Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Pháp luật về hoạt động của công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ PHƢƠNG ANH

PH¸P LUËT Về HOạT ĐộNG CủA CÔNG TY QUảN Lý TàI SảN
CủA C¸C Tỉ CHøC TÝN DơNG (VAMC) ë VIƯT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ PHƢƠNG ANH

PH¸P LUËT Về HOạT ĐộNG CủA CÔNG TY QUảN Lý TàI SảN
CủA C¸C Tỉ CHøC TÝN DơNG (VAMC) ë VIƯT NAM
Chun ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ THỊ THU THỦY

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đỗ Phƣơng Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT HOẠT
ĐỘNG CỦA CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA CÁC TỔ CHỨC
TÍN DỤNG ....................................................................................................... 6
1.1. Sự cần thiết phải thành lập công ty quản lý tài sản của các tổ
chức tín dụng để xử lý nợ xấu ................................................................... 6
1.2. Khái niệm, đặc điểm, các nguyên tắc hoạt động của công ty
quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng ................................................. 16
1.3. Khái niệm, cấu trúc pháp luật về hoạt động của công ty quản lý
tài sản của các tổ chức tín dụng .............................................................. 21

Kết luận chương 1 ................................................................................... 24
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Ở VIỆT NAM ................................................................................................ 25
2.1. Khái quát về sự hình thành, phát triển và hoạt động của cơng ty
quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam ............................. 25
2.2. Thực trạng pháp luật về hoạt động mua - bán nợ xấu của công
ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam ......................... 35
2.3. Đánh giá thực trạng pháp luật về hoạt động mua – bán nợ xấu
của công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam .......... 53
Kết luận chương 2 ................................................................................... 61


Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI
SẢN CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM ........................... 62
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động của công ty
quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam ............................. 62
3.2. Một số giải pháp hồn thiện pháp luật về hoạt động của cơng ty
quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam ............................. 64
Kết luận chương 3 ................................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................... 71


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

AMC:

Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng

thương mại (Asset Management Company)

DATC:

Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp
(Debt and Asset Trading Corporation)

DN:

Doanh nghiệp

NH:

Ngân hàng

NHNN:

Ngân hàng Nhà nước

NHTM:

Ngân hàng thương mại

TCTD:

Tổ chức tín dụng

TSBĐ:

Tài sản bảo đảm


VAMC:

Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
VAMC (Vietnam Asset Management Company) – Công ty quản lý tài
sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam được thành lập và hoạt động từ năm
2013. Các hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng
được thực hiện là: Mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng; Thu hồi nợ, địi nợ
và xử lý, bán nợ, tài sản bảo đảm; Cơ cấu lại khoản nợ, điều chỉnh điều kiện
trả nợ, chuyển nợ thành vốn góp, vốn cổ phần của khách hàng vay; Đầu tư,
sửa chữa, nâng cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê tài sản bảo đảm đã được
Công ty Quản lý tài sản thu nợ; Quản lý khoản nợ xấu đã mua và kiểm tra,
giám sát tài sản bảo đảm có liên quan đến khoản nợ xấu, bao gồm cả tài liệu,
hồ sơ liên quan đến khoản nợ xấu và bảo đảm tiền vay; Tư vấn, môi giới mua,
bán nợ và tài sản; Đầu tư tài chính, góp vốn, mua cổ phần; Tổ chức đấu giá tài
sản; Bảo lãnh cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vay vốn của tổ chức tín
dụng; Hoạt động khác phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Công ty Quản lý
tài sản sau khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép.
Những năm gần đây, các vấn đề xoay quanh hoạt động mua – bán nợ
xấu và xử lý nợ xấu luôn là mối quan tâm lớn của các quốc gia trên thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng. Nợ xấu được ví như là “căn bệnh ung thư”
quái ác hay “cục máu đông” gây tắc nghẽn hoạt động của các tổ chức tín
dụng, cản trợ sự phát triển của nền kinh tế. Trong hoạt động kinh doanh của
các tổ chức tín dụng, rủi ro cốt yếu chính là nợ xấu ln tồn tại, tiềm ẩn. Nợ
xấu là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng
của các tổ chức tín dụng, từ đó có thể thấy được “sức khỏe” tài chính, kỹ năng

quản trị rủi ro của tổ chức tín dụng đó.

1


Để xử lý nợ xấu của các TCTD, Nhà nước đã thành lập công ty quản lý tài
sản VAMC. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động xử lý nợ xấu của VAMC cũng
cịn nhiều bất cập như khơng phải tất cả các khoản nợ xấu VAMC đều mua,
quyền xử lý tài sản bảo đảm cho các khoản nợ xấu còn nhiều hạn chế ….
Xuất phát từ nhu cầu thực tế hiện nay, học viên đã lựa chọn đề tài:
“Pháp luật về hoạt động của công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín
dụng (VAMC) ở Việt Nam” với mong muốn làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận, từ đó phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về hoạt động của VAMC
– Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam, chỉ rõ các ưu
điểm và hạn chế tồn tại trong hoạt động xử lý nợ xấu để đưa ra các giải pháp,
kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động của VAMC – Công ty quản lý tài
sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động mua, bán nợ là một trong những giải pháp quan trọng để
xử lý nợ xấu. Đối tượng chủ yếu của hoạt động mua, bán nợ của các TCTD
bởi VAMC là các khoản nợ xấu. Hiện nay, đã có rất nhiều cơng trình khoa
học nghiên cứu về xử lý nợ xấu ngân hàng ở nhiều góc độ, nhiều đối tượng
khác nhau.
Ví dụ, bài “VAMC và xử lý nợ xấu: Một số vấn đề đặt ra và khuyến
nghị chính sách” của TS. Lê Thị Thùy Vân và Ths. Vương Duy Lâm; “Dùng
ngân sách xử lý nợ xấu: Việt Nam đề xuất, nước ngồi họ có làm vậy
khơng?” của NCS. Châu Đình Linh; “Bàn về xử lý nợ xấu” của TS. Tôn
Thanh Tâm; Luận văn thạc sĩ 2015 “Pháp luật về xử lý nợ xấu của NHTM từ
thực tiễn tại ngân hàng cổ phần ngoại thương Việt Nam (VietcomBank)” của
Cao Thị Thúy - Khoa Luật, ĐHQGHN; Luận văn thạc sĩ 2013 “Pháp luật về

mua bán nợ xấu của NHTM ở Việt Nam” của Nguyễn Thị Tú - Khoa Luật,

2


ĐHQGHN; Luận văn thạc sĩ 2014 “So sánh pháp luật Việt Nam và Malaysia
về mơ hình quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng” của Nguyễn Thị Phương
Nga - Khoa Luật, ĐHQGHN; Luận văn thạc sĩ 2014 “Pháp luật về hoạt động
mua, bán nợ xấu của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam” của Trà Đình Thứ Khoa Luật, ĐHQGHN; Luận văn thạc sĩ 2015 “Pháp luật về hợp đồng mua
bán nợ xấu của NHTM ở Việt Nam” của Phan Thị Hồng Lê - Khoa Luật,
ĐHQGHN; Sách chuyên khảo “Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro
trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên
thế giới” của PGS.TS. Lê Thị Thu Thủy (Chủ biên - 2016), NXB Đại học
Quốc Gia Hà Nội…
Các cơng trình nghiên cứu trên đã phân tích về thực trạng nợ xấu và
nêu lên những giải pháp để giải quyết tình trạng nợ xấu. Trong số các giải
pháp đó, có giải pháp thực hiện hoạt động mua, bán nợ và tạo lập thị trường
mua, bán nợ tại Việt Nam. Việc xử lý nợ xấu của NHTM tại VAMC đang
được tập trung nghiên cứu. Đặc biệt, nghiên cứu về khía cạnh pháp lý hoạt
động của công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng (VAMC) ở Việt
Nam ở cấp độ lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu của
các tổ chức tín dụng là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay, trong bối cảnh
nhiều ngân hàng vẫn đang trong tình trạng cịn có nhiều các khoản nợ xấu.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận và thực tiễn pháp luật về hoạt động của VAMC – Công ty quản lý tài sản
của các tổ chức tín dụng Việt Nam, đặc biệt là hoạt động xử lý nợ xấu của các
TCTD tại VAMC. Qua đó chỉ ra những hạn chế, bất cập, thiếu sót của pháp
luật hiện hành, đồng thời nêu lên những định hướng và đặt ra các giải pháp để
hoàn thiện pháp luật về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng tại VAMC.


3


Từ mục tiêu trên, đề tài có nhiệm vụ sau đây:
(i) Làm rõ những vấn đề lý luận về nợ xấu của các tổ chức tín dụng và
pháp luật về hoạt động của công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng
(đặc biệt là hoạt động xử lý nợ xấu).
(ii) Đánh giá thực trạng pháp luật về hoạt động xử lý nợ xấu của TCTD
tại VAMC.
(iii) Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật
về hoạt động của VAMC, đặc biệt là hoạt động mua bán nợ xấu.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định hiện hành của pháp
luật về hoạt động của công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng
(VAMC) ở Việt Nam, trọng tâm nghiên cứu chủ yếu về pháp luật hoạt động
mua bán nợ xấu của các tổ chức tín dụng tại VAMC.
Trong luận văn này, học viên tìm hiểu cụ thể về các khía cạnh pháp lý,
một số vấn đề lý luận, thực tiễn và nội dung pháp luật về hoạt động của
VAMC, đưa ra những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu để tiếp cận và giải
quyết các vấn đề được đặt ra như:
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích cụ thể các quy định pháp
lý về hoạt động xử lý nợ xấu của VAMC ở Việt Nam hiện nay và thực trạng
thực thi pháp luật đó. Kết hợp với phương pháp so sánh để so sánh với pháp
luật về xử lý nợ xấu của AMC, DATC, trên cơ sở đó tổng hợp lại những vấn
đề pháp lý đặt ra và phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hoạt
động của VAMC.


4


Phương pháp so sánh và phân tích số liệu: So sánh và phân tích số liệu
về hoạt động xử lý nợ xấu của VAMC ở Việt Nam so với hoạt động xử lý nợ
xấu của một số nước trên thế giới. Từ đó tìm ra các quy định đã phù hợp và
những điểm bất cập cần chỉnh sửa, bổ sung nhằm tạo ra cơ chế pháp lý thống
nhất, phù hợp, tạo sự phát triển cho VAMC ở Việt Nam.
Các phương pháp trên được áp dụng linh hoạt, kết hợp với nhau. Đồng
thời trong quá trình nghiên cứu, kết hợp cả lý thuyết và thực tế từ đó đánh giá,
kết luận được vấn đề nghiên cứu.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là một cơng trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu các vấn đề
lý luận về pháp luật về hoạt động của công ty quản lý tài sản của các tổ chức
tín dụng (VAMC) ở Việt Nam. Làm rõ được đặc thù của hoạt động xử lý nợ
xấu bởi VAMC so với các chủ thể xử lý nợ xấu khác như AMC và DATC.
Ngoài ra, luận văn còn đánh giá được những bất cập chủ yếu của pháp
luật cũng như bất cập trong thực tiễn thực hiện xử lý nợ xấu của VAMC (đặc
biệt là mua bán nợ xấu), để từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
hoạt động xử lý nợ xấu của VAMC và nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu của các
TCTD ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1. Những vấn đề lý luận về nợ xấu và pháp luật về hoạt động
của công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng
Chương 2. Thực trạng pháp luật về hoạt động của cơng ty quản lý tài
sản của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam
Chương 3. Định hướng và giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật về hoạt
động của cơng ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam


5


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT
HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN
CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1. Sự cần thiết phải thành lập cơng ty quản lý tài sản của các tổ
chức tín dụng để xử lý nợ xấu
 Khái niệm nợ xấu của các tổ chức tín dụng
Nợ xấu là hiện tượng ln tồn tại trong hoạt động của các ngân
hàng trên thế giới và cũng như ở Việt Nam. Nợ xấu thông thường được
hiểu là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả
năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra
khi khách hàng vay tuyên bố phá sản hoặc tẩu tán tài sản. Hiện nay, nợ
xấu được định nghĩa như sau:
- Theo nhóm chuyên gia tư vấn Advisory Expert Group (AEG) thì:
Một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và\hoặc gốc trên 90 ngày;
hoặc các khoản lãi chưa trả đủ từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn
hoặc chậm trả theo thỏa thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới
90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được
thanh toán đầy đủ. Như vậy, nợ xấu về cơ bản cũng được xác định dựa trên 2
yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ bị nghi ngờ [43].
Với quan điểm này, nợ xấu được tiếp cận dựa trên thời gian quá hạn
trả nợ và khả năng trả nợ của khách hàng. Khả năng trả nợ ở đây có thể là
khách hàng hồn tồn không trả được nợ, hoặc việc trả nợ của khách hàng
là không đầy đủ.
- Tổ chức Tiền tệ Thế giới (IMF) đưa ra định nghĩa về nợ xấu như sau:

6



Một khoản cho vay được coi là không sinh lời (nợ xấu) khi tiền thanh toán lãi
và/hoặc tiền gốc đã quá hạn từ 90 ngày trở lên, hoặc các khoản thanh toán lãi
đến 90 ngày hoặc hơn đã được tái cơ cấu hay gia hạn nợ, hoặc các khoản
thanh toán dưới 90 ngày nhưng có các nguyên nhân nghi ngờ việc trả nợ sẽ
được thực hiện đầy đủ (người vay phá sản). Sau khi khoản vay được xếp vào
danh mục nợ xấu, nó hoặc bất cứ khoản vay thay thế nào cũng nên được xếp
vào danh mục nợ xấu cho tới thời điểm phải xóa nợ hoặc thu hồi được lãi và
gốc của khoản vay đó hoặc thu hồi được khoản vay thay thế.[48]
- Khái niệm nợ xấu của Ngân hàng trung ương Châu Âu (ECB)
Nợ xấu được hiểu theo hai khía cạnh sau:
 Nợ xấu là những khoản vay khơng có khả năng thu hồi: (i) những
khoản nợ hết hiệu lực hoặc những khoản nợ khơng có căn cứ đòi bồi thường
từ người mắc nợ; (ii) những khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được
với người mắc nợ hoặc khơng thể tìm được người mắc nợ; (iii) những khoản
nợ mà khách hàng chấm dứt hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản, hoặc kinh
doanh bị thua lỗ và tài sản cịn lại khơng đủ để trả nợ
 Nợ xấu là những khoản vay có thể khơng thanh tốn đầy đủ cho
Ngân hàng
Những khoản nợ này khơng có tài sản thế chấp hoặc tài sản đưa ra thế
chấp không đủ trả nợ. Điều này đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ khơng thể
thu hồi đầy đủ tồn bộ khoản vay của khách hàng. Các trường hợp liên quan
tới khoản nợ này: (i) những khoản nợ mà khách hàng vay đồng ý thanh tốn
trong q khứ, nhưng phần cịn lại không thể được đền bù, hoặc những khoản
nợ trong đó tài sản được chuyển để thanh tốn những giá trị cịn lại khơng đủ
để thanh tốn đầy đủ khoản nợ; (ii) những khoản nợ mà khách hàng vay khó
có thể trả nợ và yêu cầu gia hạn nhưng không thể thanh toán được khoản nợ
7



trong thời gian thỏa thuận gia hạn đó; (iii) những khoản nợ mà tài sản thế
chấp không đủ để thanh tốn khoản nợ hoặc tài sản thế chấp này khơng được
chấp thuận dẫn tới khách hàng vay không thể thanh tốn được khoản nợ; (iv)
những khoản nợ mà Tịa án tuyên bố khách hàng vay bị phá sản nhưng phải
bồi hoàn dư nợ.
- Ngân hàng Thế giới đưa ra khái niệm nợ xấu là các khoản nợ dưới
chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi
vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản
hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ xấu gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc
thường quá ba tháng căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán
các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
Từ các phân tích trên có thể thấy được rằng định nghĩa nợ xấu theo
quan điểm này được xác định dựa trên một yếu tố chủ yếu đó là khả năng trả
nợ của khách hàng
- Khái niệm nợ xấu của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (BCBS)
Trong các hướng dẫn về các thông lệ chung tại nhiều quốc gia về quản
lý rủi ro tín dụng thì việc bị coi là nợ xấu khi khoản nợ không cịn khả năng
hồn trả nếu một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau xảy ra: (i) Khách hàng
vay không có khả năng trả nợ tồn bộ khi TCTD chưa thực hiện hành động gì
để cố gắng thu hồi; (ii) Khách hàng vay có khoản nợ quá hạn 90 ngày trở lên
và có dấu hiệu khơng trả được nợ [45].
Tóm lại, qua các quan điểm, khái niệm trên của các tổ chức, ngân hàng
trên thế giới có thể thấy được một khoản nợ được coi là nợ xấu khi: (i) khách
hàng vay quá hạn trả nợ và (ii) khách hàng vay khơng có khả năng trả nợ.
Điều này thường xảy ra khi các con nợ đã làm ăn thua lỗ liên tục, tuyên bố
phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ xấu gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi

8



và/hoặc gốc thường quá ba tháng, căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng
để hạch toán các khoản vay vào các nhóm nợ thích hợp.
 Đặc điểm nợ xấu của các tổ chức tín dụng
Mặc dù có nhiều quan niệm về nợ xấu nhưng hầu hết đều thừa nhận nợ
xấu là những khoản nợ khó địi hoặc mất khả năng thu hồi. Ở mức độ khái
quát, những đặc điểm riêng của nợ xấu bao gồm:
Thứ nhất, nợ xấu của TCTD phát sinh gắn với hoạt động tín dụng của
TCTD và thơng thường có giá trị lớn. Hoạt động này được diễn ra dưới hình
thức giao dịch giữa hai bên chủ thể, trong đó một bên là các TCTD và một
bên là các cá nhân, tổ chức khác. Đây là điểm khác biệt của nợ xấu so với các
khoản nợ phát sinh trong giao dịch dân sự khác, giữa hai chủ thể là các cá
nhân, tổ chức, khơng có sự tham gia của các TCTD. Các khoản vay trong
trường hợp này thường là những khoản vay có giá trị lớn, được bảo đảm thực
hiện bằng tài sản là động sản, bất động sản.
Thứ hai, nợ xấu là những khoản nợ dưới chuẩn. Theo quan niệm của
nhiều quốc gia trên thế giới đã phân tích ở trên thì một khoản nợ được coi là
nợ xấu khi: (i) khách hàng vay q hạn trả nợ và\hoặc (ii) khách hàng vay
khơng có khả năng trả nợ.
Thứ ba, nợ xấu là những khoản nợ có bằng chứng nghi ngờ khả năng
trả nợ của con nợ như: con nợ trong quá trình kinh doanh thua lỗ dẫn tới nguy
cơ phá sản, con nợ bất thường, chậm trễ trong việc cung cấp các báo cáo tài
chính và trả nợ theo hợp đồng đã thỏa thuận…
Nói tóm lại, thời hạn trả nợ cũng như tình trạng của con nợ là hai yếu
tố cơ bản để xác định khoản nợ có phải nợ xấu hay khơng. Hai yếu tố này
cũng cho thấy nợ xấu ngân hàng là những khoản nợ khó có khả năng thu
hồi hơn so với các khoản nợ phát sinh trong giao dịch dân sự. Vì nợ xấu
9



thơng thường có giá trị lớn hơn, khó thu hồi nên việc xử lý nợ xấu không
đơn thuần là việc trả lại cả gốc và lãi bằng tiền, tài sản như khoản nợ phát
sinh trong giao dịch dân sự khác mà phải sử dụng rất nhiều phương thức
như cơ cấu lại nợ, mua bán nợ… để thu hồi.
Nếu nhìn nợ xấu từ góc độ các TCTD thì ngun nhân gây ra nợ xấu
thuộc về các TCTD do yếu kém trong việc thẩm định dự án và đánh giá khách
hàng, yếu kém trong khâu kiểm tra, giám sát, các vấn đề về đạo đức cán bộ….
Ngược lại, nếu nhìn nợ xấu từ góc độ người đi vay thì lỗi gây ra nợ xấu lại
thuộc về người đi vay do đầu tư dự án sai, sử dụng vốn không hiệu quả, đầu
ra bế tắc…, hoặc nói rộng ra, nếu ta nhìn nợ xấu từ cuộc khủng hoảng thì lỗi
lại thuộc về khủng hoảng đã đẩy các TCTD và người vay rơi vào bế tắc do thị
trường nước ngoài gặp khủng hoảng, dẫn đến cầu hàng hóa giảm, làm cho
hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp bế tắc, từ đó tạo ra
nợ xấu…. Như vậy, nhìn nợ xấu từ bất cứ góc độ nào cũng có thể đổ lỗi được
cho đối tượng đó [32].
 Xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng
Hiện nay, có thể thấy mục tiêu cuối cùng của xử lý nợ xấu là để thu hồi
được vốn vay. Kinh nghiệm ở hầu hết các quốc gia cho thấy công ty quản lý
tài sản thường phải mua lại nợ xấu của các tổ chức tín dụng và sau đó tìm
cách xử lý khoản nợ này. Như vậy, có thể hiểu xử lý nợ xấu là một cơng việc
thường xun và có mục đích chính là thu hồi tối đa số tiền cho vay của các
tổ chức tín dụng.
Xử lý nợ xấu là vấn đề phức tạp, có nhiều bên liên quan. Để xử lý nợ
xấu của các tổ chức tín dụng hiệu quả cần có sự phối hợp từ nhiều phía, cụ thể
là cơ quan nhà nước, khách hàng vay và các tổ chức tín dụng. Đặc biệt phải
tuân thủ các nguyên tắc xử lý nợ xấu như sau:

10



Thứ nhất, bảo đảm công khai, minh bạch, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ
chức mua bán, xử lý nợ xấu và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Thứ hai, phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo
đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống.
Thứ ba, cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật để xảy
ra nợ xấu và trong quá trình xử lý nợ xấu phải chịu trách nhiệm theo quy định
của pháp luật.
Trên thực tế hiện nay chính bản thân các tổ chức tín dụng phải có
những biện pháp xử lý cho khoản cho vay của mình để đảm bảo được
tính thanh khoản của các TCTD. Cụ thể có một số phương thức xử lý nợ
xấu như sau:
Thứ nhất, phương thức trích lập dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu.
Hiện nay, phương thức trích lập dự phịng này được xem là phương
thức tối ưu trên thế giới trong hoạt động ngân hàng. Ngân hàng nhà nước Việt
Nam cũng đã ban hành quy định về trích, lập và sử dụng quỹ dự phịng rủi ro
để đảm bảo an toàn cho hoạt động của các TCTD.
Thứ hai, phương thức thu hồi trực tiếp và thông qua bán phát mại tài
sản bảo đảm
Đây là phương thức truyền thống trong các biện pháp xử lý nợ xấu của
các TCTD. Việc phát mại tài sản thường đem lại cho ngân hàng sự đảm bảo
thu hồi vốn trực tiếp vì giá trị tài sản đảm bảo thường được định giá thấp hơn
giá trị thực. Tuy nhiên, cái khó hiện nay của các TCTD là có rất nhiều tài sản
đảm bảo là bất động sản, nên việc xử lý nợ sẽ khó khăn hơn.
Thứ ba, phương thức tái cơ cấu nợ và hỗ trợ khách hàng để có thể trả nợ.

11


Phương thức xử lý nợ xấu này đang được áp dụng rộng rãi. Điều quan

trọng nhất của phương thức này là các TCTD phải nắm được phương án trả
nợ, cam kết của khách hàng vay, hay các dự định tiến hành của khách hàng
vay để từ đó có thể kiểm sốt được tình hình, tránh nợ xấu, cung cấp các tư
vấn tài chính, thậm chí là hỗ trợ khi cần thiết.
Thứ tư, phương thức mua bán nợ.
Phương thức mua bán nợ là phương thức xử lý nợ xấu hiệu quả nhất,
giúp cho các TCTD thu hồi vốn để cải thiện tình hình tài chính nhanh. Ở Việt
Nam, tháng 8/2017, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành Nghị quyết
số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Có thể
thấy được rằng Việt Nam hiện nay rất quan tâm tới phương thức xử lý nợ xấu
bằng việc mua bán nợ xấu. Và đặc biệt là hoạt động mua bán nợ của công ty
quản lý tài sản của các TCTD. Hoạt động này hiện nay đã và đang được pháp
luật hoàn thiện hơn.
Thứ năm, phương thức xử lý nợ thơng qua Tịa án hoặc trọng tài.
Đây là phương thức được áp dụng cuối cùng khi các phương thức xử lý
khác không hiệu quả. Phương thức xử lý nợ xấu này phát sinh chi phí tốn
kém, mất nhiều thời gian, thủ tục rườm rà và lợi ích chưa chắc đã đạt được
như mong muốn.
Với tốc độ tăng trưởng nợ xấu của các tổ chức tín dụng ngày càng
tăng, việc xử lý nợ xấu đòi hỏi phải có bộ máy chun nghiệp hơn, với tính
chất hoạt động như một doanh nghiệp nhằm hỗ trợ các tổ chức tín dụng về
cơng tác quản lý tài sản để xử lý nợ xấu. Do đó nhu cầu thành lập cơng ty
quản lý tài sản là cần thiết để thực hiện các hoạt động của công ty quản lý
tài sản của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến xử
lý nợ xấu. Việc thành lập công ty quản lý tài sản nhằm tận thu nợ tồn đọng,

12


hạn chế tối đa tổn thất tài sản, làm lành mạnh hố tình hình tài chính là một

nhiệm vụ cấp thiết.
 Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng được thành lập với
các mục đích chính như sau:
Thứ nhất, nhằm chuyên nghiệp hóa hoạt động quản lý, xử lý nợ quá
hạn của toàn hệ thống ngân hàng;
Thứ hai, góp phần xử lý nợ xấu nhanh chóng và hiệu quả; Cơ cấu
lại nợ tồn đọng, tiếp nhận quản lý các khoản nợ tồn đọng của NH bằng
các biện pháp: giãn nợ, miễn giảm lãi suất, đầu tư thêm, chuyển đổi nợ
thành vốn góp…
Thứ ba, góp phần cải tiến quản lý rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng
của ngân hàng;
Thứ tư, từng bước phát triển hoạt động mua bán nợ; quản lý, kinh
doanh tài sản (cho thuê, mua bán, khai thác);
Thứ năm, lấy thu đủ bù chi; bảo toàn và phát triển vốn;
Thứ sáu, quản lý an tồn tài sản NH giao; đóng góp một phần lợi nhuận
cho NH.
 Hoạt động xử lý nợ xấu của công ty quản lý tài sản của các tổ chức
tín dụng là cần thiết, bởi:
Thứ nhất, nợ xấu đại diện cho một lượng vốn tồn đọng trong nền kinh
tế. Lượng vốn này khiến việc lưu thông nguồn tiền bị hạn chế. Như vậy
nguồn tiền trong nền kinh tế không lưu thông được và hệ thống ngân hàng sẽ
gặp khó khăn về thanh khoản, chi phí phát sinh do nợ xấu là rất lớn.
Thứ hai, tình trạng nợ xấu ảnh hưởng đến tỷ lệ vốn đầu tư từ nước
ngoài vào thị trường ngân hàng. Nhất là trong bối cảnh các nước trên thế giới
13


đang tiến nhanh tới tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế thì một quốc gia với nền
kinh tế bị thu hẹp sẽ rất bất lợi.
Thứ ba, nợ xấu là một nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến việc ngân hàng

mất khả năng thanh tốn, có nguy cơ rủi ro cao gây đổ vỡ ngân hàng. Hoạt
động ngân hàng thực chất là việc sử dụng nguồn vốn tiền gửi của dân cư và
nguồn đi vay để tiến hành cho vay, tái đầu tư trở lại hoạt động sản xuất kinh
doanh. Khi việc cho vay, đầu tư của ngân hàng khơng cịn hiệu quả, các
khoản nợ tồn đọng ngày càng nhiều, khả năng thanh toán của ngân hàng sẽ bị
hạn chế, đến lúc nào đó ngân hàng khơng cịn khả năng đáp ứng được việc rút
vốn ồ ạt trong dân cư.
Thứ tư, trong điều kiện mỗi ngân hàng đều có quan hệ giao dịch, trao
đổi với ngân hàng khác, mỗi ngân hàng đều giữ vai trị nhất định trong cả bộ
máy thì chỉ cần một ngân hàng bị phá sản sẽ sây ảnh hưởng đến tồn hệ
thống, thậm chí là khủng hoảng tài chính.
Trước tình hình đó địi hịi phải có một công cụ đặc biệt hữu hiệu để xử
lý nhanh nợ xấu tại các TCTD nhằm tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, cho
doanh nghiệp và cho chính TCTD, trong điều kiện nguồn vốn ngân sách hạn
hẹp không đủ để hỗ trợ xử lý nợ xấu nhanh và triệt để. Cơng ty Quản lý tài
sản của các tổ chức tín dụng ra đời với nhiệm vụ chính là xử lý khối nợ xấu
ngày càng có chiều hướng gia tăng, đặc biệt phải chuẩn bị hành trang cho quá
trình tái cơ cấu các TCTD và phân loại chất lượng theo thông lệ quốc tế mà
không phải sử dụng vốn ngân sách của nhà nước.
Mặc dù có rất nhiều phương thức được sử dụng để xử lý nợ xấu, tuy
nhiên hoạt động mua bán nợ xấu của công ty quản lý tài sản của các tổ chức
tín dụng là một trong những phương thức phát huy hiệu quả cao trong việc
làm giảm thiểu tình trạng nợ xấu trong nền kinh tế hiện nay.

14


Ưu điểm của phương thức này được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, Việc chuyển giao một khoản nợ xấu khi được mua, bán
được tiến hành đồng thời với việc chuyển giao các nghĩa vụ của bên nợ và

các bên liên quan đến khoản nợ kể cả các quyền gắn liền với các bảo đảm
cho khoản nợ từ bên bán nợ sang bên mua nợ. Điều này đồng nghĩa việc
bên mua nợ được trao cho những quyền hạn đặc biệt khi xúc tiến xử lý và
thu hồi các khoản nợ cho vay (mà không thể thực hiện được khi chủ thể là
ngân hàng). Từ đó tăng cường khả năng thu hồi nợ đối với các khoản nợ
xấu của doanh nghiệp.
Thứ hai, Thông thường việc mua bán một khoản nợ xấu không chỉ đơn
thuần là chuyển đổi khoản nợ từ chủ thể này sang một chủ thể mới mà bên
mua nợ sau khi mua còn bằng nhiều biện pháp trực tiếp và gián tiếp tham gia
vào hoạt động điều hành quản lý doanh nghiệp, nhằm xử lý triệt để nợ xấu.
Việc này làm cho hoạt động của doanh nghiệp thêm lành mạnh, hạn chế tốt
nhất nguyên nhân gây ra nợ xấu.
Mục tiêu chính của bán nợ xấu là góp phần xử lý nợ xấu của các tổ
chức tín dụng về mức an tồn; góp phần giảm lãi suất cho vay.
Nợ xấu ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của các TCTD. Sở dĩ phải
quan tâm nhiều tới các vấn đề về nợ xấu bởi nó có ảnh hưởng sâu rộng tới các
TCTD và nền kinh tế.
Thông qua việc xử lý nợ xấu của công ty quản lý tài sản của TCTD, các
TCTD yếu kém được nhận diện và được cơ cấu lại, khơng để xảy ra đổ vỡ
TCTD ngồi tầm kiểm sốt, đảm bảo giữ vững sự ổn định, an toàn của hệ
thống các TCTD.
Khi nợ xấu càng kéo dài thì chi phí bỏ ra để xử lý nợ xấu sẽ càng lớn
như vậy tài sản cầm cố tại các TCTD sẽ có nguy cơ bị hao mịn, hư hỏng, giá
15


trị và giá trị sử dụng sẽ giảm dần, có khi còn bị mất dẫn tới thiệt hại cho ngân
hàng và người gửi tiền. Trên thực tế, nếu nợ xấu được xử lý nhanh, khắc phục
sớm thì các tài sản này sẽ được sử dụng giá trị của nó một cách nhanh chóng
nhất, khơng bị tổn thất về giá trị.

Do vậy, ta có thể thấy được rằng giải quyết nợ xấu nhanh sẽ cải
thiện được năng lực tài chính của các TCTD, năng lực tài chính của các
TCTD tốt thì việc điều hành chính sách kinh tế mới dễ dàng và hoạt
động được linh hoạt.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, các nguyên tắc hoạt động của công ty
quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng
1.2.1. Khái niệm hoạt động của công ty quản lý tài sản của các tổ
chức tín dụng
Hiện nay, trong tình trạng nợ xấu càng ngày càng tăng cao mà hệ thống
các tổ chức tín dụng khó có thể giải quyết, chính phủ các nước trên thế giới sẽ
phải can thiệp để giảm tỷ lệ này xuống mức an tồn; Có thể giảm tỉ lệ này
xuống mức an tồn thơng qua việc thành lập các cơng ty quản lý tài sản của
các tổ chức tín dụng, với kỳ vọng có thể tối đa hố giá trị phục hồi của các
khoản nợ xấu với chi phí thấp nhất. Có thể hiểu, thực chất cơng ty quản lý tài
sản của các tổ chức tín dụng là cơng ty xử lý nợ quốc gia, do nhà nước thành
lập để xử lý nợ của các tổ chức tín dụng.
Ở Hàn quốc, Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng là
KAMCO (Korean Assent Management Corporation). Cấu trúc vốn điều lệ
của KAMCO đến từ ba đơn vị: Bộ Tài chính và Kinh tế (đóng góp 42,8%),
Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc (KDB, 28,6%), và các tổ chức tài chính
khác (28,6%). KAMCO được vận hành bởi một ủy ban gồm các đại điện của
Bộ Tài chính & Kinh tế, Bộ Kế hoạch và Ngân sách, Ủy ban Giám sát tài

16


chính, Hiệp hội các Ngân hàng, cơng ty bảo hiểm tiền gửi, KDB, và ba
chuyên gia độc lập (một luật sư, một chuyên gia kiểm toán, và một chuyên
gia kinh tế) [14].
KAMCO mua các khoản nợ xấu của các tổ chức tài chính dựa trên các

tiêu chí nhất định và bằng nhiều phương pháp khác nhau như phân tích, định
giá và đàm phán giá bán cuối cùng. Việc thanh lý các khoản nợ xấu được tiến
hành từ cuối năm 2008, dưới nhiều hình thức, từ đấu thầu quốc tế cho đến bán
buôn, bán lẻ và tiến hành tái cấu trúc doanh nghiệp. Về cơ bản, Hàn Quốc đã
thực hiện thành công việc giải quyết nợ xấu, tái cơ cấu doanh nghiệp, tái cơ
cấu khu vực tài chính, góp phần ổn định nền kinh tế. Chính phủ Hàn Quốc đã
can thiệp nhanh chóng, kịp thời và tồn diện, triển khai các biện pháp xử lý
nợ xấu hợp lý khi đưa KAMCO vào hoạt động và phát triển thị trường thứ cấp
cho các khoản nợ xấu, các chứng khoán được bảo đảm bằng nợ xấu được tiến
hành giao dịch thuận lợi, thu hút các nhà đầu tư [37].
Ở Mỹ, năm 1989, Chính phủ Mỹ thành lập Công ty ủy thác xử lý nợ
RTC (Resolution Trust Corporation) theo Đạo luật Cải tổ, phục hồi và quản lý
các thể chế tài chính (FIRREA). RTC đóng vai trị là một cơ quan liên bang
giám sát, quản lý, thu hồi tài sản của các thể chế tiết kiệm và cho vay liên
bang bị vỡ nợ do cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay. Với tư cách là một
cơ quan nhà nước, RTC có các mục tiêu: tối đa hóa lợi nhuận rịng từ việc bán
các tài sản chuyển giao, tối thiểu hóa ảnh hưởng đến thị trường bất động sản
và tài chính địa phương, cũng như hỗ trợ các cá nhân có thu nhập thấp có thể
tiếp cận và chi trả cho các khoản mua nhà [15].
Ở Nhật Bản, năm 2001, Chính phủ Nhật và BoJ (ngân hàng trung ương
Nhật bản) đã đưa ra một chiến lược giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu trong hệ
thống ngân hàng. Chiến lược này được gọi là “Major bank” và hướng đến đẩy

17


nhanh việc xử lý nợ xấu từ sổ sách của các ngân hàng kể từ 3 năm trước đó.
Các ngân hàng bắt buộc phải loại bỏ các khoản vay (NPLs) bằng cách hoặc
bán nợ xấu trực tiếp trên thị trường, hoặc theo đuổi thủ tục phá sản, hoặc nỗ
lực phục hồi khoản vay…

Trung tâm của chiến lược trên là sự thành lập của công ty RCC
(Resolution and Collection Corporation). RCC là một công ty quản lý tài sản
cấp quốc gia theo dạng tập trung, 100% vốn là vốn của công ty bảo hiểm tiền
gửi Nhật Bản. RCC được trao nhiều quyền hạn đặc biệt cho phép giải quyết
các trường hợp xử lý nợ khó khăn, chẳng hạn bất động sản gắn liền với tổ
chức tội phạm mà các ngân hàng khơng thể thu hồi nợ hoặc bán nợ. RCC cịn
có thể nhận các tài sản xấu mà nhiều nhà đầu tư khác không muốn mua, và
giúp giải quyết các tranh chấp lẫn đàm phán với những người nợ. Ngoài ra,
RCC cũng giúp cải thiện tính minh bạch của thị trường nợ xấu bằng cách thiết
lập các tiêu chuẩn và công bố thông tin về tài sản thế chấp [14].
Qua các nghiên cứu, phân tích từ một số nước trên thế giới trên về công
ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng. Có thể thấy được rằng, cơng ty
quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng là một tổ chức của nhà nước, được
thành lập từ nguồn vốn ngân sách nhà nước để xử lý các khoản nợ xấu của
ngân hàng thương mại.
Hoạt động của công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng được
hiểu là hoạt động xử lý nợ xấu của TCTD bởi công ty quản lý tài sản của các
TCTD nhằm đảm bảo an tồn trong hoạt động tín dụng của các TCTD và
giảm tỷ lệ nợ xấu.
1.2.2. Đặc điểm hoạt động của công ty quản lý tài sản của các tổ
chức tín dụng
Một số đặc điểm hoạt động chủ yếu của công ty quản lý tài sản của các
tổ chức tín dụng, cụ thể:

18


Một là công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng là một tổ chức
tài chính của nhà nước, do nhà nước thành lập, có hoạt động chủ yếu là xử lý
các khoản nợ xấu của TCTD. Công ty này được quyền chủ động trong giải

quyết nợ xấu ngân hàng.
Hai là hoạt động của công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng
chủ yếu là để khắc phục nợ xấu của các ngân hàng thương mại, cân đối được
tài chính và giúp cho các TCTD hạn chế tình trạng bị phá sản.
Ba là hoạt động của công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng
được thể hiện qua việc rà sốt, phân loại, đánh giá lại các khách hàng vay, tài
sản bảo đảm và các khoản nợ đã mua để xác định khả năng thu hồi nợ và có
giải pháp xử lý phù hợp;
Bốn là hoạt động của công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng
được thể hiện thông qua việc mua, bán, xử lý nợ xấu theo cơ chế thị trường
theo quy đinh
̣ của pháp luâ ̣t và phương án đươ ̣c duyê ̣t , đồng thời áp dụng các
biện pháp giảm thiểu rủi ro trong việc mua bán nợ theo cơ chế thị trường;
Năm là phố i hơ ̣p với TCTD bán nợ khởi kiện khách hàng vay chây ỳ ,
không hơ ̣p tác trong viê ̣c trả nơ ̣ , tích cực triển khai hoạt động kiểm tra, giám
sát việc thực hiện các nội dung ủy quyền của TCTD được ủy quyền, khách
hàng vay, khoản nợ và tài sản bảo đảm của khoản nợ đã mua;
1.2.3. Nguyên tắc hoạt động của công ty quản lý tài sản của các tổ
chức tín dụng
Có thể nói công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng hình thành
là một trong các biện pháp trọng điểm để xử lý nợ xấu quốc gia nên công ty
quản lý tài sản hoạt động theo nguyên tắc không vì mục tiêu lợi nhuận; cơng
khai minh bạch trong hoạt động mua, xử lý nợ xấu với mục tiêu chính yếu là

19


×