Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Khái niệm lực lượng sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (85.33 KB, 14 trang )

Khái niệm lực lượng sản xuất
+ Khái niệm lực lượng sản xuất dùng để chỉ tổng thể các yếu tố cấu thành nội
dung vật chất, kỹ thuật, công nghệ,... của quá trình sản xuất, tạo thành năng lực
thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người. Với nghĩa như vậy, lực lượng sản
xuất cũng đóng vai trò phản ánh căn bản trình độ chinh phục giới tự nhiên của
con người.
+ Các yếu tố (nhân tố) tạo thành lực lượng sản xuất gồm có: tư liệu sản xuất
(trong đó, công cụ sản xuất là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ chinh phục
tự nhiên của con người) và người lao động (trong đó năng lực sáng tạo của nó là
yếu tố đặc biệt quan trọng).
Trong hai nhóm yếu tố nói trên, người lao động là nhân tố quan trọng nhất (bởi
vì, tư liệu sản xuất có nguồn gốc từ lao động của con người và được sử dụng bởi
con người).
- Khái niệm quan hệ sản xuất
+ Khái niệm quan hệ sản xuất dùng để chỉ tổng thể mối quan hệ kinh tế (quan hệ
giữa người với người về mặt thực hiện lợi ích vật chất trong quá trình sản xuất
và tái sản xuất xã hội).
+ Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức - quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả
của quá trình sản xuất đó.
Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mổì quan hệ thống nhất và chi phối,
tác động lẫn nhau trên cơ sở xuyết định của quan hệ sở hữu vể tư liệu sản xuất.
- Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống
nhất biện chứng (phụ thuộc, ràng buộc nhau, tác động lẫn nhau) tạo thành quá
trình sản xuất hiện thực của xã hội.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình
sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất,
còn quan hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó. Trong đòi sống hiện
thực, không thể có sự kết hợp các nhân tố của quá trình sản xuất để tạo ra năng


lực thực tiễn cải biến các đối tượng vật chất tự nhiên lại có thể diễn ra bên ngoài
những hình thức kinh tế nhất định. Ngược lại, cũng không có một quá trình sản
xuất nào có thể diễn ra trong đời sống hiện thực chỉ với những quan hệ sản xuất
không có nội dung vật chất của nó.
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn
nhau, thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi
quá trình sản xuất hiện thực của xã hội. Tương ứng với thực trạng phát triển nhất
định của lực lượng sản xuất cũng tất yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù
hợp với thực trạng đó trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lý và phân phối. Chỉ có như vậy, lực lượng sản xuất mới có thể được duy
trì, khai thác - sử dụng và không ngừng phát triển. Ngược lại, lực lượng sản xuất
của một xã hội chỉ có thể được duy trì, khai thác - sử dụng và phát triển trong
một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.


+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ biện
chứng nhưng trong đó, vai trò quyết định thuộc về lực lương sản xuất, còn quan
hệ sản xuất giữ vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo
nguyên tắc khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc vào thực trạng phát
triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ
sản xuất chỉ là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất còn lực lượng sản xuất là
nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất, với tư cách là hình thức kinh tế của quá trình sản
xuất, nó luôn luôn có khả năng tác động trở lại sự vận động, phát triển của lực
lượng sản xuất. Sự tác động này có thể diễn ra theo chiểu hướng tích cực hoặc
tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay không phù hợp của quan hệ
sản xuất với thực trạng và nhu cầu khách quan của sự vận động, phát triển lực
lượng sản xuất. Nếu “phù hợp” sẽ có tác dụng tích cực và ngược lại, “không phù
hợp” sẽ có tác dụng tiêu cực.
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ có

bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập làm phát sinh mâu thuẫn
cần được giải quyết để thúc đẩy sự tiếp tục phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong phạm vi tương đối ổn định của một hình thức kinh tế xác định, lực lượng
sản xuất của xã hội được bảo tồn, không ngừng được khai thác - sử dụng và phát
triển trong quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội.
Tính ổn định, phù hợp của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao
thì lực lượng sản xuất càng có khả năng phát triển, nhưng chính sự phát triển của
lực lượng sản xuất lại luôn luôn tạo ra khả năng phá vỡ sự thống nhất của những
quan hệ sản xuất từ trước đến nay đóng vai trò là hình thức kinh tế cho sự phát
triển của nó. Những quan hệ sản xuất này, từ chỗ là những hình thức phù hợp và
cần thiết cho sự phát triển của các lực lượng sản xuất đã trở thành những hình
thức kìm hãm sự phát triển đó, nó đã tạo ra một mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, từ đó xuất hiện nhu cầu khách quan phải thiết lập lại
mối quan hệ thông nhất giữa chúng theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù
hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi phân tích sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, C. Mác đã từng chỉ ra rằng: “Tới một giai đoạn phát triển nào
đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những
quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn
phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những
quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt
đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Chính nhờ các cuộc cách mạng xã hội
mà những quan hệ sản xuất cũ của xã hội được thay thế bằng một quan hệ sản
xuất mới, phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất đã phát triển,
tiếp tục phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất
trong một hình thức quan hệ sản xuất mới.
- Ý nghĩa phương pháp luận


+ Để xác lập, hoàn thiện hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội, cần phải căn cứ

vào thực trạng (tình hình thực tế) phát triển của lực lượng sản xuất hiện có để
xác lập nó cho phù hợp chứ không phải căn cứ vào ý muốn chủ quan. Chỉ có
như vậy mới có thể tạo ra được hình thức kinh tế thích hợp cho việc bảo tồn,
khai thác - sử dụng, tái tạo và phát triển lực lượng sản xuất của xã hội.
+ Khi đã xuất hiện mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất đang kìm hãm sự phát triển đó thì cần phải có những cuộc cải
biến (cải cách, đổi mới,...) mà cao hơn là một cuộc cách mạng chính trị để có thể
giải quyết được mâu thuẫn này.
Ví dụ, trong quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa vào trước những năm 80
của thế kỷ XX, nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí,
chưa tuân theo thật đúng yêu cầu của quy luật này. Do đó đã dẫn đến tình trạng
lực lượng sản xuất hiện có không được bảo tồn, tái tạo và phát triển tốt. Thực tế
đó là nguyên nhân căn bản và sâu xa dẫn tới sự khủng hoảng kinh tế lớn, buộc
các nước này phải tiến hành những cuộc cải ách, đổi mới theo hướng tạo lập sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với thực tế trình độ phát triển lực lượng sản suất,
nhờ đó lực lượng sản xuất của xã hội từng bước được phục hồi và phát triển.
I.
1.

HOÀN
Nguyên

CẢNH
nhân

trực

RA
tiếp


ĐỜI
sự

CỦA
ra

đời

TÁC
của

tác

PHẨM
phẩm.

+ Mùa hè năm 1845, Lútvích Phoiơbắc viết bài báo công khai tuyên bố mình là
người
cộng
sản.
+ Mùa thu (tháng 9) năm 1845, những người “chủ nghĩa xã hội chân chính” và
giữa tháng 10 năm 1845, Bauơ, Stiếcnơ đã viết nhiều bài báo chống lại chủ
nghĩa cộng sản. (Brunô Bauơ là thủ lĩnh phái "Hêghen trẻ")
+ Trong thời kỳ này, những người ủng hộ C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn còn là
thiểu số trong phong trào công nhân; các phe phái đủ màu sắc của chủ nghĩa xã
hội
tiểu

sản
đang

chiếm
ưu
thế.
Trước tình hình đó, C.Mác và Ph.Ăngghen thấy đã đến lúc cần phải chứng minh
một cách khoa học những cơ sở hệ tư tưởng của giai cấp vô sản; tuyên truyền hệ
tư tưởng đó để tranh thủ những người vô sản tiên tiến trong cuộc đấu tranh
chống
chủ
nghĩa

hội
tiểu

sản.
1.1. Nhiệm vụ cụ thể đặt ra cho C.Mác và Ph.Ăngghen khi viết tác phẩm:
C.Mác viết (8/1846) “Tôi thấy rằng, điều hết sức quan trọng là trước khi tôi
trình bày vấn đề một cách chính diện thì cần phải có một tác phẩm luận chiến
chống lại nền triết học Đức và chống lại chủ nghĩa xã hội Đức (...) Điều đó là


cần thiết để chuẩn bị cho công chúng tiếp thu quan điểm của tôi trong lĩnh vực
kinh tế-chính trị, quan điểm này trực tiếp đối lập với khoa học Đức” (C.Mác và
Ph.Ăngghen:
Toàn
tập,
t.27,
tr.398-399).
+ Phê phán triệt để những quan điểm duy tâm của “triết học Đức mới” và “chủ
nghĩa xã hội chân chính” (chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản Đức).
+ Trình bày một cách rõ ràng những nguyên lý của thế giới quan triết học mới

và đặt cơ sở lý luận cho chủ nghĩa cộng sản khoa học.
1.2. Kết quả thực hiện các nhiệm vụ cụ thể trên là Hệ tư tưởng Đức đã đánh
dấu bước tiến mới của C.Mác và Ph.Ăngghen trong việc phát triển chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa cộng sản khoa học.
2.

Cấu

trúc

của

tác

phẩm "Hệ



tưởng

Đức"

gồm

2

tập.

Tập I: Phê phán chủ nghĩa duy tâm của phái Hêghen trẻ.
Gồm


Lời

nói

đầu



ba

chương

Lời nói đầu (chưa viết xong), C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày tổng quát quan
niệm duy vật về lịch sử và về chủ nghĩa cộng sản của mình.
Chương I: Phoiơbắc. Sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm.
Đây là chương quan trọng của Hệ tư tưởng Đức. Trong chương này, sau khi phê
phán triết học Phoiơbắc, C.Mác và Ph. Ăngghen đã đưa ra các quan điểm duy
vật
của
mình.
Chương I lần đầu tiên được xuất bản vào năm 1924 bằng tiếng Nga tại Liênxô
(Viện Mác-Ăngghen). Toàn bộ bản thảo lần đầu tiên được xuất bản vào năm
1932 (Viện Mác-Ăngghen-Lênin) và vào năm 1933(C.Mác và Ph.Ăngghen:
Toàn tập, t.4), vào năm 1965 ("Các vấn đề của triết học", số 10-11). Năm 1966
(xuất bản riêng)- (Viện Chủ nghĩa Mác-Lênin trực thuộc Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Liênxô) xuất bản chương I (tập 1) theo cách bố trí phù hợp
với
cấu
trúc


nội
dung
của
bản
thảo.
Chương II: Brunô thần thánh. Phê phán Brunô Bauơ }phát triển tư tưởng của
các tác phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844" và "Gia đình thần thánh
hay là phê phán sự phê phán có tính chất phê phán. Chống Brunô Bauơ và đồng
bọn"
(1845)}
Chương

III:

Max

thần

thánh.

Phê

phán

Max

Stiếcnơ.



Tập

II:

Phê

phán

"chủ

nghĩa



hội

chân

chính"

Đức.

“chủ nghĩa xã hội chân chính Đức” là sự kết hợp giữa triết học Đức (chủ yếu là
triết học Hêghen và triết học Phoiơbắc) với những học thuyết xã hội chủ nghĩa
không tưởng (chủ yếu là chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp).
Gồm năm chương, nhưng không tìm thấy bản thảo của chương II và III.
Chương I. C.Mác và Ph.Ăngghen tập trung phê phán những bài báo của Demmích và Mat-tei, đại biểu cho triết học của “chủ nghĩa xã hội chân chính”.
Chương IV. phê phán cuốn sách của G-ruyn, đại biểu chủ yếu của “chủ nghĩa xã
hội chân chính”. Chương này được xuất bản năm 1947.
Chương V. phê phán cuốn sách của Cun-mam, một người của “chủ nghĩa xã hội

chân
chính”.
Bản thảo của "Hệ tư tưởng Đức" tuy chưa kịp xuất bản, nhưng "mục đích chính
của chúng tôi là làm cho chính mình hiểu rõ- thì đã đạt được" (C.Mác/ C.Mác và
Ph.Ăngghen:
t.13,
tr.8).
II.

NỘI

DUNG

CỦA

TÁC

PHẨM

HỆ



TƯỞNG

ĐỨC

1. Phê phán triệt để những quan điểm duy tâm của “triết học Đức
mới” và “chủ nghĩa xã hội chân chính” (chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản Đức).
Nội dung lý luận chính của Hệ tư tưởng Đức được tập trung ở chương I, tập 1:

"Phoiơbắc. Sự đối lập giữa các quan điểm duy vật và duy tâm"; các phần còn lại
thiên
về
luận
chiến.
1.1. Phê phán sự hạn chế của triết học Phoiơbắc. (Làm sáng tỏ thêm những
hạn
chế
của
triết
học
Phoiơbắc)
Những hạn chế của triết học Phoiơbắc đã được trình bày cô đọng trong tác phẩm
Luận cương về Phoiơbắc (1845). Trong "Hệ tư tưởng Đức", C.Mác và
Ph.Ăngghen đã cụ thể hoá và phân tích chi tiết những đặc điểm của triết học
Phoiơbắc, đặc biệt là sự liên quan của hệ thống triết học đó với chủ nghĩa cộng
sản.
a. Hạn chế cơ bản của Phoiơbắc nằm trong quan niệm về con người. Phoiơbắc
dựa vào khái niệm "con người cộng đồng" để tự tuyên bố mình là người cộng
sản.
Con người, theo Phoiơbắc, chỉ là "con người trừu tượng" mà không phải là con


người hiện thực của lịch sử. Đối với những người cộng sản, con người là sản
phẩm của tự nhiên và vấn đề cần xem xét ở con người hiện thực của lịch sử là
hành động thực tiễn của con người nhằm thay đổi thế giới hiện có.
Trên thực tế, "con người cộng đồng" của Phoiơbắc là quan điểm về quan hệ giữa
con người với nhau trên góc độ con người bao giờ cũng luôn cần đến nhau và
như vậy, điều quan trọng là phải xác lập một ý thức đúng đắn về cái hiện có.
Ngược lại, đối với người cộng sản thực thụ, điều quan trọng là phải lật đổ cái

hiện có ấy (Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb.Sự thật,
HàNội,1980,t.1,
tr.312).

b. Mặc dù công nhận "con người là đối tượng của cảm giác", nhưng Phoiơbắc
chỉ nói đến quan hệ của con người trong tình yêu và tình bạn đã được lý tưởng
hoá, chỉ dừng lại ở lý luận mà không xem xét con người trong mối quan hệ xã
hội nhất định, trong những điều kiện sinh hoạt nhất định, trong những điều kiện
làm cho con người trở thành những con người đang tồn tại và hành động thực
sự.
Do vậy, Phoiơbắc không nhận ra sự cần thiết phải phê phán những điều kiện
sinh hoạt hiện có của con người; không hiểu được rằng, thế giới cảm giác được
là tổng số những hoạt động sống và cảm giác được của những cá nhân hợp thành
thế giới ấy và như thế, khi đứng trước thực trạng của xã hội đương thời,
Phoiơbắc đành lẩn trốn vào các quan niệm, khái niệm, lý tưởng hoàn toàn trừu
tượngtức

rơi
vào
chủ
nghĩa
duy
tâm.
Ngược lại, khi đứng trước thực trạng của xã hội đương thời, người cộng sản
nhìn thấy cả sự tất yếu lẫn điều kiện của hoạt động cải tạo thực tiễn của chính
con người (Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb.Sự thật,
HàNội,1980,t.1,
tr.285-286).
c. Khi nói về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, Phoiơbắc có quan
niệm siêu hình về một thế giới tự nhiên bất biến mà không hiểu rằng, hoạt động

thực tiễn của con người đã tác động lên giới tự nhiên, tạo nên một giới tự nhiên
có tính chất lịch sử "... ở Phoiơbắc, tự nhiên và lịch sử trở nên tách rời nhau,
không
liên
hệ
với
nhau".
Để kết thúc phần 1.1, xin dẫn câu trích của C.Mác và Ph.Ăngghen: "Khi
Phoiơbắc là nhà duy vật thì ông không bao giờ vận dụng đến lịch sử; còn khi
ông có tính đến lịch sử thì ông không phải là nhà duy vật. Ở Phoiơbắc, lịch sử và
chủ nghĩa duy vật hoàn toàn tách rời nhau" (C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập,
Nxb.Sự
thật,
HàNội,1980,t.1,
tr.286).


1.2. Phê phán những quan điểm duy tâm của phái "Hêghen trẻ".
a. "Phái Hêghen trẻ" phê phán tất cả mọi cái, thay thế từng cái một bằng những
quan niệm tôn giáo hoặc tuyên bố cái đó là có tính thần học. Phái "Hêghen trẻ"
cũng như phái "Hêghen già" đều tin tưởng rằng tôn giáo, khái niệm là cái phổ
biến thống trị trong thế giới hiện có (C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb.Sự
thật,
HàNội,
1980,
t.1,
tr.265).
Phái "Hêghen trẻ" khảng định cái hiện tồn là sản phẩm của ý thức và tuyên bố
"đảo lộn thế giới" chỉ bằng việc đấu tranh chống lại những câu nói mà không hề
chống

lại
thế
giới
hiện
tồn.
b. Tiếp tục sự phê phán đã viết trong tác phẩm "Gia đình thần thánh...", C.Mác
và Ph.Ăngghen đã chỉ ramưu toan của Bauơ đặt "tự ý thức tuyệt đối" lên "thực
thể", coi tư tưởng là cơ sở của thế giới hiện tồn(Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen:
Toàn
tập,
t.3,
tr.84).
Như vậy, sự khác nhau giữa Bau-ơ với những người cộng sản nằm ở cách giải
quyết mối quan hệ giữa lý luận với thực tiễn, giữa nhận thức khoa học với hoạt
động cải tạo thực tiễn. Khi Bau-ơ lợi dụng những luận điểm của Phoiơbắc về
chủ nghĩa cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ sai lầm của Phoiơbắc và sự
khác nhau giữa chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc với chủ nghĩa duy vật
thực
tiễn
của
những
người
cộng
sản.
c. Khi phê phán Stiếcnơ- một đại biểu khác của phái "Hêghen trẻ" (Stiếcnơ cho
rằng, để biến đổi thực tiễn, chỉ cần biến đổi ý thức và các khái niệm của các cá
nhân mà thôi) với ảo tưởng về những con đường thủ tiêu mọi áp bức xã hội,
C.Mác và Ph.Ăngghen khảng định rằng, không thể đập tan được mọi hình thái
và sản phẩm của ý thức bằng sự phê phán tinh thần mà chỉ đập tan được những
quan hệ xã hội đã sinh ra chúng; không phải sự phê phán (bằng lời nói), mà cách

mạng mới là động lực của lịch sử, của tôn giáo, của triết học và của mọi lý luận
khác.
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng tập trung phê phán quan niệm của Stiếcnơ về lịch
sử. Stiếcnơ cho rằng, "cái tôi" là thực tại duy nhất và toàn thế giới là sở hữu của
"cái tôi". Ngoài "cái tôi" ra, tất cả mọi cái đều không tồn tại và chỉ là "bóng ma".
Mọi cá nhân hành động theo nguyên tắc "không có gì cao hơn cái tôi" và dùng
quan niệm đó vào việc chống lại chủ nghĩa cộng sản trong cuốn sách "Nhân vật
duy
nhất

sở
hữu
của
nó"
(1844).
1.3.

Phê

phán

"chủ

nghĩa



hội

chân


chính"

Đức.

"chủ nghĩa xã hội chân chính" là trào lưu của giai cấp tiểu tư sản đang được phổ


biến rộng rãi ở Đức lúc bấy giờ. Trào lưu này phản ánh tâm trạng lo sợ của giai
cấp tư sản Đức trước sự lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản và các cuộc đấu tranh
giai
cấp.
"chủ nghĩa xã hội chân chính" Đức có quan niệm lý tưởng hoá các chế độ tiền tư
bản; gieo rắc ảo tưởng về khả năng phát triển của nước Đức lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chủ nghĩa tư bản; tuyên truyền khẩu hiệu phi giai cấp về "tình yêu và
tình anh em nói chung"; phủ nhận đấu tranh chính trị và không tham gia các
phong trào đấu tranh chống lại chế độ hiện đang tồn tại; coi thường cuộc đấu
tranh

tự
do

dân
chủ.
Đứng trước tình hình đó, C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: bản chất của "chủ nghĩa

hội
chân
chính"
nằm


chỗ:
-

Xa

rời

cuộc

đấu

tranh

giai

cấp



phong

trào

công

nhân.

- Là một trào lưu tư tưởng tiểu tư sản phản ánh phong trào văn học xã hội chủ
nghĩa nảy sinh ở bên ngoài những lợi ích của một đảng chân chính. (C.Mác và

Ph.Ăngghen:
Toàn
tập,
t.3,
tr.
458)
2. Trình bày một cách rõ ràng những nguyên lý của thế giới quan triết học
mới và đặt cơ sở lý luận cho chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Sự diễn giải nhận thức duy vật về lịch sử được xây dựng theo sơ đồ sau:
1) Các nguồn gốc. 2) Những quan niệm chính: sản xuất - giao tiếp - thượng tầng
chính trị - các hình thái của ý thức xã hội. 3) Những kết luận.
2.1. Trong "Hệ tư tưởng Đức", lần đầu tiên các tác giả đã nêu ra nguồn gốc của
sự nhận thức duy vật về lịch sử, đó là con người, hoạt động của họ, những điều
kiện đời sống vật chất của con người, nghĩa là thừa nhận vai trò quyết định của
sản xuất vật chất đối với các lĩnh vực còn lại của đời sống xã hội.
Hoạt động của con người bao gồm hai mặt: Mặt sản xuất (là quan hệ của con
người đối với tự nhiên)và mặt giao tiếp (là những mối quan hệ giữa con người
với nhau). Sản xuất và giao tiếp có mối quan hệ qui định qua lại với nhau, trong
đó mặt sản xuất qui định mặt giao tiếp. Trong "Hệ tư tưởng Đức", những quan
niệm quan trọng nhất của chủ nghĩa duy vật lịch sử được phát triển toàn diện đó là quan niệm về vai trò quyết định của sản xuất vật chất trong đời sống

hội.
Bản chất quan niệm nhận thức duy vật về lịch sử được phát triển trong "Hệ tư
tưởng Đức" được đúc kết ngắn gọn: "Như vậy, sự nhận thức lịch sử đó xuất
phát từ chính nền sản xuất vật chất trực tiếp của đời sống, xem xét quá trình


sản xuất và hiểu được mối quan hệ hình thức của phương thức sản xuất đó và
hình thức chúng sinh ra sự giao tiếp- có nghĩa là, xã hội công dân trên những nấc
thang khác nhau- là cơ sở của toàn bộ lịch sử; sau đó cần phải miêu tả hoạt động

của xã hội công dân trong lĩnh vực đời sống nhà nước, và giải thích từ đó kết
quả và hình thức lý luận khác nhau của ý thức, tôn giáo, triết học, đạo đức v.v.
và v.v., và theo dõi quá trình xuất hiện của chúng trên cơ sở đó, nhờ vậy mà, tất
nhiên, có thể sẽ miêu tả được toàn bộ quá trình về tổng thể (và cả những mối tác
động qua lại giữa các mặt khác nhau của nó). Nhận thức như vậy về lịch sử,
trong sự khác biệt với nhận thức duy tâm...giải thích không phải thực tiễn từ tư
tưởng, mà tư tưởng được tạo ra từ thực tiễn vật chất và như vậy có kết luận
sau- không phải sự phê phán, mà cách mạng mới là động lực thúc đẩy lịch
sử" (C.Mác

Ph.Ăngghen:
Hệ

tưởng
Đức.
tr.51-52).
2.2. Trong "Hệ tư tưởng Đức", các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, lần đầu
tiên đã giải thích sự biện chứng của mối quan hệ tác động qua lại và phát
triển giữa lực lượng sản xuất với hình thức giao tiếp (quan hệ sản xuất).
Phát minh vĩ đại này là sự biện chứng của lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất, nó đưa lại chìa khoá để nhận thức được cấu trúc chung của xã hội, của hình
thái xã hội (lực lượng sản xuất- quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội khác như
thượng tầng chính trị - pháp luật- là các hình thức của ý thức xã hội) và qui luật
chung
của
sự
phát
triển
lịch
sử

của

hội.
Các hình thái xã hội được xem xét ở đây được phân biệt theo các hình thức sở
hữu đã, đang và sẽ thống trị trong lịch sử: Bộ lạc - Cổ đại - Phong kiến - Tư bản
- Cộng sản, trong đó, sự hình thành và phát triển các hình thức sở hữu cá thể tư
bản được phân biệt bằng các giai đoạn: Thủ công nghiệp - công trường thủ công
công
nghiệp
lớn.
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: "Những giai đoạn phát triển khác nhau của sự
phân công lao động cũng đồng thời là những hình thức khác nhau của sở hữu;
nói một cách khác là mỗi giai đoạn mới của sự phân công lao động cũng qui
định những quan hệ giưã cá nhân với nhau, căn cứ vào quan hệ của họ với tư
liệu lao động, công cụ lao động và sản phẩm lao động" (C.Mác và Ph.Ăngghen:
Tuyển
tập.
Nxb.Sự
thật,

nội,
1980,
t.1,
tr.305-306).
Công thức chính của chủ nghĩa duy vật lịch sử về mối quan hệ qua lại của tồn
tại xã hội và ý thức xã hội: "ý thức...không khi nào có thể trở thành cái gì khác,
ngoài sự nhận thức được tồn tại...mà sự tồn tại của con người là một quá trình
hiện thực cuộc sống của họ...không phải nhận thức qui định cuộc sống, mà cuộc
sống qui định nhận thức" (C.Mác và Ph.Ăngghen: "Phoiơbắc. Sự đối lập giữa
các quan điểm duy vật và duy tâm", Mátxcơva, 1966, tr.29-30).

Trên cơ sở này đã cho phép chứng minh một cách khoa học về tính tất yếu của


giai cấp vô sản, của cách mạng cộng sản là kết quả của sự phát triển của các mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ giao tiếp (quan hệ sản xuất) của xã hội
tư bản. Phát minh vĩ đại trên cho phép sự nhận thức duy vật về lịch sử trở thành
quan điểm tổng hợp và là cơ sở triết học trực tiếp của học thuyết chủ nghĩa cộng
sản
khoa
học.
2.3. Trong

tác

phẩm

"Hệ



tưởng

Đức"

nêu

lên:

a. Cơ sở của học thuyết mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
b. Chỉ ra bản chất của nhà nước nói chung và nhà nước tư bản nói riêng; về

cách
mạng

chủ
nghĩa
cộng
sản:
- Sự vận động của sản xuất vật chất trong điều kiện "hình thức giao tiếp" đã lỗi
thời làm cho lực lượng sản xuất không thể tiếp tục phát triển và bị kìm hãm; do
vậy
cách
mạng

hội
tất
yếu
sẽ
nổ
ra.
- Sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác thể hiện trong sự đối kháng
của "hình thức giao tiếp". Sự thống trị đó được thực hiện thông qua nhà nước:
"...giai cấp nào muốn nắm quyền thống trị...phải thủ tiêu toàn bộ hình thức xã
hội cũ...như trong trường hợp của giai cấp vô sản- thì giai cấp ấy trước hết phải
chiếm lấy chính quyền" C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb.Sự thật, Hà Nội,
1980.
t.I,
tr.294.
- Cuộc cách mạng cộng sản khác về chất so với các cuộc cách mạng trước đó.
c. Về chủ nghĩa cộng sản, trong sự đối lập với chủ nghĩa xã hội không tưởng và
chủ nghĩa xã hội chân chính, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: "Đối với chúng ta, chủ

nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là
một lý tưởng mà mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng
snả là một phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện
của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang tồn tại" (C.Mác và
Ph.Ăngghen: Tuyển tập. Nxb.Sự thật, Hà nội, 1980, t.1, tr.297).
d. Những nét chung về đặc điểm của xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai:
- Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất bị thủ tiêu. Sở hữu toàn xã hội.
- Sự phân chia giai cấp bị thủ tiêu, do đó, sự thống trị của một giai cấp này đối
với các giai cấp khác cũng bị thủ tiêu và nhà nước, với tư cách là công cụ thống
trị
sẽ
không
còn
nữa.
- Sự phân công lao động mang tính giai cấp bị thủ tiêu, do đó không còn sự đối
lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn.


- Mọi cá nhân đều là người tự do và phát triển toàn diện, con người làm chủ tất
cả những phương tiện, điều kiện vật chất, chủ động và tự giác điều phối chúng
để
phục
vụ
cho
con
người.
- Xã hội cộng sản chủ nghĩa có đầy đủ mọi điều kiện để biến đổi con người
thành những con người thực sự với nghĩa hoàn toàn đầy đủ của nó.
Tóm lại, tổ chức của chủ nghĩa cộng sản là có tính chất kinh tế; nó là sự sáng
tạo vật chất ra những điều kiện cho sự liên hợp ấy; nó biến những điều kiện hiện

có thành những điều kiện của sự liên hợp (sự liên hợp ở đây được hiểu là hình
thức cộng đồng các cá nhân trên cơ sở của sở hữu xã hội vad sự liên hợp các cá
nhân tự do không bị ràng buộc bởi phân công lao động; sở hữu phục tùng các cá
nhân
liên
hợp
lạitức

toàn

hội).
Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa phân biệt hai giai đoạn của
hình thái cộng sản chủ nghĩa (xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa). Hai giai
đoạn này được trình bày một cách rõ ràng trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh
Gôta (1875).
2.4. Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", lần đầu tiên nêu ra hai nguồn gốc vật
chất chính cho công cuộc xây dựng xã hội cộng sản:
Đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hình thành giai cấp vô sản cách
mạng. Khi cụ thể hoá nguồn gốc thứ nhất, các tác giả của tác phẩm đã xác định
nó là mức độ phát triển cao của nền sản xuất máy móc lớn: "...chỉ cùng với sự
phát triển của công nghiệp lớn mới có khả năng triệt tiêu hình thức sở hữu cá
thể"
(tr.65).
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng nêu lên tính hai quá trình của cách mạng vô sản:
Thay đổi điều kiện sống của xã hội, đồng thời thay đổi chính con người đang
thực hiện cuộc cách mạng đó (tr.50), các ông cũng lần đầu tiên chỉ ra tính tất yếu
của việc giành chính quyền chính trị của giai cấp vô sản (tr.43).
Dựa trên cơ sở nhận thức duy vật - biện chứng về lịch sử, các tác giả của tác
phẩm cũng nêu lên tính chất chung của học thuyết về xã hội mới- xã hội cộng
sản.

Về sau, lý luận về xã hội cộng sản được bổ sung trong các tác phẩm Những
nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản (1847), chín muồi trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản (1848) và cụ thể hơn trong Phê phán Cương lĩnh Gô-ta (1875).


III.

Ý

NGHĨA

CỦA

TÁC

PHẨM.

1. "Hệ tư tưởng Đức" (trong dạng bản thảo) là tác phẩm luận chiến của C.Mác
và Ăngghen chống lại chủ nghĩa duy tâm của những người theo phái "Hêghen
trẻ" và "chủ nghĩa xã hội chân chính" tiểu tư sản Đức.
2. "Hệ tư tưởng Đức" là sự phát triển những tư tưởng cơ bản của các tác
phẩm "Bản thảo kinh tế-triết học năm 1844", "Luận cương về Phoiơbắc" (1845)
v.v.
3. Trong bản thảo này, lần đầu tiên, một quan điểm tổng quát, một phát minh vĩ
đại của C.Mác ra đời- nhận thức duy vật về lịch sử (chủ nghĩa duy vật lịch
sử)- đó là cơ sở triết học trực tiếp của học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa
học.
4. Đây là tác phẩm đánh dấu bước tiến mới của các ông trong việc phát triển
chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa cộng sản
khoa học. Tuy không được xuất bản, nhưng trong quá trình sáng tạo đó, chủ

nghĩa Mác đã chín muồi trong chất của thế giới quan tổng thể mới. Mọi hoạt
động lý luận và thực tiễn về sau của các nhà sáng lập ra thế giới quan đó đều
dựa
trên
thành
tựu

đại
này./.
Phần

đọc

thêm:

Thuật ngữ "Hệ tư tưởng" xuất phát từ tiếng HyLạp cổ, có nghĩa là từ, khái niệm,
học
thuyết.
Hệ tư tưởng là hệ thống quan điểm, tư tưởng nêu ra và đánh giá các quan hệ của
con người đối với tự nhiên và giữa con người đối với nhau (những vấn đề và
mâu thuẫn trong xã hội, nội dung của mục đích, của chương trình hoạt động xã
hội được định hướng lên việc thắt chặt hoặc thay đổi các quan hệ xã hội trong xã
hội có giai cấp). Hệ tư tưởng luôn mang tính giai cấp được thể hiện trong lĩnh
vực tư tưởng và phản ánh vai trò cuả các giai cấp trong xã hội và nguồn gốc lợi
ích
của
chúng.
Thuật ngữ "Hệ tư tưởng" lần đầu tiên được nhà triết học, nhà kinh tế học người
Pháp De Traxi sử dụng trong tác phẩm "Những thành phần của Hệ tư tưởng"
(viết từ 1801 đến 1815) dùng để chỉ học thuyết về tư tưởng, góp phần xác định

cơ sở chính cho chính trị học, mỹ học, đạo đức học v.v. Trong nghĩa đó, Mác đại
diện của chủ nghĩa duy vật và trường phái duy cảm đã viết nhiều về Hệ tư
tưởng. Còn trong thời kỳ Napôlêôn ở Pháp, người ta gọi những người có quan
điểm tách rời thực tế trong việc giải quyết những vấn đề thực tiễn xã hội và thực
tiễn
chính
trị

hệ

tưởng.


C.Mác và Ph.Ăngghen trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức" (viết năm 1845-1846)
và trong các tác phẩm về sau coi Hệ tư tưởng là:
1) Quan niệm duy tâm cho rằng thế giới là một tập hợp của tư tưởng, tư duy và
các
nguyên
tắc
2) Loại hình của quá trình tư duy, mà chủ thể của nó là hệ tư tưởng không tạo ra
mối liên hệ giữa cấu trúc của mình với lợi ích vật chất của các giai cấp xác định
và là lực lượng kích thích hoạt động của chính mình, thường xuyên sử dụng ảo
giác về tính độc lập tuyệt đối của ý thức xã hội
3) Từ đó xuất hiện phương pháp nhận thức duy vật về lịch sử (xem mục: chủ
nghĩa duy vật lịch sử) để tiếp cận hiện thực, các phương pháp phân tích khoa
học

phê
phán
hệ


tưởng.
Nhận thức đó cho rằng, hệ tư tưởng là một hình thái của ý thức xã hội và phụ
thuộc vào qui luật chung của ý thức xã hội: Tồn tại xã hội qui định hệ tư tưởng
nhưng
hệ

tưởng
vẫn

tính
độc
lập
tương
đối.
Hệ tư tưởng có tính kế thừa trong sự phát triển của chính mình. Bởi vì trong hệ
tư tưởng, tập hợp các tài liệu về tư duy đã được xác định và mỗi một hệ tư tưởng
mới mang nội dung phản ánh các điều kiện xã hội mới (tồn tại xã hội mới). Hệ
tư tưởng có tác động ngược trở lại lên tồn tại xã hội (lên đời sống vật chất của xã
hội).
C.Mác và Ph.Ăngghen không thay đổi thuật ngữ Hệ tư tưởng trong hệ thống
quan điểm của mình, nhưng các ông đã tính chất hoá hệ tư tưởng, coi chủ nghĩa
Mác là học thuyết khoa học về chủ nghĩa cộng sản; gắn chặt một cách có tổ chức
hệ tư tưởng với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp của giai cấp vô sản. V.I.Lênin
mở rộng khái niệm Hệ tư tưởng và cho rằng, các hệ tư tưởng trước Mác đều có
mầm mống khoa học, nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác mới là hệ tư tưởng khoa học
chân
chính.
Hệ tư tưởng là một hiện tượng tinh thần, có nghĩa là hệ tư tưởng cần phải đánh
giá những khái niệm tinh thần như: hệ tư tưởng khoa học hay không khoa học, là

chân lý hay giả dối v.v. Mâu thuẫn giữa những hệ tư tưởng khác nhau của các
giai cấp khác nhau có ý nghĩa xã hội, là sự thể hiện tính mâu thuẫn về lợi ích
giai
cấp.
Trong xã hội có giai cấp, hệ tư tưởng mang tính cách mạng hay tính phản động,
tích cực hay tiêu cực, tự do hay không tự do, tính quốc tế hay tính dân tộc v.v (là
những khái niệm của chính trị-xã hội). Những tính chất đó phản ánh giá trị bản
chất của hệ tư tưởng, khả năng của hệ tư tưởng trong việc định hướng thực tiễn
xã hội của giai cấp trong sự phù hợp vơí hệ thống giá trị xác định (như giá trị xã
hội,
giá
trị
chính
trị
v.v.)


Mối liên hệ giữa các lợi ích của các giai cấp xác định là cơ sở của các giá trị
định hướng và ý thức của hoạt động xã hội mang tính nguyên tắc: Tính đảng của
các hệ tư tưởng, trong đó giai cấp tiến bộ cố gắng xây dựng cho mình một hệ tư
tưởng trên cơ sở sử dụng triệt để nhận thức khách quan (thí dụ giai cấp tư sản
trong giai đoạn phát triển cực điểm). Sự phù hợp về lợi ích của giai cấp công
nhân (chủ thể) với sự phát triển khách quan của xã hội (khách thể) là cơ sở xã
hội cho sự xác định tính thống nhất của sự chuyển hoá mang tính đảng, tính giai
cấp và tính khoa học khách quan đối với hiện thực trong phạm vi hệ tư tưởng
củagiaicấpcôngnhân.
Thừa nhận hệ tư tưởng có tính giai cấp không có nghĩa là giai cấp sáng tạo ra hệ
tư tưởng mà hệ tư tưởng được sáng tạo bởi các nhà tư tưởng đã rút ra những kết
luận trong hoạt động thực tiễn của quần chúng, của giai cấp đó. Từ những điều
kiện sống của giai cấp xuất hiện không phải hệ tư tưởng mà chỉ là tâm lý xã hội.

Từ đây, tạo cơ sở xác định cho giai cấp sáng tạo ra hệ tư tưởng cho giai cấp
mình.
V.I.Lênin cho rằng, hệ tư tưởng khoa học không phải xuất hiện cùng với sự lớn
mạnh tự phát của phong trào công nhân mà là kết quả sự phát triển của khoa
học, cuả văn hoá, của các tư tưởng tiến bộ trong xã hội. Người mang hệ tư tưởng
khoa học là đội tiên phong và có ý thức của phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân là đảng chính trị của giai cấp công nhân. Đảng này mang hệ tư tưởng
khoahọcvàoquần
chúng,
vào
phong
trào
công
nhân.
Hệ tư tưởng thể hiện mình bằng các hình thái khác nhau của các quan điểm về
chính trị, pháp luật, đạo đức, mỹ học, tôn giáo (thần học) và triết học (tức là mọi
hình thái của ý thức xã hội). Trong khoa học tự nhiên, tính tư tưởng được thể
hiện trong các kết luận mang tính triết học, tức là quan điểm từ những phát minh
của khoa học tự nhiên. Các học thuyết khoa học xã hội tự mình mạng chức năng
hệ tư tưởng, bởi vì, chúng được sử dụng để giải quyết những vấn đề xã hội xuất
hiện, xuất phát từ những định hướng và cơ sở tư tưởng khác nhau.
Bản thân học thuyết hệ tư tưởng là võ trường đấu tranh tư tưởng không khoan
nhượng giữa các học thuyết tư bản chống lại chủ nghĩa Mác-Lênin. Đấu tranh
chống lại chủ nghĩa tư bản trên lĩnh vực tư tưởng là nhiệm vụ của mỗi người
mang hệ tư tưởng mácxít.



×