Tải bản đầy đủ (.docx) (90 trang)

Giáo trình phương pháp nghiên cứu sinh học cá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.74 KB, 90 trang )

Giáo trình:

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU SINH HỌC CÁ


Chương 0

MỞ ĐẦU
I. Giới thiệu chung
1. Khái quát
Nguồn lợi thuỷ sản (gọi ngắn gọn là cá theo nghĩa rộng) ngày càng được đánh
giá là một nguồn tài nguyên quan trọng trong các loại hình thuỷ vực. Cá cung cấp
nguồn chất đạm đáng kể cho cuộc sống con người ở rất nhiều quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, những năm gần đây nguồn lợi cá có xu hướng suy giảm do việc khai
thác quá mức và việc thay đổi vùng sinh sống của chúng. Royce (1972) cho rằng
chính sự suy giảm nguồn lợi cá đã là cơ hội cho ra đời một lĩnh vực khoa học tìm
hiểu về vấn đề sinh học của chúng. Khoa học về nghiên cứu sinh học cá đã giúp rất
nhiều trong việc xác định biến động quần thể, tương quan chiều dài và trọng lượng,
hình thái phân loại, sinh sản, tuổi, sinh trưởng, dinh dưỡng và thức ăn,… trở nên
cực kỳ quan trọng không chỉ bổ sung các khiếm khuyết kiến thức hiện tại mà còn có
thể sử dụng trong quản lý khai thác và nuôi các động vật thuỷ sản. Từ đó, phương
pháp nghiên cứu sinh học cá ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong hầu hết các
nghiên cứu về các đối tượng động vật thủy sản.
2. Lịch sử phát triển của nghiên cứu cá
Lịch sử nghiên cứu cá chưa phát triển lâu, mặc dù nghề khai thác và nuôi cá
được biết là phát triển trước đó rất nhiều. Có lẽ nghiên cứu sinh học cá chỉ bắt đầu
sau thế kỷ 18 khởi đầu là các nghiên cứu về ngư loại học, mà lúc nầy cũng tập trung
nhiều về hình thái và phân bố (Biswas, 1993). Người đầu tiên viết về các loài cá ở
Ấn Độ là Block (Day, 1878), sau đó là hàng loạt các báo cáo viết về hình thái cá
như Hamilton (1822), Cuvier và Valenciennes (1824-1849).
Đến đầu thế kỷ 20 thì các nghiên cứu về ngư loại học phát triển nhanh về


nhiều lĩnh vực như (i) hình thái và phân bố; (ii) phân loại; (iii) sinh lý và sinh hóa;
(iv) sinh thái; (v) bệnh học; (vi) cấu trúc quần thể; (vii) di truyền; và (viii) bảo tồn,..
hàng loạt các nghiên cứu về sinh học các đã được tiến hành như nghiên cứu về sinh
học sinh sản của nhiều loài cá khác nhau như của Hickling (1930), Clark (1934),…
về tuổi và sinh trưởng của các loài các biển và cá nước ngọt như của Van Oosten

Bài giảng Phương pháp nghiên cứu sinh học


1


(1929), Hickling (1933), Ford (1933), Pillay (1958),… về đánh giá trữ lượng quần
thể như Ricker (1954, 1975), Welcomme (1975, 1979),…
3. Tầm quan trọng của phương pháp nghiên cứu và mục tiêu của giáo trình
Trong nghiên cứu các vấn đề về thức ăn, sinh trưởng, sinh sản, biến động quần
thể,… của cá đều cần có một phương pháp phù hợp và chuẩn mực để có thể đưa ra
các nhận định hay đánh giá chính xác và có thể so sánh kết quả giữa các nghiên
cứu.
Hiện nay có rất nhiều phương pháp nghiên cứu sinh học cá được viết trong
nhiều tài liệu khác nhau ở các cấp độ khác nhau. Nhiều nhà nghiên cứu làm việc ở
các quốc gia phát triển (Tây Âu, Nhật Bản, Mỹ,..) luôn sử dụng các phương pháp
mới, phức tạp và ứng dụng công nghệ thông tin hay thiết bị hiện đại, tất nhiên sẽ tiết
kiệm thời gian, cho kết quả chính xác hơn, nhưng chi phí có thể cao hơn.
Ở một số quốc gia, hay đối với một số đối tượng bắt đầu tiếp cận với phương
pháp nghiên cứu cá (như sinh viên) thì rất cần các phương pháp đơn giản và dễ ứng
dụng. Trên ý tưởng đó, giáo trình nầy được biên soạn trên cơ sở tổng hợp nhiều
phương pháp đã ứng dụng trong nghiên cứu cá và trình bày có tính logic và dễ hiểu
nhằm phục vụ cho sinh viên chuyên ngành thuỷ sản bậc đại học. Giáo trình nầy vì
thể chỉ trình bày một số phương pháp quan trọng và phổ biến ở dạng cụ thể và ít

trình bày các lý luận sâu cho từng phương pháp. Học qua giáo trình nầy sinh viên có
thể ứng dụng ngay vào các nghiên cứu của mình để phục vụ cho các nghiên cứu làm
luận văn hay chuyên đề tốt nghiệp và có thể ứng dụng cho các nghiên cứu đơn giản
trong công tác.
II. Nội dung của giáo trình
Giáo trình được kết cấu thành 8 chương, với những kiến thức cơ bản nhất
trong nghiên cứu sinh học bao gồm:
- Chương 1: Phương pháp thu và xử lý mẫu
- Chương 2: Phương pháp nghiên cứu hình thái cá
- Chương 3: Phương pháp nghiên cứu mô học
- Chương 4: Phương pháp nghiên cứu dinh dưỡng
- Chương 5: Phương pháp nghiên cứu sinh học sinh sản
Bài giảng Phương pháp nghiên cứu sinh học


3


- Chương 6: Phương pháp nghiên cứu tuổi và sinh trưởng
- Chương 7: Phương pháp nghiên cứu sinh học quần thể
- Chương 8: Phương pháp đánh giá trữ lượng cá


Chương 1

PHƯƠNG PHÁP THU VÀ XỬ LÝ MẪU
I. Giới thiệu
Có lẽ yêu cầu trọng nhất trong nghiên cứu về sinh học các là phải thu được số
mẫu lớn và có tính đại diện. Ngoài việc chọn lựa vị trí (địa điểm) thu mẫu phù hợp
thì cần phải thu được số mẫu đủ lớn để kết quả phân tích phản ánh chính xác nội

dung nghiên cứu mong muốn. Có nhiều cách để thu được mẫu và loại mẫu thu cũng
phải tùy thuộc vào nội dung của nghiên cứu, ví dụ thu mẫu để xác định giống loài,
thành phần loài hay là thu để đánh giá trữ lượng,… Có những nội dung nghiên cứu
đòi hỏi người thu mẫu phải có công cụ đánh bắt riêng, nhưng có nội dung có thể
dựa vào thu mẫu từ ngư dân, trao đổi để ghi nhận thông tin từ ngư dân, thu từ chợ
hay từ những người có liên quan khác ở địa bàn nghiên cứu. Tuy nhiên, trong thực
tế thì việc thu thập các thông tin qua ngư dân không phải lúc nào cũng đầy đủ hoặc
nhận được các trả lời chính xác hoàn toàn, bởi lẽ ngư dân không có ghi chép các
thông tin, hoặc đôi lúc vì một lý do nào đó mà họ không thể nói thật hết những điều
họ làm hay biết. Trong trường hợp nầy, người thu mẫu phải tạo ra một sự thân thiện
nhất định và biết cách trao đổi để có thể khai thác được thông tin chính xác nhất về
mẫu thu của mình.
Bên cạnh đó, không phải lúc nào các mẫu thu đều có thể xử lý (phân tích)
ngay tại chỗ mà phải mang về phòng thí nghiệm để phân tích. Vì thế, vấn đề xử lý
mẫu thu cũng đòi hỏi phải được thực hiện nghiêm túc và khoa học để có thể có
được kết quả phân tích chính xác. Phương pháp xử lý vào bảo quản mẫu vì thế tuỳ
thuộc vào từng nội dung nghiên cứu.
II. Phương pháp thu mẫu và bảo quản mẫu
1. Nguyên tắc trong thu mẫu
a) Định danh chính xác mẫu thu
Một trong những yếu tố quan trọng nhất trong nghiên cứu sinh học cá là phải
xác định chính xác loài cá nghiên cứu. Nhưng đây không phải là công việc dễ dàng,
nhất là khi mẫu thu là các loại cá trong giai đoạn con non. Thỉnh thoảng người
nghiên cứu không phân biệt được 2 loài có quan hệ gần nhau và gọi chúng với cùng


một tên loài. Tùy theo địa phương, mỗi loài cá có thể có những tên gọi khác nhau,
cho nên việc sử dụng tên khoa học của loài là thuận tiện và chính xác nhất.
Định danh loài thường được tiến hành bằng cách xác định một loạt các đặc
điểm hình thái bao gồm: (i) mô tả hình thái của loài như hình dạng cơ thể, các loại

vi, vị trí miệng, kiểu vẩy,... (ii) Các chỉ tiêu số lượng (thí dụ công thức vi) như số
lượng tia vi, vẩy, đốt sống. Số lượng gai và tia vi thường là một chỉ số không đổi
giữa các cá thể trong cùng 1 loài, vì vậy công thức vi là một công cụ quan trọng để
định danh loài. Ngoài công thức vi, số lượng vẩy, công thức răng hầu, số tia mang,
số đốt sống cũng là các chỉ tiêu số lượng quan trọng để định danh loài. (iii) Các số
đo hình thái như chiều dài đầu, cao thân, ... mối tương quan của các chỉ số này với
chiều dài tổng cộng hay chiều dài chuẩn. Các số đo này thường được biểu hiện bằng
tỉ lệ hay phần trăm.
b) Chọn địa điểm thu mẫu
Mẫu thu dùng cho nghiên cứu sinh học cá có thể thu ở chợ, cảng cá hay trực
tiếp đánh bắt bằng các dụng cụ chuyên dùng (lưới kéo, lưới cào, chài,…). Tuy
nhiên, vị trí thu mẫu là yếu tố quyết định đến kết quả của nghiên cứu. Thông
thường, thu mẫu ở các cảng cá phù hợp hơn việc thu ở chợ, bởi lẽ đó là nơi mà mẫu
thu thể hiện tính đại diện cho ngư trường mà họ khai thác như biển, sông, hồ chứa,
…. Bên cạnh đó, việc thu mẫu ở các cảng cá cũng sẽ rất quí cho việc tính toán sản
lượng khai thác vì nó phản ánh chính xác nhất lượng cá khai thác theo ngư trường
hay theo ngư cụ khai thác.
Vị trí thu mẫu bằng cách đánh bắt trực tiếp có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc xác định vùng phân bố, tập tính di cư, bãi đẻ, tập tính sinh sản,... Các yếu tố
môi trường nơi thu mẫu đôi khi cũng cần phải được xác định như độ vẫn đục, độ
mặn, pH, mật độ phiêu sinh vật... để có kết luận chính xác hơn về tập tính dinh
dưỡng, các thích nghi sinh lý, vòng đời của đối tượng nghiên cứu.
c) Chuẩn bị biểu mẫu
Khi thực hiện công tác thu mẫu thường phải chuẩn bị các biểu mẫu để có thể
ghi chép một số thông tin về mẫu thu và cũng có thể xác định một số chỉ tiêu đo đạt
nhanh. Thông thường, mẫu thu phải có ghi đầy đủ các thông tin như:
1. Nơi khai thác (tên sông, hồ, ngư trường,…)


2. Địa điểm thu mẫu

3. Loại tàu khai thác
4. Ngư cụ khai thác và kích thước mắc lưới
5. Độ sâu ngư trường khai thác
6. Diện tích khai thác (nếu được)
7. Loài khai thác, tỉ lệ thành phần loài,....
Nếu cần có thể ghi nhận nhanh kích cỡ về chiều dài và trọng lượng của cá tại
nơi thu mẫu. Thông thường thì có thể phân nhóm theo kích cỡ cá để đo đạt, trong
trường hợp cá có kích thước lớn hơn 30 cm chiều dài thì có thể đo độ chính xác là 1
cm, cá kích cỡ nhỏ hơn 30 cm thì độ chính xác là 0,5 cm và đối với cá nhỏ có thể đo
ở độ chính xác 1 mm (Holden và Rait 1974).
2. Thu mẫu phân tích ở phòng thí nghiệm
Thu mẫu cho các phân tích ở phòng thí nghiệm yêu cầu phải có tính đại diện
cho quần thể. Mẫu thu cần phải được giữ càng tươi càng tốt. Tùy theo yêu cầu mà
mẫu thu cũng có thể khác nhau, nếu như thu mẫu cho nghiên cứu mô học phải là
mẫu sống thì thu mẫu phân tích tính ăn của cá phải thu vào buổi sáng (5:00-7:00
giờ) để không bị ảnh hưởng bởi chu kỳ ăn trong ngày (diurnal rhythm) và khả năng
tiêu hóa thức ăn của cá. Theo Robotham (1977) đối với mẫu phân tích dinh dưỡng
thì sau khi thu phải cho ngay vào dung dịch Chloral hydrate 10%, sau khi gây mê
(narcotization) thì cố định trong formol trung tính 40% và sau đó pha loãng còn 5%
để bảo quản lâu dài. Với cách nầy ông cho rằng sẽ giữa được tốt các thành phần
trong dạy dày và ngăn cản sự biến mất một số thành phần.
Hầu hết các nghiên cứu về sinh học cá được tiến hành trên một số ít mẫu thu
được từ một quần thể có số lượng lớn. Khái niệm quần thể ở đây là tất cả các cá thể
thuộc một loài và đang sống ở một khu vực địa lý nhất định, quần thể cũng có thể
được xem như một nhóm các cá thể thuộc loài đang được nghiên cứu (Moller,
1979). Toàn bộ quần thể thì quá lớn cho nghiên cứu, hơn nữa cũng không thể tiến
hành các phân tích trên tất cả các cá thể đánh bắt được. Vì vậy, việc chọn mẫu đại
diện là cần thiết cho các nghiên cứu sinh học. Có nhiều cách để thu mẫu, tuy nhiên
có thể chia ra thành 2 phương pháp chính là (i) thu mẫu ngẫu nhiên (random
sampling) và (ii) thu mẫu có chọn lọc (non-random sampling). Tuy nhiên phương

pháp thu mẫu ngẫu nhiên được áp dụng nhiều nhất, trong phương pháp này tất cả
các mẫu trong quần thể đều có khả năng được chọn lựa bằng nhau.


Phương pháp thu mẫu ngẫu nhiên lại được chia là 2 phương pháp là (i) thu
mẫu hoàn toàn ngẫu nhiên (simple random) và (ii) thu mẫu ngẫu nhiên có giới hạn
(restricted random). Trong phương pháp thu mẫu hoàn toàn ngẫu nhiên, mỗi cá thể
trong quần thể sẽ được gán cho một số (gọi là số ngẫu nhiên – random numbers) khi
đó những cá thể nào được thu làm mẫu sẽ được xác định bằng các bảng số ngẫu
nhiên (random table). Phương pháp thu mẫu ngẫu nhiên có giới hạn lại có 2 cách
thu mẫu: (i) thu mẫu phân tầng (stratified sampling) đối với quần thể không đồng
nhất, khi đó quần thể sẽ được chia thành các phần đồng nhất và mẫu sẽ được thu
độc lập từ các phần đồng nhất đó; và (ii) thu mẫu nhiều giai đoạn (multi-stage
sampling), khi quần thể quá lớn (thậm chí số lượng rất lớn cho một mẫu đại diện)
khi đó việc thu mẫu được chia thành 2 giai đoạn. Trước tiên quần thể muốn thu mẫu
được chia thành các quần thể đại diện (sub-population) và mẫu sẽ được thu từ các
quần thể đại diện (mẫu cấp 1). Bước tiếp theo, từ các mẫu thu của các quần thể đại
diện, tiến hành thu các mẫu đại diện (mẫu cấp 2). Mẫu cấp 2 có thể được thu nhiều
hơn 2 giai đoạn tùy thuộc vào nghiên cứu và kích cỡ của quần thể, do vậy phương
pháp này được gọi là phương pháp thu mẫu nhiều giai đoạn.
Vấn đề quan trọng nhất của việc thu mẫu là xác định số lượng mẫu thu. Có
nhiều ý kiến cho rằng số lượng mẫu nên dao động từ 1-25% kích cỡ quần thể. Khi
số lượng mẫu quá nhỏ có thể sẽ không đại diện được cho toàn bộ quần thể, trái lại
số lượng mẫu quá lớn sẽ tốn rất nhiều thời gian để phân tích và làm gia tăng chi phí.
Số lượng mẫu thu cũng phụ thuộc vào từng nghiên cứu, tuy nhiên số lượng từ 80100 mẫu với các kích cỡ khác nhau cho mỗi tháng là thích hợp cho các nghiên cứu
thông thường về sinh học cá.
3. Kỹ thuật bảo quản mẫu
Yêu cầu mẫu cho nghiên cứu sinh học phải còn tốt, những mẫu hư sẽ rất khó
cho các phân tích vì thế mẫu cần được bảo quản càng nhanh càng tốt. Mẫu sau khi
thu cần được rửa ngay bằng nước ngọt để mẫu được sạch đồng thời loại bỏ các vi

sinh vật có thể bám theo mẫu, nhất là mẫu thu từ ngư dân. Mẫu sau khi rửa sạch thì
cần đánh dấu và cân trọng lượng và chiều dài, và tất nhiên chi tiết của mẫu cần
được ghi chép cẩn thận trong sổ. Đối với các mẫu cá có kích cỡ lớn rất cần thiết
phải gắn các thẻ hay phiếu có ghi các chi tiết như nơi đánh bắt, chiều dài, trọng
lượng và giới tính. Mẫu không ghi rõ sẽ khó sử dụng trong nghiên cứu.
Mẫu thu có thể cố định ngay trong dung dịch formol. Mẫu dùng cho phân tích
dạ dày cần phải được cố định ngay sau khi thu. Dung dịch cố định mẫu thường
dùng là formol 10% (1 phần formol và 9 phần nước) cho những mẫu có kích thước


lớn (lớn hơn 15 cm) và 5% cho các mẫu có kích thước nhỏ. Dung dịch được dùng
cho cố định mẫu phải là dung dịch trung tính, thông thường borax sẽ được thêm vào
trong formol (1:1000).
Phần bụng của mẫu cá có kích thước lớn nên được mổ và cắt sâu vào trong cơ
hai bên thân cá để dung dịch cố định có thể thấm vào bên trong. Những cá nhỏ hơn
15 cm dài chỉ cần mổ phần dụng cá là đủ. Mẫu cá thường được cố định khoảng 7-10
ngày, sau đó rửa sạch và cố định lại trong dung dịch formol 10% hay cồn 70%
(ethyl alcohol). Nếu như giữa mẫu trong dung dịch cồn thì trước tiên nên giữ trong
cồn 50% từ 5-7 ngày trước khi chuyển sang cồn 70%. Trong trường hợp muốn giữa
mẫu lâu, nếu dùng formol thì phải thay hàng tháng còn nếu giữa trong cồn (alcohol)
thì thay mỗi 3 tháng. Tuy nhiên, tùy từng cơ quan của cá mà cách bảo quản mẫu có
thể khác nhau để có thể giúp cho quá trình phân tích mẫu đạt kết quả tốt nhất.
Vảy, đá tai, gai vi lưng hay gai vi ngực thường được sử dụng để xác định tuổi
cá. Vảy cá thường được thu từ 5-10 vảy cho mỗi cá thể. Thông thường vảy tròn
(cycloid scale) được lấy ở vùng giữa của vi lưng và đường bên, trong khi vảy lược
(ctenoid scale) được thu ở vùng vi ngực. Trước khi thu vảy, mẫu cần phải được rửa
sạch để loại bỏ các vảy dính trên thân cá (các vảy này có thể là của các mẫu cá khác
dính vào), và chỉ thu các vảy còn đính chặt vào thân cá. Cũng có thể dễ dàng nhận
biết các vảy tái sinh do sự sắp xếp không theo trật tự và thiếu các vòng đồng tâm
gần, các vảy này không nên thu mẫu. Nên chọn thu đủ số lượng mẫu với các vảy

đồng dạng. Khi lấy vảy cần cẩn thận tránh làm tổn hại phần rìa của vảy. Mẫu vảy
của mỗi cá thể có thể được chứa riêng trong các túi (giấy hay nilon) có dán nhãn với
đầy đủ các thông tin về mẫu.
Mặt cắt thẳng đứng của đá tai cũng được sử dụng để xác định tuổi của cá. Đá
tai thì nằm trong một khe của tai trong. Cách thu đá tai dễ dàng nhất là thu qua một
đường mở nằm ngang trên đầu phía sau mắt, hoặc mở nắp hộp sọ. Một phương
pháp khác để thu đá tai mà vẫn giữ nguyên hình dạng mẫu vật là lấy từ phần vòm
miệng, tuy nhiên phương pháp này khó thực hiện hơn. Trước khi cắt mẫu, đá tai
phải được đúc thành khối trong polyester hay nhựa thông. Có thể bảo quản đá tai
bằng các phương pháp sau:
- Giữ trong dung dịch glycerin và nước theo tỉ lệ 1:1.
- Giữ đá tai trong creosol hay terpineol (Gibson và Ezzi, 1978).
- Ngâm trong dung dịch 1% potassium hydroxide (KOH) để loại trừ hết các
mô liên kết sau đó làm khô và giữ trọng lọ kín (Strum, 1978)


Gai cứng của vi lưng (hoặc vi ngực) cũng được sử dụng để xác định tuổi cá.
Gai vi được cố định trong dung dịch formal-calcium ít nhất 24 giờ. Cách chuẩn bị
dung dịch này như sau:
40% formaldehyde

10 mL

Calcium chloride khan

10 g

Nước cất

80 mL


Bột CaCO3

thêm vào quá mức bão hòa

Sau khi cố định, mẫu được rửa sạch bằng nước cất và chuyển vào dung dịch
khử canxi trong thời gian từ 6-12 giờ tùy thuộc vào chiều dài của gai vi. Dung dịch
khử canxi được chuẩn bị bằng cách trộn lẫn 2 loại dung dịch A và B (Perry, 1967).
Dung dịch A gồm 50 g sodium citrate và 250 mL nước cất, dung dịch B gồm 125
mL acid formir và 125 mL nước cất.
Các phần khác của bộ xương như xương nắp mang, cột sống, xương gốc vi
đuôi, ... có thể được thu bằng cách đun mẫu trong nước sôi khoảng 5 phút, khi đó
các cơ bám vào xương sẽ dễ dàng tách ra. Mẫu xương được làm khô ở nhiệt độ
phòng trong thời gian khoảng 24 giờ. Sau đó giữ mẫu trong các túi có dán nhãn với
các thông tin về mẫu cá.
Cố định tuyến sinh dục đúng phương pháp là khâu rất quan trọng cho các
nghiên cứu về sinh học sinh sản. Theo Gibson và Ezzi (1978) thì sau khi thu mẫu
tinh sào cần phải đo chiều dài (tính bằng mm), cân trọng lượng và cho vào cố định
trong cồn 70% . Buồng trứng sau khi thu cũng cần phải cân và đo sau đó xẻ dọc để
cho dung dịch cố định thấm vào. Để cố định trứng thì Simpson (1951) đề nghị dùng
dung dịch “Gilson’s fluid”. Dung dịch nầy không những có tác dụng cố định trứng
mà còn giúp phá vỡ các mô liên kết trong buồng trứng và làm tách rời trứng. Để
tách rời trứng khỏi các mô liên kết có thể cần giữ mẫu vài tuần trong dung dịch
Gilson, lắc nhẹ lọ chứa trứng đến khi thấy hầu hết các trứng tách ra khỏi các mô của
buồng trứng. Loại bỏ các mô của buồng trứng và nếu như trứng còn dính nhau thì
tiếp tục giữ trong dung dịch cố định. Trứng đã tách rời phải được rửa sạch bằng cồn
tuyệt đối và sau đó bảo quản trong cồn tuyệt đối cho các phân tích về sau (đo và
đếm số trứng). Cách chuẩn bị dung dịch “Gilson’s fluid” như sau:



100 ml cồn 60%
15 ml a-xít nitric 80%
18 ml a-xít glacial acetic
20 g mercuric chloride
880 ml nước cất
Ngoài ra, việc bảo quản trứng còn có thể thực hiện trong dung dịch formolsaline theo đề nghị của Hancock (1979). Dung dịch nầy có thể chuẩn bị bằng cách
pha 100 ml formol 40% với 900 ml nước cất và bổ sung thêm 100 g muối (sodium
chloride). Buồng trứng trước khi cố định phải sẽ dọc để dung dịch cố định thấm
vào, và buồng trứng cần được xáo trộn (shaking) mỗi 2-3 tuần trong vòng 5-6 tháng
để trứng tách rời ra khỏi các mô cơ liên kết. Dung dịch cố định cần được thay định
kỳ đến khi mẫu trứng được đem ra phân tích.
4. Kỹ thuật cố định mẫu cho các nghiên cứu mô học
Đây là kỹ thuật rất cần thiết cho các nghiên cứu mô học trên các cơ quan khác
nhau của cá. Ống tiêu hóa và tuyến sinh dục là 2 cơ quan được nghiên cứu phổ biến
nhất vì sự khác biệt về tổ chức mô của 2 cơ quan này sẽ giúp người nghiên cứu hiểu
biết hơn về sự phát triển, tập tính dinh dưỡng và giai đoạn thành thục sinh dục của
từng loài cá. Kỹ thuật này cũng rất cần thiết cho các nghiên cứu về bệnh trên các
loài thủy sản.
Mẫu thu cho các nghiên cứu mô học phải là mẫu tươi được lấy từ cá mới được
giết chết hay cá được gây mê. Tùy loại mô và kích thước mẫu mà có các loại dung
dịch cố định và thời gian cố định mẫu khác nhau. Với các nghiên cứu về ống tiêu
hóa, mẫu ống tiêu hóa của cá trưởng thành có thể được cố định bằng dung dịch
Bouin trong thời gian 12 giờ sau đó chuyển sang bảo quản trong cồn 70%, với cá
bột hay cá hương thì có thể cố định bằng dung dịch formol trung tính 10%. Đối với
mẫu buồng trứng thì cố định bằng dung dịch Bouin ít nhất 24 giờ sau đó chuyển
sang bảo quản trong cồn 70%. Mẫu cố định bằng dung dịch Bouin, khi bảo quản
trong cồn 70% cần thay cồn nhiều lần cho đến khi màu vàng của dung dịch bảo
quản được loại bỏ. Một loại dung dịch cố định cũng thường được sử dụng (nhất là
trong các nghiên cứu mô học trên tôm) là dung dịch AFA (alcohol – formalin – acid
acetic), hàm lượng formalin và acid acetic có thể thay đổi tùy thuộc vào loại mẫu.



-Dung dịch Bouin được chuẩn bị như sau:
Dung dịch axit picric bão hòa

750 mL

Formol 40%

250 mL

Acid acetic

50 mL

- Cách chuẩn bị dung dịch formol trung tính:
Sodium phosphate (NaH2PO4.H2O)

4g

Sodium phosphate (Na2HPO4)

6,5 g

Hòa tan trong 750 mL nước cất, thêm vào 100 mL formol (37- 40%); sau đó
thêm nước vào cho đủ 1000 mL


Chương 2


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU HÌNH THÁI CÁ
Nghiên cứu hình thái cá là một khía cạnh quan trọng trong nghiên cứu cá, nó
cung cấp nguồn thông tin chủ yếu cho các nghiên cứu về phân loại và tiến hóa của
cá. Mặc dù các kết quả nghiên cứu đạt được về di truyền, sinh lý, tập tính, và sinh
thái cũng phục vụ cho mục đích này, hệ thống phân loại cá vẫn phụ thuộc rất nhiều
vào hình thái học. Những đặc điểm của loài như hình dáng, kích cỡ, màu sắc, sự sắp
xếp của vi, vảy và các chỉ tiêu hình thái khác là tiêu chuẩn trợ giúp cho việc nhận
dạng, định danh và phân loại cá. Các phương pháp đo đếm các chỉ tiêu hình thái và
sự tương quan của các chỉ tiêu sẽ được trình bày trong chương này.
I. Nguyên lý trong đo mẫu cá
Đo mẫu cá là một trong các phương pháp của nghiên cứu hình thái cá, tùy theo
kích cỡ cá mà có các phương pháp đo thích hợp để có được các số liệu chính xác.
Phương pháp căn bản dùng dùng bàn đo (board) (Hình 2.1), bàn đo được thiết kế
gồm bàn bằng gỗ hay kim loại, bên trên bàn có gắn cố định một thước và phần đầu
của bàn đo có một tấm chắn để khi đo đầu cá đặt chạm vào tấm chắn nầy. Chiều dài
của bàn đo tùy vào kích thước cá dự kiến sẽ đo.
Thanh chắn

Thước đo

Hình 2.1: Dụng cụ dùng để đo cá (bàn đo cá)
Đối với các mẫu có lớn (lớn hơn 50 cm) thì có thể dùng thước để đo, tuy nhiên
đối với cá có kích thước nhỏ có thể dùng thước đo (caliper) hay thước có phân cỡ.
Thông thường nên đo cá ngay tại nơi thu mẫu, lúc nầy cá còn tươi và ẩm, những
mẫu cá bị khô có thể rất khó đo chính xác vì hình dáng của cá có thể bị biến dạng,
nhất là không thể kéo thẳng để đo. Trong trường hợp đo mẫu cá sống có kích cỡ lớn


thì rất cần thiết phải gây mê cá trong dung dịch Sandoz Ms 222 ở nồng độ thường
dùng là 1/1.000, hoặc có thể dùng dung dịch 2 - phenoxy ethanol với hàm lượng từ

20 – 30 mL/100 L nước.
II. Đo chiều dài và trọng lượng cá
Thuật ngữ chiều dài của cá thường để chỉ chiều dài tổng cộng (chiều dài toàn
thân) của cá. Ngoài ra còn có các khái niệm khác như chiều dài chuẩn và chiều dài
fork. Chiều dài chuẩn thường được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng, tuy nhiên khi thu
mẫu với số lượng lớn và cần phải đo nhanh cá ở hiện trường thì khó thực hiện chính
xác. Chiều dài fork thường không thể dùng trong trường hợp các loài cá có vây đuôi
không phân thùy như cá rô đồng chẳng hạn. Chọn loại chiều dài nào để sử dụng tùy
thuộc rất nhiều vào ý đồ của người nghiên cứu. Phương pháp đo thường dùng là để
sát đầu cá vào tấm chắn (phía tay trái), sau đó vuốt cá thẳng ra về phía tay phải và
xác định chiều dài của cá dựa vào thước đã gắn trên bàn đo.
Phương pháp xác định khối lượng cá thường dùng là cân, có thể cân đĩa hay
cân thăng bằng và tùy theo trọng lượng của cá mà dùng cân có mức cân tương thích.
Cân thăng bằng thường ít được sử dụng do mất nhiều thời gian và độ chính xác
cũng thấp. Cân điện hiện đang được áp dụng phổ biến và cho kết quả chính xác hơn.
Xác định khối lượng cá cũng phải tùy vào tình trạng của cá (tươi hay đã qua cố
định), trong trường hợp cá đã được cố định thì thường bị mất nước nên khối lượng
thực của cá bị thay đổi và trong trường hợp nầy phải tìm hệ số qui đổi để có thể
chuyển từ khối lượng cá đã cố định sang cá tươi. Ngoài ra, trong một số trường hợp
khi cân khối lượng cá cũng phải xem xét tính đồng nhất của mẫu cá cân (mức độ ẩm
chẳng hạn) để giảm sai số. Trong trường hợp không thể cân trực tiếp khối lượng cá
thì có thể cân qua dụng cụ chứa cá, chẳng hạn dùng một dụng cụ chứa cá và cân
khối lượng dụng cụ trước, sau đó cho cá vào cân lại. Trọng lượng cá chính là phần
chênh lệch giữa khối lượng dụng cụ và cá so với khối lượng dụng cụ.
III. Các chỉ tiêu hình thái
Các chỉ tiêu đo theo đề xuất của Lowe-McConnel (1971) và Grant & Spain
(1977) trong nghiên cứu sinh học các gồm:
1. Chiều dài tổng cộng (total length): thể hiện giá trị lớn nhất của chiều dài
cơ thể cá từ đầu đến cuối cơ thể. Nó là khoảng cách được xác định theo
đường thẳng từ mút đầu (miệng cá) đến cuối của vi đuôi. Trong trường hợp

cá có vi đuôi dạng phân thùy thì đo đến điểm mút cuối cùng của vi đuôi.


2. Chiều dài fork (fork length): chiều dài fork được tính từ mút đầu (miệng
cá) đến giới hạn ngoài (điểm giữa) khía chữ V hoặc vị trí phân thùy của vi
đuôi cá.
3. Chiều dài chuẩn (standard length): chiều dài chuẩn được đo từ mút đầu
của cá (miệng) đến cuống vi đuôi (khớp vi đuôi và cơ thể cá). Vị trí này có
thể nhận biết rõ khi bẻ đuôi cá sang 2 bên, một rãnh nhỏ sẽ được hình
thành.
4. Chiều dài đầu (head length): chiều dài đầu được xác định từ mút đầu
mõm (xương trước hàm) đến điểm cuối của xương nắp mang.
5. Chiều dài trước vi lưng (pre-dorsal fin): chiều dài nầy được tính từ mút
đầu (miệng cá) đến gốc tia (gai) vi lưng đầu tiên.
6. Chiều dài phần trước mắt hay dài mõm (pre-orbital hoặc snout
length): khoảng cách từ mút đầu cơ thể đến rìa trước ổ mắt
7. Chiều rộng giữa 2 mắt (inter-orbital width): được xác định từ mặt lưng
của cơ thể, là khoảng cách từ rìa trên của ổ mắt trái đến rìa trên của ổ mắt
phải. Khoảng cách này còn được gọi là khoảng cách nhỏ nhất giữa 2 mắt.
8. Chiều dài sau mắt (post-orbital length): Khoảng cách từ rìa sau ổ mắt
đến điểm cuối của xương nắp mang.
9. Đường kính mắt: Khoảng cách từ mép trước đến mép sau của mắt theo
trục chiều dài thân.
10.Chiều dài hàm trên (upper jaw length): khoảng cách giữa điểm mút
xương trước hàm và điểm cuối của xương hàm trước.
11.Chiều dài hàm dưới (lower jaw length): khoảng cách giữa 2 điểm cuối
(điểm giao nhau của hàm trên và hàm dưới) dọc theo mép của hàm dưới.
12.Chiều dài trước hậu môn (anal length): khoảng cách từ mút đầu cơ thể
đến giới hạn trước của lỗ hậu môn.



13.Chu vi thân (girth length): vòng đo tại điểm rộng nhất của cơ thể (không
tính vi). Chỉ số này thỉnh thoảng được dùng để xác định mức độ thành thục
của cá (đặc biệt là cá cái).
14.Chiều cao thân (body depth): là khoảng cách giữa mặt lưng và mặt bụng
tại điểm rộng nhất của cơ thể.
15.Chiều cao đầu (head depth): khoảng cách thẳng đứng tính từ điểm sau
gáy (gốc sau của xương trên chẩm) đến mặt bụng của đầu.
16.Độ rộng miệng (gape width): còn được hiểu như chiều rộng miệng, là
khoảng cách giữa 2 góc khi miệng cá đóng lại.
17.Chiều cao vi lưng (dorsal fin height): chiều dài của tia vi lưng lớn nhất
hay của gai vi lưng.
18.Chiều dài gốc vi lưng (dorsal fin base): khoảng cách giữa giới hạn trước
và sau của vi lưng dọc theo chiều dài của cơ thể.
19.Chiều dài vi ngực (pectoral fin length): chiều dài lớn nhất của tia vi
ngực.
20.Chiều rộng gốc vi ngực (pectoral fin base): khoảng cách giữa điểm trên
và dưới gốc vi ngực nơi các tia vi ngực đính vào.

Hình 2.2: Một số chỉ tiêu hình thái của cá


21.Chiều dài vi hậu môn (anal fin length): chiều dài tia vi hậu môn dài nhất.
22. Chiều dài gốc vi hậu môn (anal fin base): khoảng cách từ điểm trước
đến điểm sau gốc vi hậu môn.
23. Chiều dài vi bụng (ventral fin length): Chiều dài tia vi bụng dài nhất
24.Rộng gốc vi bụng (ventral fin base): khoảng cách giữa 2 giới hạn ngoài
gốc vi bụng.
25.Chiều cao qua miệng (depth at mouth): khoảng cách giữa mặt lưng và
mặt bụng của đầu, xác định tại đường kẻ thẳng đứng qua góc sau miệng.

26.Chiều cao qua mắt (depth at eye): khoảng cách giữa mặt lưng và mặt
bụng của đầu, xác định tại đường kẻ thẳng đứng qua mắt.
27. Chiều cao thân qua vi lưng (depth at dorsal fin): chiều rộng cơ thể xác
định bằng đường kẻ thẳng đứng qua giới hạn trước gốc vi lưng.
28.Chiều cao thân qua vi ngực (depth at pectoral fin): chiều rộng cơ thể
qua gốc vi ngực.
29. Chiều cao thân qua hậu môn (depth at anus): chiều rộng cơ thể tại
đường kẻ thẳng đứng qua hậu môn.
30.Chiều cao vi đuôi (caudal fin height): chiều rộng khi kéo căng các thùy
của vi đuôi ra.
31.Chiều dài cuống đuôi (length of caudal peduncle): khoảng cách từ điểm
cuối gốc vi hậu môn đến điểm giữa khớp vi đuôi.
32.Chiều cao nhỏ nhất cuống vi đuôi (least height of the caudal peduncle):
cũng là thuật ngữ chỉ chiều cao nhỏ nhất của cơ thể. Là chiều cao nhỏ nhất
của cuống vi đuôi trong khoảng giữa điểm cuối gốc vi hậu môn và điểm
xuất phát của vi đuôi. Thực tế, nó là chiều rộng của cuống đuôi tại vị trí
xương gốc vi đuôi.


Sơ đồ minh họa cho các chỉ tiêu đo được thể hiện trong hình 2.2 và 2.3

Hình 2.3: Các chỉ tiêu đo ở cá
Trong đó:
TL: chiều dài tổng cộng; FL: chiều dài fork; SL: chiều dài chuẩn; BD:
chiều cao thân; HL: chiều dài đầu; PD: chiều dài trước vi lưng; PO: dài
mõm; PtO: dài đầu sau mắt; ED: đường kính mắt; AL: chiều dài trước
hậu môn; IW: chiều rộng giữa 2 mắt; HPC: chiều cao nhỏ nhất cuống vi
đuôi; HD: chiều cao vi lưng; BDF: chiều dài gốc vi lưng; PFL: chiều dài
vi ngực; PFB: chiều rộng gốc vi ngực; VFL: chiều dài vi bụng; BV: chiều
dài gốc vi bụng; AFL: chiều dài vi hậu môn; AFB: chiều dài gốc vi hậu

môn.
IV. Các chỉ tiêu số lượng
Các chỉ tiêu số lượng là các chỉ tiêu sinh học có thể đếm được như số đốt
sống, tia vi, vảy, sức sinh sản (Holden và Raitt, 1974). Để thuận tiện cho việc minh
họa, chúng ta hãy xét trường hợp đơn giản là đếm số lượng tia vi (công thức vi) và
vảy.


Có 2 dạng tia vi – tia vi đơn hay gai vi và tia vi kép (phân nhánh) hay tia vi
mềm. Với các mẫu cá lớn, có thể dễ dàng phân biệt các gai và tia vi, tuy nhiên với
các mẫu cá nhỏ việc quan sát bằng kính hiển vi là cấn thiết để phân biệt tia vi mềm
và gai cứng. Các ký tự như D, P, V, A, C, Ll, L.tr. được sử dụng để biểu thị cho vi
lưng, vi ngực, vi bụng, vi hậu môn, vi đuôi, vảy đường bên, và vảy ngang đường
bên. Dấu gạch chéo (/) được dùng để tách biệt giữa gai vi cứng và tia vi mềm.
Thỉnh thoảng những gai cứng được biểu thị bằng chữ số La mã và tia vi mềm được
biểu thị bằng chữ số A rập. Thông thường phần phân nhánh của tia vi cuối cùng của
vi lưng và vi hậu môn kéo dài đến tận gốc vi, như vậy cả 2 nhánh này phải được
tính như 1 tia vi. Hãy xem một số thí dụ minh họa về công thức vi được trình bày
dưới đây:
i) D. 2/9 – 11: nghĩa là vi lưng có 2 gai cứng và có từ 9-11 tia vi mềm
ii) D1. 1/4, D2 5: nghĩa là vi lưng thứ I có 1 gai cứng và 4 tia vi, vi lưng thứ II
có 5 tia vi và không có gai cứng
iii) D. 2/15/0: Nghĩa là vi lưng thứ nhất có 2 gai cứng và 15 tia vi trong khi vi
lưng thứ II thì không có gai và tia vi.
iv) P. 12 – 14: nghĩa là vi ngực có từ 12 đến 14 tia vi nhưng không có gai
cứng.
Vảy đường bên (Ll) là các vảy có lỗ (hoặc răng cưa) nằm dọc theo đường bên
(từ góc trên nắp mang đến gốc vi đuôi). Thông thường vảy đường bên không liên
tục, trong trường hợp này L.r. sẽ được dùng biểu thị công thức vảy thay thế cho Ll.
Vảy ngang đường bên (L.tr.) được đếm như sau: các vảy bên trên đường bên được

đếm từ trên xuống và về phía sau bắt đầu từ khởi điểm gốc vi lưng cho đến vảy
đường bên; các vảy dưới đường bên được đếm từ dưới lên trên và về phía trước bắt
đầu từ khởi điểm gốc vi hậu môn (Hình 2.2). Thí dụ L.tr. 14 có thể được viết thành
8/1/5 hoặc 8½ /5½ .
V. Các chỉ số sinh trắc
Theo Tobor (1974) mỗi chỉ tiêu cơ thể (dài đầu, đường kính mắt, cao thân,...)
trong một mối tương quan với chiều dài cơ thể được xem như một chỉ số sinh trắc
(biometric index). Trong mỗi chỉ số liên hệ giữa chỉ tiêu cơ thể với chiều dài (chiều
dài đầu/đường kính mắt; chiều dài tổng cộng/chiều dài đầu...), giá trị trung bình của
chỉ số sinh trắc sẽ được xác định. Theo Bayagbona (1963), nếu trong tất cả các


nhóm kích cỡ cá nghiên cứu, chỉ số sinh trắc của mỗi đặc điểm riêng (chỉ tiêu) biểu
hiện một tỉ lệ giảm liên tục, lúc đó đặc điểm khảo sát thể hiện một mối tương quan
thuận (+), trái lại thì đặc điểm khảo sát thể hiện mối tương quan nghịch (-). Nếu chỉ
số sinh trắc không biến đổi nghĩa là sự phát triển của chỉ tiêu khảo sát trong mối
liên hệ với chiều dài là một tương quan đồng đẳng (Hình 2.4).
HL/ED TL/HL TL/BD

8
bio 7B
ind
6
C

5
A

4
5


15

25

35

45

55

65

length (cm)

Hình 2.4: Chỉ số sinh trắc của cá Labeo pangusia
Trong đó:
A: Tương quan thuận (+)
B: Tương quan nghịch (-)
C: Tương quan đồng đẳng
Khi nghiên cứu về trắc lượng hình thái và các chỉ tiêu số lượng, phương pháp
hồi qui sẽ được sử dụng với phương trình hồi qui dạng:
y =a +bx
Trong đó:
y: là sự biến động của chỉ tiêu khảo sát như chiều dài thân, dài đầu,...
a: là hằng số
b: là hệ số tương quan x:
là chiều dài tổng cộng



Giá trị a và b được xác định bằng công thức sau:
a = y - bx

b =

Σ xy - n xy
2

Σ x - n (x)

2

Trong đó:
n: tổng số nhóm chiều dài khảo sát
x : giá trị trung bình của x
y: giá trị trung bình của y
VI. Tương quan chiều dài trọng lượng và hệ số điều kiện
1. Tương quan chiều dài và trọng lượng
Có một nguyên lý chung đó là sự tăng trưởng của cá và các sinh vật khác có
ảnh hưởng đến chiều dài của chúng. Vì thế, có thể nói rằng chiều dài và tăng trưởng
của của loài có mối tương quan với nhau. Huxley (1924) đã đề xuất công thức sinh
truởng của cá qua mối quan hệ giữa chiều dài và trọng lượng theo công thức:
W = aL

b

Trong đó:
W: là trọng lượng
L: chiều dài
a: là hằng số tăng trưởng ban đầu

b: hệ số tăng trưởng
Le Cren (1951) đã chuyển đổi phương trình trên thành dạng log như sau:
log W = log a + b. log L


Giá trị a và b được xác định bằng công thức sau:
a = y - bx

b =

Σ xy - n xy
2

Σ x - n (x)

2

Trong đó:
n: tổng số nhóm chiều dài khảo sát
x: giá trị chiều dài trung bình
y: giá trị trọng lượng trung bình
Vì thế khi biết được giá trị của a và b có thể tìm được trọng lượng của cá và
ngược lại. Đường hồi qui của log W theo log L phải được tính bằng phương pháp
bình phương nhỏ nhất (least squares) bằng cách chia các số liệu khảo sát thành các
nhóm nhỏ theo các nhóm kích cỡ. Số lượng nhóm phụ thuộc vào sự biến động về
kích cỡ của mẫu thu được. Tuy nhiên số lượng nhóm không được dưới 10 nhóm. Số
liệu phải được thu trọn năm và sự phân chia có thể theo nhóm chiều dài, nhóm giới
tính và mùa vụ,… để có thể thấy được sự thay đổi.
Hệ số tương quan r được dùng để kiểm tra mức độ chặt chẽ của đường hồi qui
và được tính bằng công thức sau:

Σxy - Σxy
r =

√{(Σ x2 -

2

2

2

n x ) (Σ y - n y )}

Nếu giá trị r lớn hơn 0,5 thì có sự tương quan giữa chiều dài - trọng lượng và
ngược lại.
2. Hệ số điều kiện
Bên cạnh mối tương quan giữa chiều dài và trọng lượng, thì từng cá thể cũng
có những biến động trong quá trình sinh trưởng. Sự biến động cá thể được phân tích
thông qua một chỉ số gọi là hệ số điều kiện (condition factor hay K-factor) và có


nhiều cách tính toán khác nhau. Tuy nhiên, Hile (1936) và Beckman (1948) đề nghị
công thức dưới đây để tính hệ số điều kiện :
5

K = (W x 10 ) / L

3

Trong đó:

K: hệ số điều kiện
W: khối lượng cá
L: chiều dài của cá
5

10 là hệ số làm cho hệ số điều kiện K trở nên gần đồng nhất (Carlander,
1970). Hệ số điều kiện của cá bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của tuyến sinh dục theo
mùa và lượng thức ăn. Vì thế, khi tính toán hệ số điều kiện không nên dùng tổng
khối lượng mà nên dùng khối lượng không nội tạng (nominal body weight), vì nó
không bị ảnh hưởng bởi tuyến sinh dục và dạ dày (Papageorgiou, 1979). Khối lượng
không nội tạng (Wn) được tính toán bằng cách lấy tổng khối lượng trừ đi khối
lượng tuyến sinh dục (Wg) và dạ dày (Ws):
Wn = W – (Wg + Ws)
Hệ số điều kiện nên được tính toán theo mùa, theo giới tính và theo nhóm kích
cỡ để xem có hay không sự biến động về giá trị của hệ số K.


Chương 3

KỸ THUẬT NGHIÊN CỨU MÔ HỌC
I. Giới thiệu
Việc nghiên cứu tế bào và mô học bắt đầu từ thế kỷ XVII nhưng mãi đến gần
cuối thế kỷ XIX, Tế bào học và Mô học mới thực sự được coi là ngành khoa học.
Cuối thế kỷ XIX, sau khi học thuyết tế bào ra đời thì ngành Mô học mô tả bắt đầu
phát triển mạnh. Những thành phần cấu tạo khác nhau của các cơ quan và các mô đã
được nghiên cứu cẩn thận. Những thành công lớn lao trong kỹ thuật mô học nữa thế
kỷ XIX như việc chế tạo ra máy cắt lát mỏng (microtone), cho phép người ta nghiên
cứu tỉ mỉ cấu trúc vi thể của tế bào và mô. Những kết quả đạt được trong lĩnh vực
nghiên cứu cấu tạo vi thể tế bào đã cho phép người ta tách việc nghiên cứu tế bào
thành một phần riêng biệt trong Mô học gọi là Tế bào học. Học thuyết tế bào không

chỉ là cơ sở của việc nghiên cứu cấu tạo mô bình thường mà còn là cơ sở của viêc
nghiên cứu những thay đổi bệnh lý của mô, cơ quan và đồng thời nó cũng là cơ sở
của việc nghiên cứu những hoạt động sinh lý.
Mô học, một môn học của Sinh học và là khoa học nghiên cứu của sự phát
triển, cấu tạo và hoạt động của các mô, các cơ quan, các bộ máy của cơ thể. Mô học
có quan hệ qua lại với nhiều môn học khác trong ngành Sinh học như Hình thái học,
Sinh lý học, Phôi học...Trong chương này giới thiệu những kỹ thuật cần thiết để
nghiên cứu mô, và mức độ nhỏ hơn là tế bào.
II. Phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu mô
Tế bào và mô phải được quan sát bằng các loại kính hiển vi, do đó khi nghiên
cứu mô và tế bào cần phải cắt mẫu với các độ dầy thích hợp đảm bảo cho ánh sáng
xuyên qua trong quá trình quan sát dưới kính hiển vi. Qui trình xử lý mẫu và tạo
tiêu bản bắt đầu từ cố định mẫu, cắt tỉa định hướng mẫu, khử nước, ngấm mẫu trong
paraffin, đúc khối và cắt lát mỏng, dán lát cắt vào lam và nhuộm màu. Phủ lamelle
lên tiêu bản, lúc này lát cắt có thể quan sát được dưới kính hiển vi. Tương tự, qui
trình xử lý mẫu bằng kỹ thuật lạnh cũng có thể được áp dụng. Qui trình này tương
đối đơn giản hơn, mẫu được đông lạnh nhanh, cắt, nhuộm, phủ lamelle lên tiêu bản.
Phương pháp này được ứng dụng trong các nghiên cứu về các enzyme nội tiết vì các
enzyme dễ bị mất đi trong phương pháp xử lý mẫu thông thường, nhưng kết quả xử

Bài giảng Phương pháp nghiên cứu sinh học


24


lý mẫu thường không ổn định và khó nhận biết được các cấu trúc chi tiết, qui trình
xử lý mẫu vì thế phụ thuộc vào từng trường hợp nghiên cứu cụ thể.
Sơ đồ các bước xử lý mẫu trong nghiên cứu mô học như trong hình 3.1
QUI TRÌNH XỬ LÝ MẪU

THÔNG THƯỜNG

QUI TRÌNH XỬ LÝ MẪU
LẠNH

Cố định mẫu

Đông lạnh

Cắt tỉa và định hướng mẫu
Đông khô mẫu

Định hướng mẫu

Khử nước
Làm trong mẫu
Đúc khối
Cắt mẫu
Dán tiêu bản
Hydrate hóa

Nhuộm
Hoàn tất tiêu bản

Hình 3.1: Sơ đồ các bước trong qui trình xử lý mẫu (Hinton, 1990)
1. Cố định mẫu (Fixation)


×