nghệ đã đi theo
nguyên tắc dân chủ, công khai. Quyền chủ động của các tổ chức và cá nhân
trong hoạt động khoa học công nghệ đã được tăng cường.

15


II.1. 2. Những yếu kém
a. Trình độ của nhiều ngành sản xuất còn thấp và lạc hậu
So với trình độ công nghệ của các nước trên thế giới và trong khu vực
thì như dự thảo của văn kiện đại hội IX của Đảng ta (tháng7/2000) đã nhận
xét là “ Trình độ công nghệ của nước ta còn thấp so với các nước xung quanh,
trình độ công nghệ của các ngành sản xuất hiện nay nhìn chung còn lạc hậu,
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm rất thấp, trừ một số lĩnh vực: viễn
thông, dầu khí, lắp ráp ô tô, hàng điện tử tiêu dùng….Phần lớn thiết bị còn lại
lạc hậu so với thế giới đến 2- 3 thế hệ”. Mức tự động hoá trong nền kinh tế
quốc dân rất hạn chế. Trình độ công nghiệp chậm được đổi mới trong nhiều
ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý; sản phẩm nghiên cứu khoa
học và công nghệ chưa nhiều, tỷ lệ ứng dụng vào sản xuất và đời sống chưa
cao.
b. Năng lực khoa học và công nghệ còn yếu kém
Trong đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ còn thiếu cán bộ
giỏi và đầu đàn. Cơ cấu ngành nghề và phân bố còn nhiều bất hợp lý. Tình

trạng hẫng hụt cán bộ trẻ đủ năng lực để thay thế cho thế hệ tuổi cao đến mức
báo động.
Các tổ chức nghiên cứu và phát triển còn hoạt động rời rạc, thiếu
liên kết và chưa tạo ra sức mạnh và hiệu quả hợp tác.
Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu về đào tạo
nguồn nhân lực có chất lượng cao.
Hệ thống dịch vụ khoa học và công nghệ, bao gồm hệ thống
thông tin, hệ thống tư vấn chuyển giao công nghệ, sở hữu công nghiệp, tiêu
chuẩn đo lường chất lượng còn yếu.
c. Cơ chế quản lý khoa học và kỹ thuật đổi mới chậm, còn nặng nề
về quản lý hành chính
Cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động khoa học công nghệ
còn mang nặng tính hành chính bao cấp, chưa huy động được nhiều nguồn

15


vốn ngoài ngân sách nhà nước; chưa phát huy được quyền làm chủ tài chính
của các tổ chức nghiên cứu khoa học.
Việc quản lý cán bộ khoa học, công nghệ còn dập khuôn theo chế
độ công chức nhà nước, không phù hợp với hoạt động khoa học và công nghệ.
Chế độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý, không khuyến khích và phát huy nội
lực của đội ngũ làm khoa học.
Thị trường khoa học chậm phát triển. Hoạt động khoa học và
công nghệ còn ít gắn kết với nhu cầu của các doanh nghiệp.
II.2. Các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về phát
triển khoa học và công nghệ
Xuất phát từ tình trạng kinh tế và khoa học kỹ thuật còn yếu kém như
vừa nêu Đảng và Nhà nước ta khẳng định lại chiến lược phát triển đất nước ta
thông qua con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với trọng tâm là

phát triển khoa học và công nghệ, coi khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu, là nền tảng và động lực cho quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá
đất nước, chóng đưa nước ta thoát khỏi tình trạng yếu kém. Chủ trương chính
sách này đã được quán triệt trong văn kiện của nhiều lần đại hội Đảng, từ đại
hội khoá IV cho đến khoá X. Nhưng có lẽ mốc thời gian quan trọng nhất là
khi nghị quyết TƯ 2 khoá VIII (năm1996) thông qua chiến lược phát triển
kinh tế đến năm 2000. Một loạt các văn kiện, chính sách tiếp theo như : Luật
khoa học và công nghệ (năm 2000); nghị quyết TW 6 khoá IX (năm2002);
quyết định 72/2003/QĐ- TTg của Thủ tướng chính phủ và các quyết định
khác của Thủ tướng chính phủ, của Bộ Khoa học và Công nghệ và liên Bộ
trong các năm 2003, 2004, 2005 đều nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển
nền khoa học và công nghệ nước nhà.
II.2.1. Tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi, đảm bảo dân chủ
trong KH&CN
Nhà nước tạo điều kiện và đảm bảo môi trường dân chủ, sáng tạo cho
các hoạt động nghiên cứu, trao đổi học thuật trong các lĩnh vực khoa học-

15


nhân văn. Thực hiện nghiêm túc và đầy đủ cơ chế tham khảo ý kiến của các
nhà khoa học đối với chủ trương, chính sách, dự án đầu tư phát triển kinh tếxã hội. Khuyến khích và bảo hộ mọi nỗ lực của doanh nghiệp, trường học,
viện nghiên cứu và cá nhân được nghiên cứu và phát triển khoa học công
nghệ theo mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
II. 2.2. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ
a. Quản lý nhà nước về KH&CN
-

Tổ chức lại hệ thống quản lý nhà nước về hoạt động KH&CN


theo hướng thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước phù hợp với tiến trình
cải cách hành chính.
-

Thực hiện chức năng quản lý của nhà nước bằng luật pháp và các

chính sách điều tiết vĩ mô.
-

Kiện toàn, nâng cao vai trò, hiệu lực hoạt động của Hội đồng

chính sách KH&CN quốc gia.
b. Xây dựng tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN ưu tiên của nhà
nước
-

Tiến hành xây dựng các dự báo và chiến lược làm cơ sở cho xác

định đúng nhiệm vụ KH&CN nhằm đề xuất những nhiệm vụ KH&CN gắn
với nhu cầu của thực tiễn.
-

Hoàn thiện cơ chế tuyển chọn thông qua cạnh tranh, công khai,

dân chủ, xây dựng các nhiệm vụ KH&CN.
-

Tổ chức hội đồng KH&CN chuyên ngành để tư vấn, xác định

nhiệm vụ KH&CN, tuyển chọn tổ chức và cá nhân chủ trì, tổ chức đánh giá.

c. Quản lý các tổ chức KH&CN
-

Khuyến khích mọi tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế

đầu tư phát triển KH&CN.
-

Đảm bảo quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức

KH&CN, nhằm phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức
KH&CN phù hợp vơí thị trường.

15


-

Tăng cường đầu tư, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của

các trường đại học. Đẩy mạnh liên kết giữa nghiên cứu, đào tạo và sản xuất
kinh doanh.
d. Cơ chế, chính sách tài chính
-

Cải tiến chế độ tài chính trong việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN

theo hướng tạo quyền tự chủ tài chính cho các tổ chức KH&CN.
-


Ban hành chính sách để các tổ chức và cá nhân hoạt động

KH&CN được vay vốn thực hiện nghiên cứu, ứng dụng kết quả nghiên cứu
KH&CN vào sản xuất đời sống.
e. Xây dựng và phát triển thị trường KH&CN
-

Xây dựng năng lực đổi mới công nghệ và tạo nhu cầu mạnh mẽ

từ phía doanh nghiệp. Tăng cường hỗ trợ của nhà nước đối với việc nâng cao
năng lực đổi mới công nghệ của doanh nghiệp; khuyến khích các công ty
nước ngoài đưa công nghệ cao vào Việt Nam.
-

Khuyến khích vật chất việc chuyển giao và ứng dụng kết quả

nghiên cứu khoa học và phát triển khoa học vào sản xuất đời sống, đẩy mạnh
các dịch vụ tư vấn thông tin KH&CN.
-

Đẩy mạnh thực hiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao

công nghệ.
II. 3. Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ
II.3.1. Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng và phát triển nhân
lực KH&CN
-

Quán triệt mọi cấp, mọi ngành quan điểm “ đội ngũ trí thức, cán


bộ KH&CN là tài sản quý và là nguồn động lực quan trọng để thực hiện thành
công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
-

Phát huy và nâng cao hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ KH&CN:

về tinh thần yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, hoài bão và lòng say mê
khoa học, tinh thần hợp tác nghiên cứu.

15


-

Tạo động lực vật chất và tinh thần mạnh mẽ cho các cá nhân hoạt

động KH&CN, có chính sách lương thoả đáng với cán bộ nghiên cứu triển
khai; có chế độ thưởng cao đối với các công trình có giá trị, có chế độ phụ cấp
thoả đáng cho cán bộ nghiên cứu làm việc ở vùng sâu, vùng xa; trọng dụng và
tôn vinh nhân tài, có chính sách sử dụng cán bộ KH&CN đã đến tuổi nghỉ hưu
nhưng còn sức khoẻ và có chuyên môn cao.
-

Đẩy mạnh việc gửi cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài

II.3.2. Phát triển hệ thống thông tin quốc gia về KH&CN
-

Đầu tư, nâng cấp, hiện đại hoá các cơ sở thông tin KH&CN hiện


có. Liên kết mạng thông tin KH&CN quốc gia với mạng thông tin KH&CN
toàn cầu.
-

Xây dựng và phát triển ngân hàng dữ liệu quốc gia về KH&CN,

các thông tin về sáng chế, các gien quý về cây trồng, vật nuôi, các số liệu điều
tra cơ bản về tài nguyên thiên nhiên.
-

Đẩy mạnh sử dụng công nghệ thông tin ở các viện nghiên cứu,

trường đại học và các doanh nghiệp.
II .4. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về KH&CN
-

Thực hiện đa dạng hoá các hình thức hợp tác quốc tế về

KH&CN, lựa chọn các đối tác chiến lược hợp tác về KH&CN, đặc biệt về
chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực KH&CN, tăng nguồn tài chính cho
KH&CN và trao đổi thông tin.
-

Gắn kết giữa hợp tác quốc tế về kinh tế với hợp tác quốc tế về

KH&CN.
-

Thu hút các chuyên gia người Việt ở nước ngoài về nước làm


việc, các chuyên gia nước ngoài có trình độ cao đến Việt Nam nghiên cứu và
giảng dạy và cố vấn cho các hoạt động quản lý hoặc đảm đương các vị trí
quản lý KH&CN trong nước.
KẾT LUẬN

15


Thách thức lớn nhất trong phát triển kinh tế- xã hội của nước ta hiện
nay là sự yếu kém về hiệu quả của nền kinh tế, sức mạnh cạnh tranh của hàng
hoá trên thị trường nội địa và xuất khẩu, chất lượng đội ngũ nhân lực còn bất
cập; tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới gặp những khó khăn to lớn.
Những thách thức đó sẽ cản trở sự thành công của quá trình CNH- HĐH đất
nước.
Yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước đối với KH&CN
cũng như yêu cầu phát triển của chính nền KH&CN nước ta trong giai đoạn
CNH- HĐH là rất gay gắt. Để thực sự trở thành nền tảng và động lực cho
CNH- HĐH đất nước, KH&CN nước ta phải được phát triển nhanh chóng, đạt
ngang mức trung bình tiên tiến của các nước trong khu vực. Đây là một nhiệm
vụ nặng nề cần có sự thống nhất về ý chí và nổ lực hành động của các cấp
quản lý, các ngành, của cộng đồng các nhà nghiên cứu khoa học và công nghệ
Việt Nam trong và ngoài nước.

15


MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ


I. Vai trò của khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế- xã hội

1
1

I.1. Sự tác động của khoa học và công nghệ đến sự phát triển kinh tế- xã
hội

1

I.2. Cơ chế tác động của khoa học và công nghệ đến sự phát triển kinh tếxã hội

9

II. Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển khoa học

9

và công nghệ phục vụ cho CNH- HĐH đất nước

9

II.1. Thực trạng nền khoa học Việt Nam sau 20 năm đổi mới
II.1.1. Thành tựu

1
0

II.1.2. Những yếu kém
II.2. Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển khoa

học và công nghệ phục vụ cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước

1
1

II.2.1.Tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi, đảm bảo dân chủ trong
KH&CN
II.2.2. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ
II.2.3. Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ
II.2.4. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế

1
2
1
2

KẾT LUẬN

1

TÀI LIỆU THAM KHẢO

3
14
1
5

15



Tài liệu tham khảo
1. Đặng Ngọc Dinh,. Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam.
Tài liệu học tập Lớp bồi dưỡng kiến thức kinh tế- kỹ thuật, Bộ KH& CN, Hà Nội,
2006.
2. Ngô Quý Việt. Đảm bảo nhân lực khoa học và công nghệ.Tài liệu học tập
Lớp bồi dưỡng kiến thức kinh tế- kỹ thuật, Bộ KH& CN, Hà Nội, 2006.
3. Nguyễn Sỹ Lộc. Cơ sở của quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ. Tài
liệu học tập Lớp bồi dưỡng kiến thức kinh tế- kỹ thuật, Bộ KH& CN, Hà Nội, 2006.
4. Nguyễn Danh Sơn. Khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế. Tài liệu
học tập Lớp bồi dưỡng kiến thức kinh tế- kỹ thuật, Bộ KH& CN, Hà Nội, 2006.
5. Nghị quyết Hội nghị lần 2 Ban chấp hành TW Đảng ( khoá VIII) về định
hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoáhiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000. Tài liệu học tập Lớp bồi dưỡng kiến thức
kinh tế- kỹ thuật, Bộ KH& CN, Hà Nội, 2006.

15



×