Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.61 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN VIỆT LINH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

THỪA THIÊN HUẾ- NĂM 2017


Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. NGÔ VĂN TRÂN
Phản biện 1 :....................................................................................
...................................................................................
Phảnbiện 2 :......................................................................................
...................................................................................

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ,
Học viện Hành Chính Quốc gia
Địa điểm : Phòng họp............, nhà............ – Hội trường bảo


vệ luận văn thạc sĩ Học viện Hành chính Quốc gia
Số :.........–Đường....................................–
Quận :...........
Thành phố...........
Thời gian : vào hồi............. giờ............ tháng...............năm
201..............
Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính
Quốc gia hoặc trên trang Web Khoa Sau đại học, Học viện Hành
chính Quốc gia


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội VI năm 1986 của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới
toàn diện, sâu sắc và triệt để trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội.
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt nhiều thành tựu
to lớn. Đảng ta đã xác định lại vị trí và vai trò của nông nghiệp, nông
dân, nông thôn trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
nói chung, trong đó xác định cần phải xây dựng thành công nông thôn
mới là một trong những yếu tố có tính quyết định đối với việc ổn định
kinh tế xã hội của đất nước.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung Ương lần
thứ VII (khóa X) ra Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5 tháng 8 năm
2008 đã nêu một cách toàn diện quan điểm của Đảng ta về xây dựng
nông thôn mới. Nghị quyết khẳng định: “Nông nghiệp, nông dân,
nông thôn có vai trò to lớn, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy các vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Giải quyết vấn

đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn không phải chỉ là nhiệm vụ của
nông dân, ở khu vực nông thôn mà là nhiệm vụ của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội. Xây dựng nông thôn mới là “xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại ở nông thôn; xây dựng cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp
với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch;
Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông
dân - trí thức vững mạnh; Không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển
biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào
tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu
vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới”.
Thực hiện đường lối của Đảng, Chính phủ đã ra Nghị quyết số
24/2008/NQ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2008, ban hành một chương
trình hành động của Chính phủ về xây dựng nông nghiệp, nông dân
và nông thôn, thống nhất nhận thức, hành động về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn và Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông
thôn mới.

1


Nội dung chính của Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng
nông thôn mới là: “xây dựng, tổ chức cuộc sống của dân cư nông thôn theo
hướng văn minh, hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hóa và môi trường sinh thái
gắn với phát triển đô thị, thị trấn, thị tứ”.
Qua hơn 5 năm thực hiện xây dựng nông thôn mới, nước ta đã
đạt được một số kết quả nổi bật: 56,5% số xã đạt tiêu chí thu nhập
(mức thu nhập bình quân/đầu người vùng nông thôn là 24,6 triệu
đồng/năm, tăng khoảng 1,9 lần so với năm 2010); 85,5% số xã đạt tiêu

chí việc làm; tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ 14,2% năm 2010
xuống còn 4,5% theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011-2015 (giảm bình
quân 2%/năm). Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm từ 50,97%
cuối năm 2011 xuống còn 38,2% cuối năm 2013; 32,59% cuối năm
2014, bình quân giảm trên 5%/năm. Đặc biệt bộ mặt nông thôn thay
đổi khá rõ nét, chuyển đổi sản xuất theo hướng đa dạng hóa, đời sống
nhân dân được nâng cao, giảm thiểu khoảng cách nông thôn và thành
thị…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó tại nhiều địa phương
đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế nhất là vấn đề quản lý nhà nước về
thực hiện xây dựng nông thôn mới. Nhiều địa phương chạy theo
thành tích nhằm về đích sớm, xây dựng nông thôn mới không gắn với
phát triển bền vững. Các giải pháp thiếu tính đồng bộ trong quản lý
nhà nước về quy hoạch, quản lý quy hoạch, xây dựng kế hoạch, tổ
chức bộ máy, nâng cao năng lực…đã tạo ra nhiều tác động tiêu cực
trong quá trình thực hiện chương trình như: Chỉ chú trọng vào tiêu
chí xây dựng cơ bản mà thiếu quan tâm, chỉ đạo thực hiện các tiêu
chí về môi trường, văn hoá, các tiêu chí mềm; vay trước vốn để đầu
tư xây dựng cơ bản dẫn đến nợ đọng cao, không có khả năng chi trả,
chưa tập trung chuyển đổi cơ cấu sản xuất; chưa phát huy vai trò chủ
thể của người dân trong xây dựng nông thôn mới dẫn đến không phát
huy được hết sức dân, sức mạnh tập thể; cán bộ thực thi nhiệm vụ
không nắm hết chủ trương chính sách của nhà nước nên làm sai trái,
vi phạm pháp luật… Chính sự yếu kém trong quản lý nhà nước về
xây dựng nông thôn mới như đã nêu trên, đã để lại những ảnh hưởng
nặng nề, giảm đi ý nghĩa tích cực của chương trình xây dựng nông
thôn mới ở các địa phương này.
Huyện Bố Trạch, là một huyện nghèo của tỉnh Quảng Bình
sau hơn 5 năm thực hiện xây dựng nông thôn mới, nhiều làng quê đã
thực sự khởi sắc, làm mới được 249 km giao thông nông thôn, thực


2


hiện được 45 lớp đào tạo nghề, nhân rộng được hơn 30 mô hình sản
xuất hiệu quả, phát triển 32 trang trại sản xuất. Có hơn 7.588 hộ tự
nguyện hiến tài sản, có giá trị trên 20.451 triệu đồng và có hơn 5.489
hộ hiến đất với tổng số tiền trên 14.254 triệu đồng. Đạt được 12,46
tiêu chí/xã, có 7/28 xã đạt chuẩn nông thôn mới. Nhờ những kết quả
đó, đời sống của nhân dân được thay đổi căn bản, và bền vững.
Tuy nhiên, cũng như tình trạng chung của cả nước, bên cạnh
những kết quả đạt được vẫn còn những tồn tại nhiều hạn chế đó là
công tác chỉ đạo, điều hành của một số ban chỉ đạo, ban quản lý cấp
xã, thôn ở huyện vẫn chưa thực sự khoa học, còn nhiều lúng túng.
Một số xã còn chạy theo thành tích để về đích đạt chuẩn nông thôn
mới sớm, đã gây ra những gánh nặng nợ đọng về xây dựng cơ bản,
xây dựng hạ tầng; chưa chú trọng quy hoạch phát triển sản xuất; kết
cấu hạ tầng tuy được nâng lên nhưng chưa đáp ứng nhu cầu của
người dân; công tác duy tu bảo dưỡng vẫn chưa có giải pháp hữu
hiệu nên các công trình vẫn có tình trạng xuống cấp nhanh, nhất là
sau các đợt thiên tai, lũ lụt; vai trò của người dân không được đề cao
trong thực hiện xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh đó, việc vận dụng
các nguồn lực còn hạn chế, chủ yếu trông chờ nguồn ngân sách nhà
nước, nguồn lực trong dân chưa được chú trọng… Những yếu kém
trên do nhiều nguyên nhân, song cơ bản nhất là vai trò quản lý nhà
nước chưa được đề cao. Các địa phương thực hiện xây dựng nông
thôn mới mang tính phong trào, thiếu định hướng chỉ đạo, kiểm tra,
kiểm soát của các cơ quan nhà nước. Vì vậy, nhiều vấn đề bất cập đã
xẫy ra như chất lượng các công trình đầu tư thấp, dàn trãi; huy động
vốn bừa bải, chỉ chú trọng đến đầu tư hạ tầng, chưa chú trọng mục

tiêu tổng thể… Thực trạng đó chưa được điều tra, đánh giá một cách
nghiêm túc để có những giải pháp chấn chĩnh, nhằm nâng cao hiệu
quả của việc thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới.
Xuất phát từ những hạn chế trên tại địa phương, tác giả đã
chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình” làm đề tài luận văn thạc sỹ với
mong muốn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà
nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Bố Trạch trong
những năm đến.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, vấn đề QLNN về xây dựng NTM luôn là
mối quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước, đồng thời cũng là sự quan tâm

3


của các nhà nghiên cứu và các nhà quản lý. Nhiều công trình nghiên cứu
liên quan đến vấn đề này đã được công bố, trong đó có một số công trình
tiêu biểu như sau:
“Chính sách nông nghiệp, nông thôn sau Nghị quyết X của
Bộ Chính trị” của Lê Đình Thắng chủ biên (1998), Nxb. Chính trị
Quốc gia đã đề cập nhiều nội dung quan trọng liên quan đến chủ đề
nghiên cứu, như phân tích quá trình phát triển nông nghiệp, nông
thôn của Việt Nam dưới sự tác động của hệ thống chính sách, phân
tích một số chính sách cụ thể như chính sách đất đai, chính sách phân
phối trong phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta.
“Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới” của
Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nxb. Thống kê. Đây là công trình nghiên
cứu rất công phu của tác giả bởi ngoài những phân tích có tính thuyết
phục về quá trình đổi mới nông nghiệp Việt Nam sau gần 20 năm,

công trình còn cung cấp hệ thống tư liệu về phát triển nông nghiệp,
nông thôn nước ta như là một Niên giám thống kê nông nghiệp thu
nhỏ. Công trình đã luận giải rõ quá trình đổi mới, hoàn thiện chính
sách nông nghiệp, nông thôn nước ta trong những năm đổi mới,
những thành tựu và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Những gợi mở về những vấn đề
cần giải quyết của phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta như vấn
đề đầu tư, vấn đề phân hoá giàu nghèo, nâng cao khả năng cạnh
tranh, xuất khẩu nông sản…
“Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế” của Bùi Xuân Lưu chủ biên (2004), Nxb. Thống kê.
Trong công trình này, các tác giả đã phân tích những đặc trưng cơ bản
của hội nhập kinh tế quốc tế trong nông nghiệp; phân tích khái quát
những thành tựu cũng như hạn chế của nông nghiệp nước ta trong hội
nhập kinh tế quốc tế; đồng thời khuyến nghị việc sửa đổi các chính sách
và hoàn thiện vai trò của Nhà nước để nông nghiệp, nông thôn nước ta
hội nhập kinh tế quốc tế thành công.
Chuyên đề “Quản lý nhà nước về nông nghiệp nông thôn” của
Phạm Kim Giao (2004), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả đi sâu
phân tích 2 nội dung đó là: Thứ nhất, quan điểm, mục tiêu và định hướng
phát triển nông nghiệp, nông thôn; Thứ hai, một số nội dung chủ yếu của
QLNN về nông thôn. Nêu ra những thành tựu và hạn chế trong quá trình
QLNN về nông thôn, đồng thời, nêu những giải pháp để làm tốt công tác
QLNN về nông thôn thời gian đến như: Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu

4


kinh tế nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn, phát huy vai trò và đổi
mới hoạt động của các thành phần kinh tế, phát triển công nghiệp dịch vụ,

quản lý quy hoạch xây dựng các điểm dân cư, quản lý xây dựng kết cấu
hạ tầng ở nông thôn, quản lý các vấn đề xã hội an ninh và trật tự nông
thôn.
Đề tài “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông
thôn ở Việt Nam - con đường và bước đi”, do Nguyễn Kế Tuấn làm
chủ nhiệm (2006), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, đã đề cập đến
nội dung phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững gắn với quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta thời gian qua; đồng
thời đề xuất phương hướng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trong thời gian tới.
“Xây dựng NTM, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, của Vũ
Văn Phúc, (2012) Nxb. Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội. Nội
dung cuốn sách bàn đến những khía cạnh đa dạng của việc xây dựng
NTM: vấn đề quy hoạch, an sinh xã hội, chính sách đất đai, bảo vệ
môi trường...
“Xây dựng NTM ở Việt Nam hiện nay (Nghiên cứu vùng
duyên hải Nam Trung bộ)” của Phạm Đi, (2016) Nxb. Chính trị Quốc
gia. Công trình đề cập đến những kết quả đạt được trong quá trình xây
dựng NTM ở các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ và những bài học rút
ra từ thực tiễn triển khai xây dựng NTM ở khu vực này.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu cấp nhà nước, cấp bộ
đã được công bố, một số luận văn thạc sĩ chuyên nhành Quản lý công
cũng nghiên cứu về lĩnh vực này, như:
“Quản lý nhà nước về xây dựng NTM tại huyện Hoà Vang,
thành Phố Đà Nẵng” của Lê Thị Bính Thuận (2014), Luận văn Thạc
sĩ – Quản lý công, HVHC Quốc gia. Tác giả tập trung nghiên về cơ sở
lý luận của QLNN về xây dựng NTM, nghiên cứu kinh nghiệm triển
khai ở các địa phương, phân tích thực trạng tại địa phương để đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN về xây dựng NTM trên
địa bàn.

“Quản lý nhà nước về xây dựng NTM trên địa bàn huyện Phú
Ninh, tỉnh Quảng Nam”, Lê Thị Thu Thảo (2015), Luận văn thạc sỹ
Quản lý công, Học viện hành chính Quốc gia. Trên cơ sở nghiên cứu
cơ sở lý luận và đi sâu phân tích thực trạng QLNN đối với XD NTM
ở huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2010-2014, tác giả
đánh giá thực trạng QLNN đối với XD NTM, đề xuất được một số

5


giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động QLNN đối với
XD NTM ở huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.
“Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn ở huyện Nghĩa
Hành, tỉnh Quảng Ngãi” của Nguyễn Thị Ánh Hồng (2017), Luận
văn Thạc sĩ – Quản lý công, HVHC quốc gia. Tác giả làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn QLNN về XD NTM ở huyện Nghĩa hành, tỉnh Quảng
Ngãi. Chỉ ra những thuận lợi, khó khăn còn tồn tại, nguyên nhân của nó
để đưa ra những giải pháp để hoàn thiện QLNN về XD NTM ở địa
phương này.
Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài đã
được công bố trên các tạp chí:
“Tăng cường quản lý nhà nước để phát triển làng nghề phục
vụ mục tiêu xây dựng nông thôn mới” của Phùng Đức Hiệp, Tạp chí
QLNN số 186, tháng 7 - 2011. Tác giả khẳng định việc bảo tồn và
phát triển làng nghề có ý nghĩa đăc biệt quan trọng đối với sự phát
triển ngành nghề nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội khu
vực nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, từ việc phân tích những mặt đạt được và hạn chế trong
việc phát triển các làng nghề. Tác giả đưa ra 6 giải pháp tăng cường
công tác QLNN để phát triển các ngành nghề.

“Phát huy vai trò của chính quyền nông thôn trong công
cuộc đổi mới đất nước” của Nguyễn Thị Thanh Nhàn, Tạp chí
QLNN số 191, tháng 12-2011. Tác giả nêu ra những biến đổi to lớn ở
nông thôn khi tiến hành đổi mới như: sự tái lập vai trò của hộ gia
đình và yếu tố làng xã, xuất hiện sự phân hóa xã hội nông thôn dưới
tác động của kinh tế thị trường, nét mới trong tâm lý nông dân thời
kinh tế thị trường và những diễn biến phức tạp của đời sống chính trị
- xã hội nông thôn. Vì vậy, cần phải xây dựng chính quyền NTM phù
hợp với yêu cầu của nhiệm vụ QLNN, đảm bảo chính quyền đơn
giản, gọn nhẹ, vận hành thông suốt, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả
và đặc biệt phải phù hợp với điều kiện thực tế của nông thôn Việt
Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay.
“Nhìn lại quá trình thực hiện dồn điền, đổi thửa phục vụ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” của Lê Thị
Hiền, Tạp chí lý luận chính trị, cơ quan nghiên cứu và ngôn luận
khoa học của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh số 6, 2015.
Tác giả khẳng định dồn điền đổi thửa là một trong những công tác
lớn trong chính sách ruộng đất hiện nay nhằm phát triển nông

6


nghiệp, nông thôn, nông dân theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa tạo sự chuyển biến trong sản xuất nông nghiệp, kéo theo sự thay
đổi trong đời sống kinh tế và xã hội ở nhiều vùng nông thôn. Vậy
nhà nước quản lý quy hoạch và thực hiện quy hoạch dồn điền đổi
thửa như thế nào cho phù hợp với nông thôn từng địa phương.Đây là
định hướng để nghiên cứu đưa ra giải pháp phù hợp với đề tài nghiên
cứu.
Nhìn chung, các nghiên cứu của các tác giả về xây dựng NTM,

QLNN về xây dựng NTM hiện nay mang tính khái quát cao, không gian
nghiên cứu ở tầm quốc gia, nhưng về một số vùng miền và địa phương cụ
thể thì chưa nhiều. Đặc biệt, hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách tổng thể, có hệ thống về QLNN đối với xây dựng NTM tại
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Những công trình nghiên cứu trên đã cung cấp những luận cứ
và những dữ liệu khoa học quan trọng cho tác giả luận văn, trên cơ
sở đó tác giả kế thừa, phát huy và sử dụng trong quá trình nghiên cứu
đề tài của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn của QLNN về xây
dựng NTM, Luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện
QLNN về xây dựng NTM ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn QLNN về xây dựng
NTM.
- Đánh giá thực trạng QLNN về xây dựng NTM ở huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình, phân tích những kết quả đã đạt được, hạn
chế, nguyên nhân của những hạn chế trong QLNN về xây dựng NTM
tại địa phương này .
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện QLNN về
xây dựng NTM ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong những
năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động QLNN về
xây dựng NTM ở huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài


7


- Nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề về liên
quan đến hoạt dộng QLNN về xây dựng NTM.
- Thời gian: Nghiên cứu thực trạng xây dựng NTM trong 5 năm từ
2012 đến 2017.
- Không gian : Trên địa bàn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng
Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để hoàn thành luận văn tác giả sử dụng phổ biến các phương
pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp phân tích hệ thống
- Phương pháp phân tích thống kê
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp khảo sát thực địa
- Phương pháp phân tích chính sách
- Phương pháp điều tra XHH theo phiếu: Tác giả sử dụng
phương pháp này để thu thập thông tin về QLNN về xây dựng NTM
trên địa bàn huyện Bố Trạch từ 32 cán bộ cấp xã của 8 xã và hiểu
biết của 120 người thuộc 8 xã nghiên cứu về QLNN đối với xây
dựng NTM. Cách thức chọn mẫu ngẫu nhiên, đại diện cho các vùng,
miền, phân tích số liệu trên cơ sở các phương pháp thống kê, sử dụng
phần mềm Excel để tính toán, trên cơ sở đó so sánh, đánh giá và rút
ra kết luận.
6. Những đóng góp của luận văn
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, rút ra những nguyên nhân
của tình trạng yếu kém trong QLNN về xây dựng NTM, đề xuất một
số giải pháp có tính khả thi góp phần hoàn thiện hoạt động QLNN về

xây dựng NTM trên địa bàn huyện Bố Trạch trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung QLNN, các yếu tố ảnh
hưởng tới hiệu quả và đánh giá hiệu quả QLNN đối với xây dựng NTM
trong điều kiện hiện nay.
7.2. Về thực tiễn
Luận văn chỉ ra mặt được, mặt chưa được và nguyên nhân yếu
kém. Đồng thời, đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện hoạt động
QLNN về xây dựng NTM ở huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Kết quả
nghiên cứu của luận văn là một trong những nguồn tài liệu tham khảo

8


cho những người thực hiện QLNN liên quan đến nông nghiệp, nông
thôn, nông dân, xây dựng NTM và những ai quan tâm đến vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn QLNN về xây dựng
NTM
Chương 2. Thực trạng QLNN về xây dựng NTM ở huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện QLNN về
xây dựng NTM ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình

9



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài luận văn
1.1.1. Nông thôn, nông thôn mới, xây dựng nông thôn mới, chính
sách xây dựng nông thôn mới.
- Nông thôn
Theo Từ điển tiếng Việt, Nông thôn là “khu vực dân cư tập
chủ yếu làm nghề nông; phân biệt với thành thị". Theo định nghĩa
này, thì có thể hiểu nông thôn là nơi người dân chủ yếu làm nông
nghiệp để sinh sống.
Ở góc độ QLNN, khái niêm nông thôn được thống nhất với
quy định tại Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/08/2009
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cụ thể: "Nông thôn là
phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã,
thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân
xã".
- Nông thôn mới
Có nhiều quan niệm, cách hiểu khác nhau về NTM. Theo đó
“Nông thôn mới là một chủ trương của Đảng đồng thời cũng là nhiệm
vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội để giải quyết vấn đề nông
nghiệp, nông dân, nông thôn nhằm từng bước xây dựng xã hội nông
thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, có đời sống văn hoá phong phú, đậm
đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây
dựng NTM, nâng cao đời sống nhân dân” [18, tr.19].
- Xây dựng nông thôn mới
- Chính sách xây dựng NTM
+ Chính sách xây dựng hạ tầng Kinh tế - Xã hội:
+ Chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn:
+ Chính sách tín dụng nông nghiệp, nông thôn:

1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng nông thôn
mới
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
xác định mục tiêu xây dựng NTM là: “Xây dựng NTM ngày càng
giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển
ngày càng hiện đại”

10


1.2. Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới
QLNN về xây dựng NTM là một bộ phận của QLNN đối với
các lĩnh vực nói chung trong nền kinh tế - xã hội. Vì vậy, để hiểu về
khái niệm QLNN đối với xây dựng NTM, tác giả cho rằng trước hết
cần tìm hiểu về khái niệm QLNN và QLNN về nông thôn.
1.2.2. Chủ thể của quản lý nhà nước về xây dựng nông
thôn mới
Chủ thể của QLNN về xây dựng NTM là hệ thống hành pháp thực
hiện QLNN về xây dựng NTM từ Trung ương đến địa phương cụ thể
như sau:
Cấp Trung ương:
Cấp tỉnh:
Cấp huyện:
Cấp xã:
1.2.3. Nội dung của quản lý nhà nước về xây dựng nông
thôn mới
1.2.3.1. Ban hành chính sách xây dựng nông thôn mới
1.2.3.2. Tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ công chức thực

hiện quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn
mới
- Xây dựng đội ngũ quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn
mới.
+ Đội ngũ công chức trong hệ thống hành pháp liên quan đến
xây dựng NTM
+ Đội ngũ chuyên trách cấp xã
1.2.3.3. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch xây dựng nông
thôn mới
1.2.3.4. Quản lý thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn
mới
1.2.3.5. Huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới
1.2.3.6. Kiểm tra, giám sát các hoạt động quản lý nhà nước
về xây dựng nông thôn mới
1.3. Các nhân tố tác động đến quản lý nhà nước về xây dựng
nông thôn mới
1.3.1. Nhận thức của của cấp ủy Đảng, chính quyền và
nhân dân đối với quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới

11


- Nhận thức vai trò QLNN về xây dựng NTM đối với cấp uỷ,
Đảng, chính quyền.
- Nhận thức của người dân về xây dựng NTM:
1.3.2. Vai trò quản lý và năng lực của bộ máy chính
quyền các cấp
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM là một
chương trình tổng hợp bao gồm mọi mặt công tác của Đảng, Nhà

nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Để thực hiện nội dung
đó, Nhà nước phải đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình hoạch
định và thực thi chính sách, xây dựng đề án, cơ chế, tạo hành lang
pháp lý, hỗ tợ vốn, kỹ thuật, nguồn lực, tạo điều kiện và kích thích
tinh thần nhân dân thực hiện; nhân dân tự nguyện tham gia, chủ
động trong thực thi và hoạch định chính sách trong việc thực hiện
các tiêu chí về xây dựng NTM.
1.3.3. Sự tham gia chủ động, tích cực của người dân nông
thôn
Người dân, nhất là cư dân nông thôn chính là chủ thể trong
xây dựng NTM. Thể hiện ở chỗ: người dân trực tiếp tham gia phát
triển kinh tế, tổ chức sản xuất, thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp,
nông thôn; chủ động xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH; tham gia
vào quá trình quy hoạch và thực hiện quy hoạch xây dựng NTM;
xây dựng và giữ gìn đời sống văn hóa; đảm bảo vệ sinh môi trường;
duy trì ổn định về trật tự xã hội; xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh.
1.3.4. Hệ thống chính sách và huy động nguồn lực
Chương trình xây dựng NTM của nước ta là một chương
trình phát triển nông thôn tổng hợp, diễn ra trên phạm vi cả nước
(gần 10.000 xã) trong một thời gian dài (2010-2020). Là một
chương trình lớn, nguồn lực xã hội (nhà nước, doanh nghiệp, người
dân, cộng đồng,..) đầu tư vào đây rất lớn.
Đây là chương trình lớn, có rất nhiều chính sách hỗ trợ trực
tiếp, chính sách hỗ trợ gián tiếp, có sự lồng ghép nguồn lực của
nhiều chương trình, dự án lớn.
1.4. Sự cần thiết của quản lý nhà nước về xây dựng nông
thôn mới
Một là: thực hiện chức năng quản lý nhà nước
Hai là, xuất phát từ thực tế quản lý nhà nước về xây dựng

nông thôn mới và những hạn chế của hoạt động xây dựng nông thôn

12


mới hiện nay.
1.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về xây dựng nông
thôn mới ở một số địa phương và bài học rút ra cho huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình.
1.5.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về xây dựng nông
thôn mới ở một số địa phương
Sau hơn 5 năm triển khai Chương trình xây dựng NTM ở
tỉnh Quảng Bình và một số địa phương khác trong cả nước, một
số địa phương đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Ở các địa
phương này, hoạt động QLNN đối với xây dựng NTM đạt được
những bài học kinh nghiệm nhất định mà huyện Bố Trạch có thể
tham khảo, học tập để vận dụng phù hợp với điều kiện của mình.
+ Kinh nghiệm QLNN về xây dựng NTM ở huyện Phú Ninh, tỉnh
Quảng Nam
+ Kinh nghiệm QLNN về xây dựng NTM ở huyện Hoà Vang,
TP.Đà Nẵng
+ Kinh nghiệm QLNN về xây dựng NTM ở huyện Quảng Ninh,
tỉnh Quảng Bình
Từ thực tiễn huyện Quảng Ninh rút ra một số kinh nghiệm
sau:
Phát huy dân chủ, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra là
hướng đi xuyên suốt trong quá trình QLNN về xây dựng NTM tại
Quảng Ninh và thể hiện rõ qua những địa phương đạt cơ bản các tiêu
chí về NTM như Lương Ninh, Hàm Ninh, Võ Ninh, Hiền Ninh…
1.5.2. Bài học rút ra cho huyện Bố Trạch về quản lý nhà

nước xây dựng nông thôn mới
Từ kinh nghiệm của một số địa phương khác, ta rút ra những
bài học cho công tác QLNN về xây NTM mới tại huyện Bố Trạch như
sau:
TÓM TẮT CHƯƠNG 1

13


Chương 2:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI Ở HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Bố Trạch
tác động đến quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và cơ cấu hành chính
- Điều kiện tự nhiên:
- Cơ cấu hành chính
- Điều kiện tự nhiên và cơ cấu hành chính tác động đến xây
dựng NTM và QLNN về xây dựng NTM.
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội của huyện Bố Trạch giai
đoạn 2012-2016 tác động đến quản lý nhà nước về xây dựng nông
thôn mới
Thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ huyện lần thứ XXI và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2011 - 2015 đã được HĐND huyện thông qua; với quyết tâm về đích
sớm, huyện Bố Trạch đã đạt được những kết quả cụ thể như sau:
2.1.2.1 Trên lĩnh vực kinh tế
2.1.2.2. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội
- Những ảnh hưởng của điều kiện KT-XH tác động đến xây
dựng NTM và QLNN về xây dựng NTM:

2.2. Thực trạng xây dựng nông thôn mới ở huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình
2.2.1. Công tác lập quy hoạch, đề án xây dựng nông thôn
mới, quy chế quản lý quy hoạch và quy hoạch phát triển sản
xuất
- Lập quy hoạch và quản lý quy hoạch xây dựng NTM
- Lập Đề án xây dựng NTM
- Quy chế quản lý quy hoạch, quy hoạch phát triển sản xuất
2.2.2. Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội
Trong 5 năm qua, với nhiều nguồn hỗ trợ cho Chương trình,
đã góp phần thay đổi diện mạo cơ sở hạ tầng của toàn huyện. Cụ thể:
- Về phát triển giao thông nông thôn:
- Về thủy lợi:
- Điện nông thôn:
- Trường học các cấp:
- Cơ sở vật chất văn hóa:
- Chợ nông thôn

14


- Bưu điện:
- Nhà ở nông thôn:
2.2.3. Phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người
dân
Nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả được các địa phương
nhân rộng. Trong 5 năm qua, đã tổ chức đào tạo nghề nông nghiệp
45 lớp với hơn 1.385 học viên, hơn 30 mô hình sản xuất hiệu quả
được nhân rộng, hỗ trợ cho các thành viên HTX đầu tư mua 15 máy
gặt đập liên hợp, 18 máy tuốt lạc; hỗ trợ cho 32 trang trại chăn nuôi

phát triển sản xuất. Đã có 27 THT được thành lập, có 2 THT về lĩnh
vực trồng trọt, 2 THT nuôi trồng thủy sản, 23 THT khai thác hải sản.
Các THT thành lập theo Nghị định 151/2007/NĐ-CP của Chính phủ
đã thu hút số thành viên tham gia lên tới hơn 653 người. Giá trị tài
sản bình quân mỗi tổ từ 150 - 200 triệu đồng, riêng đánh bắt thủy sản
có nhiều tổ số tài sản trên 1 tỷ đồng. Giá trị sản xuất do các THT tạo
ra mỗi năm từ 100 - 120 tỷ đồng/năm.
2.2.4. Về phát triển giáo dục, y tế, văn hoá và bảo vệ môi
trường
2.2.5. Về xây dựng hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững
mạnh và gìn giữ an ninh, trật tự xã hội
Hệ thống chính trị cơ sở được củng cố và tăng cường, công
tác quy hoạch, đào tạo cán bộ được quan tâm cao, từng bước được
trẻ hóa, chuẩn hóa. Đến nay tổng số cán bộ công chức cấp xã là 610
người (CB: 310 người; CC: 303 người). Các tổ chức trong hệ thống
chính trị được giữ vững và ngày càng hoàn thiện về chất lượng. Hiện
có 28/28 xã đạt tiêu chí Hệ thống chính trị vững mạnh, đạt 100%.
2.3. Kết quả quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình
2.3.1. Công tác triển khai thực hiện, tuyên truyền xây dựng
nông thôn mới
- Thực hiện triển khai chủ trương, tuyên truyền về xây dựng
NTM
- Đánh giá mức độ hiểu biết của người dân về xây dựng NTM
Biểu đồ1: Ta thấy đa số người dân ở cả hai nhóm hộ đều biết
rõ về chương trình xây dựng NTM, chiếm hơn 80%. Điều này cho
thấy công tác truyên truyền, chỉ đạo thực hiện chương trình từ huyện
đến xã thực hiện tương đối tốt làm tiền đề cho việc triển khai thành
công chương trình.


15


Biểu đồ 1: Hiểu biết
về chương trình xây dựng
NTM

(Nguồn: Số liệu đều tra năm 2017)
Biểu đồ 2: Hình thức đóng góp khi tham gia xây dựng NTM

(Nguồn: Số liệu đều tra năm 2017)
Qua biểu đồ 2 ta thấy các hình thức đóng góp xây dựng
NTM ở các nhóm hộ có sự khác nhau. Ở nhóm hộ không nghèo đóng
góp bằng tiền chiếm 55,7% trong khi đó con số này ở nhóm hộ
nghèo là 31,2%, điều này phản ánh rằng nhóm hộ không nghèo có
điều kiện kinh tế khá giả hơn nên họ sẵn sàng đóng góp tiền mặt cao

16


hơn. Ngược lại, Nhóm hộ nghèo lại đóng góp công lao động nhiều
hơn chiếm 40,8% so với 24,6% ở nhóm hộ không nghèo.
Qua biểu đồ 3 ta thấy nhận thức về chủ thể xây dựng NTM
của 2 nhóm hộ có tương đồng, khi đa số người dân được hỏi của cả 2
nhóm hộ đều chọn người dân là chủ thể xây dựng NTM, điều này
cho thấy công tác truyên truyền cơ bản đã tác động đến nhận thức
của người dân. Tuy nhiên, tỷ lệ nhận thức đó vẫn chưa cao, ở nhóm
hộ nghèo là 48,4% và không nghèo là 59,2%. Tỷ lệ hộ không biết
vẫn còn ở mức cao, ở nhóm hộ nghèo là 31,3%, nhóm hộ không
nghèo là 25,5%. Điều này đỏi hỏi công tác tuyên truyền vận động

người dân tham gia xây dựng NTM cần đẩy mạnh, phát huy vai trò
chủ thể của người dân thì kết quả xây dựng NTM mới đạt hiệu quả
cao.
Biểu đồ 3: Nhận thức về mục tiêu, chủ thể xây dựng NTM
của người dân

(Nguồn: Số liệu đều tra năm
2017)
- Đánh giá nhận thức của công chức cấp xã về xây dựng
NTM
Để đánh giá nhận thức của công chức cấp xã về xây dựng
NTM, tác giả đã khảo sát ý kiến của 32 cán bộ cấp xã, qua kết quả đó
phần nào đánh giá được thực trạng, chất lượng công chức đang thực
thi nhiệm vụ tại các xã.
Biểu đồ 4: Nhận thức về mục tiêu xây dựng nông thôn mới của cán
bộ xã

17


(Nguồn: Số liệu đều tra năm 2017)
Qua biểu đồ 4 nhận thức về mục tiêu xây dựng NTM ta thấy
đa số cán bộ được khảo sát đều cho rằng mục tiêu của xây dựng NTM
là “Phát triển, nông nghiệp, nông thôn bền vững” chiếm đến 82,5%.
11,4% cán bộ cho rằng mục tiêu của xây dựng NTM là phát triển KTXH cấp xã, 6,1% cán bộ cho rằng mục tiêu là xoá đói giảm nghèo. Từ
kết quả trên cho ta thấy công tác tuyên truyền, đào tạo nâng cao năng
lực cho cán bộ tuy đã thực hiện nhưng chất lượng vẫn chưa cao, vẫn
còn 17,5 % cán bộ thực thi công việc chưa xác định đúng mục tiêu xây
dựng NTM, điều này đỏi hỏi công tác tuyên truyền, đào tạo nâng cao
năng lực phải được ưu tiên hơn nữa.

Biểu đồ 5: Nhận thức về chủ thể xây dựng NTM của cán bộ xã

(Nguồn: Số liệu đều tra năm 2017)

Qua biểu đồ 5 có 79,3% cán bộ xác định đúng chủ thể
QLNN về xây dựng NTM là người dân. Còn lại 19,7 % số cán bộ
được khảo sát vẫn chưa xác định được chủ thể của xây dựng NTM,
trong đó15,4% cán bộ cho rằng chủ thể xây dựng NTM là Nhà nước
và 5,3% không biết. Việc cán bộ thực thi nhiệm vụ chưa xác định
chính xác chủ thể xây dựng NTM đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết
quả QLNN về xây dựng NTM trên địa bàn huyện nói chung, điều
này yêu cầu phải đẩy mạnh công tác đào tạo và kiện toàn bộ máy.

18


Nhận thức về nội dung QLNN xây dựng NTM, nguồn lực xây
dựng NTM
Qua kết quả điều tra XHH, có đến 34,2% số cán bộ cấp xã
nhận thức chưa đúng các nội dung QLNN về xây dựng NTM. Có
26,7% các cán bộ được khảo sát chưa xác định đúng các nguồn lực
cần thiết để xây dựng NTM. Đối với vị trí là cán bộ thực thi nhiệm
vụ QLNN trên địa bàn xã thì đây là những con số đáng báo động, cần
phải có những thay đổi, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục,
kiểm tra, đánh giá chất lượng bộ máy thường xuyên hơn nữa.
2.3.2. Tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ và thực
hiện điều hành, quản lý về xây dựng nông thôn mới
2.3.2.1. Tổ chức bộ máy thực hiện điều hành, quản lý nhà
nước về xây dựng nông thôn mới
2.3.2.2. Xây dựng đội ngũ công chức thực hiện quản lý nhà

nước về xây dựng nông thôn mới
2.3.3. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch xây dựng nông
thôn mới
Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh Quảng Bình tại công văn
số 840/UBND ngày 15/7/2011 về việc “hướng dẫn lập quy hoạch
xây dựng NTM và báo cáo kết quả thực hiện”; UBND huyện Bố
Trạch đã triển khai, thực hiện qui hoạch tại Công văn số 976/UBND
ngày 12/9/2011 về việc “Đẩy nhanh tiến độ lập quy hoạch nông thôn
mới trên địa bàn huyện”, đến nay huyện Bố Trạch có 28/28 xã đã
hoàn thành đạt 100% công tác quy hoạch đề ra. Công tác công bố và
cắm mốc quy hoạch đã hoàn thành 28/28 xã. Chất lượng của Đề án
đã phê duyệt bám sát tinh thần Nghị quyết 04/NQ-HU ngày
15/9/2011 của Huyện uỷ về xây dựng nông thôn mới, đến hết năm
2012 đã hoàn thành 28/28 xã. Phê duyệt quy chế quản lý quy hoạch:
28/28 xã, đạt 100% kế hoạch.
2.3.4. Huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới
Huyện Bố Trạch ưu tiên triển khai công tác lồng ghép tốt các
nguồn vốn từ các chương trình, dự án khác trên địa bàn với nguồn
vốn thuộc Chương trình NTM để phát huy hiệu quả đầu tư. Đối với
nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ Chương trình xây dựng NTM cần ưu
tiên đầu tư tập trung cho các xã đăng ký đạt chuẩn.
2.3.5. Quản lý thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thôn mới
Để đạt các tiêu chí xây dựng NTM đúng thời gian, tiến độ,
đảm bảo tính bền vững thì công tác theo dõi, đôn đốc, giám sát quá

19


trình thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM phải luôn luôn được duy
trì, thực hiện nghiêm túc. Điều này đòi hỏi bộ máy thực hiện QLNN

về xây dựng NTM trên địa bàn huyện, xã phải xây dựng được kế
hoạch kiểm tra, giám sát, xử lý số liệu, các hình thức báo cáo thực
hiện phù hợp để điều hành, quản lý điều chỉnh kịp thời và sâu sát.
2.3.6. Kiểm tra, giám sát các hoạt động quản lý nhà nước đối
với xây dựng nông thôn mới.
Đối với huyện Bố Trạch, trong thời gian qua, Huyện uỷ,
UBND huyện đã có nhiều nỗ lực, quyết tâm rất cao trong công tác
chỉ đạo và tổ chức thực hiện kiểm tra các nội dung xây dựng NTM.
Từ năm 2012 đến năm 2016, Huyện uỷ, UBND, BCĐ xây dựng
NTM huyện đã tổ chức được 10 đoàn kiểm tra định kỳ xuống cơ sở
để tổ chức quán triệt chủ trương, nội dung và cách làm xây dựng
NTM đến các cấp uỷ đảng, các ngành, đoàn thể và nhân dân, kiểm
tra thực hiện bộ 19 tiêu chí xây dựng NTM. Chủ động ban hành
nhiều văn bản chỉ đạo đến việc củng cố, kiện toàn BCĐ, BQL xây
dựng NTM ở huyện, xã và Ban Phát triển ở thôn, thành lập Tổ NTM
cấp huyện cũng như phân công các thành viên BCĐ huyện tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện ở các xã.
2.4. Đánh giá chung việc thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng
nông thôn mới
2.4.1. Kết quả đạt được
2.4.2. Hạn chế
2.4.3 Nguyên nhân hạn chế
TÓM TẮT CHƯƠNG 2

20


Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN

BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
3.1. Phương hướng hoàn thiện quản lý nhà nước về xây
dựng nông thôn mới ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình giai
đoạn 2017-2020
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về xây
dựng nông thôn mới ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình
3.2.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nông thôn mới
3.2.2. Củng cố tổ chức bộ máy, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và
thực hiện điều hành, quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới
- Cũng cố tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về xây dựng
nông thôn mới
Củng cố bộ máy phòng Nông nghiệp và PTNT:
Củng cố bộ máy văn phòng điều phối cấp huyện:
Củng cố bộ máy cấp xã:
3.2.3. Rà soát, bổ sung và quản lý quy hoạch
3.2.4. Đổi mới phương thức huy động các nguồn lực xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn.
- Đối với nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước
- Đối với vốn của doanh nghiệp, hợp tác xã.
- Đối với vốn tín dụng.
- Đối với vốn đóng góp từ dân cư.
- Đối với nguồn tài trợ ODA, phi chính phủ và các tài trợ
khác.
3.2.5. Tăng cường đầu tư, xây dựng đạt chuẩn các tiêu chí xây
dựng nông thôn mới
Các phòng, ban theo lĩnh vực phụ trách chỉ đạo các địa
phương rà soát, đánh giá khách quan, thực chất mức độ đạt được các
tiêu chí, xây dựng kế hoạch, lộ trình; hướng vào một số nội dung
trọng tâm như sau:

- Về công tác quy hoạch và quản lý thực hiện quy hoạch:
- Hoàn thiện hệ thống giao thông nông thôn, thủy lợi nội
đồng:
- Hoàn thiện cơ sở vật chất văn hóa:
- Xây dựng trường học, y tế đạt chuẩn:

21


- Hoàn thiện mạng lưới chợ nông thôn:
- Hoàn thiện hệ thống điện nông thôn:
3.2.6. Chú trọng kiểm tra, giám sát, tổng kết đánh giá
việc thực hiện xây dựng nông thôn mới
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả
thực hiện Chương trình. Hàng năm, thành lập các tổ chỉ đạo xã điểm
phấn đấu xây dựng đạt chuẩn NTM để trực tiếp kiểm tra, đôn đốc
thực hiện. Định kỳ tổ chức giao ban, trực báo, sơ kết thực hiện
Chương trình. Khen thưởng cho các tổ chức, cá nhân có thành tích
tiêu biểu trong việc thực hiện xây dựng NTM hàng năm.
3.3. Một số kiến nghị đề xuất nhằm nâng cao hoạt động
quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình
3.3.1. Đối với Trung ương
Nâng mức phân bổ vốn Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới (nguồn vốn sự nghiệp) để hỗ trợ đầu tư cho các
mô hình sản xuất nhằm tạo thêm việc làm nâng cao thu nhập cho
người dân.
3.3.2. Đối với Địa phương
TÓM TẮT CHƯƠNG 3


22


KẾT LUẬN
Từ quá trình phân tích các vấn đề lý luận, thực tiễn kết quả
xây dựng NTM ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình qua các chương
đã nêu trong đề tài. Chúng ta thấy, để xây dựng được NTM thành
công thì vai trò của QLNN về xây dựng NTM là đặc biệt quan trọng.
Chúng ta thực hiện Chương trình xây dựng NTM hiện nay
trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động, tình hình suy thoái
kinh tế trên diện rộng, nợ công cao, quá trình toàn cầu hoá diển ra
mạnh mẽ, nguồn lực ngày càng khan hiếm, biến đổi khí hậu ngày
càng sâu sắc. Một số bộ phận không nhỏ cán bộ thực thi nhiệm vụ tại
các cơ quan, chính quyền các cấp có biểu hiện quan liêu, suy thoái
đạo đức…Chính những yếu tố, những khó khăn trên đòi hỏi chúng ta
phải tăng cường vai trò của QLNN về xây dựng NTM để điều hành,
điều chỉnh, lựa chọn các giải pháp tốt, mang tính khả thi nhằm xây
dựng NTM thành công, bền vững.
Xác định được vai trò quan trọng của QLNN về xây dựng
NTM nên trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều
chủ trương chính sách đúng đắn, được cụ thể hoá bằng các Nghị
quyết, Quyết định, văn bản chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện
xây dựng NTM.
Sau 5 năm thực hiện xây dựng NTM trên địa bàn huyện Bố
Trạch đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, đời sống kinh tế xã
hội khu vực nông thôn dần được nâng lên, nhân dân có cuộc sống ấm
no, tươi đẹp. Có được những kết quả trên chính là sự vào cuộc mạnh
mẽ của các cấp uỷ, Đảng, chính quyền trên địa bàn huyện, luôn chú
trọng công tác QLNN về xây dựng NTM. Điều đó được thể hiện qua
các cách làm như: Đẩy mạnh công tác truyên truyền; kiện toàn, nâng

cao năng lực bộ máy kịp thời với sự thay đổi; Chỉ đạo quyết liệt công
tác quy hoạch; đổi mới huy động nguồn lực; Tăng cường kiểm tra,
giám sát thực hiện các tiêu chí và các hoạt động đối với xây dựng
NTM.
Tuy vậy, công tác QLNN về xây dựng NTM trên địa bàn
huyện vẫn còn một số hạn chế: Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo một số
xã chưa quyết liệt, chưa sâu sát, chưa thực sự tâm huyết; Một số địa
phương cán bộ cấp xã chưa nắm hết chủ trương, chính sách trong
tuyên truyền xây dựng NTM; Quy hoạch còn nặng về hạ tầng, chưa
chú ý tới các tiêu chí mềm; Nhân rộng các mô hình sản xuất tiêu biểu

23


×