Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nông cụ ở tỉnh Vĩnh Long trong thế kỷ XX tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.06 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
__________
NGUYỄN THU VÂN

NÔNG CỤ Ở TỈNH VĨNH LONG
TRONG THẾ KỶ XX

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 92 29 013

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2018


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Trần Thị Nhung
2. TS. Trần Thị Bích Ngọc

Phản biện 1: PGS.TS. Đoàn Ngọc Hải
Phản biện 2: PGS.TS. Đinh Xuân Lý
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Mão

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Học viện, họp tại Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi,
Quận Thanh Xuân, Hà Nội


vào hồi…….giờ…….phút, ngày…….tháng…….năm 2018.

Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học Xã hội


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông cụ và nông cụ cơ giới đã có những đóng góp quan trọng trong
nhiều thế kỷ khai phá và phát triển ở đồng bằng sông Cửu Long nói
chung và tỉnh Vĩnh Long nói riêng, gắn với những biến đổi sâu sắc
trong đời sống văn hóa – xã hội, nhưng cho đến nay chưa có những
công trình nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống về vấn đề này. Ngoài ra,
việc ít quan tâm nghiên cứu về nông cụ khiến cho các thế hệ sau không
hiểu biết một phần những giá trị văn minh vật chất mà người Việt ở
phương Nam đã kế thừa và phát triển trong quá trình đi mở đất, vì vậy,
việc nghiên cứu về nông cụ và những thay đổi nông cụ ở tỉnh Vĩnh
Long trước hết sẽ là một đóng góp cho sự thiếu sót trên. Đồng thời,
thông qua việc nghiên cứu các nông cụ sử dụng trong sản xuất nông
nghiệp sẽ có cái nhìn toàn diện về hệ thống nông cụ tại tỉnh Vĩnh Long,
bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng mong muốn việc sưu tầm, bảo quản
các loại nông cụ sẽ được các ban ngành văn hóa ở địa phương quan
tâm, không những nhằm bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống của
địa phương mà còn giúp các thế hệ trẻ hiểu biết sâu sắc những đóng
góp của các nông cụ sản xuất trong quá trình khai khẩn vùng đất mới.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn: Nông cụ ở tỉnh Vĩnh Long
trong thế kỷ XX làm đề tài luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử

Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu nông cụ ở tỉnh Vĩnh Long trong thế kỷ XX, những ảnh
hưởng của các loại nông cụ đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội của tỉnh. Trên cơ sở đó đưa ra một số gợi ý cho các nhà quản lý tỉnh
Vĩnh Long trong việc xây dựng chính sách phát triển nông nghiệp và
bảo tồn các loại nông cụ truyền thống.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những yếu tố: Điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội, chính
trị, phương thức canh tác, khoa học kỹ thuật đã ảnh hưởng đến sự cải


2
tiến, thay đổi nông cụ sản xuất trong nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Long
trong thế kỷ XX.
- Sự giao lưu và tiếp biến văn hóa trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp giữa các cư dân Việt, Khmer, Chăm, Hoa.
- Đóng góp của nông cụ và nông cụ cơ giới đối với sự phát triển của
sản xuất nông nghiệp Vĩnh Long. Rút ra một số đặc điểm và bài học
lịch sử từ việc nghiên cứu nông cụ ở một địa bàn cụ thể là tỉnh Vĩnh
Long
- Đưa ra một số gợi ý cho các nhà quản lý tỉnh Vĩnh Long trong việc
xây dựng chính sách phát triển nông nghiệp và bảo tồn những nông cụ
truyền thống ở tỉnh Vĩnh Long.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là các loại nông cụ được sử
dụng trong hoạt động sản xuất nông nghiệp và sự biến đổi của chúng
trong bối cảnh điều kiện tự nhiên và điều kiện chính trị, kinh tế, văn

hóa, xã hội tại vùng đất Vĩnh Long.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi nội dung nghiên cứu: Trong giới hạn của một luận
án, đề tài không nghiên cứu rộng sang các đối tượng là các nông cụ,
ngư cụ trong sản xuất lâm nghiệp hay ngư nghiệp mà tập trung vào đối
tượng chính là các loại nông cụ được sử dụng trong hoạt động sản xuất
nông nghiệp, tiếp cận trên ba nhóm chủ yếu: 1. Nông cụ phục vụ cho
canh tác lúa. 2. Nông cụ phục vụ cho canh tác cây ăn trái. 3. Nông cụ
phục vụ cho canh tác hoa màu.
Nghiên cứu nông cụ trên các khía cạnh:
- Các loại nông cụ sử dụng theo quy trình sản xuất nông nghiệp
trong các khâu làm đất, gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, tồn trữ, trong
các hoạt động sản xuất trồng lúa, cây trái, hoa màu.
- Việc cải tiến nông cụ, thay đổi nông cụ trong sản xuất nông
nghiệp.
3.2.2. Phạm vi thời gian nghiên cứu: Luận án giới hạn thời gian
nghiên cứu trong thế kỷ XX, với mốc cụ thể từ năm 1919 đến năm
2000.


3
3.2.3. Phạm vi không gian nghiên cứu: Nghiên cứu nông cụ tỉnh
Vĩnh Long trong thế kỷ XX gồm có thị xã Vĩnh Long và các huyện
Bình Minh, Bình Tân, Long Hồ, Mang Thít, Tam Bình, Trà Ôn, Vũng
Liêm. Nhưng luận án cũng chỉ nghiên cứu và đề cập đến những huyện,
xã có lịch sử làm ruộng, cây ăn trái, hoa màu lâu đời; những nơi còn
lưu giữ nhiều nông cụ cổ truyền và có sự thay đổi nhanh chóng sang cơ
giới; những nơi có nhiều người nông dân am hiểu về các loại nông cụ
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp chứ không đi sâu bao quát tất cả các
huyện, xã trong tỉnh.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận, hướng tiếp cận
- Sử dụng phương pháp luận sử học Marxist, nhằm tìm hiểu nguồn
gốc và lý giải sự thay đổi của các nông cụ mà người nông dân sử dụng
để sản xuất nông nghiệp như là yếu tố quan trọng đưa đến những thay
đổi trong xã hội nông thôn Vĩnh Long.
- Tiếp cận theo hướng nghiên cứu lịch sử của trường phái Annales
(Biên niên sử). Vận dụng tầm quan trọng của ngành địa lý nhân văn của
Lucien Fèbvre để xem xét mối liên hệ giữa các loại nông cụ mà người
nông dân sử dụng trong sản xuất nông nghiệp với môi trường, không
gian văn hóa của từng vùng đất ở Vĩnh Long.
- Tiếp cận theo hướng liên ngành: dân tộc học, xã hội học, kinh tế
học, văn hóa học… để xem xét nguyên nhân thay đổi của từng loại
nông cụ và những ảnh hưởng từ sự cải tiến, thay đổi công cụ sản xuất
đến tình hình kinh tế – xã hội của tỉnh Vĩnh Long.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng chủ yếu hai phương pháp
nghiên cứu cơ bản của khoa học lịch sử, đó là phương pháp lịch sử và
phương pháp logic. Bên cạnh đó, còn chú trọng sử dụng các phương
pháp: Oral history, quan sát thực địa, khảo sát bằng bảng hỏi điều tra xã
hội học.
4.3. Nguồn tài liệu
- Tài liệu thành văn: Chúng tôi kế thừa nguồn tài liệu của các tác giả
viết về nông cụ có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Tài liệu điền dã: Phỏng vấn các "lão nông tri điền", Một số cán bộ
làm công tác sưu tầm, bảo tồn. Ngoài ra, chúng tôi cũng tham khảo ý


4
kiến góp ý của các chuyên gia là những nhà nghiên cứu chuyên sâu về
những vấn đề liên quan đến nông cụ ở đồng bằng sông Cửu Long nói

chung và tỉnh Vĩnh Long nói riêng.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án: Dưới góc độ nghiên cứu
lịch sử về nông cụ ở tỉnh Vĩnh Long trong thế kỷ XX, luận án có một số
đóng góp:
- Nghiên cứu nông cụ mà người nông dân sử dụng trong sản xuất
nông nghiệp từ khâu trong sản xuất, chuẩn bị đất đai canh tác đến
những nông cụ sử dụng trong chuyên chở, thu hoạch, tồn trữ… Luận án
đóng góp một cái nhìn toàn diện về đặc điểm của nông cụ trên vùng đất
Vĩnh Long.
- Thông qua việc tìm hiểu các loại nông cụ mà người nông dân sử
dụng trong sản xuất nông nghiệp, có thể biết được những thay đổi của
quá trình sản xuất nông nghiệp ở địa phương.
- Làm rõ những biến đổi của các loại nông cụ trong từng điều kiện
cụ thể về đất đai và thay đổi kỹ thuật canh tác qua từng thời kỳ ở địa
phương trong thế kỷ XX. Hiệu quả đạt được về mặt sản xuất là do sự
cải tiến nông cụ, cơ giới hóa mang lại. Những tác động về mặt xã hội
đối với vùng nông thôn, cộng đồng ở địa phương bắt nguồn từ sự thay
đổi nông cụ.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận: Nông cụ không chỉ là hướng nghiên cứu riêng
của các ngành kỹ thuật, nó còn là đối tượng nghiên cứu của các ngành
khoa học xã hội, trong đó có ngành lịch sử. Vì thế, việc chọn nghiên
cứu nông cụ tại tỉnh Vĩnh Long giúp làm rõ hơn mối quan hệ giữa các
thành tố trong phát triển kinh tế, cụ thể ở đây là mối quan hệ giữa công
cụ sản xuất với điều kiện sản xuất và sự tương tác cần thiết để thúc đẩy
sản xuất nông nghiệp trong thế kỷ XX. Đồng thời góp phần bổ sung tư
liệu và làm rõ thêm một số lý thuyết về địa lý nhân văn, lý thuyết về
sinh thái học xã hội – lịch sử trong nghiên cứu lịch sử.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Từ góc nhìn về các loại nông cụ trong sản xuất nông nghiệp rút ra

những bài học kinh nghiệm cho phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh
Vĩnh Long; góp phần gợi ý về chính sách "tam nông" cho tỉnh.


5
- Việc hệ thống, phân loại các loại nông cụ, nói rõ công dụng và mô
tả cụ thể cách thức sử dụng nông cụ sẽ giúp ngành văn hóa tỉnh Vĩnh
Long (đặc biệt là Bảo tàng) có hướng bảo tồn cũng như giới thiệu với
các thế hệ trẻ và du khách những giá trị văn hóa của cư dân Việt,
Khmer, Chăm, Hoa trong quá trình khai phá vùng đất Vĩnh Long nói
riêng và vùng đất phương Nam nói chung.
- Thông qua việc nghiên cứu các công cụ lao động có thể hiểu thêm
giá trị văn hóa vật chất trong đời sống của cư dân tỉnh Vĩnh Long.
- Kết quả của công trình nghiên cứu sẽ đóng góp vào việc biên soạn
những công trình lịch sử kinh tế, xã hội, văn hóa cũng như việc sưu tập,
trưng bày nông cụ ở Bảo tàng nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long hay Bảo
tàng của cả vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đây cũng sẽ là nguồn tài
liệu cho các trường học ở tỉnh Vĩnh Long trong biên soạn giáo trình về
lịch sử địa phương và góp phần trong việc giáo dục tình yêu quê hương
cho các thế hệ học sinh.
- Nghiên cứu này đề cập đến tình hình sản xuất nông nghiệp, xã hội
nông thôn của Vĩnh Long trong giai đoạn 1919- 2000. Do đó, những
kết quả nghiên cứu sẽ là nguồn tham khảo cho các cấp chính quyền tỉnh
Vĩnh Long trong việc đề những chính sách phát triển nông nghiệp,
nông thôn hiện nay.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, danh mục bảng,
danh mục hình và phụ lục, nội dung của luận án được thể hiện trong 4
chương chính như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan

đến đề tài luận án.
Chương 2: Điều kiện tự nhiên và xã hội ảnh hưởng đến sản xuất nông
nghiệp và nông cụ ở tỉnh Vĩnh Long thế kỷ XX.
Chương 3: Nông cụ truyền thống và cơ giới hóa trong sản xuất nông
nghiệp.
Chương 4: Một số nhận xét về nông cụ truyền thống và cơ giới hóa ở
tỉnh Vĩnh Long.


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu chung về nông nghiệp
Tác phẩm Agricultural Development strategy in South Vietnam,
Development and resources corporation của tác giả Charles W, Peters;
Nông nghiệp Việt Nam bước vào thế kỷ XXI của hai tác giả Bùi Huy
Đáp và Nguyễn Điền; Đồng bằng sông Cửu Long nghiên cứu phát triển
do tác giả Nguyễn Công Bình chủ biên; Nông nghiệp đồng bằng sông
Cửu Long ngày trước, ngày nay và triển vọng đến 1990 và sau 1990
của Dương Hồng Hiên; Các hệ thống sản xuất nông nghiệp ở đồng
bằng sông Cửu Long của kỹ sư Đặng Kim Sơn; Lịch sử khai phá vùng
đất Nam Bộ do Huỳnh Lứa chủ biên; Nghề nông cổ truyền Việt Nam
qua thư tịch Hán Nôm do Viện nghiên cứu Hán Nôm biên soạn năm
1994; Monographie de la province de Vinh Long được Imprimerie
commerciale M.Rey ấn hành năm 1911; Lịch sử tỉnh Vĩnh Long (17322000) của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long xuất bản năm 2002; Kỷ
yếu Hội thảo Vĩnh Long lịch sử và phát triển, tập 1 xuất bản 2001 do
Nguyễn Thế Nghĩa và Nguyễn Chiến Thắng chủ biên.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã cho thấy bức tranh
toàn cảnh về nông nghiệp, nông thôn đồng bằng sông Cửu Long nói

chung và tỉnh Vĩnh Long nói riêng. Từ việc xem xét nghiên cứu ở nhiều
khía cạnh khác nhau, cũng như những quan điểm, hướng tiếp cận khác
nhau, các nghiên cứu đã làm nổi bật vai trò và vị thế về nông nghiệp
của vùng đất Nam Bộ không chỉ đối với cả nước mà còn cả khu vực
Đông Nam Á.
1.2. Các công trình nghiên cứu, bài viết về nông cụ và sản xuất, chế
tạo nông cụ
Các công trình: Tìm hiểu nông cụ cổ truyền Việt Nam: Lịch sử và
loại hình của Ngô Đức Thịnh; Một nông cụ chiến lược: Cây phảng và
phát thế đăng trên Tạp chí Nhân loại, số 4, năm 1958 của Sơn Nam.
Các bài viết của Đạng Văn Thắng "Nông cụ và ngư cụ truyền thống ở
Đồng Tháp Mười" trong Địa chí Đồng Tháp Mười, Nông cụ truyền


7
thống ở Cần Đước” trong Cần Đước đất và người, "Lịch sử phát triển
tỉnh Vĩnh Long qua một số loại hình nông cụ" trong Vĩnh Long lịch sử
và phát triển (Kỷ yếu Hội thảo khoa học, lần 1), "Nông cụ và ngư cụ
truyền thống ở Vĩnh Long" trong Tìm hiểu văn hóa Vĩnh Long (17322000); The Economics of Insurgency in the Mekong Delta of Vietnam
của tác giả Robert L. Sansom…
Thông qua những công trình nghiên cứu, bài viết nêu trên có thể
hiểu và biết được những nông cụ phục vụ cho hoạt động sản xuất nông
nghiệp của cư dân đồng bằng sông Cửu Long nói chung, cư dân Vĩnh
Long nói riêng trong quá trình khai khẩn vùng đất mới.
1.3. Các công trình nghiên cứu, bài viết về cơ giới hóa trong nông
nghiệp
Các công trình: Hiện trạng, định hướng và giải pháp phát triển nông
thôn ở miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long của tác giả
Nguyễn Quang Lộc; Vấn đề phát triển nông nghiệp tại Việt Nam –
Phần đặc khảo về tỉnh Long An của Hoàng Thụy. Bài viết "Nông cụ ở

đồng bằng sông Cửu Long truyền thống và hiện đại" của tác giả Đặng
Văn Thắng trong Nam Bộ đất và người.
Những đóng góp của các công trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề
cơ giới hóa đã phần nào cho thấy bức tranh tổng thể về việc thay đổi
cách thức sử dụng nông cụ và qua đó cũng thấy được rằng, nhờ cơ giới
hóa mà việc sản xuất trong nông nghiệp đạt được năng suất cao. Đây
được xem như một cuộc cách mạng từ kỹ thuật nông nghiệp cổ truyền
bước sang một giai đoạn kỹ thuật tiên tiến.
1.4. Vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu của luận án
1.4.1. Những nội dung có thể kế thừa từ các công trình khoa học
đã công bố
Những công trình nghiên cứu, bài viết nêu trên đã đề cập sơ lược
đến một vài nông cụ hoặc một vài vấn đề liên quan đến nông cụ được
sử dụng ở đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có một số bài viết
chuyên khảo về một loại nông cụ (như cái phảng), hoặc nghiên cứu về
các loại nông cụ sử dụng ở một số địa phương thuộc đồng bằng sông
Cửu Long (như ở vùng Cần Đước (tỉnh Long An), vùng Đồng Tháp
Mười, tỉnh Vĩnh Long,…), về việc chế tạo một số loại nông cụ. Về từng


8
loại nông cụ, các tác giả đã mô tả khá tỉ mỉ về kiểu dáng, kích thước
cũng như cách thức sử dụng chúng. Đây là những cơ sở dữ liệu hữu ích
có thể kế thừa, sử dụng cho nghiên cứu sâu hơn của Luận án này.
1.4.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu của luận án
- Các công trình, bài viết nêu trên ít đề cập đến sự ra đời, xuất hiện
của các loại nông cụ.
- Có thể nhận thấy các bài viết tập trung chủ yếu đến nông cụ sử
dụng trong canh tác lúa còn lại các loại nông cụ khác, đặc biệt là nông
cụ sử dụng trong canh tác cây ăn trái và hoa màu hầu như không được

đề cập đến.
- Một số bài viết cho rằng , người nông dân Nam Bộ trong quá trình
định cư khai khẩn vùng đất Nam Bộ đã học hỏi những phương thức kỹ
thuật của các cư dân vùng Bắc Bộ, Trung Bộ và một số nước Trung
Quốc, Ấn Độ, Campuchia để cải tiến, sáng tạo ra những loại nông cụ
mới phục vụ cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp.
- Chưa có một công trình nghiên cứu nào trực tiếp đề cập đến lịch sử
phát triển nông cụ và vai trò của nông cụ trong nền kinh tế nông nghiệp
một cách toàn diện. Rất ít bài nghiên cứu quan tâm đến lịch sử du nhập,
sự thay đổi của các loại hình nông cụ. Các vấn đề như hiệu quả kinh tế,
sự tác động đến cộng đồng nông dân, xã hội nông thôn do sự thay đổi
nông cụ sản xuất mang lại hầu như không thấy tài liệu nào nói đến.
Mỗi vùng đất có hoạt động sản xuất khác nhau nên nông cụ được sử
dụng ở mỗi nơi cũng có sự khác biệt. Vì thế, những tài liệu trên chỉ có
giá trị tham khảo khi viết riêng về tỉnh Vĩnh Long.
Chương 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN SẢN
XUẤT NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG CỤ Ở TỈNH VĨNH LONG
THẾ KỶ XX
2.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.1. Khí hậu và thời tiết ở Vĩnh Long được thiên nhiên ưu đãi ôn
hòa, ít khi phải chịu nắng hạn gay gắt hay bão lớn; là điều kiện thuận
lợi cho nông nghiệp theo hướng đa canh, thâm canh tăng vụ, phát triển


9
trồng trọt và chăn nuôi, đặc biệt là trồng lúa nước và hoa màu, nuôi
trồng thủy sản nước ngọt.
Nằm trong vùng văn minh sông nước nên Vĩnh Long cũng có một
mạng lưới sông ngòi chằng chịt có vai trò đặc biệt quan trọng đối với

sự phát triển kinh tế và đối với sinh hoạt của cư dân Vĩnh Long. Đất đai
ở Vĩnh Long hầu như không bị nhiễm mặn, chủ yếu là đất phù sa thích
hợp cho việc trồng lúa, cây ăn trái và hoa màu.
2.1.2. Nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long nên Vĩnh Long có
thể dễ dàng liên lạc với các tỉnh lân cận bằng đường bộ và đường thủy.
Được thiên nhiên ưu đãi và có nhiều loại đất khác nhau, nông dân Vĩnh
Long đã lựa chọn, cải tiến và sáng tạo nhiều biện pháp kỹ thuật để canh
tác.
Điều kiện môi trường tự nhiên có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với
sự thay đổi công cụ sản xuất, vì nông cụ sản xuất do con người chế tạo
ra để tác động vào tự nhiên, khai thác tự nhiên phục vụ cho nhu cầu đời
sống của mình. Nông cụ thể hiện đặc tính cao của việc con người thích
nghi với từng điều kiện tự nhiên cụ thể, khai thác triệt để những thuận
lợi của tự nhiên. Người nông dân biết lựa chọn những nông cụ thích
hợp nhất đối với mỗi loại canh tác, mang lại hiệu quả cao.
2.2. Đặc điểm xã hội
2.2.1. Sự gia tăng diện tích canh tác tại Vĩnh Long trong thế kỷ XX là
kết quả của nhiều yếu tố, nhưng trong đó quan trọng nhất vẫn là kết quả
lao động cần cù, sáng tạo của các cộng đồng dân cư tại Vĩnh Long. Sự
gia tăng nhanh dân số cơ học của tỉnh, là nguồn bổ sung nhân lực vô
cùng quan trọng cho sản xuất nông nghiệp.
2.2.2. Vai trò của các cư dân Việt, Khmer, Hoa trong hoạt động kinh
tế nông nghiệp Vĩnh Long
Cư dân Việt và Khmer với thế mạnh là sản xuất nông nghiệp, khai
thác đất đai, xây dựng làng xóm, đào mương lên liếp, làm vườn, trồng
cây ăn trái. Cư dân Hoa với thế mạnh là lĩnh vực thương mại, dịch vụ.
Khi đến vùng đất mới sinh sống, các dân tộc Việt, Khmer, Hoa tuy có
khác biệt về ngôn ngữ, tập quán, truyền thống và kinh nghiệm canh tác
khác nhau, nhưng qua thời gian sinh sống, họ đã giao lưu và tiếp biến,



10
học hỏi lẫn nhau, đã cùng nhau chung sống đoàn kết khai khẩn mảnh
đất Vĩnh Long.
2.3. Hoạt động sản xuất nông nghiệp của người dân Vĩnh Long
2.3.1. Cùng với việc mở rộng hệ thống giao thông thủy, bộ, các tụ
điểm mua bán và chợ cũng được hình thành ở các trục lộ giao thông
của đường bộ nhằm tiêu thụ nông sản thực phẩm và là nơi cung cấp
những nông cụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
2.3.2. Thời vụ: Sản xuất cây lúa chủ yếu dựa vào điều kiện tự nhiên
sẵn có, nguồn nước tưới từ nước mưa, kênh, mương và chỉ sản xuất
được một vụ lúa mùa chính vụ. Những năm cuối thập niên 1960 (thế kỷ
XX), khi ngành nông nghiệp đã phát triển hơn thì các giống lúa ngắn
ngày được du nhập (lúa thần nông, còn gọi là vụ Hè Thu) có năng suất
khá cao. Thập niên 1980, khi có phong trào sản xuất lúa cao sản ngắn
ngày, nông dân Vĩnh Long chuyển sản xuất lúa một vụ sang sản xuất
lúa hai vụ. Sản xuất lúa cao sản ngắn ngày sớm hay còn gọi là vụ Đông
Xuân thay thế các giống lúa địa phương dài ngày.
2.3.3. Canh tác cổ truyền: Mỗi vùng có một bộ giống lúa khác nhau,
kỹ thuật canh tác cũng khác nhau, do đó, nông cụ sử dụng cũng khác
nhau cho phù hợp với điều kiện đất đai và chế độ nước ở từng nơi.
Một trong những tiến bộ mới của người nông dân cụ thể là đối với
việc trồng màu, đã từ bỏ lối sản xuất truyền thống kém hiệu quả để ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, trong đó việc sử dụng các công cụ
hiện đại, cơ giới thay thế sức kéo gia súc, sử dụng phân hóa học, kỹ
thuật gieo trồng,… ngày càng phổ biến. Máy móc được nông dân Vĩnh
Long ưu chuộng sử dụng nhiều là các loại máy cày, máy kéo, máy gặt...
thay thế sức lực của trâu, bò và lao động của con người.
2.3.4. Là vùng đất phù sa màu mỡ, quanh năm nước ngọt nên các hoạt
động sản xuất nông nghiệp ở Vĩnh Long rất đa dạng.

2.3.5. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp có sự thay đổi theo thời
gian. Có hai lý do chính yếu khiến người nông dân phải thay đổi loại
hình sản xuất nông nghiệp của mình là vì hoạt động sản xuất cũ cho
năng suất kém, hiệu quả kinh tế thấp, và vì điều kiện tự nhiên không
còn phù hợp và cũng chính vì thế mà việc sử dụng các loại nông cụ cho
từng loại hình canh tác có khác nhau. Mặc dù, một loại nông cụ nào đó


11
có thể được sử dụng cho nhiều loại hình sản xuất nông nghiệp, nhưng
trong từng loại hình sản xuất thì loại này lại được sử dụng thường
xuyên hơn loại khác và ngược lại
Tiểu kết chương 2: Thiên nhiên đã ưu đãi cho vùng đất này những
thuận lợi. Mặc dù cũng chịu ảnh hưởng của lũ và phèn, nhưng Vĩnh
Long không bị ngập sâu, lũ nặng, phèn nhiều như các tỉnh Trà Vinh,
Tiền Giang, Long An… Khí hậu thuận hòa, đất đai màu mỡ, phì nhiêu;
nguồn nước ngọt quanh năm khá dồi dào. Nằm giữa sông Tiền, sông
Hậu và hệ thống sông rạch chằng chịt, là những lợi thế để Vĩnh Long
phát triển sản xuất nông nghiệp, đánh bắt, nuôi trồng thủy sản và đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt cho đời sống cư dân.
Ở vị trí trung tâm của đồng bằng sông Cửu Long đã tạo cho Vĩnh
Long có được mạng lưới giao thông thủy, bộ mà không có tỉnh nào ở
đồng bằng sông Cửu Long có được, đây là một lợi thế cho việc giao
lưu, trao đổi mua bán lương thực, thực phẩm, trái cây với nhiều địa
phương trong khu vực.
Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau, ngoài người Việt chiếm tỷ
lệ đông đảo, còn có người Khmer và người Hoa sinh sống ở hầu khắp
các địa bàn trong tỉnh Vĩnh Long, đã tạo nên một lực lượng lao động
dồi dào cho vùng đất này phát triển nông nghiệp và các hoạt động dịch
vụ thương mại.

Trong quá trình chinh phục vùng đất Vĩnh Long, bằng sự lao động
cần cù và óc sáng tạo của mình, các cộng đồng cư dân Việt, Khmer,
Hoa đã từng bước chinh phục thiên nhiên và làm chủ vùng đất này, biến
vùng đất hoang vu, sình lầy trở thành vùng canh tác màu mỡ, phì nhiêu.
Chương 3
NÔNG CỤ TRUYỀN THỒNG VÀ CƠ GIỚI HÓA TRONG
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
3.1. Bối cảnh ra đời của nông cụ truyền thống và các loại nông cụ
cơ giới
Từ thế kỷ XVI, với sự tranh chấp quyền lực giữa hai tập đoàn họ
Trịnh ở Đàng Ngoài và họ Nguyễn ở Đàng Trong đã gây nên cảnh đói


12
khổ lầm than của dân chúng. Các tập đoàn phong kiến Trịnh, Nguyễn ra
sức vơ vét tài lực, vật lực của nhân dân nhằm phục vụ cho nhu cầu
chiến tranh và mục đích cá nhân của chúng. Cùng với đó là việc những
người nông dân và thợ thủ công nghèo khổ đi lính. Chính những điều
này đã đẩy những người nông dân nghèo khổ phải rời bỏ nơi "chôn
nhau cắt rốn" và vùng đất Nam Bộ là điểm dừng chân của họ.
Những lưu dân Việt, Khmer, Chăm, Hoa khi đặt chân đến vùng đất
Vĩnh Long sinh sống đã biết khai thác các sản vật thiên nhiên sẵn có.
Phần lớn những lưu dân người Việt từ đồng bằng sông Hồng, từ Ngũ
Quảng di cư đến vùng Vĩnh Long đều sống bằng nông nghiệp. Đến
vùng đất mới định cư, những lưu dân mang theo các vật dụng, công cụ
sản xuất và ứng dụng những kinh nghiệm truyền thống về nghề làm
nông nghiệp. Bên cạnh đó, họ biết kế thừa những công cụ của người
Khmer và tìm kiếm, chọn lựa nhiều nguồn nguyên liệu khác nhau, sẵn
có trong thiên nhiên để từ đó chế tạo, cải tiến ra những công cụ phù hợp
cho sản xuất nông nghiệp.

Đến giữa thế kỷ XIX, nông dân Việt Nam vẫn còn canh tác theo
phương pháp cổ truyền, với tính chất quảng canh, sử dụng nhiều lao
động, với năng suất thấp kém. Sau khi chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam
Kỳ (1862), người Pháp chú ý ngay đến ngành nông nghiệp, và đến năm
1867 sau khi 6 tỉnh Nam Kỳ rơi vào tay quân Pháp, cùng với việc sắp
xếp bộ máy cai trị, Pháp bắt đầu thực hiện vơ vét của cải và bóc lột sức
lao động của nhân dân với mục đích "duy trì nước Việt Nam làm một
thuộc địa nông nghiệp, chuyên xuất khẩu nông sản của Nam Kỳ cho thị
trường thế giới".
Trong suốt 21 năm can thiệp và xâm lược miền Nam Việt Nam, Mỹ
và chính quyền Việt Nam Cộng hòa chủ yếu vơ vét sức người, sức của
phục vụ cho chiến tranh, cùng với việc đánh phá phong trào cách mạng,
chúng đã tiến hành một số cuộc cải cách về ruộng đất cho nông dân và
đẩy mạnh những ứng dụng khoa học kỹ thuật cho các công ty tư bản
đưa máy móc thiết bị cơ khí nông nghiệp vào sản xuất với mục đích lấy
đòn bẩy kinh tế làm thủ đoạn chính để thao túng nông thôn.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng năm 1975, diện tích trồng
lúa chủ yếu là lúa mùa, vụ Hè Thu rất ít. Năm 1976, vụ Hè Thu trở nên


13
đại trà. Năm 1980 vụ đông xuân cũng trở nên phổ biến, đặc biệt đến
năm 1984 tập quán trồng lúa một vụ bị đẩy lùi. Trong lĩnh vực trồng
trọt, có những thay đổi quan trọng về mùa vụ và cơ cấu cây trồng, thời
kỳ 1986-1990, là thời kỳ bắt đầu hình thành một cơ cấu kinh tế theo cơ
chế thị trường. Từ 1991-2000 là thời kỳ phát triển kinh tế hộ và xuất
hiện loại hình kinh tế trang trại xuất hiện một số hình thức tổ chức kinh
tế hợp tác trong nông thôn, giúp nhau một số khâu trong quá trình sản
xuất về vay vốn, làm đất, bơm tưới nước, thu hoạch.
3.2. Nông cụ và sự du nhập nông cụ cơ giới trong sản xuất nông

nghiệp (1919-1960)
3.2.1. Các loại hình canh tác truyền thống
Nông cụ trong canh tác lúa
Trong quá trình cộng cư để cùng khai phá vùng đất mới, người nông
dân Vĩnh Long đã sử dụng nhiều loại nông cụ khác nhau phục vụ cho
sản xuất. Mỗi một loại công cụ có tính năng và cách thức sử dụng khác
nhau, nhưng chúng được phối hợp với nhau khá chặt chẽ trong các
khâu từ làm đất, gieo cấy cho đến thu hoạch, vận chuyển, bảo quản;
giúp việc canh tác được dễ dàng và thuận lợi. Mỗi loại đất chuyên
dụng, mỗi loại cây trồng đều có các loại nông cụ sản xuất tương ứng,
phù hợp.
- Phát hoang, làm cỏ: phảng, cù nèo, bừa cào.
- Làm đất: cày, bừa, trục, cuốc, leng, xuỗng, gàu xúc đất.
- Làm mạ, cấy lúa: ghế nhổ mạ, ván mạ, dao bứng lúa, nọc cấy, cây
móc dặm lúa.
- Tưới tiêu: gàu sòng, gàu dai.
- Thu hoạch: lưỡi hái, lưỡi liềm, vòng hái, dây bó lúa.
- Ra hạt: cặp đập lúa, thang bồ, bồ đập lúa, bàn (ghế) đập lúa, mỏ
xảy.
- Vận chuyển: đòn xóc, cộ.
- Tách vỏ trấu: cối giã gạo, cối xay lúa.
- Làm sạch hạt: giê lúa bằng sức gió, xa quạt gió.
- Phơi sấy, bảo quản và chế biến: trang và cào, mê bồ, đệm bàn, nịa,
sịa, thúng, bồ chứa lúa, táo, lít, bao chứa lúa.
Nông cụ trong canh tác cây ăn trái


14
Các công cụ sử dụng trong trồng cây ăn trái gồm có: cuốc, dao, leng,
xuỗng, rựa, gàu xúc bùn, lồng hái trái cây, chỉa, cần xé, thang, kẹp, kéo,

bình xịt thuốc.
Nông cụ trong canh tác hoa màu
- Làm đất: phảng, dao yếm, cuốc, leng, thước, dây, chài.
- Tưới tiêu: gàu, thùng tưới nước, cây xom lỗ gieo hạt, dao làm cỏ,
bình xịt thuốc.
- Thu hoạch và phục vụ một số công đoạn khác: đòn gánh, đôi
gióng, bàn cào, cần xé, lưỡi hái, lưỡi liềm, cân.
3.2.2. Sự du nhập nông cụ cơ giới
Các loại máy móc và các phụ tùng thay thế được nhập khẩu ngày
càng nhiều với giá rẻ và người nông dân dần thấy rằng sử dụng máy
móc tiết kiệm hơn dùng sức lao động, nên họ đã vay tiền mua máy móc
để phục vụ cho sản xuất. Trước mức độ sử dụng cơ giới trong lĩnh vực
nông nghiệp tăng khá nhiều nên các hãng nhập khẩu và nhà sản xuất
nông cụ cơ giới ngoài hình thức quảng cáo trên báo chí còn xuống tận
nông thôn để tìm hiểu điều kiện tự nhiên, nhu cầu thực tế canh tác, kỹ
thuật sử dụng của nông dân để nhập khẩu và sản xuất những loại máy
thích hợp. Chính nhờ vậy một số nông dân đã bắt đầu sử dụng nông cụ
cơ giới trên mảnh ruộng của mình.
3.3. Thay đổi phương thức canh tác trong hoạt động sản xuất nông
nghiệp (1960-2000)
3.3.1. Thay đổi nông cụ sản xuất
Khi đến vùng đất Nam Bộ, người nông dân Việt đã cải tiến cây dao
với cán ngắn, lưỡi dao, cổ uốn cong nhiều hay ít so với cán giúp cho
người sử dụng có thể đứng mà phát hoang, phát cỏ bờ và để phát dọn
cỏ ruộng ngay gốc dưới mặt nước, dụng cụ này được gọi là phảng. Sau
công đoạn phát hoang, làm cỏ, chiếc cày được sử dụng cho công đoạn
làm đất. Đất đai ở Vĩnh Long chủ yếu là đất phù sa nên khi đến khai
phá vùng này, người Việt lại cải tiến chiếc cày Chăm thành cày đỏi cho
thích ứng với những nơi ruộng lầy nhiều cỏ. Chiếc cày đỏi với hệ thống
bắp cày cắt ngắn – đỏi – ách đôi là sáng tạo từ hệ thống bắp cày ngắn –

hai đoạn dây – ách chiếc trong chiếc cày chìa vôi.


15
Ở công đoạn gieo, cấy có các nông cụ ghế nhổ mạ, ván mạ, dao
bứng lúa, đòn xóc, nọc cấy. Trong số các loại nông cụ này, nọc cấy là
công cụ được cải tiến cho phù hợp với từng vùng đất. Nọc (người Việt
Nam Bộ), Sơchan (người Khmer) là những nông cụ dùng để mói lỗ
trước khi cắm mạ xuống, còn gậy chọc lỗ thì khoét lỗ để bỏ hạt vào.
Nọc cấy là một biến dạng của gậy chọc lỗ, được sử dụng ở cư dân làm
ruộng nước đồng bằng gọi là mói của (người Việt), nọc (người Việt
Nam Bộ), người Khmer gọi là Sơchan. Đây là nông cụ dùng để mói lỗ
trước khi cắm mạ xuống.
Ở vùng đất biền (là đất thấp ở dựa mé sông rạch nước ngập theo
thủy triều) và đất bưng của Vũng Liêm, Tam Bình (Vĩnh Long), người
ta còn cấy bằng cây phảng cấy. Phảng cấy dùng cho những vùng đất
sâu trũng. Đây là cải tiến độc đáo để cấy lúa trong điều kiện nước sâu.
Vào đầu thập niên 1970, trên đồng ruộng Vĩnh Long xuất hiện công cụ
thu hoạch mới năng suất vượt trội: máy tuốt lúa. Khoảng năm 1975 trên
đồng ruộng Vĩnh Long xuất hiện máy thu hoạch lúa thế hệ mới: máy
nhai lúa hay còn gọi là máy ngốn lúa. Thập niên 1980 chiếc thùng suốt
lúa ra đời, dần dần hoàn thiện và được nông dân sử dụng đến ngày nay.
Trong nghề làm vườn, thang là công cụ rất phổ biến và được sử
dụng rất rộng rãi đối với người dân lao động và gàu xúc bùn là dụng cụ
thiết yếu. Việc thu hái trái sử dụng kéo và lồng hái trái. Cần xé là công
cụ đa dụng, dùng để đựng đồ vật khi vận chuyển, khuân, khiêng hoặc
mang vác.
Khoảng giữa cuối thế kỷ XX, khi ở Vĩnh Long bắt đầu hình thành
các vùng rau màu chuyên canh thì có thêm kiểu cuốc giồng khoai, là
loại cuốc dùng để lên luống giồng khoai ở đất ruộng. Đây là dạng cải

tiến của cuốc đồng (miền Bắc) hay còn gọi là cuốc tai tượng (miền
Nam). Loại cuốc cải tiến thứ hai là cuốc ba chia dùng để cào hoặc làm
cỏ hai bên luống, rãnh, cuốc này cũng dùng để băm nhỏ đất trên bề mặt
luống rau trước khi gieo hạt hoặc xuống cây con. Về hình dạng cuốc ba
chia là sự cải tiến kết hợp giữa cây cuốc tai tượng và bù cào cỏ. Cuốc
chữ U cải tiến từ cuốc tai tượng và lưỡi leng, khác với cuốc tai tượng là
lưỡi cuốc có hình vuông. Cây xom lỗ gieo hạt (hoặc cải tiến thành cây
cạy để lấy củ dùng trong trồng đậu, trồng khoai lang). Gàu là công cụ


16
để lấy nước tưới cho rau màu. Gàu có thể được làm bằng mo cau, hoặc
làm từ nan tre, về sau gàu được thay thế bằng thùng thiếc hoặc bằng
nhôm, nhựa, rồi được cải tiến thành thùng có vòi hoa sen. Trong các
loại dụng cụ tưới thì thùng có vòi hoa sen bắt đầu được sử dụng từ
những thập niên 1990 và được dùng khá phổ biến đến hiện nay. Bình xịt
thuốc bảo vệ thực vật là một dụng cụ chỉ mới xuất hiện vào giữa thế kỷ
XX, khi mà các nhà khoa học đã chế tạo ra được các loại phân, thuốc
bảo vệ thực vật.
Đến vùng đất Vĩnh Long khai hoang, các dân tộc Việt, Khmer,
Chăm, Hoa đã mang theo không những kinh nghiệm mà còn cả các yếu
tố kỹ thuật – các loại nông cụ: phảng, rựa, cày… những nông cụ này đã
được sử dụng và cải tiến cho phù hợp với vùng đất nơi đây, góp phần
không nhỏ trong việc tăng năng suất và tạo ra nhiều sản lượng lương
thực.
3.3.2. Cơ giới hóa trong hoạt động sản xuất nông nghiệp
Cơ giới hóa trước năm 1975
Mặc dù thời kỳ này, việc cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp
ngày một nhiều và lợi ích từ việc sử dụng máy móc trong canh tác giúp
tăng sản xuất, giảm thời gian lao động. Tuy vậy, người nông dân Vĩnh

Long phần lớn vẫn sử dụng những loại nông cụ truyền thống, dùng sức
lực và sự trợ giúp sức kéo của trâu, bò trong sản xuất nông nghiệp, tốn
nhiều thời gian và sức lực canh tác hơn, do đó lợi nhuận thu được và
năng suất không cao, một năm chỉ làm được một vụ lúa.
Cơ giới hóa (1975-2000)
Cuộc cách mạng về cơ giới hóa và tự động hóa nền sản xuất trên thế
giới đã diễn ra vài thập kỷ nhưng đối với Việt Nam, do chiến tranh kéo
dài nên chỉ mới bắt đầu sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Do
điều kiện kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc chiến tranh nên mức
đầu tư thiết bị máy móc để chuyển từ nền sản xuất lao động thủ công là
chính sang nền sản xuất máy móc chiếm ưu thế vì vậy diễn ra cũng rất
từ từ.
Ở thời kỳ này, máy móc và khoa học kỹ thuật ngày càng đóng vai
trò chính yếu trong quá trình sản xuất. Thông qua công tác khuyến


17
nông, người nông dân ở thời kỳ này tiến xa hơn trong kỹ thuật canh tác
và công cụ canh tác.
Tiểu kết chương 3: Ở Vĩnh Long, nông cụ ra đời từ rất sớm, gắn
liền với công cuộc khẩn hoang và qua thời gian, những nông cụ truyền
thống đã được người nông dân sáng tạo, cải tiến cho phù hợp với việc
trồng lúa, cây ăn trái, hoa màu, cho đến vài thập niên gần đây mới được
thay thế phần lớn bằng nông cụ cơ giới. Cùng với sự phát triển trong
nông nghiệp, nhiều loại máy móc thiết bị đã được đưa vào sử dụng
trong sản xuất nông nghiệp để thay thế lao động thủ công, giải quyết
khâu lao động nặng nhọc, tính thời vụ, giảm tổn thất trong nông nghiệp.
Việc áp dụng nông cụ cơ giới vào sản xuất nông nghiệp đã giúp giảm
chi phí đầu vào, tăng chất lượng sản phẩm, tăng lợi nhuận.
Chương 4

MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ NÔNG CỤ TRUYỀN THỐNG VÀ CƠ
GIỚI HÓA Ở TỈNH VĨNH LONG
4.1. Một số đặc điểm
- Nông cụ ở tỉnh Vĩnh Long có tính tiêu biểu cho hệ thống nông cụ
ở đồng bằng sông Cửu Long, là vùng đất ôn hòa, ít khi phải chịu nắng
hạn gay gắt hay bão lớn, đất đai màu mỡ là điều kiện thuận lợi cho
nông nghiệp phát triển. Trên cơ sở những nông cụ từng sử dụng ở miền
Bắc, miền Trung, đồng thời học hỏi và cải tiến những nông cụ của
người Khmer, người Chăm ở Nam Bộ, người nông dân Vĩnh Long đã
tạo ra những nông cụ rất phong phú và đa dạng. Trong canh tác nông
nghiệp, mỗi một loại công việc của người nông dân đều có một loại
nông cụ sản xuất thích ứng. Như vậy, để canh tác sản xuất cần đến hàng
trăm loại nông cụ khác nhau và các loại nông cụ này có mối quan hệ
mật thiết, bổ trợ cho nhau trong tất cả các công đoạn của quá trình sản
xuất nông nghiệp. Chính điều này là một trong những yếu tố quan trọng
góp phần mở rộng đất đai canh tác và phát triển Vĩnh Long thành một
vùng nông nghiệp trù phú.
- Nông cụ tỉnh Vĩnh Long có những biến thể riêng phù hợp với
đặc điểm tự nhiên và xã hội Vĩnh Long. Các cộng đồng dân tộc Việt,


18
Khmer, Chăm, Hoa ngoài những kinh nghiệm và những nông cụ phục
vụ cho sản xuất nông nghiệp đã tích lũy được từ mấy ngàn năm còn tiếp
thu, trao đổi các công cụ sản xuất của nhau, đồng thời cải tiến, sáng tạo
ra những nông cụ mới để thích ứng, khai thác và khai phá thành công
vùng đất mới. Cùng với nông cụ truyền thống, việc tiếp nhận các loại
nông cụ cơ giới vào sản xuất nông nghiệp là những bước tiến sáng tạo
góp phần không nhỏ trong việc phát triển kỹ thuật canh tác, nâng cao
chất lượng, số lượng sản phẩm nông nghiệp và chính nhờ vào những

thay đổi, cải tiến nông cụ, cơ giới hóa trong ngành trồng trọt qua từng
thời kỳ mà bộ mặt sản xuất nông nghiệp ở Vĩnh Long đã mang những
sắc thái mới mẻ và hiện đại hơn.
- Vĩnh Long là một trong những trung tâm sản xuất nông cụ của
đồng bằng sông Cửu Long. Do nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu
Long nên người thợ chế tác nông cụ sản xuất ở Vĩnh Long không
những có nhiều thuận lợi trong việc cải tiến các loại nông cụ theo yêu
cầu của từng người sử dụng, thích hợp với từng loại ruộng, trên mỗi
vùng địa hình của tỉnh mà còn đem trao đổi mua bán các loại nông cụ
với các địa phương xung quanh.
4.2. Vai trò của nông cụ và nông cụ cơ giới trong sản xuất nông
nghiệp
Người dân Vĩnh Long vẫn luôn phát huy tìm tòi những cái mới
trong sản xuất, đó là, luôn luôn có những cải tiến nông cụ, thay đổi
nông cụ sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động giảm bớt "sức
người" trong quá trình sản xuất nông nghiệp của mình.
Cơ giới hóa có một vai trò hết sức quan trọng đối với sản xuất nông
nghiệp. Nhờ có cơ giới hóa mà nhiều công việc khó khăn, nặng nhọc
trong sản xuất được giải quyết một cách nhanh chóng và kịp thời, bảo
đảm thời vụ sản xuất, góp phần làm tăng năng suất, tăng sản lượng cây
trồng và gia súc, mở mang ngành nghề, đẩy mạnh phát triển sản xuất.
Nhờ vào việc cải tiến nông cụ, thay đổi nông cụ sản xuất mà người
nông dân đã giảm được thời gian lao động trong những khâu sản xuất
và trên cơ sở đó, nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp.


19
Cải tiến nông cụ, sử dụng cơ giới không những có tác dụng nâng cao
đời sống vật chất mà còn có tác dụng nâng cao đời sống văn hóa, của
người nông dân.

4.3. Một số khuyến nghị và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo
- Tuyên truyền, giáo dục cho các thế hệ trẻ ở tỉnh Vĩnh Long về các
giá trị vật chất do cha ông đã sáng tạo ra, nhằm bảo tồn và tôn vinh
truyền thống lịch sử – văn hóa của dân tộc.
- Triển khai công tác khảo sát, sưu tầm các loại nông cụ và các làng
nghề sản xuất nông cụ truyền thống trên quy mô toàn tỉnh.
- Đầu tư xây dựng Bảo tàng nông nghiệp và Bảo tàng nông cụ Việt
Nam.
- Hình thành các khu du lịch văn hóa gắn liền với du lịch sinh thái,
trong đó gắn kết làng nghề sản xuất nông cụ truyền thống với mô hình
làng văn hóa và khu vui chơi giải trí, dịch vụ ăn uống.
Các nội dung nghiên cứu tiếp theo cần đi sâu vào từng lĩnh vực như:
- Nghiên cứu tín ngưỡng dân gian về kiêng kỵ, lễ hội có liên quan
đến nông cụ;
- Phát triển du lịch gắn liền với công tác bảo tồn và phát triển làng
nghề sản xuất nông cụ;
- Phát triển du lịch gắn liền với việc tuyên truyền, quảng bá văn hóa
nông cụ của người dân Vĩnh Long.
Tiểu kết chương 4: Trong quá trình khai phá và xây dựng vùng đất
Vĩnh Long, các dân tộc Việt, Khmer, Chăm, Hoa cùng chung tay đẩy
mạnh việc khẩn hoang, sản xuất nông nghiệp và nhiều hoạt động kinh
tế khác. Cùng với phát triển sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước, cây
ăn trái, hoa màu các nông cụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp đã đóng
một vai trò không nhỏ tạo ra những sản phẩm không chỉ phục vụ, bảo
đảm đời sống vật chất, tinh thần của cộng đồng mà còn đáp ứng yêu
cầu trao đổi sản phẩm tại địa phương Vĩnh Long, cũng như trên cả
nước và xuất khẩu. Sự năng động, sáng tạo của người nông dân nơi đây
cùng với nông dân các tỉnh không những giúp họ khai phá thành công
vùng đất mới mà còn tạo ra một vùng sản xuất lúa gạo lớn nhất nước,
thành nơi cung cấp lúa gạo cho nhiều địa phương.



20
KẾT LUẬN
Vĩnh Long nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng sông Cửu Long,
hội tụ đầy đủ các điều kiện về thiên thời, địa lợi, đất đai màu mỡ, với sự
bồi đắp phù sa hàng năm bởi sông Hậu và sông Cổ Chiên nên Vĩnh
Long có nước ngọt quanh năm. Đây là vùng đất không có khoáng sản,
không có núi, không có rừng, không có biển, tài nguyên thiên nhiên chỉ
có đất và nước, vì thế phát triển nông nghiệp là con đường duy nhất ở
đây. Ngay từ rất sớm, một nền kinh tế sản xuất nông nghiệp đã xuất
hiện và phát triển gắn với cư dân của nền văn hóa Óc Eo. Đến thế kỷ
XVII, với sự hiện diện của người Việt – những chủ nhân mới của vùng
đất này thì nền kinh tế nông nghiệp của Vĩnh Long ngày càng phát triển
ở vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long. Trong quá trình khai phá
và định cư ở vùng đất mới, những lưu dân Việt, Khmer, Chăm, Hoa đã
sử dụng những nông cụ truyền thống như: phảng, cày, trục, bừa... để
phục vụ cho quá trình sản xuất nông nghiệp, trồng lúa nước của mình.
Thực tế cho thấy, khi con người vẫn còn lệ thuộc vào thiên nhiên để
sinh tồn và việc canh tác còn dựa vào sức người là chính thì việc chế
tạo ra các nông cụ cầm tay, nhằm để đối phó với những khó khăn, trở
ngại trong quá trình sản xuất và tăng hiệu quả của sức lao động là một
yêu cầu thiết yếu. Trong một thời gian dài, người nông dân Vĩnh Long
vẫn sử dụng những nông cụ làm bằng tay trên mảnh vườn, thửa ruộng
của mình cho đến khi người Pháp chiếm Vĩnh Long (1867). Nhận thấy
đây là vùng đất màu mỡ, thuận lợi cho việc trồng lúa, có thể thực hiện
được mục tiêu khai thác và xuất khẩu lúa gạo đem lại lợi nhuận cao. Để
thực hiện được điều này, người Pháp cho lập các đồn điền trồng lúa và
bỏ vốn nhập máy móc nông nghiệp, phân bón thay cho việc lao động
bằng sức người và sử dụng sức kéo của trâu, bò; duy trì và phát triển

kinh tế đại điền chủ và nền kinh tế tiểu nông trong nông thôn Vĩnh
Long, với lối bóc lột phong kiến: địa chủ người Pháp phát canh ruộng
đất cho các nông dân tá điền rồi ngồi hưởng địa tô. Sự đầu tư chỉ thiên
về trồng lúa và buôn bán lúa gạo, khai thác tối đa tiềm năng của Vĩnh
Long, các ngành nghề khác chỉ mang yếu tố phụ đã làm cho đời sống
nông dân nghèo khó và bộ mặt nông thôn không phát triển toàn diện.
Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng, công cuộc khai thác của chính quyền
Pháp trên đất Nam Kỳ nói chung và tỉnh Vĩnh Long nói riêng, nếu nhìn
trên giác độ tích cực với sự gia tăng nhanh chóng diện tích canh tác, lập


21
trại canh nông cung cấp cây giống, làm thủy lợi, đào kênh, đắp đê bao
ngăn lũ lụt… Lần đầu tiên người nông dân Vĩnh Long bắt đầu làm quen
với khoa học kỹ thuật, sử dụng máy móc trong hoạt động sản xuất nông
nghiệp là những thành quả của người Pháp.
Những nông cụ truyền thống gắn bó với người nông dân hàng bao
thế kỷ, dần được thay thế bằng các loại máy móc hiện đại trong thời kỳ
1954-1975. Hai mươi mốt năm can thiệp vào miền Nam Việt Nam, bên
cạnh việc xây dựng bộ máy cai trị, đàn áp phong trào cách mạng, Mỹ
và chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã ban hành và thực thi nhiều
chính sách liên quan đến nông nghiệp – nông thôn nhằm phát triển nền
kinh tế nông nghiệp như chính sách "Người cày có ruộng" dưới thời
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, chính sách cho nông dân trực tiếp vay
vốn sản xuất qua hệ thống tín dụng nông thôn và ngân hàng nông
nghiệp, chính sách về nhập khẩu và nội địa hóa nông cụ cơ giới.... Mặc
dù các chính sách áp dụng trong thời kỳ này có những hạn chế nhất
định nhằm phục vụ cho mục tiêu chiến tranh và mục đích chính trị của
bộ máy cầm quyền, nhưng mặt khác các chính sách này đã góp phần
làm thay đổi nền nông nghiệp thời kỳ này. Nếu như trước năm 1960 ở

Vĩnh Long vẫn chỉ làm lúa một vụ với các loại nông cụ truyền thống và
sức kéo của trâu, bò trong việc đồng áng, nên tốn nhiều thời gian và
công sức lao động, năng suất thu hoạch vụ mùa không cao thì từ năm
1965 trở về sau, nhất là từ năm 1970, người nông dân Vĩnh Long sử
dụng máy móc vào sản xuất nông nghiệp ngày càng nhiều. Các nông cụ
truyền thống dần được thay thế bằng việc sử dụng máy móc trong sản
xuất nông nghiệp. Một gia đình làm nghề nông hay nghề làm vườn
cũng mua sắm hay thuê mướn máy cày, máy xới, máy bơm nước, máy
xay lúa… để phục vụ cho công việc đồng áng. Việc đầu tư cơ sở vật
chất kỹ thuật vào nông nghiệp đã tác động mạnh đến nông thôn Vĩnh
Long, từ làm lúa một vụ chuyển sang làm hai vụ lúa với các giống lúa
mới, bên cạnh việc trồng lúa là chính, nông dân Vĩnh Long còn canh
tác nhiều loại cây ăn trái, hoa màu đem lại nguồn thu nhập đáng kể.
Giai cấp địa chủ và tá điền bị xóa bỏ, tầng lớp trung nông được hình
thành là lực lượng kinh tế chủ yếu, có vai trò quan trọng trong nền kinh
tế nông thôn ở Vĩnh Long. Kinh doanh theo kiểu thị trường tự do đã
bước đầu xâm nhập mạnh vào nông nghiệp – nông thôn Vĩnh Long.
Nhờ quá trình cơ giới hóa trong nông nghiệp với trang bị những
phương tiện sản xuất hiện đại, ứng dụng những tiến bộ của khoa học


22
công nghệ vào quá trình sản xuất nên giải phóng được đáng kể sức lao
động cơ bắp, thủ công theo lối sản xuất truyền thống. Người nông dân
đã biết sử dụng những máy móc hiện đại như máy cày, máy gặt, máy
làm đất... để nâng cao năng suất lao động, tăng năng suất cây trồng.
Sau năm 1975, chiến tranh tàn phá đã để lại sự nghèo nàn, lạc hậu,
thất nghiệp, một bộ phận người dân không có ruộng vườn, không có
công ăn việc làm, phải đi làm thuê, làm mướn kiếm sống. Để giải quyết
những khó khăn này, quán triệt chủ trương, đường lối, chính sách của

Đảng và Nhà nước, chính quyền tỉnh Vĩnh Long đã đề ra nhiều chính
sách nhằm khôi phục và phát triển sản xuất, ổn định xã hội. Trong mỗi
thời kỳ, từ việc thực hiện cải tạo nông nghiệp (1977), khoán sản phẩm
(1981), thực hiện đường lối đổi mới (1986) phát triển kinh tế theo cơ
chế thị trường, các vấn đề về chính sách khoa học kỹ thuật và công
nghiệp hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp luôn được chính quyền Vĩnh
Long quan tâm đầu tư, và với việc thành lập Chi cục cơ giới nông
nghiệp năm 1978 là bước đệm đưa nền sản xuất nông nghiệp phát triển
mạnh mẽ. Các huyện trong tỉnh đều có trạm máy kéo, các xưởng cơ
khí, sửa chữa máy móc cũng được hình thành đáp ứng nhu cầu cho sản
xuất nông nghiệp trong việc chế tạo máy canh tác, phụ tùng thay thế.
Đến năm 1991, người nông dân Vĩnh Long gần như đều sử dụng nông
cụ cơ giới vào sản xuất nông nghiệp, đã đưa sản xuất nông nghiệp ở
tỉnh Vĩnh Long liên tục phát triển, góp phần nâng cao năng suất cây
trồng, tiết kiệm thời gian, công sức, chất lượng lao động của người
nông dân trong quá trình sản xuất.
Những lưu dân từ các vùng miền trong cả nước khi đến vùng đất
Vĩnh Long sinh sống đã biết dựa vào điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng và
chế độ thủy triều ở đây để cải tiến, sáng tạo ra những nông cụ mới và sử
dụng nông cụ cơ giới trong sản xuất nông nghiệp để khai thác và khai
phá thành công vùng đất này. Thực tế cho thấy, trong canh tác nông
nghiệp các loại nông cụ không thể hoạt động riêng, mà hầu hết đều có
sự phối hợp với nhau trong các khâu từ làm đất gieo cấy cho đến thu
hoạch và vận chuyển. Do đó, nông cụ của người nông dân ở đồng bằng
sông Cửu Long nói chung và ở tỉnh Vĩnh Long nói riêng thể hiện rõ nét
sự "đa dạng" về thể loại và "đa năng" về công dụng, qua đó cũng thể
hiện một phần sự sáng tạo của những lưu dân trong việc kết hợp giữa
các giá trị truyền thống với các giá trị của thời đại.



23
Trong quá trình cộng cư, giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa người
Việt và các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa cũng đã tác động không nhỏ
đến quá trình sản xuất và chế tạo các loại nông cụ. Khai phá và phát
triển vùng đất Vĩnh Long, ngoài những kinh nghiệm sử dụng nông cụ
trong sản xuất nông nghiệp đã tích lũy được hàng mấy ngàn năm, người
Việt còn tiếp thu, trao đổi những nông cụ trong sản xuất nông nghiệp
của các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa. Quá trình sinh sống và cộng cư
giữa các thành phần cư dân đã thể hiện những điểm tương đối giống
nhau trong cách sử dụng các nông cụ trong lĩnh vực nông nghiệp.
Nhiều tính năng mới cũng xuất hiện ở các nông cụ của người Việt
thông qua sự giao lưu, tiếp xúc với các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa thể
hiện rõ nét tính "hội nhập" của các loại hình nông cụ của người Việt ở
vùng đất mới này. Bên cạnh đó, chính sự đa dạng của các tộc người
cũng cho thấy được sự "đa dạng" về loại hình nông cụ cũng như chức
năng của nó. Xét từ góc nhìn văn hóa, nông cụ ở Vĩnh Long nói riêng
và đồng bằng sông Cửu Long nói chung không chỉ có giá trị về vật chất
mà còn thể hiện giá trị về tinh thần rất to lớn. Gắn bó với cuộc sống của
người nông dân ở đây là hình ảnh và những giá trị của các loại nông cụ
đã trở thành một phần cuộc sống và tâm hồn của họ. Những nông cụ
hàng ngày đã đi vào thơ ca, hò vè, ca dao, tục ngữ rất phổ biến ở Vĩnh
Long nói riêng và đồng bằng sông Cửu Long nói chung, qua đó góp
phần khắc họa hình ảnh người Nam Bộ chân thật, hiền hòa, dung dị.
Nông cụ không chỉ đóng góp một vai trò quan trọng trong hoạt động
sản xuất nông nghiệp hàng ngày của người nông dân mà còn góp phần
làm sinh động thêm cho nền văn hóa lúa nước truyền thống của Việt
Nam. Về mặt kinh tế, sản lượng lương thực của tỉnh Vĩnh Long tăng
bình quân hàng năm 5,04%, lương thực bình quân đầu người tăng từ
444 kg năm 1976 lên 987 kg năm 1999. Những năm gần đây, sản lượng
lương thực đạt xấp xỉ 1 triệu tấn; năm 1995 đạt 950,7 ngàn tấn; năm

1996 là 933 ngàn tấn; năm 1997 là 893 ngàn tấn, năm 1998 là 1.011,3
ngàn tấn và năm 1999 là 998 ngàn tấn. Có được những kết quả này,
ngoài việc các cấp chính quyền Vĩnh Long đề ra chính sách phát triển
nông nghiệp phù hợp, còn do áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ
thuật, giống, phân bón, sử dụng nông cụ cơ giới… vào trong trồng trọt.
Với bản tính cần cù, sự nhạy bén, người nông dân Vĩnh Long đã sử
dụng hợp lý nông cụ truyền thống và nông cụ cơ giới trong các khâu
của quá trình sản xuất nông nghiệp, giúp nâng cao năng suất lao động,


×