Tải bản đầy đủ (.doc) (171 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của học sinh tiểu học tại tỉnh Bình Định (FULL TEXT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.77 MB, 171 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
*****

NGUYỄN THỊ TƯỜNG LOAN

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC TẠI TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH LÝ HỌC NGƯỜI VÀ ĐỘNG VẬT

HUẾ - NĂM 2018


ĐẶT VẤN ĐỀ
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong quá trình phát triển xã hội, yếu tố con người đóng vai trò quan
trọng, đặc biệt là trẻ em - những chủ nhân tương lai của đất nước. Trẻ em là
tương lai của mọi quốc gia, do đó, sự tăng trưởng thể lực và trí tuệ của trẻ
luôn được quan tâm hàng đầu. Sự tăng trưởng của trẻ em chịu sự tác động của
nhiều yếu tố như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội v.v.. Nhằm phát triển thể
lực, tầm vóc người Việt Nam trong 20 năm tới và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, từng bước nâng cao chất lượng giống nòi góp phần tăng sức khỏe,
tuổi thọ người Việt Nam, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định về
việc phê duyệt “Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2030” vào ngày 28/4/2011 [72].
Sự sinh trưởng và phát triển của con người trãi qua nhiều giai đoạn,
trong đó thời kỳ trẻ em có ý nghĩa quan trọng nhất vì đây là giai đoạn nền
tảng cho sự phát triển sau này. Sự phát triển thể lực và trí tuệ của trẻ được
đánh giá qua các chỉ số hình thái như chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng
đầu, vòng đùi, vòng cánh tay, chỉ số khối cơ thể (BMI), chỉ số Pignet,v.v., chỉ


số trí tuệ (IQ), trí nhớ hoặc các chỉ số sinh lý như tần số tim, huyết áp, dung
tích sống, thị lực…
Theo các nhà khoa học, các chỉ tiêu sinh học, nhất là những chỉ tiêu
nhân trắc cần được tiến hành nghiên cứu theo chu kỳ 10 năm một lần để làm
cơ sở đánh giá sự phát triển con người nói chung và trẻ em nói riêng. Từ đó
đề ra các biện pháp nâng cao thể lực và chăm sóc sức khỏe tốt hơn.
Từ 1975 đến nay, kinh tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi nên đã ảnh
hưởng rõ nét đến sự tăng trưởng thể lực và trí tuệ của trẻ. Đã có nhiều công
trình nghiên cứu các chỉ số sinh học của người Việt Nam như công trình
“Hằng số sinh học người Việt Nam” của Nguyễn Tấn Gi Trọng; “Bàn về đặc
điểm tăng trưởng của người Việt Nam” của Lê Nam Trà, hay nhóm đề tài do
1


Tạ Thúy Lan chủ trì “Nghiên cứu các chỉ tiêu sinh học và trí tuệ ở học sinh và
sinh viên”….Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chủ yếu tập trung ở những thành
phố lớn như thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, ở các địa phương
như Bình Định còn rất ít.
Để tìm hiểu thực trạng tăng trưởng của trẻ em Bình Định, chúng tôi tiến
hành đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của học sinh tiểu học
tại tỉnh Bình Định” nhằm đánh giá sự tăng trưởng thể chất và trí tuệ của trẻ
em Bình Định, góp phần vào việc nghiên cứu sự tăng trưởng của trẻ em Việt
Nam.
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
- Đánh giá thực trạng tăng trưởng một số đặc điểm sinh học của học
sinh lứa tuổi tiểu học tại một số địa bàn đặc trưng thuộc tỉnh Bình Định trong
giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá mối tương quan giữa một số chỉ số hình thái, sinh lý, dinh
dưỡng và hoạt động thần kinh cấp cao, thông qua các chỉ số xác định năng lực
trí tuệ ở học sinh lứa tuổi tiểu học tỉnh Bình Định.

3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu các chỉ số hình thái, thể lực của học sinh tiểu học tại tỉnh
Bình Định (cân nặng, chiều cao, vòng ngực, vòng đầu, BMI và Pignet).
- Nghiên cứu các chỉ số sinh lý của học sinh tiểu học tại tỉnh Bình Định
(tần số tim, huyết áp, dung tích sống, thị lực và thính lực).
- Đánh giá tình trạng dinh dưỡng theo BMI của trẻ em lứa tuổi tiểu học
tại tỉnh Bình Định.
- Nghiên cứu một số hoạt động thần kinh cấp cao của học sinh tiểu học
tỉnh Bình Định (IQ, trí nhớ thị giác, trí nhớ thính giác)
- Xác định mối tương quan giữa một số chỉ số sinh học của học sinh
tiểu học và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tầm vóc, thể lực và năng lực
trí tuệ của học sinh lứa tuổi tiểu học tại tỉnh Bình Định.
2


4. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
- Bổ sung các chỉ số về hình thái, sinh lý và trí tuệ của trẻ từ 6 - 10 tuổi
ở khu vực Miền trung - Tây nguyên, góp phần làm phong phú kho dữ liệu về
giá trị sinh học người Việt Nam.
- Các kết quả nghiên cứu của luận án làm cơ sở cho các cơ quan, tổ
chức chăm sóc sức khỏe đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao tầm vóc, thể
lực và năng lực trí tuệ của trẻ em.
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN
- Góp phần đánh giá các chỉ số về hình thái, chức năng, dinh dưỡng và
trí tuệ của học sinh tiểu học tỉnh Bình Định. Các dẫn liệu trong luận án có thể
được sử dụng làm thông số tham chiếu trong các nghiên cứu và giảng dạy về
đặc điểm tăng trưởng của trẻ em lứa tuổi học sinh tiểu học.
- Kết quả nghiên cứu của luận án làm cơ sở khoa học để đánh giá đúng
thực trạng thể lực, sự tăng trưởng thể lực cũng như năng lực trí tuệ của học
sinh tiểu học ở mỗi vùng miền khác nhau trong tỉnh, từ đó giúp các trường

vận dụng sư phạm tương tác và dạy học cá thể hóa học sinh đạt hiệu quả hơn.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
- Đặt vấn đề
- Chương 1. Tổng quan tài liệu
- Chương 2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
- Chương 3. Kết quả nghiên cứu
- Chương 4. Bàn luận
- Kết luận và kiến nghị

3


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. KHÁI QUÁT VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ EM TỪ 6 - 10 TUỔI
1.1.1. Sự sinh trưởng và phát triển của trẻ em lứa tuổi 6 - 10
Một trong những đặc trưng cơ bản của cơ thể sống là quá trình sinh
trưởng và phát triển. Sự sinh trưởng và phát triển diễn ra liên tục, đồng thời
trong suốt cả cuộc đời con người và khác nhau ở các giai đoạn. Ở trẻ em, sự
sinh trưởng và phát triển có những đặc điểm riêng. Từ thế kỷ thứ XVIII, theo
J.J Rousseau - nhà triết học nổi tiếng người Pháp đã khẳng định “Trẻ em
không phải là người lớn thu nhỏ” [136]. Mỗi giai đoạn của trẻ em có những
đặc điểm hình thái, giải phẫu và sinh lý khác nhau.
Hiện nay, sự phân chia các giai đoạn sinh trưởng và phát triển ở trẻ em
vẫn chưa thống nhất, tuy nhiên giai đoạn từ 6 đến 10 tuổi có những đặc điểm
hình thái, sinh lý cơ bản, đây là nhóm tuổi nằm giữa hai mức tăng trưởng
nhanh là tuổi mẫu giáo và lứa tuổi dậy thì.
Theo Nguyễn Quang Quyền (1984), từ 7 đến 10 tuổi nữ có tốc độ tăng
trưởng chiều cao nhanh hơn nam nhưng từ 11 tuổi trở đi nam tăng trưởng
chiều cao nhanh hơn nữ. Trẻ ở giai đoạn thiếu nhi lớn (từ 7 đến 10 - 11 tuổi ở

nữ và từ 7 đến 12 - 13 tuổi ở nam) tăng nhiều về chiều dài các chi nên người
gầy đi. Thân bắt đầu có dáng dấp người lớn, ngực không tròn mà bè ngang,
bụng bé lại, vai nở, chi dưới dài ra, hình thái chuyển tiếp từ giai đoạn bụ bẫm
ngây thơ sang giai đoạn cứng cáp, biết suy nghĩ của người lớn [64].
Theo Trần Trọng Thủy (2006), trẻ 6 tuổi bắt đầu phát triển về chiều
cao, chiều ngang phát triển chậm hơn nên tuổi này trông trẻ không bụ bẫm
lắm. Thần kinh các em phát triển hoàn thiện dần, đi vào ổn định gần như
người lớn. Trẻ bắt đầu thay răng sữa bằng răng vĩnh viễn. Hệ tuần hoàn tương
đối hoàn chỉnh như người lớn. Trẻ 6 lên 7 tuổi có chiều cao tăng nhanh, đạt 7
- 10 cm/năm, có thể gọi là thời kỳ vươn dài ra. Trẻ 8 - 10 tuổi, sự tăng trưởng
4


chậm lại, chỉ đạt 3 - 5 cm/năm nên gọi là thời kỳ tròn người, ở trẻ nữ khung
chậu phát triển mạnh để thích nghi với chức năng sinh sản sau này. Đến tuổi
dậy thì chiều cao lại tiếp tục tăng nhanh, đạt 5 - 8 cm/năm (đây là thời kỳ thứ
hai của sự vươn dài người ra). Giữa chiều cao và cân nặng không có sự phụ
thuộc theo một tỉ lệ nghiêm ngặt nào, nhưng thông thường cùng một lứa tuổi,
những trẻ cao hơn có cân nặng lớn hơn [74].
Theo Nguyễn Văn Lê (1997), trẻ tiểu học đang trong thời kỳ tăng
trưởng. Hàng năm, trẻ cao thêm trung bình 4 - 5 cm và nặng thêm khoảng 2 2,5 kg; vòng ngực tăng thêm 1,5 - 2 cm. Xương ít chất vô cơ, nhiều chất hữu
cơ và nước nên mềm. Hệ xương phát triển nhanh hơn so với các cơ quan bộ
phận khác, đặc biệt là các xương dài. Các xương ở cổ tay, cổ chân còn nhiều
sụn, khớp xương chưa vững chắc. Cơ có nhiều nước, ít đạm và mỡ. Sau 7 tuổi
các cơ nhỏ phát triển mạnh giúp các động tác của trẻ tinh vi hơn, lực co cơ
tăng dần. Tỷ lệ cơ so với cơ thể ở trẻ 8 tuổi khoảng 27,2% [48].
Nghiên cứu của Tạ Thúy Lan và Trần Thị Loan (2011) cho thấy, thời kỳ
6 - 7 tuổi diễn ra sự thay răng. Chiều cao trung bình tăng 4 - 5 cm/năm, khối
lượng cơ thể tăng khoảng 2 - 3 kg/năm. Cơ tay, cơ chân tăng trưởng mạnh làm
các động tác mạnh mẽ hơn. Từ 9 - 10 tuổi trở đi, các xương bàn tay phát triển

khá hoàn chỉnh nên các hoạt động tinh vi và chính xác hơn. Cuối thời kỳ này
sự tăng trưởng mạnh xảy ra ở cả hai giới nhưng nữ nhanh hơn nam. Đến 10
tuổi nữ vượt nam về cả chiều cao và cân nặng, tạo nên điểm giao chéo thứ
nhất của đường cong tăng trưởng [46].
Một số tác giả cho rằng hệ tuần hoàn trẻ 6 - 10 tuổi có cơ tim chưa phát
triển đầy đủ, nhịp tim nhanh và lòng mạch rộng. Nhịp thở của trẻ 7 tuổi là 20
- 22 lần/phút và dung tích phổi là 1.300 - 1.400 cm 3, đến 10 tuổi chỉ còn 18 20 lần/phút nhưng dung tích phổi đạt 2.000 - 2.100 cm3. Hệ thần kinh có
nhiều thay đổi, trẻ 7 tuổi não không tăng trưởng nhiều nhưng đến 9 - 10 tuổi
đã gần bằng người trưởng thành, đạt 1.300 g. Hệ thống tín hiệu 2 phát triển
5


chưa đầy đủ và quá trình myelin hóa diễn ra mạnh mẽ là yếu tố cơ bản đảm
bảo sự phát triển hoàn thiện của hệ thần kinh [44], [74].
Theo Tạ Thúy Lan (2003), cùng với hệ thần kinh, các hệ cơ quan khác
cũng có nhiều thay đổi. Khối lượng tim lúc 6 tuổi gấp 6 lần so với sơ sinh,
nhịp tim là 85 - 90 lần/phút. Từ 7 - 12 tuổi khối lượng tim tăng lên 92 - 143 g
ở nam và 87,5 - 143 g ở nữ. Lúc 8 - 10 tuổi khối lượng hai lá phổi đạt 455 495 g, thể tích phút tăng dần ở trẻ từ 7 - 12 tuổi. Ở độ tuổi học sinh tiểu học,
chức năng của các cơ quan phân tích đạt đến sự hoàn thiện. Hệ thần kinh cấp
cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, tư duy các em chuyển dần từ trực
quan sinh động sang tư duy trừu tượng [44].
Từ 9 - 10 tuổi khả năng khái quát hóa lý luận của trẻ tốt hơn. Các phẩm
chất tư duy chuyển dần từ cụ thể sang trừu tượng. Tuy nhiên, hoạt động phân
tích tổng hợp ở trẻ 6 - 10 tuổi còn mang tính chất sơ đẳng. Trẻ 6 tuổi khả năng
tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi. Trẻ 10 tuổi, tưởng
tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển.
[38], [44]….Nhìn chung, học sinh ở lứa tuổi tiểu học đang trong giai đoạn
hoàn thiện về tâm sinh lý. Trẻ rất hiếu động, ưa tìm tòi khám phá, ham chơi.
1.1.2. Một số đặc điểm sinh học của trẻ 6 - 10 tuổi
1.1.2.1. Các đặc điểm về hình thái

Các chỉ số hình thái là tiêu chí cơ bản để đánh giá thể lực của mỗi
người. Thể lực là năng lực vận động của con người [64]. Thể lực là điều kiện
cơ bản đảm bảo cho các hoạt động học tập, lao động. Có nhiều chỉ tiêu để
đánh giá thể lực ở người như chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu, vòng
bụng, vòng đùi, vòng cánh tay, Pignet, BMI, v.v. Chúng tôi chỉ đề cập một số
chỉ tiêu cơ bản.
- Chiều cao: Chiều cao là một trong những chỉ tiêu quan trọng thường
được dùng trong các cuộc điều tra thể lực ở người. Chiều cao chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố như di truyền, dinh dưỡng, vận động thể lực... Nếu được
6


chăm sóc tốt, thế hệ sau bao giờ cũng cao hơn thế hệ trước. Giai đoạn từ 3 đến
10 tuổi đóng vai trò quyết định đến 60% tiềm năng tăng trưởng chiều cao. Sự
tăng trưởng chiều cao của con người có thể chia làm ba giai đoạn là: tăng
trưởng chậm, giai đoạn dậy thì và giai đoạn sau dậy thì [26], [51].
- Cân nặng: Cân nặng là một trong những chỉ tiêu hình thái cơ bản sau
chiều cao. Khối lượng cơ thể người có hai phần: Phần cố định chiếm 1/3 gồm
xương, da, các tạng và thần kinh; phần thay đổi chiếm 2/3 bao gồm 3/4 khối
lượng các cơ, 1/4 là mỡ và nước. Hiện tượng tăng cân là do tăng phần thay
đổi có liên quan nhiều đến chế độ dinh dưỡng [64].
- Vòng ngực: Đây cũng là một trong những chỉ tiêu đặc trưng của cơ
thể người. Ở mỗi lứa tuổi có một tỷ lệ cân đối giữa chiều cao đứng và đường
kính ngang ngực. Sự tăng trưởng của vòng ngực có liên quan mật thiết với sự
tăng trưởng khối lượng cơ thể. Ngoài ra, mức độ tăng trưởng của lồng ngực
có liên quan đến hoạt động hô hấp và sức khỏe của mỗi người [64].
- Vòng đầu: Chu vi vòng đầu phản ánh sự tăng trưởng của dung lượng
não. Khi mới sinh khối lượng não trẻ khoảng 350 g và khi 1 tuổi đã 1.000 g.
Ở trẻ 2 tuổi não đạt khoảng 1.200 g. Não người trưởng thành khoảng 1.250 g
ở nữ và 1.400 g ở nam. Như vậy, sự phát triển não bộ chủ yếu diễn ra từ lúc

sơ sinh đến tuổi chập chững biết đi. Vì thế cần theo dõi sự phát triển não bộ
của trẻ bằng số đo vòng đầu [63].
Thể lực là một thông số tổng hợp nên muốn đánh giá chính xác cần dựa
vào mối tương quan giữa các chỉ số giải phẫu và sinh lý. Loại chỉ số đơn giản
gồm hai kích thước chiều cao, cân nặng như: BMI, Broca, Kaup; loại phức
tạp gồm nhiều chỉ số hơn như chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đùi, đó là
các chỉ số Pignet, Hitz, QVC…. Mỗi chỉ số có giá trị và ý nghĩa sinh học khác
nhau. Trong đó, hai chỉ số cơ bản và thường dùng nhất là BMI và Pignet.
- BMI: BMI là chỉ số khối cơ thể được dùng để đánh giá mức độ gầy
hay béo của một người. Chỉ số này do nhà bác học người Bỉ Adolphe Quetelet
7


đưa ra năm 1832. Nhược điểm duy nhất của BMI là không thể tính được
lượng chất béo trong cơ thể - yếu tố tiềm ẩn các nguy cơ liên quan đến sức
khỏe tương lai. Năm 1997, WHO đề nghị lấy điểm ngưỡng dưới 2 độ lệch
chuẩn (-2SD) của các chỉ số cân nặng/tuổi (W/A), chiều cao/tuổi (H/A) và cân
nặng/chiều cao (W/H) so với quần thể tham chiếu NCHS để coi là suy dinh
dưỡng hoặc béo phì [110].
- Chỉ số Pignet: Chỉ số Pignet đã được quốc tế thừa nhận từ lâu và là
một trong những chỉ số chuyên dụng được sử dụng rộng rãi trong những
nghiên cứu thể lực ở người. Pignet là chỉ số đánh giá mối tương quan giữa
chiều cao với cân nặng và chu vi vòng ngực. So sánh trong cùng một nhóm
trẻ, nữ luôn có Pignet lớn hơn nam. Điều này chứng tỏ học sinh nam có thể
lực tốt hơn học sinh nữ [64].
1.1.2.2. Các đặc điểm về sinh lý
Sức khỏe con người còn phụ thuộc vào các chỉ số sinh lý cơ bản như
nhịp tim, nhịp thở, huyết áp, khả năng phản xạ, độ tinh nhạy của mắt, tai…
- Tần số tim: Là số lần tim co bóp trong một đơn vị thời gian (thường
là một phút). Hoạt động của tim diễn ra theo chu kỳ tạo ra lực đẩy giúp máu

lưu thông trong hệ mạch. Tần số tim thay đổi theo lứa tuổi, giới tính và trạng
thái cơ thể. Công suất tim phụ thuộc vào tần số tim và thể tích co tim [76].
- Huyết áp: Huyết áp là áp lực của máu tác động lên thành mạch trong
khi vận chuyển. Huyết áp là kết quả tổng hợp sức co bóp của tim, sức cản của
thành mạch, khối lượng và độ quánh của máu. Huyết áp đo được khi tim co
gọi là huyết áp tối đa hay huyết áp tâm thu. Khi tim giãn, không có sức đẩy
của tim nhưng máu vẫn lưu thông trong hệ mạch nhờ tính đàn hồi của thành
mạch tạo nên huyết áp tối thiểu hay còn gọi là huyết áp tâm trương. Mức
chênh lệch giữa huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương gọi là huyết áp hiệu
số. Khi huyết áp hiệu số thấp (khoảng dưới 20mmHg) sẽ gây ra hiện tượng

8


kẹt huyết áp nên tuần hoàn máu ứ trệ. Chỉ số huyết áp phụ thuộc vào độ tuổi,
giới tính và hoạt động của con người [74], [76].
- Dung tích sống: Dung tích sống (VC: Vital capacity) là lượng khí sau
khi đã hít vào tận lực và thở ra hết sức. Dung tích sống gồm khí lưu thông, khí
dự trữ hít vào và khí dự trữ thở ra.
+ Khí lưu thông (TV: Tidal volume) là lượng khí thu được khi hít vào
và thở ra thông thường.
+ Khí dự trữ hít vào (IRV: Inspiratory reserve volume) là lượng khí sau
khi đã hít vào thông thường, nếu cố gắng hít vào tận lực sẽ đưa thêm vào phổi
một lượng khí nữa.
+ Khí dự trữ thở ra (ERV: Expiratory reserve volume) là lượng khí sau
khi đã thở ra thông thường, nếu cố gắng thở ra hết sức sẽ đẩy ra thêm một
lượng khí nữa.
+ Khí cặn (RV: Residual volume) là lượng khí còn lại sau khi đã thở ra
hết sức. Nó đảm bảo cho phổi không bị xẹp hoàn toàn [14], [106]. Do đó,
công thức tính dung tích sống như sau: VC = TV + IRV + ERV.

Dung tích sống phụ thuộc vào kích thước cơ thể, đặc biệt là chiều cao.
Sự tương quan giữa dung tích sống với tuổi và chiều cao có một quy luật nhất
định. Dung tích sống của nam cao hơn nữ. Ở trẻ nhỏ hơn 16 tuổi các chỉ số
chức năng thông khí phổi tăng lên theo tuổi. Song chức năng thông khí phổi
còn phụ thuộc vào tư thế khi đo, đo ở tư thế nằm thường thấp hơn tư thế đứng
và ngồi [91].
- Thị lực: Thị lực là khả năng mắt phân biệt rõ các chi tiết của vật. Hay
nói cách khác thị lực là khả năng mắt phân biệt được 2 điểm ở gần nhau [3].
Thị lực là điều cần thiết để giúp trẻ thành công trong học tập. Theo Hội
ngăn ngừa người mù ở Mỹ (Prevent Blindness America) [138], một trong bốn
trẻ ở tuổi đi học có vấn đề thị lực. Hiện nay, tình trạng giảm thị lực ở trẻ ngày
càng tăng. Có hai nguyên nhân chính gây suy giảm thị lực là do di truyền và
9


sử dụng mắt quá mức. Suy giảm thị lực ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe và đời
sống của mỗi người.
- Thính lực: Thính lực của người bình thường không hoàn toàn giống
nhau. Khi khả năng nghe bị giảm gọi là khiếm thính. Dùng đơn vị decibel
(dB) khi đề cập đến mức độ, độ lớn hay âm lượng và đơn vị Hertz (Hz) khi đề
cập đến độ cao thấp hay tần số của âm thanh tiếng nói.
Ngưỡng nghe của người bình thường là dưới 25 dB, nếu ngưỡng nghe
trong khoảng 25 - 40 dB là khiếm thính nhẹ; 41 - 60 dB là khiếm thính vừa;
từ 61 - 90 dB là khiếm thính nặng và trên 90 dB là khiếm thính rất nặng [19].
Khiếm thính có thể do nhiều nguyên nhân như do dẫn truyền, do tiếp
nhận ốc tai, do thần kinh thính giác hay khiếm thính hỗn hợp. Khiếm thính
xảy ra càng sớm hoặc để càng lâu thì hậu quả càng nghiêm trọng. Trẻ sơ sinh
khiếm thính có thể dẫn đến câm, đối với trẻ lớn ảnh hưởng đến ngôn ngữ, làm
thay đổi tính nết. Vì vậy, kiểm tra thính lực giúp phát hiện và can thiệp sớm là
rất cần thiết, đặc biệt là đối với trẻ nhỏ [20], [98].

1.1.2.3. Các đặc điểm về dinh dưỡng
- Suy dinh dưỡng (SDD) protein - năng lượng (Protein - Energy
Malnutrition: PEM): SDD protein - năng lượng là dạng thiếu dinh dưỡng trầm
trọng. Thuật ngữ SDD protein - năng lượng do Jelliffe nêu lần đầu tiên vào
năm 1959. Theo ông, các thể bệnh SDD đều liên quan đến khẩu phần ăn thiếu
protein và năng lượng ở các mức độ khác nhau và đặc biệt là thiếu các vi chất
dinh dưỡng. Thuật ngữ SDD để chỉ những người không đủ cân nặng hay
không đủ sức khỏe, không đủ tiêu chuẩn cân nặng so với chiều cao [122]. Đối
với trẻ em, SDD ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng, làm giảm sức đề kháng
và ảnh hưởng đến trí tuệ.
- Thừa cân, béo phì (TC - BP): Có nhiều khái niệm về TC - BP nhưng
WHO đã đưa ra định nghĩa:

10


+ Thừa cân (TC) là tình trạng cân nặng vượt quá cân nặng “nên có” so
với chiều cao.
+ Béo phì (BP) là tình trạng tích lũy mỡ thái quá và không bình thường
một cách cục bộ hay toàn thể tới mức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. BP ở trẻ
em là mối đe dọa lâu dài tới sức khỏe, tuổi thọ và làm gia tăng nguy cơ đối
với các bệnh mãn tính như tim mạch, tiểu đường, viêm xương khớp…BP ở trẻ
còn làm ngừng tăng trưởng sớm, dễ dẫn đến những ảnh hưởng nặng nề về tâm
lí và học tập. Do đó, sự gia tăng TC - BP ở trẻ đang là một trong những mối
quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên toàn cầu [146].
Bên cạnh các đặc điểm sinh học thể hiện sự tăng trưởng thể chất, các
chỉ tiêu để đánh giá tinh thần của trẻ cũng được quan tâm từ rất sớm.
1.1.2.4. Các đặc điểm về hoạt động thần kinh cấp cao của trẻ từ 6 - 10 tuổi
- Trí thông minh (IQ): Việc đưa ra một định nghĩa về trí thông minh
không dễ dàng. Wechsler (1955) định nghĩa “Thông minh là khả năng tổng

hợp của mỗi con người để hành động có mục đích, để suy nghĩ nhiều mặt và
để tác động hiệu quả vào môi trường” [43]. Năm 1983, Howard Gardner đã
đưa ra quan niệm về trí thông minh “Là khả năng giải quyết các vấn đề hoặc
tạo ra các sản phẩm mà các giải pháp hay sản phẩm này có giá trị trong một
hay nhiều môi trường văn hóa”; trí thông minh không chỉ được đo lường duy
nhất qua IQ. Ông cũng đưa ra thuyết đa trí tuệ là có nhiều loại trí thông minh
như: Trí thông minh về toán học, logic; trí thông minh về ngôn ngữ, lời nói;
trí thông minh về thị giác, không gian; trí thông minh về vận động; trí thông
minh về âm nhạc; trí thông minh hướng ngoại; trí thông minh hướng nội [118]
và năm 1996, ông đã bổ sung thêm hai loại là trí thông minh hướng về thiên
nhiên (naturalist) và trí thông minh về sự tồn tại (existential). Cũng trong năm
này, Jensen R. cho rằng “Thông minh cũng như luồng điện, có nó dễ hơn xác
định nó” [93]…Vậy có nhiều quan niệm khác nhau về trí thông minh, nhưng
nhìn chung chúng đều thể hiện khả năng thích ứng của mỗi người với hoàn
11


cảnh sống nhất định. Một trong các điều kiện cần thiết để phát huy trí thông
minh là khả năng ghi nhớ hay còn gọi là trí nhớ.
- Trí nhớ: Trí nhớ là một dạng hoạt động thần kinh cấp cao ảnh hưởng
nhiều đến đời sống của con người, là thành phần quan trọng của trí tuệ. Có thể
hiểu trí nhớ là sự tiếp nhận và tái hiện lại những sự vật, hiện tượng mà con
người đã cảm giác, suy nghĩ và hành động. Có tác giả cho rằng “Trí nhớ là sự
vận dụng một khái niệm đã biết trước, là kết quả của những thay đổi xảy ra
trong hệ thần kinh” [49], [94].
Có nhiều cách phân loại trí nhớ. Nếu chia theo thời gian tồn tại gồm:
trí nhớ ngắn hạn, trí nhớ trung hạn và trí nhớ dài hạn. Nếu theo quá trình hình
thành thì có trí nhớ hình tượng, trí nhớ vận động, trí nhớ cảm xúc, trí nhớ
logic và trí nhớ phản xạ. Có nhiều quan điểm khác nhau về cơ chế nhớ, nhưng
nhìn chung có ba thuyết chính: Thuyết phản xạ có điều kiện của Pavlov I. P.;

thuyết điều kiện hóa của Skinner B. F. và thuyết phân tử của Conell M. C.và
Thomson. Các quan niệm đều cho rằng, sự vật, hiện tượng trong thế giới xung
quanh tác động vào các giác quan gây ra cảm giác. Từ những cảm giác đơn lẻ,
bộ não sẽ phân tích, tổng hợp để cho tri giác trọn vẹn về các sự vật, hiện
tượng và để lại dấu vết của chúng trên vỏ não. Trí nhớ của con người là một
quá trình hoạt động phức tạp, bản chất là quá trình hình thành đường liên hệ
thần kinh tạm thời trên vỏ não, giúp lưu giữ và tái hiện chúng [43], [44].
Tóm lại, sinh lý hoạt động thần kinh cấp cao thể hiện qua năng lực nhận
thức và xúc cảm cá nhân. Nó được hình thành và thể hiện trong những điều
kiện văn hóa - lịch sử quy định và chủ yếu đảm bảo cho sự tác động qua lại phù
hợp, nhằm đạt các mục tiêu quan trọng trong cuộc sống cá nhân và xã hội.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
CỦA HỌC SINH LỨA TUỔI TIỂU HỌC
1.2.1. Các nghiên cứu về hình thái
1.2.1.1. Trên thế giới
12


Trên thế giới, từ thời cổ đại đã có những khái niệm đầu tiên về hình thái
sinh lý ở người. Thế kỷ XIII, Tenon đã xem cân nặng là một chỉ số quan trọng
để đánh giá thể lực. Nhưng mãi đến đầu thế kỷ XVIII, nghiên cứu hình thái
sinh lý mới trở thành một ngành khoa học thực sự. Mối liên hệ giữa hình thái
và môi trường sống cũng đã được nghiên cứu từ rất sớm, đại diện là các nhà
nhân trắc học Ludman, Nold và Volanski [34].
Công trình đầu tiên về tăng trưởng chiều dài ở người là “Wachstum der
menschen in die Lange” của J. A. Stoeller được xuất bản ở Đức năm 1729,
tuy nhiên, trong sách này chưa có các số liệu đo đạc cụ thể [121].
Nghiên cứu cắt ngang về tăng trưởng ở người được trình bày đầu tiên
trong luận án tiến sĩ của Christina Friedrich Jumpert vào năm 1754 ở Đức.
Ông đã tìm hiểu chiều cao, cân nặng và một số chỉ số khác ở nam và nữ từ 1 25 tuổi tại trại trẻ mồ côi Hoàng Gia ở Berlin và một vài nơi khác ở Đức [77].

Nghiên cứu dọc đầu tiên về chiều cao được Philibert Guéneau de
Montbeilard thực hiện trên con trai của mình trong 18 năm, mỗi năm ông đo 2
lần cách nhau 6 tháng, từ khi đứa bé được sinh ra (1759) đến 18 tuổi (1777),
nghiên cứu này đã được trích dẫn trong nhiều công trình nghiên cứu về tăng
trưởng từ giữa thế kỷ XX đến nay [77].
Cuối thế kỷ XIX, trong cuốn “Các yếu tố nhân trắc học đại cương”,
Geogres Olivier và Topinard (1885) là những người đầu tiên đưa ra thuật ngữ
“Nhân trắc học cơ thể”, đánh dấu một mốc quan trọng trong nghiên cứu nhân
trắc học [42]. Kể từ đó các nghiên cứu nhân trắc ngày càng phong phú, phát
triển song song với lịch sử phát triển nhân chủng học. Tùy theo mục đích
nghiên cứu có thể chia ra: Nhân trắc nhân chủng học - chuyên nghiên cứu
hình thái các chủng tộc loài người; Nhân trắc học đường - nghiên cứu sự phát
triển và các tiêu chuẩn kiểm tra sức khỏe học sinh; Nhân trắc y học - nghiên
cứu sự phát triển của trẻ em theo từng lứa tuổi, phân loại tình trạng thể lực và

13


dinh dưỡng, xác định những thay đổi do bệnh lý; Nhân trắc công nghiệp hay
ergonomie phục vụ cho lĩnh vực đồ dùng, dụng cụ và phương tiện sản xuất…
Năm 1891, Bowdich đã công bố mẫu chuẩn tham khảo đầu tiên về sự
tăng trưởng, sử dụng các đường cong biểu diễn dựa trên các bách phân vị của
Galton [121]. Năm 1914, Rudolf Martin được xem là người đặt nền móng cho
nhân trắc học hiện đại với tác phẩm “Giáo trình về nhân học” năm 1919 và
“Chỉ nam đo đạc cơ thể và xử lý thống kê” năm 1942, trong đó ông đã đề xuất
và hoàn chỉnh một hệ thống dụng cụ đo đạc, đề ra các phương pháp nghiên
cứu trong nhân trắc học, đặc biệt là ứng dụng toán thống kê sinh học trong
nghiên cứu nhân trắc. Từ đó đến nay các phương pháp và những dụng cụ đo
của Rudolf Martin vẫn được dùng trong nghiên cứu nhân trắc ở nhiều nước
trên thế giới [34].

Năm 1962, Baskirop P. N. xuất bản tác phẩm “Học thuyết về sự phát triển
thể lực con người” nêu lên các quy luật phát triển ở người dưới ảnh hưởng của
điều kiện sống. Năm 1954, F. Vandervael, một thầy thuốc người Bỉ đã viết cuốn
sách giáo khoa về nhân trắc học, ông đưa ra những nhận xét về quy luật phát
triển thể lực theo lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp và xây dựng những đặc trưng
thống kê trung bình cộng và độ lệch chuẩn [34].
Đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của các ngành khoa học khác
như di truyền, sinh hóa, toán thống kê….., việc nghiên cứu thể lực con người
đã được tiến hành ở nhiều nước trên thế giới như Liên Xô cũ, Trung Quốc,
Mỹ, Pháp, Đức, Rumani…với hàng trăm công trình khoa học. Hầu hết các
công trình này đều cho rằng tốc độ tăng trưởng của con người đạt mức cao
nhất ở lứa tuổi dậy thì do ảnh hưởng của hormone giới tính, nhưng đến một
giai đoạn nào đó sự tăng trưởng sẽ chậm dần và ngừng [49].
Theo Urưxon, sự tăng trưởng chiều cao ở nam sẽ ngừng lúc 19 tuổi và
ở nữ lúc 17 - 18 tuổi; theo Bunak (1941), X.I. Galperin (1956), Toxniewicz
(1968), Tanner (1979) thì sự tăng trưởng chiều cao ở nam kéo dài đến 25 tuổi.
14


Các nghiên cứu này cũng đã cho thấy yếu tố môi trường sống ảnh hưởng
mạnh đến sự tăng trưởng. Nhiều tác giả đã chia cuộc đời con người thành ba
giai đoạn: tăng tiến, ổn định và suy giảm. Trong đó đáng chú ý là sơ đồ phát
triển cá thể sau khi sinh ở người đã được Hội nghị toàn Liên Xô cũ thông qua.
Sơ đồ này đã thể hiện sự tăng trưởng ở người vào những thời kỳ khác nhau
khá chi tiết [97], [121]. Năm 1977, Hiệp hội các nhà tăng trưởng học được
thành lập, đánh dấu sự phát triển của ngành nhân trắc học trên thế giới. Tuy
nhiên, các nghiên cứu về nhân trắc kể trên chủ yếu là mô tả hoặc sử dụng
thông tin về hình thái để ứng dụng trong thực tiễn mà chưa tìm hiểu nguyên
nhân hay ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái lên các chỉ số nhân trắc [34].
Ngày nay các công trình nghiên cứu về chỉ số nhân trắc ở người đã

được nhiều cá nhân, tập thể và tổ chức trên thế giới quan tâm (như WHO,
CDC…) [101], [102], [132], [144],… nên ngày càng đa dạng phong phú,
nhằm đưa ra các chỉ số chuẩn của con người hiện đại, làm cơ sở cho các
chương trình giáo dục, chăm sóc hay hoạch định các chiến lược phát triển xã
hội trong tương lai.
1.2.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam nghiên cứu về nhân trắc học cũng bắt đầu từ rất sớm.
Mondiere (1875) là người đầu tiên nghiên cứu về sự tăng trưởng chiều cao và
cân nặng của trẻ. Những năm 30 của thế kỷ XX, tại Viễn Đông Bác Cổ, sau
đó là trường Đại học Y khoa Đông Dương (1936 - 1944) đã xuất hiện một số
công trình nghiên cứu về nhân trắc học. Một trong những công trình đầu tiên
đáng chú ý là của Huard P. và Bigot A. (1938) nghiên cứu “Những đặc điểm
nhân chủng và sinh học của người Đông Dương”. Tiếp đến là “Hình thái học
người và giải phẫu thẩm mỹ học” của Huard P. và Đỗ Xuân Hợp (1939)
nghiên cứu trên 897 nữ sinh Hà Nội từ 5 đến 18 tuổi. Các công trình này chưa
xử lý bằng toán xác xuất thống kê nên bị hạn chế phần nào, song đây cũng là
những công trình có giá trị để so sánh với các nghiên cứu sau này [16], [34].
15


Trong thời kỳ chống Pháp, việc nghiên cứu bị gián đoạn và chỉ bắt đầu
phục hồi khi hòa bình lập lại ở miền Bắc. Sau 1954, để phục vụ nhu cầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhiều công trình điều tra y tế cơ bản về
con người ở các lứa tuổi đã được nhiều nhà khoa học tiến hành. Lúc này toán
thống kê đã được dùng trong xử lý nên các số liệu chính xác hơn. Hàng loạt
các nghiên cứu đã được thực hiện như Đỗ Xuân Hợp và Nguyễn Quang
Quyền (1959), Phạm Văn Cường và cs (1962), Nguyễn Thị Lệ (1964), Chu
Văn Tường (1967), Trần Tích Cảnh (1969), Nguyễn Đình Khoa (1969 1973), v.v. Các công trình này chủ yếu nghiên cứu về các giai đoạn phát triển
và những chỉ số thể lực của con người Việt Nam [11], [16].
Năm 1967 và 1975 với hai Hội nghị sinh học do Nguyễn Tấn Gi Trọng

chủ trì tại Hà Nội đã tập hợp hàng trăm công trình nghiên cứu về nhân trắc
học của nhiều nhà khoa học trong hơn 15 năm. “Hằng số sinh học người Việt
Nam” được xuất bản năm 1975 đã hệ thống hơn 30 chỉ số hình thái, sinh lý,
sinh hóa như: chiều cao đứng, chiều cao ngồi, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu,
vòng bụng, BMI, Pignet, QVC, Hitz, Vervaek… kích thước, trọng lượng các
phủ tạng người ở các độ tuổi…Song do hoàn cảnh chiến tranh nên phương
tiện nghiên cứu, xử lý số liệu còn nhiều thiếu thốn, chưa đồng bộ và các
nghiên cứu này tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc nên tính đại diện chưa
cao, nhưng đáng tin cậy [49], [81].
Từ 1975 đến nay, nghiên cứu các chỉ số hình thái, thể lực ở người Việt
Nam đã được triển khai khắp ba miền Bắc, Trung, Nam và kể cả những vùng
dân tộc ít người. Nguyễn Hải và cs (1977 - 1978) đã nghiên cứu ở học sinh 6 18 tuổi tại Huế, Phan Hồng Minh và cs (1979 - 1980) nghiên cứu học sinh từ
7 - 17 tuổi ở Hoàng Liên Sơn, Bắc Thái, Vĩnh Phúc, Hậu Giang; từ 1993 đến
nay các tác giả như Tạ Thúy Lan, Võ Văn Toàn, Mai Văn Hưng, Trần Thị
Loan… đã có nhiều công trình nghiên cứu về các chỉ số thể lực và trí tuệ trên

16


học sinh, sinh viên ở Quy Nhơn, Thanh Hóa, Hà Nội [11], [17], [27], [34],
[49], [77], [78]…
Đào Huy Khuê (1991) nghiên cứu 36 chỉ tiêu hình thái, kích thước của
1.478 trẻ từ 6 - 17 tuổi ở thị xã Hà Đông - Hà Tây. Tác giả nhận thấy hầu hết
các chỉ số hình thái đều tăng dần theo tuổi nhưng tăng trưởng không đều.
Thẩm Thị Hoàng Điệp (1992) nghiên cứu 31 chỉ tiêu hình thái thể lực với
phương pháp “nghiên cứu dọc” trên 101 học sinh 7 - 16 tuổi ở một trường phổ
thông cơ sở Thực nghiệm Hà Nội trong vòng 10 năm (1980 - 1990) và đưa ra
nhiều kết luận về sự tăng trưởng các kích thước ở cơ thể người. Theo tác giả,
trẻ nữ phát triển mạnh lúc 11 - 12 tuổi và trẻ nam là 13 - 15 tuổi. Cân nặng
tăng nhanh lúc 13 tuổi ở nữ và 15 tuổi ở nam [16].

Nghiêm Xuân Thăng (1993) nghiên cứu 17 chỉ số hình thái trên người
Việt Nam từ 1 - 25 tuổi ở một số vùng Nghệ Tĩnh cho thấy, sự phát triển cơ
thể trẻ không đồng đều ở các giai đoạn khác nhau, có 3 thời kỳ trẻ tăng trưởng
nhanh là 5 - 7 tuổi, 10 - 11 tuổi và 13 - 14 tuổi. Khí hậu khắc nghiệt ở vùng
Nghệ Tĩnh đã ảnh hưởng đến cấu trúc hình thái con người ở đây. Các chỉ số
chiều cao, cân nặng, vòng ngực, Pignet, Broca…của cư dân Nghệ Tĩnh phần
lớn thấp hơn so với các chỉ số này của người Việt Nam, theo tác giả đây là đặc
trưng của người dân vùng khí hậu nóng khô và nóng ẩm [70].
Năm 1997, Lê Nam Trà và cs nghiên cứu trên 7.111 học sinh từ 6 - 15
tuổi ở quận Hoàn Kiếm - Hà Nội và 1.928 học sinh ở thị xã Thái Bình cho
thấy cân nặng, chiều cao, vòng đầu ở trẻ tăng dần theo tuổi. Cân nặng tăng
nhanh nhất lúc 12 - 14 tuổi ở nam và lúc 11 - 13 tuổi ở nữ. Chỉ số Pignet tăng
dần đến 12 tuổi ở nam và 11 tuổi ở nữ, sau đó giảm dần [77].
Thẩm Thị Hoàng Điệp và cs (1996) nghiên cứu 8.000 người từ 1 - 55
tuổi ở cả ba miền Bắc, Trung và Nam nhận thấy, chiều cao của nam tăng
nhanh đến 18 tuổi và nữ đến 14 tuổi. Các tác giả cho rằng có quy luật gia tăng
về chiều cao ở người Việt Nam là cứ 20 năm tăng khoảng 4 cm [16], [38].
17


Trần Văn Dần và cs (1996 - 1997) nghiên cứu 13.747 học sinh từ 8 -14
tuổi ở Hà Nội, Vĩnh Phú, Thái Bình với các chỉ số chiều cao, cân nặng và
vòng ngực trung bình nhận thấy, so với số liệu trong HSSH (1975) thì trẻ em
những vùng này có chiều cao tăng trưởng tốt hơn, nhất là trẻ ở thành phố và
thị xã, các khu vực nông thôn chưa thấy rõ sự thay đổi [11].
Trần Thị Loan (2002), Lê Đình Vấn (2002), Hoàng Hà Tư (2008)
nghiên cứu học sinh 6 - 17 tuổi ở Hà Nội và tỉnh Thừa Thiên Huế. Các công
trình này đều cho thấy chiều cao, cân nặng, vòng ngực… của trẻ tăng dần
theo tuổi và tăng nhanh nhất ở tuổi dậy thì [49], [86].
Theo Lê Nam Trà (2006), chiều cao của người Việt trong 100 năm so

với số liệu của Mondiere (1875), Madrolle (1937) và năm 1975 gần như
không thay đổi. Giai đoạn 1975 - 2000, chiều cao nam thanh niên tăng chậm;
trung bình 1,1 cm qua mỗi thập kỷ [78].
Theo kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng năm 2000, chiều cao nam thanh
niên Việt Nam là 162,3 cm và nữ là 152,4 cm. Đến 2014, chiều cao người
Việt Nam trong độ tuổi 20 - 24 đạt 164,4 cm ở nam và 153,4 cm ở nữ (sau 14
năm đã tăng 2,1 cm ở nam và 1,0 cm ở nữ). Nếu tính riêng tại các thành phố
thì nam giới nước ta cao 167,4 cm, nữ cao 154,7 cm; vùng nông thôn nam có
chiều cao thấp hơn là 164,1 cm và nữ là 153,2 cm, đây là mức tăng nhanh nếu
so với các quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên vẫn chưa bằng Nhật Bản khi
ở nam tăng 2,8 cm và ở nữ tăng 2,5 cm trong vòng 15 năm [6]. Vậy nhìn
chung chiều cao của thanh niên Việt Nam ngày càng được cải thiện.
Thanh niên Việt Nam cao ngang với thanh niên Indonesia, Philippines
nhưng thấp hơn so với Singapore (nam: 171 cm và nữ: 160 cm), Nhật Bản
(nam: 171,5 cm và nữ: 158 cm), Thái Lan (nam: 167,5 cm và nữ: 157,3 cm),
Malaysia (nam: 168,4 cm và nữ: 157,7 cm), Trung Quốc (nam: 172,1 cm và
nữ: 160 cm) và thấp hơn thanh niên Hàn Quốc khoảng 9,4 cm (nam: 173,9 cm
và nữ: 161,1 cm)…. Thanh niên Hà Lan cao nhất thế giới (nam - 184 cm và
18


nữ - 170 cm). Sau đó đến thanh niên Na Uy (nam - 182 cm và nữ - 169 cm)…
Đặc biệt, sự tăng chiều cao đang thể hiện rõ nhất ở trẻ em. Nếu như năm
2000, chiều cao bé trai 5 tuổi trung bình của nước ta chỉ đạt 100,6 cm thì đến
2010 đã tăng lên 109,9 cm [82].
Theo WHO, chiều cao đạt lúc 3 tuổi sẽ quyết định chiều cao khi trưởng
thành. Ví dụ, nếu chiều cao trẻ lúc 3 tuổi là 85,3 cm thì khi trưởng thành sẽ là
158 cm; hoặc nếu trẻ 3 tuổi cao 94,5 cm thì khi trưởng thành sẽ là 170,9 cm.
Điều này hứa hẹn chắc chắn chiều cao thanh niên Việt Nam ở các thế hệ sau
sẽ tiếp tục tăng với tốc độ nhanh [128].

Một trong những nguyên nhân giúp chiều cao trẻ em Việt Nam tăng
trưởng nhanh trong thời gian qua là nhờ thành quả chương trình giảm SDD
thấp còi. WHO và UNICEF đánh giá Việt Nam là nước có mức giảm SDD ấn
tượng nhất. Theo WHO, có hai thời kỳ chiều cao người Việt Nam thua kém
chiều cao của các nước là lúc từ 6 - 12 tháng và lúc 6 - 11 tuổi. Do đó, để
nâng cao tầm vóc người Việt Nam cần có những tác động phù hợp vào các
giai đoạn tăng trưởng quan trọng này [88].
Nhìn chung, số lượng các công trình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt
Nam về hình thái, thể lực con người nói chung và lứa tuổi học đường nói
riêng ngày càng phong phú. Tuy kết quả nghiên cứu của các công trình có
khác nhau nhưng đều cho thấy các chỉ số thay đổi theo lứa tuổi, giới tính, thời
gian và khu vực. Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, có những giai
đoạn trẻ tăng vọt, có sự khác nhau ở trẻ giữa các vùng sinh thái, các dân tộc…
1.2.2. Các nghiên cứu về sinh lý
1.2.2.1. Trên thế giới
Từ sinh lý học (physiology) xuất hiện từ thế kỷ XVI nhưng đến thế kỷ
thứ XIX mới được Claude Bernard đề xuất. Sinh lý học xuất hiện do nhu cầu
chữa bệnh ở người. Từ thế kỷ IV trước Công nguyên (TCN), nhà danh y

19


người Hy Lạp Hippôcrate (460 - 370 TCN) đã cho rằng, cơ thể con người có
bốn loại dịch và từ đó ông phân biệt có bốn loại tính khí ở người [76].
Aritstôt (384 - 322 TCN), nhà triết học và khoa học vĩ đại thời Cổ Hy
Lạp đã cho rằng tim là cơ quan vận chuyển máu. Sau đó, Galien (129 - 200)
người La Mã đã đưa ra quan điểm đúng về phân loại xương. Ông đã miêu tả
được các phần của não bộ và 7 đôi dây thần kinh sọ não. Suốt 13 thế kỷ tiếp
theo, dưới ách thống trị của giáo hội, sinh lý học không được phát triển nên
gọi là “Đêm dài trung cổ”. Thời kỳ Phục Hưng (thế kỷ XIV - XVI) cùng với

sự phát triển kinh tế - xã hội và cuộc đấu tranh giai cấp chuyển sang giai đoạn
tư bản chủ nghĩa, ngành khoa học tự nhiên trong đó có khoa học nghiên cứu
về con người phát triển lại và xuất hiện nhiều nhà khoa học nổi tiếng [47].
Bruxen (Italia), Vezali A. (1514 - 1564) là người đầu tiên nghiên cứu và
hệ thống hóa về cấu tạo cơ thể người. Năm 1962, nhà giải phẫu và sinh lý học
vĩ đại người Anh, Harvey W. (1578 - 1657) đã viết cuốn “Nghiên cứu giải
phẫu về vận động của tim và máu ở động vật” trình bày hoạt động các vòng
tuần hoàn trong cơ thể. Ông đã đề xuất ý tưởng về sự kết nối giữa động mạch
và tĩnh mạch, điều này được Manpighi M. (1628 - 1694) và Sumlianxki A. M.
(1748-1795) sau này khẳng định.
Thế kỷ XVII, hàng loạt phát minh được công bố nhờ sự ra đời của kính
hiển vi. Năm 1622, Azeli K. (1581 - 1626) đã phát hiện ra dịch gian bào, đây
là cơ sở cho nghiên cứu hệ bạch huyết sau này.
Người đầu tiên đưa ra khái niệm về phản xạ là Decac R. (1596 - 1650).
Chức năng của các dây thần kinh gắn liền với tên tuổi của Bell (1774 - 1842)
và Majendi (1783 - 1855). Học trò của Majendi là Claude Bernard (1813 1873), đã có nhiều phát minh quan trọng về sinh lý học, ông đã tìm ra vai trò
của nước bọt và dịch tụy, vai trò của gan đối với việc tổng hợp gluxit và duy
trì lượng đường huyết. Muller I. (1801 - 1858) đã nghiên cứu về các cơ quan

20


phân tích. Cuối thế kỷ XIX, Pavlov đã bổ sung kiến thức về sinh lý hoạt động
thần kinh cấp cao, chủ yếu nghiên cứu về hoạt động phản xạ của não bộ [47].
Việc đưa ra học thuyết tế bào năm 1839 của hai nhà bác học Schwann
T. và Schleiden M. ở thế kỷ XIX đã tạo điều kiện cho sinh y học tiếp tục phát
triển. Đã có nhiều công trình sinh lý học có giá trị gắn liền với các nhà khoa
học như Setrenov I. M. (1829 - 1905), Vedenxki N. E. (1852 - 1922),
Ukhtomxki (1877 - 1942), Xamoilov A. F. (1867 - 1930),v.v.. Đặc điểm của
sinh lý học lúc này là các phương pháp thực nghiệm mổ xẻ còn gọi là thí

nghiệm cấp diễn được sử dụng phổ biến [47], [76].
Từ thế kỷ XIX, huyết áp động mạch và tần số tim được các nhà khoa
học quan tâm. Nhiều tác giả cho rằng trẻ lứa tuổi học đường có huyết áp tăng
dần theo tuổi. Chỉ số huyết áp tối đa/ huyết áp tối thiểu ở trẻ 10 tuổi là 100/65
mmHg [74].
Panaven V.V. đã theo dõi sự biến đổi huyết áp tối đa, huyết áp tối thiểu,
huyết áp hiệu số ở trẻ 7 - 17 tuổi theo từng năm và nhận thấy huyết áp ở trẻ
tăng dần nhưng tăng không đều, có lúc nhanh, có lúc chậm. Thời điểm huyết
áp tăng vọt ở nữ là lúc 9 tuổi và 12 tuổi, ở nam là lúc 9 tuổi, 12 tuổi và 13
tuổi. Theo Fedorova E. V. và Zasukhina V. N. thì huyết áp tăng vọt ở cả nam
và nữ là lúc 7 - 8 tuổi [80].
Một số tác giả cho rằng có sự thay đổi huyết áp theo giới tính. Theo
Frolkis V.V. huyết áp hầu như giống nhau ở nam và nữ lúc dưới 5 tuổi, từ 5 9 tuổi, huyết áp nam cao hơn nữ. Ông cũng cho rằng có sự khác nhau về
huyết áp động mạch của trẻ em ở các nước. Theo Fedorova E. V. và
Kaluifnaia, lúc 8 - 12 tuổi nam có huyết áp cao hơn nữ [133].
Korotkow đã dùng phương pháp đo gián tiếp để đo huyết áp động mạch
và đến nay phương pháp này vẫn còn phổ biến. Nhiều tác giả cho rằng có sự
khác biệt về huyết áp của nam và nữ từ 5 tuổi trở lên, huyết áp của nữ thường
cao hơn nam và huyết áp cũng chịu ảnh hưởng của môi trường [49], [70].
21


Theo số liệu khảo sát sức khỏe và dinh dưỡng ở trẻ em tại Hoa Kỳ cho
thấy, huyết áp thay đổi theo tuổi, giới tính, chiều cao và có mối tương quan
với chỉ số khối của cơ thể. Huyết áp chịu ảnh hưởng của chủng tộc, mức độ
trưởng thành sinh học, tầng lớp xã hội, môi trường và yếu tố di truyền [125].
Đối với chức năng hô hấp, việc đo dung tích sống, lưu lượng hô hấp
cũng được đề cập từ rất sớm. Năm 1846, Hutchinson đã chế tạo ra dụng cụ đo
thể tích khí của phổi, ông được coi là người đi tiên phong trong nghiên cứu về
thể tích, dung tích và lưu lượng hô hấp ở người [106].

Từ 1952 - 1968, nhiều tác giả như Camphell, Bernstein và Cotes nghiên
cứu các chỉ số như thể tích, dung tích và lưu lượng thở. Đầu thế kỷ XX, việc
nghiên cứu các chức năng phổi đã có nhiều tiến bộ. Các tác giả cho rằng, có
sự khác biệt về dung tích sống theo giới. Nam thường có dung tích sống cao
hơn nữ [91], [106].
Cùng với các chỉ số sinh lý chức năng bên trong, sự phát triển thể lực ở
trẻ còn được thể hiện qua hoạt động của các cơ quan phân tích, trong đó quan
trọng nhất là cơ quan phân tích thị giác và thính giác.
Những năm 70 của thế kỷ XIX, vấn đề cận thị ở lứa tuổi học đường
mới được biết đến, trước đó các nhà nghiên cứu cho rằng cận thị là bệnh khó
phòng và khó chữa. Hiện nay việc nghiên cứu, điều tra về cận thị đã được
nhiều nước quan tâm. Trên thế giới hiện có khoảng 37 triệu người mù và 124
triệu người thị lực thấp có nguy cơ dẫn đến mù, trong đó tật khúc xạ chiếm
khoảng 25,72%. Theo ước tính của Kovin Naidoo thuộc tổ chức ICEE
(International Center of Eye care Education) là đến 2020 tật khúc xạ và nhu
cầu về kính sẽ chiếm 70% dân số toàn cầu (độ 5,3 tỷ người), trong đó cận thị
chiếm khoảng 33% (độ 3 tỷ người). Theo điều tra của Pokharel G. P. và cs
(2000) cho thấy, trẻ từ 5 - 15 tuổi bị giảm thị lực chủ yếu do tật khúc xạ [95].
Tỷ lệ trẻ cận thị ngày càng tăng ở hầu hết các nơi trên thế giới và số
công trình nghiên cứu về vấn đề này ngày càng nhiều. Nguyên nhân chính là
22


do nhu cầu sử dụng thị lực nhìn gần trong học tập và sinh hoạt của cuộc sống
hiện đại ngày càng cao, cường độ học tập nhiều, căng thẳng, kích thước bàn
ghế không đúng tiêu chuẩn, tư thế ngồi học không đúng, thiếu ánh sáng, nhất
là tình trạng sử dụng vi tính hoặc xem ti vi quá nhiều. Các nghiên cứu còn cho
thấy, tỉ lệ học sinh bị giảm thị lực tăng dần theo độ tuổi [7], [96], [113].
Ngành thính học đã có nhiều tiến bộ giúp cho việc chẩn đoán và xác
định mức độ khiếm thính, đặc biệt ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ ngày càng mau

chóng và chính xác. Trước thập niên 70 của thế kỷ XX, các phương pháp để
chẩn đoán khiếm thính mang tính chủ quan. Năm 1940 phương pháp đo thính
lực đơn âm (Pure tone audiometry) xuất hiện. Năm 1950 con người đã biết
đến đo thính lực lời (Speech audiometry). Đến thập niên 70, nghiệm pháp đo
khách quan đầu tiên ra đời là phương pháp đo nhĩ lượng và đo phản xạ cơ bàn
đạp (Impedance measurements) [109].
Bước phát triển nhảy vọt trong chẩn đoán thính học là từ thập kỷ 80 khi
các kỹ thuật đo điện thính giác thân não ABR (Auditory Brainstem
Response), OAE (Otoacoustic Emissions) (OAE: Là nghiệm pháp đo kích gợi
âm ốc tai, trong kích gợi âm ốc tai có 2 phương pháp chính là TEOAE
-Transient Evoked Otoacoustic Emissions: Đo âm ốc tai kích gợi thoáng qua
và DPOAE - Distortion product otoacoustic emissions: Đo kích gợi âm ốc tai
méo) ra đời. Những năm 1990, con người đã biết đến kỹ thuật đo âm ốc tai
(OAEs), và gần đây là đo đáp ứng trạng thái bền vững thính giác (ASSR)
nhằm xác định khiếm thính ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ [20], [98].
1.2.2.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, các kết quả nghiên cứu trong “Hằng số sinh học người
Việt Nam” (1975) cho thấy, huyết áp động mạch ở trẻ từ 3 - 15 tuổi tăng dần.
Chỉ số huyết áp khác nhau ở những trạng thái đo (khi đứng cao hơn khi ngồi,
khi nằm) và vị trí đo [81]. Các chỉ tiêu chức năng thông khí phổi người bình
thường đã được nghiên cứu từ những năm 50. Trong HSSH cũng đã trình bày
23


dung tích sống người Việt Nam từ 4 - 60 tuổi theo chiều cao và giới tính. Các
nghiên cứu cho thấy, dung tích sống của trẻ tăng dần theo tuổi và phụ thuộc
vào chiều cao cơ thể. Cùng một độ tuổi trẻ nam luôn có dung tích sống cao
hơn trẻ nữ [49], [81].
Theo Đoàn Yên và cs (1993), tần số tim và huyết áp ở người Việt Nam
biến đổi có chu kỳ. Nhịp thở, dung tích sống, thể tích khí lưu thông và thể tích

phút của người Việt Nam từ 6 - 79 tuổi có sự biến đổi không đều. Từ sơ sinh
đến 19 tuổi, dung tích sống tăng nhanh, sau đó đi vào ổn định ở cả hai giới.
Từ 30 tuổi chỉ số này bắt đầu giảm. Dung tích sống và huyết áp động mạch
người Việt Nam luôn nhỏ hơn người Châu Âu và Châu Mỹ [91].
Nguyễn Văn Mùi (1996) nghiên cứu tần số tim và huyết áp trẻ 7 - 15
tuổi ở ngoại thành Hải Phòng nhận thấy, tần số tim của nam và nữ giảm dần,
huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương tăng dần theo tuổi. Huyết áp tâm thu
của nam 7 - 9 tuổi cao hơn nữ; từ 10 - 15 tuổi không có sự thay đổi lớn. Huyết
áp tâm trương của nam từ 7 - 13 tuổi lớn hơn so với nữ [49].
Trần Thị Loan (2002) nghiên cứu trẻ em Hà Nội từ 1 - 17 tuổi cho thấy,
trẻ nam từ 1 - 6 tuổi tốc độ giảm tần số tim tương đối nhanh và đều, từ 6 - 17
tuổi tốc độ giảm chậm dần. Trẻ nữ 6 - 7 tuổi có mức giảm tần số tim tương
đối nhanh hơn so với các giai đoạn khác. Cùng một độ tuổi, tần số tim ở nam
và nữ cũng khác nhau. Từ 1 - 5 tuổi tần số tim của nam thấp hơn nữ, từ 6 - 12
tuổi tần số tim nam và nữ gần bằng nhau. Về huyết áp lại tăng dần từ 6 - 17
tuổi. Cùng một độ tuổi huyết áp của nữ cao hơn so với nam khoảng 2 - 3
mmHg. Dung tích sống ở nam tăng trung bình 0,26 lít/năm, nữ tăng 0,15
lít/năm. Thời điểm tăng nhanh dung tích sống xảy ra cùng lúc thời điểm tăng
nhanh chiều cao cơ thể của trẻ [49].
Theo Trần Trọng Thủy (2006), Lê Thanh Vân (2008), huyết áp của trẻ
thấp hơn người lớn và tăng dần theo tuổi. Trẻ 6 tuổi có huyết áp tối đa/ huyết
áp tối thiểu là 103,8/63,6 mmHg, lúc 15 tuổi là 110/70 mmHg [74], [76]…
24


×