Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

KTCT tìm hiểu về hợp tác kinh tế châu á thái bình dương APEC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.1 KB, 16 trang )

1

I/ Khái quát chung.
1. Cụm từ viết tắt APEC có nghĩa là gì?
APEC là từ viết tắt tiếng Anh của "Asia - Pacific Economic
Cooperation", nghĩa là Hợp tác Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương.
2. APEC được thành lập năm nào?
APEC được thành lập năm 1989 tại Canberra (Australia).
3. APEC ra đời trong bối cảnh nào và mục đích của việc thành lập
APEC?
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) ra đời
trong bối cảnh nền kinh tế quốc tế đang đương đầu với những thách thức
nghiệt ngã: chủ nghĩa toàn cầu vốn phát triển mạnh sau thế chiến thứ hai
bắt đầu gặp phải những khó khăn nan giải với nhiều vấn đề bế tắc trong
tiến trình đàm phán Hiệp Uruguay/WTO; chủ nghĩa khu vực hình thành và
phát triển mạnh; khủng hoảng kinh tế trong những năm 1980 đặt ra những
đòi hỏi có tính khách quan cần tập hợp lực lượng của những nền kinh tế
trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương để đương đầu với cạnh tranh
quốc tế gay gắt. APEC ra đời là kết quả hội tụ của các yếu tố trên nhằm
khắc phục những khó khăn của chủ nghĩa toàn cầu, đồng thời nhằm liên kết
các nền kinh tế phát triển trong khu vực như Mỹ, Canađa, Australia, Nhật
Bản, các nền kinh tế công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore
và các nước đang phát triển như Trung Quốc, ASEAN lại với nhau, đưa
khu vực này trở thành động lực cạnh tranh mạnh của nền kinh tế thế giới.
4. APEC bao gồm những thành viên nào và họ gia nhập năm nào?
Hiện tại, APEC có 21 nền kinh tế thành viên và APEC đã quyết định
ngừng việc kết nạp thành viên mới để chấn chỉnh tổ chức.
Khi mới bắt đầu thành lập năm 1989, APEC có 12 sáng lập viên là
Australia, Brunei Darussalam, Canada, Hàn Quốc, Indonesia, Malaysia,
New Zealand, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Thái Lan và Mỹ. Tháng
11/1991 APEC kết nạp thêm 3 thành viên nữa là Trung Quốc, Hồng Kông


1


2

và Đài Loan. Mexico và Papua New Guinea gia nhập 11/1993 và Chi Lê
thamgia tháng 11/1994.Tháng 11/1998, Peru, Nga và Việt Nam trở thành
thành viên chính thức của APEC.
5. Mục tiêu hoạt động của APEC là gì?
APEC chủ yếu hoạt động theo hướng tập hợp lực lượng chính trị để
tạo thế và lực lượng trong các cuộc đàm phán đa biên và ổn định kinh tế
khu vực. Hướng hoạt động chính của APEC là các vấn đề kinh tế, tuy nhiên
vấn đề chính trị và an ninh đôi khi cũng được bàn thảo. APEC được thành
lập với tầm nhìn dài hạn là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng
cho khu vực và thắt chặt quan hệ trong cộng đồng châu á - Thái Bình
Dương. Các biện pháp được thực hiện là cắt giảm thuế và các rào cản
thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu và xây dựng các nền kinh tế hiệu quả.
APEC đang phấn đấu tạo dựng một môi trường để lưu chuyển an toàn và
hiệu quả hàng hóa, dịch vụ và con người giữa các biên giới thông qua phối
hợp chính sách và hợp tác kinh tế kĩ thuật. Để đạt được mục tiêu dài hạn,
tuyên bố Bogor 1994 của các Nguyên thủ Quốc gia APEc đã xác định mọi
hoạt động của APEC nhằm thực hiện 3 mục tiêu lớn sau đây:
- Củng cố hệ thống thương mại đa phương: APEC sử dụng đầy đủ các
nguyên tắc và kết quả của WTO để thực hiện các vòng đàm phán nội bộ
khối và phát triển những kết quả vì mục tiêu tự do hóa trong nội bộ khối:
- Tăng cường tự do hóa thương mại và đầu tư: thúc đẩy và phát triển
quan hệ thương mại thông qua việc loại bỏ những hạn chế về thương mại
và đầu tư, xúc tiến trao đổi hàng hóa, dịch vụ, tư bản giữa các nền kinh tế.
Mốc thời hạn tự do hóa thương mại và đầu tư của APEC là năm 2010 đối
với các thành viên phát triển và năm 2020 đối với các thành viên đang phát

triển;
- Tăng cường hợp tác kinh tế - kỹ thuật giữa các nền kinh tế trong
cộng đồng châu á - Thái Bình Dương nhằm bảo đảm cho các nền kinh tế

2


3

thành viên thực hiện có hiệu quả những cam kết quốc tế và nâng cao khả
năng quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế.
6. Nguyên tắc hoạt động của APEC là gì?
Để thực hiện mục tiêu thương mại - đầu tư tự do và mở, các nhà Lãnh
đạo Kinh tế APEC đã thông qua kế hoạch hành động Osaka (OAA) năm
1995, trong qui định tất cả các hoạt động của APEC được điều tiết bởi
những nguyên tắc chung sau:
- Bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau;
- Hỗ trợ và cùng có lợi;
- Quan hệ đối tác chân thành và trên tinh thần xây dựng;
- Mọi quyết định được đưa ra trên cơ sở nhất trí chung.
Các nguyên tắc chung này đã được cụ thể hóa thành 9 nguyên tắc cơ
bản sau:
- Toàn diện;
- Tương thích với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO);
- Đảm bảo mối tương đồng giữa các thành viên;
- Không phân biệt đối xử;
- Đảm bảo công khai, minh bạch;
- Lấy mức bảo hộ hiện tại làm mốc để giảm dần (stand still);
- Đồng loạt triển khai tiến trình tự do hóa, thuận lợi hóa thương mại và
đầu tư;

- Có sự linh hoạt; và
- Hợp tác.
7. APEC hoạt động trong những lĩnh vực nào?
Hoạt động hợp tác APEC hết sức đa dạng, từ đối thoại chính sách đến
các cam kết đơn phương để mở rộng thị trường, từ trao đổi kinh nghiệm
khoa học - kỹ thuật và quản lý đến xây dựng các chương trình hành động
nhằm giảm bớt chi phí kinh doanh... Các lĩnh vực hợp tác không chỉ chú
trọng vào thương mại mà còn cả những vấn đề khác như về bảo tồn tài
3


4

nguyên biển, phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ công nghiệp,
thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ...
8. Cơ cấu tổ chức hoạt động của APEC như thế nào?
APEC hoạt động như một diễn đàn hợp tác kinh tế thương mại đa
biên. Tuy hình thức là một diễn đàn hợp tác kinh tế khu vực mở, nhưng
APEC có một cơ chế tổ chức và hoạt động khá chặt chẽ. Điểm đặc biệt của
APEC là ở chỗ APEC là một tổ chức liên chính phủ duy nhất cam kết cắt
giảm các rào cản thương mại và thúc đẩy đầu tư mà không đòi hỏi tham gia
các điều khoản pháp lý bắt buộc nào.
Hàng năm một trong 21 thành viên APEC sẽ đăng cai các hội nghị lớn
của APEC và làm chủ tịch APEC theo qui tắc 1 thành viên ASEAN rồi đến
2 thành viên ngoài ASEAN. Thành viên đăng cai APEC sẽ chịu trách nhiệm
làm chủ tịch Hội nghị Cấp cao (Economic Leaders' Meeting - AELM), một
số Hội nghị Bộ trưởng (Ministerial Meetings - AMM), các Hội nghị Quan
chức Cấp cao (SOM). Hội nghị của các Uỷ ban và một số nhóm công tác,
đồng thời đảm nhận vị trí Giám đốc điều hành Ban Thư ký APEC.
Các hoạt động cấp chuyên viên và các dự án của APEC chịu sự hướng

dẫn của các Quan chức Cao cấp APEC. Các hoạt động và dự án này được
thực hiện bởi 4 uỷ ban cấp cao:
* Uỷ ban Quản lý và Ngân sách (BMC);
* Uỷ ban Thương mại và Đầu tư (CTI);
* Uỷ ban Kinh tế (EC);
* Uỷ ban các quan chức cao cấp về hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ESC).
Dưới các uỷ ban này có các tiểu nhóm, các nhóm chuyên gia, nhóm
công tác và nhóm chuyên trách để hỗ trợ cho các hoạt động và dự án của
bốn nhóm cấp cao này.
9. Nguyên tắc ra quyết định của APEC như thế nào?

4


5

APEC hoạt động trên cơ sở đồng thuận. Các thành viên triển khai các
hoạt động và chương trình công tác của mình trên cơ sở đối thoại mở với
nguyên tắc tôn trọng các ý kiến của tất cả các thành viên tham gia.
10. Chủ tịch của APEC được lựa chọn như thế nào?
Chủ tịch của APEC do các nền kinh tế thành viên thay phiên nhau
đảm nhiệm. Chủ tịch APEC là nền kinh tế chủ nhà tổ chức Hội nghị Cấp
cao năm đó.
11. Ban Thư ký APEC được thành lập năm nào và đặc biệt trụ sở tại
đâu?
Năm 1992, Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 4 của APEC đã nhất trí thành
lập Ban thư ký APEC với chức năng là một cơ quan giúp việc để hỗ trợ và
phối hợp các hoạt động trong APEC. Trụ sở của Ban Thư ký được đặt tại
Singapore.
12. Tổ chức và chức năng hoạt động của Ban Thư ký APEC?

Ban thư ký APEC hoạt động như bộ máy nòng cốt hỗ trợ tiến trình
APEC.Ban thư ký thực hiện việc phối hợp, hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn cũng
như quản lý thông tin và liên lạc.
Ban thư ký APEC đóng vai trò trung ương quản lý dự án, giúp các nền
kinh tế thành viên và các diễn đàn APEC giám sát các dự án APEC tài trợ
và quản lý ngân sách hàng năm của APEC.
Lãnh đạo Ban thư ký APEC có Giám đốc điều hành và Phó giám đốc
điệ hành. Các vị trí này do các quan chức cấp đại sứ tương ứng của thành
viên d đăng cai Hội nghị cấp cao năm hiện tại và năm tiếp theo đảm nhiệm.
Các vị trí này được quay vòng hàng năm. Ban thư ký APEC có một đội ngũ
nhân viên gồm khoảng 20 giám đốc chương trình do các thành viên APEC
đề cử, và khoảng 25 nhân viên dài hạn thực hiện các chức năng hỗ trợ cho
Ban Thư ký.
13. Muốn trở thành thành viên của APEC cần đáp ứng được những
điều kiện gì?
5


6

Hội nghị Cấp cao APEC tại Vancouver, Canađa tháng 11/1997 đã
thông qua qui chế thành viên của APEC, qui định các nước, các vùng lãnh
thổ kinh tế muốn trở thành thành viên của APEC cần phải có đủ một số
điều kiện sau:
-Vị trí địa lý: nằm ở khu vực châu á - Thái Bình Dương, tiếp giáp với
bờ biển Thái Bình Dương.
- Quan hệ kinh tế: có các mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với các nền
kinh tế thành viên APEC về thương mại hàng hóa và dịch vụ, đầu tư trực
tiếp nước ngoài và sự tự do đi lại tự do của các quan chức;
- Tương đồng về kinh tế: chấp nhận chính sách kinh tế mở cửa theo

hướng thị trường;
- Quan tâm và chấp thuận các mục tiêu của APEC; hoàn toàn chấp
thuận những mục tiêu và nguyên tắc cơ bản được đề ra trong các tuyên bố
và quyết định của APEC, kể cả nguyên tắc đồng thuận và tự nguyện.
Từ những năm 60 của thế kỷ trước, một ý tưởng về liên kết kinh tế
khu vực Châu á -Thái Bình Dương đã được các nhà nghiên cứu Nhật Bản
đưa ra. ý tưởng trên đã được nhiều người ủng hộ. Liên kết khu vực Châu á
- Thái Bình Dương cho đến cuối những năm 1980 để trải qua 3 cao trào
đáng ghi nhận:
Giai đoạn đầu tiên vào giữa thập kỷ 60 là lúc thị trường chung Châu
Âu đựoc thiết lập rất thành công khi đó ở Châu á - Thái Bình Dương người
ta đã thành lập Uỷ ban kinh tế lòng chảo Thái Bình Dương" (PEC) vào năm
1961 và "diễn đàn phát triển và thương mại Thái Bình Dương" (FTAD) vào
năm 1968. Nhưng cả 2 tổ chức này chỉ lôi kéo được 5 nước phát triển ở
Châu á Thái Bình Dương tham dự.
Giai đoạn thứ hai diễn ra đúng lúc cuộc khủng hoảng dầu lửa thế giới.
Thủ tướng Nhật Bản đúng lúc bấy giờ là Massayoshi đã đề xuất thành lập
"Cộng đồng Thái Bình Dương". Trên cơ sở đó, năm 1980 "Uỷ ban hợp tác
kinh tế Thái Bình Dương" (PECC) đã được chính thức thành lập với 13
6


7

thành viên sáng lập. Sau này, PECC đã cùng với ASEAN đóng vai trò quan
trọng trong việc hình thành chế độ *** rộng rãi giữa các nền kinh tế trong
khu vực, cũng như thúc đẩy việc thành lập APEC.
Giai đoạn thứ ba bắt đầu từ thập kỷ 80. Những người Nhật Bản đã gợi
ý việc thành lập một diễn đàn hợp tác có tính chất kĩ thuật về các vấn đề
kinh tế khu vực. Trong lúc này, Mỹ đang tập trung vào việc thúc đẩy tiến

trình của vòng đàm phán Urgoay và việc hình thành khu vực mậu dịch tự
do Bắc Mỹ do vậy họ ít quan tâm chú ý đến ý kiến trên. Trong bối cảnh đó
chính phủ Australia đã nhận thức được tầm quan trọng của những quan hệ
kinh tế của Châu á - Thái Bình Dương đối với mình, do vậy, Australia đã
kịp thời nắm bắt ý tưởng trên và tích cực thúc đẩy việc hình thành một diễn
đàn hợp tác kinh tế ở khu vực. Tiếp theo đó vào tháng 1 - 1989, tại Seoul Hàn Quốc, Thủ tướng Australia là BobHawk đã đưa ra sáng kiến thành lập
một diễn đàn phối hợp hoạt động của các chính phủ nhằm thúc đẩy mạnh
mẽ phát triển kinh tế và thúc đẩy hệ thống thương mại đa phương của khu
vực.
Đến 11/1989, Bộ trưởng kinh tế và ngoại

giao của 12 nước là

Australia, Brunei, Cazada, Indonêsia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, New
Zealan, Philippin, Singapore, Thái Lan, Mỹ đã họp tại Carbera (Australia)
và quyết định chính thức thành lập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á, Thái
Bình Dương (APEC). Trong quá trình phát triển của mình, APEC đã kết
nạp thêm các thành viên mới là Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan (1991),
Mêxico, Papua(1973), Chilê (1994), Việt Nam, Nga chính thức gia nhập
APEC vào ngày 14 tháng 11 năm 1998 tại hội nghị thượng đỉnh APEC
KualaLămpơ, Malaysia.
Qua 15 năm tồn tại, APEC đã có 21 nền kinh tế với số dân 2.632 triệu
người tạo ra 20,96 tỷ USD, GDP đóng góp 4.007 tỷ USD cho xuất khẩu thế
giới. Đây là một liên kết bao gồm nhiều khu vực và nhiều nền kinh tế mạnh

7


8


nhất và năng động nhất thế giới: khu vực Đông á và Nhật Bản, Trung Quốc
và ASEAN. Khu vực Bắc Mỹ là Mỹ, Canađa và Mexico.
Hơn thế nữa, sự phong phú đa dạng về kinh tế, văn hóa, chính trị của
liên kết này cũng tạo điều kiện cho APEC có thể phát triển mạnh hơn.
Như vậy, APEC là sự tập trung của những nền kinh tế khác nhau. Tuy
nhiên, tất cả các thành viên có chung một mục đích. Bởi vậy, những mục
tiêu cơ bản được thống nhất là: Duy trì sự tăng trưởng và phát triển của khu
vực vì lợi ích chung của cả dân tộc trong khu vực và bằng cách đó đóng
góp vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế thế giới phát huy các
kết quả tích cực đối với khu vực và nền kinh tế thế giới do sự phụ thuộc lẫn
nhau ngày càng tăng về kinh tế tạo ra, khuyến khích sự duy chuyển của các
vùng hàng hóa, dịch vụ, vốn và công nghệ, phát triển và tăng cường hệ
thống thương mại đa phương, vì lợi ích của các nước Châu á - Thái Bình
Dương và nền kinh tế khác, cắt giảm những hàng rào cản trở việc trao đổi
hàng hóa, dịch vụ và đầu tư giữa các ngành phù hợp với các nguyên tắc của
Gatt/ WTO ở những lĩnh vực thích hợp và không làm tổn hại tới nền kinh tế
khác.
Cũng như các tổ chức kinh tế khác, APEC luôn hoạt động theo 4
nguyên tắc: Nguyên tắc cùng có lợi, nguyên tắc đồng thuận, nguyên tắc tự
nguyện, APEC là diễn đàn mở, hoạt động phù hợp với các nguyên tắc
Gatt/WTO.
Nguyên nhân ra đời của APEC:
Thứ nhất: do sự tăng trưởng liên tục, với tốc độ cao của nền kinh tế
Châu Á. Trong những năm 80 tiếp theo sự thần kỳ của Nhật Bản là các
Nics, ASEAN và sự nổi lên của Trung Quốc đã biến khu vực này trở thành
nơi phát triển kinh tế năng động nhất thế giới. Trong khi đó vào đầu những
năm 90, nền kinh tế thế giới lại bị suy thoái, do vậy sự nổi lên của Châu á Thái Bình Dương lại càng có ý nghĩa hơn.Trong giai đoạn 1990 - 1994,
năm 1994 tốc độ GDP của thế giới cao nhất và đạt 2,5% thì của APEC là
8



9

3,5%, trong đó APEC Mỹ Latinh đạt 4,1% còn Đông Nam á đạt tới
7,8%.Trong sự tăng trưởng trên đáng chú ý là năng lực xuất khẩu của các
nước Châu á. Nó thực sự trở thành động lực tăng trưởng của các nước
này.Tốc độ tăng bình quân của xuất khẩu là trên 10% trong khi Châu Âu và
Mỹ Latinh chỉ đạt 4% còn các nước công nghiệpphát triển là 6%. Đồng
thời với quá trình trên, FDI vào các nước Châu ấ cũng tăng lên khá mạnh.
Như vậy, nhu cầu lớn về xuất khẩu hàng hóa cùng với khả năng thu hút lớn
về FDI đã đặt ra cho các nước trong khu vực một yêu cầu cấp thiết là phải
mở cửa thị trường, giảm thiểu tối đa các rào cản thương mại, đầu tư hội
nhập kinh tế lúc này là một ưu tiên cho sự phát triển kinh tế với tốc độ cao
và ổn định.
Thứ hai, do xu thế toàn cầu hoá ngày càng phát triển mạnh mẽ. Dưới
tác động của những thành tựu khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin, nền kinh tế thì ngày càng trở nên thống nhất, tất yếu dẫn đến sự
phân công lao động quốc tế, ngày càng sâu rộng. Các hoạt động từ sản xuất
đến dịch vụ ngày càng được quốc tế hóa. Đồng thời, xu thế khu vực hoá
cũng ngày càng phát triển. Đó là các liên kết kinh tế ở Châu á và Bắc Mỹ.
Trong xu thế đó, Châu á - Thái Bình Dương có nhiều tiềm năng nhờ có sự
năng động, có tốc độ tăng trưởng cao có sự ổn định về chính trị, nhưng lại
thiếu một hình thức liên kết kinh tế rộng rãi, có hiệu quả cao. Thêm vào đó
là chủ nghĩa bảo hộ của Tây Âu và Bắc Mỹ cũng ngày càng gia tăng. Tình
hình trên đã thúc đẩy Châu á - Thái Bình Dương cần phải có sự liên kết với
cấp chính phủ trong toàn khu vực, để đảm bảo phát triển dự định cho các
nước, trước nhiều biến động ngày càng nhanh và mạnh của nền kinh tế thế
giới.
Thứ ba, do xu thế ràng buộc, phụ thuộc giữa các nền kinh tế ngày
càng gia tăng về nhiều mặt. Xu thế trên được thể hiện khá rõ trong khu vực

Châu á - Thái Bình Dương. Có thể thấy rõ điều này qua lĩnh vực thương
mại. Trong năm 1989, các nước Châu á - Thái Bình Dương, xuất khẩu sang
9


10

Châu á - Thái Bình Dương tới 30,5% tổng giá trị xuất khẩu. Con số trong
vùng của Nhật Bản là 33%. Đáng chú ý là quan hệ thương mại Mỹ - Nhật:
Nhật bản xuất khẩu tới 34% tổng giá trị sang Mỹ, Mỹ xuất khẩu 12,3%
tổng giá trị sang Nhật Bản. Cùng lúc này, việc Trung Quốc mở cửa cải cách
đã làm tăng thêm thị trường cho các nước khác, cũng như sự phụ thuộc của
Trung Quốc vào thị trường thế giới và khu vực ngày càng tăng. Sự phụ
thuộc ràng buộc với nhau cũng như trong đầu tư trực tiếp cũng như trong
các lĩnh vực nhiên liệu, năng lượng, khoa học công nghệ.
Sự phụ thuộc lẫn nhau trên đây tất yếu dẫn đến sự hợp tác, liên kết, sự
phù hợp giữa các nước trong khu vực với nhau. Những nhân tố trên đã đặt
ra những yêu cầu khách quan, cấp bách về việc hình thành một diễn đàn
rộng, nhằm phối hợp các hoạt động kinh tế, thúc đẩy tự do hoá thương mại,
khuyến khích đầu tư, tăng cường hợp tác về khoa học công nghệ giữa các
nước trong khu vực với nhau. Hội nhập kinh tế như thế này không chỉ giải
quyết những vấn đề trước mắt, mà còn hướng tới sự phát triển bền vững
của khu vực Châu á - Thái Bình Dương trong thế kỷ XXI.
Cho đến nay, APEC đã tồn tại và phát triển được 16 năm. Trong qúa
trình đó APEC đã có nhiều thay đổi và tiến bộ quan trọng về tính chất, nội
dung cũng như cơ chế hoạt động. Xem xét những nội dung cơ bản của các
hội nghị, có thể đánh giá được quá trình phát triển của APEC.
Hội nghị Bộ trưởng lần thứ nhất họp ở Canbera(1989) đưa ra tư tưởng
về "chủ nghĩa khu vực mở", tiến tới xây dựng một khu vực Châu á - Thái
Bình Dương tự do thương mại và đầu tư, không phân biệt đối xử trong

APEC cũng như các nước ngoài APEC. Hội nghị Bộ trưởng lần thứ hai họp
ở Sugapore (7/1990) đưa ra những lĩnh vực hoạt động là (I)Tổng hợp dữ
liệu về thương mại và đầu tư (II). Thúc đẩy thương mại, mở rộng đầu tư và
chuyển giao kỹ thuật ở Châu á - Thái Bình Dương, phát triển các nguồn
nhân lực đa phương (III) hợp tác khu vực trong lĩnh vực năng lượng, bảo
tồn tài nguyên biển. Hội nghị Bộ trưởng lần thứ ba họp tại Seral (11/91)
10


11

quyết định tiếp tục phát triển các lĩnh vực mà hội nghị trước đã đưa ra và
bổ sung thêm 3 lĩnh vực nữa là: đánh cá, giao thông và du lịch. Nội dung
hoạt động của APEC đã dần dần đi vào các lĩnh vực cụ thể: Hội nghị Bộ
trưởng lần thứ tư họp tại BanKoc (9/1992) xem xét và tiếp tục triển khai 10
lĩnh vực của các Hội nghị trước.
Đặc biệt, từ 1993 APEC đã có bước tiến quan trọng khi tổ chức Hội
nghị thượng đỉnh (HNTĐ) hàng năm. Tại đây, nguyên thủ quốc gia người
đứng đầu chính phủ các thành viên sẽ gặp gỡ và trao đổi về những vấn đề
quan trọng. Đây là cơ quan quyết định chính sách cao nhất của APEC.
HNTĐ lần thứ nhất tổ chức tại Seattle (Mỹ - 11/1993). Hội nghị đã
hoạch định một chương trình hợp tác kinh tế sâu rộng và một viễn cảnh
kinh tế tương lai cho khu vực Châu á - Thái Bình Dương, cam kết xây dựng
cộng đồng Châu á - Thái Bình Dương thành khu vực mậu dịch và đầu tư tự
do, tăng cường quan hệ kinh tế chặt chẽ trong APEC. HNTĐ lần thứ hai tổ
chức tại Bogor (Indonesia - 11/1994) định ra thời gian cụ thể hoàn thành
mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư đối với các nước công nghiệp phát
triển vào năm 2010 và đối với các nước đang phát triển vào 2020. Các
thành viên cũng thoả thuận tăng cường hợp tác kinh tế trong khu vực, nhằm
củng cố thương mại đa phương mở, thúc đẩy hợp tác phát triển. HNTĐ lần

thứ ba tổ chức tại Osaka (Nhật bản - 11/1995), đã đánh dấu bước tiến cụ thể
hơn của APEC. Hội nghị đã đưa ra 2 nội dung lớn: (i) tự do hoá và các biện
pháp thúc đẩy thương mại và đầu tư, (ii) hợp tác kinh tế và kỹ thuật. APEC
cũng đã định ra 9 nguyên tắc cơ bản tiến hành tự do hoá thương mại và
đầu tư trong 15 lĩnh vực cụ thể.
Hội nghị cấp cao lần thứ tư tổ chức tại Subic (Philippin - 11/1996).
Khẳng định lại cam kết duy trì sự phát triển bền vững, công bằng và đề ra
kế hoạch hành động Manila (MAPA). Đây là bước đi đầu tiên trong quá
trình tự nguyện thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư của APEC. Sáu
ưu tiên được Hội nghị chú ý là: (i) phát triển nguồn nhân lực, (ii) phát triển
11


12

thị trường vốn ổn định và hiệu quả, (iii) củng cố cơ sở hạ tầng kinh tế, đặc
biệt là viễn thông, giao thông và năng lượng, (iv) sử dụng những công nghệ
cho tương lai, (v) bảo đảm chất lượng cuộc sống thông qua các chương
trình bảo vệ môi trường, (vi) phát triển và củng cố các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
HNTĐ lần thứ năm tổ chức tại Vancouver (Canađa - 11/1997).Diễn ra
trong bối cảnh phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam
á, Hội nghị đã có những đánh giá về mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng
hoảng này đối với nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, các nhà lãnh
đạo đều tin tưởng các nước sẽ vượt qua được khủng hoảng và khẳng định
triển vọng tốt đẹp của khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Hội nghị khuyến
khích việc tiếp tục mở của thị trường, tự do hoá mậu dịch và đầu tư.
HNTĐ lần thứ sáu tổ chức tại Kuala Lumpur (Malayxia-11/1998). Hội
nghị đã đề ra tuyên bố 35điểm, trong đó nhiệm vụ quan trọng là tìm ra biện
pháp có hiệu quả, theo nguyên tắc đồng thuận và tự nguyện, để tạo đà cho

sự phát triển bền vững. Chương trình hành động Kuala Lumpur gồm 12
điểm là một bước tiến quan trọng về quan hệ hợp tác của APEC. Hội nghị
cũng đã cam kết theo đuổi chiến lược hợp tác, tăng trưởng với nội dung
chính sách kinh tế vĩ mô hướng vào tăng trưởng phù hợp với yêu cầu cụ thể
của mỗi nền kinh tế. HNTĐ lần thứ bảy được tổ chức tại Aukland (New
Zeland - 9/1999). Hội nghị đã nêu bật tiếng nói chung của các nền kinh tế
thành viên khi đề cập đến 3 vấn đề chính là: (i) ủng hộ thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, thông qua các thị trường mạnh và thông thoáng; (ii) Khẳng định
APEC tiếp tục đóng vai trò to lớn trong đời sống kinh tế toàn cầu, đặc biệt
trong hệ thống buôn bán đa phương; (iii) Bảo đảm cho tất các nền kinh tế
phát triển bền vững và thực hiện thành công việc thu hẹp khoảng cách giàu
nghèo, mang lại phồn vinh cho toàn khu vực.
HNTĐ lần thứ tám được tổ chức tại Bruney (11/2000). Chủ đề của
Hội nghị là hướng vào cộng đồng với 3 mục tiêu là: (i) xây dựng nền tảng
12


13

vững chắc hơn; (ii)Tạo ra nhiều cơ hội mới; (iii) Làm cho APEC có ý nghĩa
hơn. Ba lĩnh vực ưu tiên để thực hiện là: (i) Phát triển nguồn nhân lực; (ii)
Doanh nghiệp vừa và nhỏ; (iii) Công nghệ thông tin và truyền thống.
Chương trình nghị sự tập trung vào các vấn đề quan trọng như: Toàn cầu
hóa và mối quan hệ của nó với công nghệ thông tin truyền thông; thương
mại điện tử, nền kinh tế mới, hệ thống thương mại đa biên.
HNTĐ lần thứ chín được tổ chức tại Thượng Hải (Trung Quốc 10/2001). Hội nghị tập trung vào việc đối phó với những thách thức mới
trong thế kỷ mới, nắm bắt lấy những cơ hội do quá trình toàn cầu hoá và
nền kinh tế mới tạo ra. Tuyên bố của Hội nghị tập trung vào những điểm
chính là: thúc đẩy tăng trưởng bền vững, chia sẽ lợi ích của toàn cầu hóa và
nền kinh tế mới, ủng hộ hệ thống thương mại đa phương và làm sâu sắc

hơn mục tiêu cho tương lai. HNTĐ lần thứ mười diễn ra tại Lot Cabot
(Mexico - 10/2002). Chủ đề của Hội nghị là mở rộng lợi ích của hợp tác vì
tăng trưởng và phát triển - thực hiện tầm nhìn. Nội dung cụ thể bao gồm: (i)
Thực hiện các chính sách thương mại, đầu tư và tài chính thích hợp nhằm
thúc đẩy tăng trưởng, tận dụng kinh tế mới; (ii)Xây dựng năng lực, đặc biệt
hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ và siêu nhỏ; (iii)Mở rộng sự tham gia
của nhân dân, thanh niên và phụ nữ vào tiến hành APEC, đẩy mạnh tuyên
truyền về lợi ích toàn cầu hóa.
HNTĐ lần thứ mười một tổ chức tại Bangkok (Thailand - 10/2003).
Chủ đề của hội nghị là "Thế giới của sự khác biệt: đối tác vì tương lai". Các
nhà lãnh đạo APEC nhất trí cho rằng cần thúc đẩy thương mại trong khuôn
khổ hợp tác đa phương của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Mặc dù
Hội nghị Bộ trưởng thương mại WTO trước đó họp tại Cancun không đạt
kết quả,song APEC vẫn tiếp tục ủng hộ việc nối lại vòng đàm phán
Doha.HNTĐ lần thứ 12 được tổ chức tại Santiago, Chile (tháng 11/2004).
Hội nghị lần này thảo luận các biện pháp tăng cường hợp tác thương mại và
đầu tư, tháo gỡ những vướng mắc và trở ngại đối với thương mại trong khu
13


14

vực, đồng thời thúc đẩy vòng đàm phán Doha.Trong quá trình hội nghị, các
thành viên thúc đẩy các hiệp định thương mại tự do song phương với các
hành động thiết thực là cắt giảm thuế quan và xoá bỏ các rào cản trong
thương mại. HNTĐ lần thứ 13 tổ chức tại Seoul, Hàn Quốc (tháng 11/2005)
và lần thứ 14 tại Hà Nội (cuối năm 2006).
Kết luận: Như vậy nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của
APEC giúp cho ta có cái nhìn khách quan toàn diện đầy đủ về APEC điều
đó tạo điều kiện thuận lợi cho ta hoạch định chính sách đối ngoại.


14


15

DANH SÁCH LỚP A 20
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Họ và tên
Lê Thị Ngọc Anh
Nguyễn Hoài Anh
Nguyễn Vân Anh
Đoàn Đình Chi
Phạm Thị Dung
Lê Thị Duyên
Vũ Thị Hồng Hà
Lê Thị Thu Hằng
Nguyễn Thị Minh

10

11
12
13
14
15
16

Hằng
Nguyễn Công Hải
Trần Thị Bích Hảo
Nguyễn Thị Huyền
Trần Trung Kiên
Lê Thị Anh Nga
Nguyễn Thanh Nga
Nguyễn Thị Bích

17

Ngọc
Trần

18

Nhung
Nguyễn

19
20
21


Phương
Nguyễn Hữu Quang
Phạm Thị Thùy
Nguyễn Thị Huyền

22
23

Trang
Nguyễn Thu Trang
Đặng Thị Quỳnh

24
25
26
27
28
29

Trang
Trần Văn Tú
Mạch Hoài Vân
Nguyễn Hải Vương
Vũ Thị Yên
Nguyễn Thị Thùy
Nguyễn Tuấn Anh

Thị
Thị


HS có mặt

HS vắng mặt

Điểm

Tuyết
Mai

15


16

16



×