Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Chương 2 Tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.54 KB, 26 trang )

Chương 2
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa
- Luận cương của Lênin " Về vấn đề dân tộc và dân tộc thuộc địa " quyết định
bước ngoặt và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh.
+ Lênin: Bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và dân
tộc thuộc địa” gồm 12 luận cương, ở đó Lênin đã đề cập tới những vấn đề cơ
bản sau:
* Giai cấp tư sản đã giải quyết một cách trừu tượng và hình thức vấn đề dân
tộc và quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
* Lênin đã đặt ra một loạt các vấn đề có tính nguyên lý và những phương
hướng giải quyết các vấn đề dân tộc của chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
+ “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” 1848 với các Lời tựa của nó do Ăngghen
viết cho các lần tái bản 1892 và 1893 khẳng định: giải phóng dân tộc là điều
kiện để đoàn kết quốc tế chống chủ nghĩa tư bản, đó là sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân.
+ Thì “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và dân tộc
thuộc địa” của Lênin đã chỉ ra những nguyên tắc liên quan trực tiếp đến cách
mạng Việt Nam và ảnh hưởng đến tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách
mạng Việt Nam. + Hồ Chí Minh
* Nhận thức được điều này, năm 1924, trong “Lênin và các dân tộc phương
Đông” Hồ Chí Minh đã viết: “Lênin là người đầu tiên đã hiểu và đánh giá hết
tầm quan trọng lớn lao của việc lôi cuốn nhân dân các nước thuộc địa vào
phong trào cách mạng. Lênin là người đầu tiên chỉ rõ rằng, nếu không có sự
tham gia của các dân tộc thuộc địa, thì cách mạng xã hội không thể có được”.
* Trong “Đường kách mệnh” 1927, Người viết: “An Nam dân tộc cách mệnh
thành công thì tư sản Pháp yếu, tư sản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai
cấp cách mệnh cũng dễ”
* Trong “Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ” năm 1924, Người đã chủ
trương đoàn kết dân tộc phải kết hợp với đoàn kết quốc tế: “Sự nghiệp của
người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản toàn thế giới”, và đã phát




hiện ra “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”, “Phát động chủ
nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản... Giờ đây người ta không
thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và
duy nhất của đời sống xã hội của họ”
* Trong “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin” (1960), Hồ Chí Minh đã viết
về ảnh hưởng của bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và dân tộc thuộc địa” của Lênin đối với Người như sau: “Ngồi một mình
trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi
đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta”.
Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.”
- Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc
+ Tố cáo tội ác: Bản án chế độ thực dân Pháp ("Le Procès de la Colonisation
Française"), tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc, viết bằng tiếng Pháp, in lần đầu tại
Pari (1925), xuất bản bằng tiếng Pháp (1946) ở Hà Nội, bằng tiếng Việt (1960)
và tái bản nhiều lần. Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục. Tác phẩm tố
cáo thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn khốc liệt bắt "dân bản xứ" phải đóng
"thuế máu" cho chính quốc... để "phơi thây trên chiến trường Châu Âu"; đày
đoạ phụ nữ, trẻ em "thuộc địa"; các thống sứ, quan lại thực dân độc ác như
một bày thú dữ, vv


Muốn thoát khỏi sự áp bức bóc lột đó thì phải đấu tranh

- Phương hướng, lựa chọn con đường phát triển của dân tộc
+ Lựa chọn con đường phát triển là một trong những con đường khẳng định
độc lập( quyền tự quyết dân tộc => thể hiện độc lập)
+ Hồ Chí Minh chọn con đường khác con đường của người đi trước:

* Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc đã đáp ứng
hai câu hỏi lớn đặt ra cho dân tộc Việt Nam: làm thế nào để giải phóng dân tộc
khỏi ách cai trị của đế quốc, thực dân, giành lại nền độc lập, tự do cho nhân
dân; và lựa chọn con đường, phương thức nào để bảo vệ, xây dựng và phát
triển đất nước phù hợp với xu thế đi lên của thời đại mới.


* Từ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn vận động của phong trào cách mạng
Việt Nam, Hồ Chí Minh kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, “ Đối với nước ta, không
còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thực sự và tự do, hạnh phúc cho
nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa
chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta trong lúc các phong
trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua
khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại”
2. Độc lập dân tộc - nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa
- Hồ Chí Minh tiếp cận từ quyền con người
+ Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ: Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ là văn
bản chính trị tuyên bố ly khai khỏi Vương quốc Anh của 13 bang thuộc địa Bắc
Mỹ. Tuyên ngôn được đọc ngày 4/7/1776, nội dung chính của bản tuyên ngôn
dựa trên tư tưởng John Locke, một triết gia người Anh. Theo ông, con người có
ba quyền cơ bản không thể bị tước đoạt là quyền được sống, được tự do và
được sở hữu. Quyền sở hữu được Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson đề cập tới
trong bản tuyên ngôn là "quyền được mưu cầu hạnh phúc". Câu trích dẫn nổi
tiếng của bản tuyên ngôn là "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.
Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những
quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
+ Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp: “Người ta
sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình
đẳng về quyền lợi”.

+ Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao quyền con người thành quyền dân tộc:
“ Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”
- Nội dung của độc lập dân tộc
+ Độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
* Khi chưa có độc lập, quyết tâm đấu tranh đòi độc lập:
• Ngày 18-6-1919, đại biểu các nước đế quốc tham gia chiến tranh họp Hội
nghị ở Vécxây. Thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Nguyễn


Tất Thành cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo ra bản Yêu sách của
nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Vécxây. Bản yêu sách được luật sư Phan Văn
Trường viết bằng tiếng Pháp (vì lúc này Nguyễn Tất Thành chưa thạo tiếng
Pháp). Dưới bản Yêu sách Nguyễn Tất Thành ký tên: Nguyễn Ái Quốc. Đây là lần
đầu tiên tên gọi Nguyễn Ái Quốc xuất hiện. Bản Yêu sách gồm tám điểm:
“(1) Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị;
(2) Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được
quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ
hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ
phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam;
(3) Tự do báo chí và tự do ngôn luận;
(4) Tự do lập hội và hội họp;
(5) Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương;
(6) Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các
tỉnh cho người bản xứ;
(7) Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
(8) Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại
Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người
bản xứ”. Bản Yêu sách này đã được Nguyễn Ái Quốc tới lâu đài Vécxây gửi cho
văn phòng Hội nghị, sau đó lần lượt gửi đến các đoàn đại biểu các nước Đồng

minh dự hội nghị. Tại Hội nghị, Bản yêu sách đã không được “đả động đến” dù
hầu hết các đoàn đại biểu và các nghị sĩ Pháp sau khi nhận được bản Yêu sách
đều đã gửi thư trả lời Nguyễn Ái Quốc, bởi mục đích của các nhà tư bản đến dự
Hội nghị Vécxây chỉ là bàn việc chia lại thị trường và tranh giành lợi ích.
• Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930:



Đường lối chiến lược cách mạng là tiến hành “Tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Nhiệm vụ của cách mạng: Đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến và tư sản
phản cách mạng, làm cho nước Việt Nam được độc lập tự do; lập chính
phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông. Tịch thu hết sản






nghiệp lớn của đế quốc; tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn phản
cách mạng chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất.
Lực lượng cách mạng: Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức. Đối với
phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản thì lợi dụng hoặc trung lập, đồng
thời phải liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới.
Lãnh đạo cách mạng: Đảng Cộng sản Việt Nam – đội tiên phong của giai
cấp vô sản.

=> Tư tưởng cốt lõi trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là độc lập và
tự do
• Từ ngày 10 đến 19 tháng 5 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần

thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tại Pác Bó, Cao Bằng.



Hội nghị xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết của
cách mạng Đông Dương.
Để tuyên truyền rộng rãi về chủ trương, chính sách của Mặt trận Việt
Minh nhằm thu hút ngày càng đông đảo sự ủng hộ của các tầng lớp,
đồng bào các dân tộc, Bác Hồ đã sáng tác Diễn ca “Mười chính sách của
Việt Minh” bằng thể thơ lục bát rất dễ nhớ, dễ thuộc, dễ truyền tụng
trong quần chúng nhân dân.

“Mười chính sách của Việt Minh
Việt Nam độc lập đồng minh
Có bản chương trình đánh Nhật, đánh Tây.
Quyết làm cho nước non này,
Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền:
Làm cho con cháu Rồng, Tiên,
Dân ta giữ lấy lợi quyền của ta.
Có mười chính sách bày ra,
Một là ích nước, hai là lợi dân.



Muốn làm đạt mục đích này,
Chúng ta trước phải ra tay kết đoàn.

Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh “
- Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa 2/1945: ” Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do,

độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.”
* Khi có độc lập rồi thì quyết tâm giữ và giữ cho bằng được
• Nước ta có độc lập từ năm 1945
• Tuyên ngôn độc lập: Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập trên lễ đài
sáng 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, tuyên ngôn khẳng định
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một
nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.”
• Trong các văn bản ngoại giao: Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc
và Chính phủ các nước vào thời gian sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh
trịnh trọng tuyên bố: "nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình.
Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ
những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho
đất nước"
• Trong kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi :"Không! Chúng ta
thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ"
• Ngày 20-7-1954, Pháp ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến tranh ở Đông
Dương
• Khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở rộng chiến tranh, ồ ạt đổ quân viễn chinh và
phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam, đồng thời tiến hành chiến
tranh phá hoại miền Bắc với qui mô và cường độ ngày càng ác liệt, Hồ Chí Minh
nêu cao chân lý lớn nhất của thời đại: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do"


- Độc lập thật sự, độc lập trên tất cả các phương diện:
+ Hiệp ước Élysée (tiếng Pháp: Accords de l'Elysée) là một văn kiện được ký kết
ngày 8 tháng 3 năm 1949 giữa Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam Bảo Đại và Tổng
thống Pháp, theo đó công nhận Quốc gia Việt Nam là một nước độc lập nằm

trong Liên hiệp Pháp.
+ Chính sách ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh sau ngày toàn quốc kháng
chiến: Dù hoàn cảnh còn khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nỗ lực chủ động
triển khai các hoạt động quốc tế để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân
dân thế giới.
• Ngày 21/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho nhân dân Việt Nam,
nhân dân Pháp và nhân dân các nước Đồng minh tố cáo chính sách lật lọng của
thực dân Pháp, phá hoại Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước
14/9/1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Những hành động của thực dân
Pháp định chiếm lấy nước chúng tôi thực rõ rệt, không thể chối cãi được. Dân
tộc Việt Nam nay bị đặt trước hai đường: một là khoanh tay, cúi đầu trở lại nô
lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập"
• Trước đó, trong lời tuyên bố với phóng viên báo "Pari - Sài Gòn", Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nói: "Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi
không muốn chiến tranh. Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng đủ
mọi cách. Chúng tôi tha thiết với nền độc lập, nhưng nước Việt Nam độc lập ở
khối Liên hiệp Pháp. Nước Việt Nam cần kiến thiết, nước Việt Nam không
muốn là nơi chôn vùi hàng bao nhiêu nhân mạng. Nhưng cuộc chiến tranh ấy,
nếu người ta buộc chúng tôi phải làm thì chúng tôi sẽ làm. Chúng tôi không lạ
gì những điều đang đợi chúng tôi. Nước Pháp có những phương tiện ghê gớm,
và cuộc chiến đấu sẽ khốc hại, nhưng dân tộc Việt Nam đã sẵn sàng chịu đựng
tất cả, chứ nhất định không chịu mất tự do..."
• Cuối tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi Lời kêu gọi tới Liên hợp
quốc và Hội đồng Bảo an, nêu rõ nguồn gốc và tình hình cuộc chiến tranh ở
Đông Dương và đề nghị ủng hộ việc vãn hồi hòa bình ở Việt Nam. Trình bày
chính sách đối ngoại cởi mở của Việt Nam.
• Ngày 16/7/1947 trả lời một nhà báo nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định Việt Nam hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản các nước cộng tác. Chủ tịch
Hồ Chí Minh nêu các quan điểm về chính sách đối ngoại hữu nghị và hợp tác



của Việt Nam, khẳng định: Việt Nam muốn "làm bạn với tất cả mọi nước dân
chủ và không gây thù oán với một ai"; "Độc lập của Việt Nam luôn luôn nhờ nơi
lực lượng của Việt Nam"; "Việt Nam sẽ hợp tác với mọi nước vui lòng hợp tác
thật thà và bình đẳng với Việt Nam"
• Để thể hiện thiện chí hòa bình của mình, từ tháng 12/1946 đến tháng
3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 8 lần gửi thư cho Chính phủ Pháp, Quốc hội
Pháp và cả Tổng thống Vincent Auriol, đề nghị lập lại hòa bình để tránh hai
nước cùng khỏi bị hao người thiệt của, và gây lại sự cộng tác của tình thân
thiện giữa hai dân tộc Việt - Pháp. Song Chính phủ Pháp đã không đáp ứng.
• Đối với các nước châu Á, ngoài việc xây dựng khối liên minh chiến đấu Việt Lào - Cam pu chia, Chính phủ ta đã tích cực xây dựng mối quan hệ thân thiện
với các nước dựa trên lập trường chống đế quốc thực dân, bảo vệ độc lập, dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
• Cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam ngay từ đầu đã được nhiều tầng lớp
nhân dân các nước đồng tình ủng hộ.
• Năm 1950, tranh thủ chiến thắng của Chiến dịch Biên giới, Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với hai đồng minh quan
trọng là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Xô Viết (Liên Xô), sau đó còn có các nước khối xã hội chủ nghĩa châu Á, Đông
Âu...
- Quan nhiệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa yêu nước
+ Yêu văn hóa, yêu lịch sử, yêu con người Việt Nam: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhận định: “ Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước nồng nàn. Lịch sử
hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam đã ghi nhận những trang oanh liệt của
nhân dân đấu tranh để xây dựng nước nhà… Đó là truyền thống quý báu của
ta.” Cùng với đó, chủ nghĩa yêu nước là giá trị tốt đẹp đã khẳng định tầm cao
nhân cách, chiều sâu văn hóa của mỗi công dân đối với Tổ quốc; đồng thời là
sức mạnh tiềm tàng, nội sinh thường trực trong lòng dân tộc; là nguồn lực
không bao giờ cạn trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Đây còn là đặc
trưng tiêu biểu về nhân cách của con người Việt Nam.

+ So sánh quan niệm của Hồ Chí Minh với chủ nghĩa dân tộc nước lớn và tư
tưởng con:


* Chủ nghĩa dân tộc nước lớn:
• Giống Hồ Chí Minh: Đề cao coi trọng dân tộc mình
• Khác với Hồ Chí Minh: Coi thường, khinh thường các dân tộc khác, cho phép
mình trà đạp và xâm lược các dân tộc khác.


Quan niệm của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa dân tộc chân chính

* Tư tưởng dân tộc con:
• Chỉ ra, nhìn ra, thấy được các hạn chế của dân tộc mình => Hồ Chí Minh đã
chỉ ra một cách gay gắt.
• Khác: Mất niềm tin vào dân tộc mình, chấp nhận sự xâm lược, thống trị của
kẻ khác đối với dân tộc mình
- Hồ Chí Minh chỉ ra và chứng minh sức mạnh to lớn của chủ nghĩa yên nước:
Trong báo cáo Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ Về dân tộc và chủ nghĩa dân tộc ở
Việt Nam
+ Chủ nghĩa dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc đề cập trong tác phẩm là chủ nghĩa
yêu nước và tinh thần dân tộc của các dân tộc thuộc địa đang đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giành độc lập và là một bộ phận của cách mạng
vô sản. Nguyễn Ái Quốc, dựa trên quan điểm mácxít, thừa nhận đấu tranh giai
cấp trong xã hội có giai cấp là một động lực to lớn của lịch sử, nhưng không
phải là động lực duy nhất. Là người dân thuộc địa, đang đấu tranh chống chủ
nghĩa đế quốc, giành độc lập dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã sớm nhận thức đúng
đắn sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc. Người xem chủ nghĩa dân tộc là một
động lực vĩ đại, thậm chí là duy nhất của các dân tộc thuộc địa, nhấn mạnh vấn
đề giai cấp và đấu tranh giai cấp mà coi nhẹ hoặc bỏ qua vấn đề dân tộc ở

thuộc địa là không đúng.
+ Các nước thuộc địa, nhất là ở Á - Phi, đều là những nước nông nghiệp nghèo
nàn và lạc hậu, bị chủ nghĩa thực dân, đế quốc kìm hãm và bóc lột tàn bạo.
Trong cuộc đấu tranh giải phóng, họ không có vũ khí nào khác là chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần dân tộc. Trong đấu tranh chống đế quốc để giành độc lập,
mâu thuẫn dân tộc với đế quốc là mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu nhất; mâu
thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc tuy vẫn tồn tại nhưng chưa sâu sắc và đứng
sau mâu thuẫn dân tộc với đế quốc. Dù là tư sản hay địa chủ cũng đều là người


dân nô lệ, mất nước, bị áp bức và ít nhiều đều có tinh thần chống đế quốc.
Nguyễn Ái Quốc chứng minh điều đó bằng những cuộc đấu tranh yêu nước
cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX ở Việt Nam lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân
tham gia và tất cả đều được thúc đẩy bởi chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân
tộc. Người khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”.
“Giờ đây, người ta sẽ không thể làm được gì cho người An Nam nếu không dựa
trên các động lực vĩ đại, và duy nhất trong đời sống xã hội của họ”.


Đây là một luận điểm mới mẻ và sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc, vì Người
đã sớm đề cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc ở trung tâm của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, khi chủ nghĩa dân tộc còn bị phân
biệt và bị xem là thuộc phạm trù của hệ tư tưởng tư sản, nhận thức của
nhiều Đảng Cộng sản và công nhân về vấn đề dân tộc và chủ nghĩa dân
tộc còn hạn chế.

- Từ đó Hồ Chí Minh kiến nghị:” Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và
nhân dân ta đã mấy nǎm trường chịu đựng trǎm đắng nghìn cay, kiên quyết
đánh cho tan bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết
xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường,

một nước Việt Nam dân chủ mới.”
2. Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
a) Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau.
- Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, những Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải
quyết vấn đề dân tộc.
- Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh
thể hiện : khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo
duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình Cách mạng Việt Nam ; chủ trương
đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân và
tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng ; sử dụng bạo lực cách mạng của
quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù ; thiết lập chính
quyền nhà nước của dân, do dân, vì dân ; gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội.
b) Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết ; độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội


- Khác với con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa
phong kiến (cuối thế kỷ XIX) hoặc chủ nghĩa tư bản đầu thế kỷ XX), con
đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.
+ Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân
tộc theo con đường cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống
nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
+ Năm 1960, Người nói :"Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ"
- Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải

phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ
khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và
giải phóng con người. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột ; thiết lập
một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân mới đảm bảo cho người lao động
có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã
hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Hồ Chí Minh
nói "Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì"2. Do đó, sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội. làm cho dân giàu nước mạnh, mọi người được sung
sướng, tự do.
=> Người khẳng định : "Yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ
nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no
ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm"
c) Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
- Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp, nhưng đồng
thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống
trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích
của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc.
- Tháng 5-1941. Người cùng với Trung ương Đảng khẳng định : "Trong lúc này
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc
gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những


toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ
phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được"
d) Giữ vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập của các dân
tộc khác
- Là một chiến sĩ quốc tế chân chính. Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc
lập của dân tộc Việt Nam, mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc

bị áp bức.
+ Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, thực hiện nguyên tắc về quyền dân tộc tự
quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong việc ủng hộ các
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới.
+ Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung
Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm
lược của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu: "giúp bạn là tự giúp
mình" và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp
vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.


Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách
mạng sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp,
chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đúng
như Ph.Ăngghen từng nói : Những tư tưởng dân tộc chân chính trong
phong trào công nhân bao giờ cùng là những tư tưởng quốc tế chân chính.

II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
1. Tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
- Sự phân hóa xã hội:
+ Ở phương Tây: Giai cấp vô sản mâu thuẫn với giai cấp tư sản => Cách mạng
giai cấp
+ Ở phương Đông: Toàn bộ dân tộc thuộc địa mâu thuẫn với thực dân đế quốc
xâm lược => Cách mạng giải phóng dân tộc


Mâu thuẫn và xung đột xã hội

- Nhiệm vụ của cách mạng
+ Phương Tây: Đánh đổ giai cấp Tư sản

+ Phương Đông: Đánh đổ thực dân đế quốc và bọn phản động.


* Đối tượng của cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư sản bản xứ,
càng không phải là giai cấp địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân và tay
sai phản động. Cách mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết lập một
chế độ xã hội mới. Cách mạng ở thuộc địa trước hết phải "lật đổ ách thống trị
của chủ nghĩa đế quốc", chứ chưa phải là cuộc cách mạng xóa bỏ sự tư hữu, sự
bóc lột nói chung.
* Hồ Chí Minh luôn phân biệt rõ bọn thực dân xâm lược với nhân dân các nước
tư bản chủ nghĩa. Người kêu gọi nhân dân các nước phản đối chiến tranh xâm
lược thuộc địa, ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt
Nam.
* Yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước thuộc địa làộc lập dân tộc. Trong
phong trào cộng sản quốc tế, có quan điểm cho rằng "vấn đề cơ bản của cách
mạng thuộc địa là vấn đề nông dân" và chủ trương nhấn mạnh vấn đề ruộng đất,
nhấn mạnh đấu tranh giai cấp.
* Trong tác phẩm Đảng cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc phân biệt ba loại cách
mạng : cách mạng tư sản, cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc ;
đồng thời, Người nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là
cách mạng giải phóng dân tộc.
* Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, xác
định những nhiệm vụ về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, nhưng nổi lên hàng
đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Trong tư duy của Hồ Chí
Minh, giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và giải
phóng con người.
* Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5-1941) do Hồ
Chí Minh chủ trì đã kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhấn
mạnh đó là "nhiệm vụ bức thiết nhất'', chủ trương tạm gác khẩu hiệu "cách
mạng ruộng đất" và chỉ tiến hành nhiệm vụ đó ở một mức độ thích hợp nhằm

phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
* Trong nhiều bài nói, bài việt thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Trong
kháng chiến chống thực dân Pháp, Người khẳng định : "Trường kỳ kháng chiến
nhất định thắng lợi, thống nhất, độc lập nhất định thành công"! Trong kháng
chiến chống đế quốc Mỹ, Người nêu rõ : "Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất,
Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà".


+ Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi
riêng biệt của mỗi giai cấp mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc. Đó là những
mục tiêu của chiến lược đấu tranh dân tộc, phù hợp với xu thế của thời đại cách
mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện vọng độc lập,
tự do của quần chúng nhân dân. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (tháng 10-1930) đã phê phán những quan điểm của Nguyễn Ái
Quốc Nhưng với bản lĩnh cách mạng kiên cường, bám sát thực tiễn Việt Nam,
kiên quyết chống giáo điều, tháng 5-1941. Nguyễn Ái Quốc chu trì Hội nghị lần
thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chủ trương "thay đổi chiến lược", từ
nhấn mạnh đấu tranh giai cấp sang nhấn mạnh cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc. Hội nghị khẳng định dứt khoát: "cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại
không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải
quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải
quyết một vấn đề cần kíp "dân tộc giải phóng”.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản.
- Hồ Chí Minh nhìn thấy hạn chế của con đường giải phóng dân tộc đi trước
+ Theo khuynh hướng phong kiến: Con đường cùa Hoàn Hoa Thám tuy có phần
thực tế hơn nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến.
+ Theo khuynh hướng tư sản:
• Xu hướng bạo động: Phan Bội Châu ( 1867-1941), quê Nghệ An với chủ

trương dùng biện pháp bạo động để đánh đuổi thực dân Pháp khôi phục nền độc
lập cho dân tộc. Phát động phong trào Đông Du đưa du học sinh Việt Nam sang
Nhật học tập. => Người nhận thấy con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì
"đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau"
• Khuynh hướng cải cách: Phan Châu Trinh, với chủ trương vận động cải cách
văn hóa, xã hội; động viên lòng yêu nước cho nhân dân; đả kích bọn vua quan
phong kiến thối nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí,
chấn dân trí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang cầu
viện nước ngoài, cầu xin Pháp đến khai hóa cho VN. Theo Hồ Chí Minh, con
đường của Phan Châu Trinh cững chẳng khác gì "xin giặc rủ lòng thương"


Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha,
nhưng Hồ Chí Minh không tán thành các con đường của họ mà quyết tâm
ra đi tìm một con đường mới


- Con đường cứu nước giải phóng dân tộc:
+ Trong khoảng 10 năm vượt qua các đại dưong, đến với nhân loại cần lao đang
tranh đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới. Nguyễn Ái Quốc đã kết
hợp tìm hiểu lý luận và khảo sát thực tiễn, nhất là ở ba nước tư bản phát triển :
Anh. Pháp, Mỹ. Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tìm hiểu thực tiễn
cuộc cách mạng tư sản Mỹ ; đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách
mạng Pháp, tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp. Người nhận thấy : "Cách mệnh
Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không
đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông,
ngoài thì nó áp bức thuộc địa" Bởi lẽ đó, Người không đi theo con đường cách
mạng tư sản.
+ Hồ Chí Minh thấy được Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc
cách mạng vô sản, mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu

tấm gương sáng về sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và "mở ra trước
mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc"[1].


Người "hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba" bởi vì V.I.Lênin và
Quốc tế thứ ba đã "bênh vực cho các dân tộc bị áp bức". Người thấy trong
lý luận của V.I.Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc : con
đường cách mạng vô sản.Trong bài Cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh viết:
"Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả
hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và
của cách mạng thế giới"

- Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng cần có Đảng
+ Người khẳng định trong tác phẩm Đường cách mệnh “ Cách mệnh trước hết
phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi
nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai
cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin.”
+ Cần có Đảng để làm gì? Hồ Chí Minh đã chỉ ra, muốn làm cách mệnh “trước
hết phải làm cho dân chúng giác ngộ... phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho
dân chúng hiểu”. “Cách mệnh phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược


cho dân... Vậy nên sức mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách
mệnh”. Trong “Đường Kách mệnh” Người khẳng định: “Trước hết phải có đảng
cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với

dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”
+ Cần Đảng nào lãnh đạo: đảng cộng sản
* Khái niệm đảng cộng sản: Đảng cộng sản là chính đảng của giai cấp công
nhân.Nó là đội tiên phong,bộ tham mưu chiến đấu,lãnh tụ chính trị của giai cấp
công nhân,đại biểu trung thành cho lợi ích giai cấp công nhân,của nhân dân lao
động và của cả dân tộc.Đảng cộng sản bao gồm những bộ phận tiên tiến của giai
cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động.Đảng cộng sản lấy chủ nghĩa
Mác- Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động,lấy nguyên
tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của mình.
+ Thực tiễn cách mạng Việt Nam khẳng định Đảng Cộng sản là Đảng duy nhất
đưa cách mạng VN đến thành công.
Các tổ chức, các Đảng chính trị trước Đảng Cộng sản Việt Nam
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
- Duy Tân hội
+ Phan Bội Châu sáng lập
+ Thời gian: 1904
+ Mục tiêu: Liên kết với dư đảng Cần
Vương và các trai tráng ở chốn sơn
lâm, xướng khởi nghĩa binh đánh Pháp
với phương thức bạo động. Tìm người
dòng họ vua nhà Nguyễn lập làm minh
chủ, rồi ngầm liên kết với những người
có thế lực, tập hợp những người trung
nghĩa để cùng nhau khởi sự.

- Ngày 3/2/1930, dưới sự chủ trì của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, ba tổ chức
cộng sản ở Việt Nam khi đó (là
Đông Dương Cộng sản Đảng, An

Nam Cộng sản Đảng và Đông
Dương Cộng sản Liên đoàn) đã họp
Hội nghị hợp nhất thành một Đảng
lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Mục đích của Đảng là xây dựng
nước Việt Nam độc lập, dân chủ,
giàu mạnh, xã hội công bằng, văn
minh, không còn người bóc lột
Khi cần thiết sẽ phái người xuất hiện người, thực hiện thành công chủ
nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ
cầu ngoại viện.
nghĩa cộng sản
Mục đích là cốt sao khôi phục được
Việt Nam, lập ra một chính phủ độc - Cao trào cách mạng 1930- 1931
lập, ngoài ra chưa có chủ nghĩa gì khác + Từ tháng 2 đến tháng 4/1930, có


cả.
+ Hoạt động điển hình: Tổ chức phong
trào Đông Du. Tuyên truyền, vận động
các sĩ phu, nhà doanh nghiệp và người
dân yêu nước đứng lập ra các hội nông,
hội buôn, hội học; vừa để tập hợp quần
chúng, vừa để có kinh phí cho hội.
Chuẩn bị vũ khí tiến tới bạo động. Liên
kết với các tổ chức kháng chiến khác.
+ Kết quả: Thất bại

- Việt Nam Quang phục hội

+ Do Phan Bội Châu sáng lập
+ Thời gian 1912
+ Mục tiêu
+ Hoạt động: Ném tạc đạn khủng bố
Vận động lính bản xứ
Đánh đồn Tà Lùng
Phá ngục Lao Bảo
Mưu khời nghĩa ở Trung Kỳ
Khởi nghĩa Thái Nguyên
Mưu sát toàn quyền Merlin
+ Kết quả: Thất bại

-Việt Nam Quốc dân Đảng
+ Do Nguyễn Thái Học đứng đầu
+ Thành lậo năm 1927
+ Mục tiêu của Đảng là:

nhiều cuộc đấu tranh của công nhân
và nông dân nổ ra.
+ Tháng 5/1930, trên cả nước bùng
nổ nhiều cuộc đấu tranh nhân ngày
Quốc tế lao động.
+ Tháng 6 đến tháng 8, phong trào
liên tục nổ ra sôi nổi.
+ Ở Nghệ An – Hà Tĩnh: Tháng
9/1930, phong trào phát triển mạnh,
quyết liệt nhất với những cuộc biểu
tình của nông dân kéo đến huyện lị,
tỉnh lị, được công nhân Vinh – Bến
Thuỷ hưởng ứng. Tiểu biểu là cuộc

biểu tình của 8000 nông dân huyện
Hưng Nguyên, kéo đến huyện lị, phá
nhà lao, đốt huyện đường… Hệ
thống chính quyền địch bị tê liệt, tan
rã ở nhiều huyện, xã. Sự ra đời và
hoạt động của Xô – Viết (Xô – Viết
Nghệ tĩnh là đỉnh cao của PT 1930 –
1931)
Cao Trào Vận Động Dân Chủ ĐD
(1936-1939)
+ Trước tình hình thay đổi của thế
giới và trong nước, nhận thức đúng
đắn những thuận lợi mới BCHTW
Đảng đã họp Hội nghị lần thứ nhất
(7/1936) dưới sự chủ trì của Lê
Hồng Phong.
+ Cao trào vận động dân chủ ĐD 36
- 39 là 1 phong trào CM diễn ra trên
quy mô rộng lớn toàn quốc thu hút
đông đảo nhiều tầng lớp nhân dân
tham gia, sử dụng những hình thức
và phương pháp dấu tranh linh hoạt,


Làm một cuộc cách mạng quốc gia,
dùng võ lực đánh đổ chế độ thực dân
phong kiến, để lập nên một nước Việt
Nam Độc lập Cộng hòa. Đồng thời
giúp đỡ các dân tộc bị áp bức trong
công cuộc tranh đấu giành độc lập của

họ, đặc biệt là các nước lân cận: Ai
Lao, Cao Miên.
+ Hoạt động chủ yếu:

phong phú, sinh động.
- Phong trào giải phóng dân tộc 1939
- 1945
+ Sự chuyển hướng đấu tranh của
Đảng Cộng sản Đông Dương: Tháng
11 - 1939, hội nghị trung ương 6 họp
tại Gia Định do Nguyễn Văn Cừ chủ
trì.

+ Công cuộc chuẩn bị tiến tới khởi
• Giai đoạn 1927-1930: Ám sát Bazin,
nghĩa vũ trang giành chính
Khởi nghĩa Yên Bái
quyền:Xây dựng lực lượng chính trị,
• Giai đoạn 1931-1946: Sau khi Khởi Xây dựng lực lượng vũ trang, Xây
nghĩa Yên Bái thất bại, nhiều đảng viên dựng căn cứ địa cách mạng:
trốn thoát đã cố gắng xây dựng lại lực
+ Cách mạng tháng Tám 1945 thành
lượng. Tuy nhiên, lực lượng của Việt
công. Ngày 2 - 9 - 1945, tại Quảng
Nam Quốc dân Đảng quốc nội bị phân
trường Ba Đình, trước hàng chục
hóa thành rất nhiều nhóm, trong đó có
vạn đồng bào thủ đô, Chủ tịch Hồ
2 nhóm lớn nhất là: Nhóm Hà Nội (Tân
Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm

Việt Nam Quốc dân Đảng) và Nhóm
thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn
Quảng Nam.
độc lập, tuyên bố với quốc dân và
+ Kết quả: Thất bại
thế giới rằng nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa đã ra đời.


Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam cách
mạng đã thành công

3. Từ thực tiễn và lý luận, tránh phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh
đạo
+ Nguyễn Ái Quốc phân tích: "Phàm làm việc gì cũng vậy, bất kỳ lớn bé, bất kỳ
khó dễ, nếu không ra sức thì chắc không thành công... việc giải phóng gông cùm


nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại" là "việc to tát" nên phải gắng sức. "Việc gì
khó cho mấy, quyết tâm làm thì làm chắc được, ít người làm không nổi, nhiều
người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải nổi. Đời này làm chưa xong thì đời sau
nối theo làm thì phải xong”. Muốn làm cách mạng thì phải bền gan, đồng chí,
đồng lòng và quyết tâm, "lại phải biết cách làm thì làm mới chóng’, "Sửa cái xã
hội cũ đã mấy ngàn năm làm xã hội mới, ấy là rất khó. Nhưng biết cách làm biết
đồng tâm hiệp lực mà làm thì chắc làm được, thế thì không khó. Khó dễ cũng tại
mình, mình quyết chí làm thì làm được"
+ Nhưng muốn làm cách mệnh, "trước phải làm cho dân giác ngộ... phải giảng
giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu". "Cách mệnh phải hiểu phong triều thế

giới, phải bày sách lược cho dân... Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn
tập trung phải có đảng cách mệnh"'.
+ Trong tác phẩm Đường cách mệnh. Người khẳng định: "Trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc
với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy"
- Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân,
của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam
+ Kết hợp lý luận Mác Lênin về Đảng Cộng sản với thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin
trên một loạt vấn đề về cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng nên một lý luận
cách mạng giải phóng dân tộc.
+ Người cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam là "Đảng của giai cấp vô sản",
đồng thời là "Đảng của dân tộc Việt Nam", "Đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao dộng trí óc
kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ
quốc và nhân dân".
+ Hồ Chí Minh đã nêu một luận điểm quan trọng, bổ sung thêm cho lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin về đảng cộng sản định hướng cho việc xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam thành một Đảng có sự gắn kết chặt chẽ với giai cấp công
nhân, với nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kỳ của cách mạng Việt
Nam.
4. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
- Hồ Chí Minh nhận ra và đề cao vai trò sức mạnh của quần chúng nhân dân.:


+ Năm 1924, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân.
Người cho rằng: "Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông
Dương: - Phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một
cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng... ".

+ Hồ Chí Minh nghiêm khắc phê phán việc lấy ám sát cá nhân và bạo động non
làm phương thức hành động. "hoặc xúi dân bạo động mà không bày cách tôr
chức; hoặc làm cho dân quen ỷ lại, mà quên tính tự cường” Người khẳng định
"cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người".
+ Hồ Chí Minh nói: "Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước đi vào quần
chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh
giành tự do độc lập"'.
+ Người khẳng định: "Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng
không chống lại nổi". "Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân thì kẻ địch không
thể nào tiêu diệt được". "Chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần
chúng, của dân tộc".
+ Toàn dân theo quan niệm Hồ Chí Minh bao gồm đông đảo tầng lớp nhân dân
* Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người nói: “ Bất kỳ đàn ông, đàn
bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là
người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có
súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc,
thuổng, gậy, gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”, “ 31 triệu
đồng bào ta ở cả hai miền, bất kỳ già trẻ, gái trai, phải là 31 triệu chiến sĩ anh
dũng diệt Mỹ, cứu nước, quyết giành thắng lợi cuối cùng”
* Trong đó Hồ Chí Minh phân ra mỗi một giai cấp, một tầng lớp , một bộ phận
dân cư có vị trí, vai trò khác nhau trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
• Lực lượng chủ, gốc của cách mạng: Giai cấp công- nông. Trong Đường cách
mệnh người viết “ Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho nên công nông là
người chủ cách mệnh.
(1) Là vì công nông bị áp bức nặng hơn,
(2) Là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết,
(3) Là vì công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một
cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc. Vì
những cớ ấy, nên công nông là gốc cách mệnh..”



• Lực lượng bầu bạn của sự nghiệp giải phỏng dân tộc công nông: “…còn học
trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ
bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi.”
• Đồng minh của cách mạng công nông là: Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc
và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn đồng minh của cách mạng.
• Trừ bọn bộc lộ rõ bản chất phản động, bọn bán nước hại dân không phải lực
lượng của cách mạng.
+ Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, lực lượng giành và giữ độc lập, Hồ Chí
Minh cho rằng cần phải hoàn thiện.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
- Quan niệm của Quốc tế cộng sản về Cách mạng vô sản ở chính quốc với cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa
+ Luận cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa
nêu ở Đại hội VI Quốc tế cộng sản (1928): “chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công
cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các
nước tư bản tiên tiến”.
+ Khi đề cập đến mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc
địa, Lênin cho rằng cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào cách mạng
vô sản ở các nước đế quốc với phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa nhưng
cách mạng vô sản ở các nước chính quốc phải được thực hiện trước, sau khi
thành công phải giúp đỡ cách mạng ở các nước thuộc địa, nhất là các nước có
nền kinh tế lạc hậu và còn tàn dư phong kiến. Như vậy, theo Lênin, cách mạng
thuộc địa phải phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải
phóng dân tộc chỉ có thể thắng lợi khi cách mạng vô sản chính quốc thắng lợi.


Về lý luận, Quốc tế cộng sản coi thường, xem nhẹ cách mạng thuộc địa.
Về thực tiễn, Quốc tế cộng sản quan tâm không đúng mức, không có

những hành động thiết thực và cụ thể để giúp đỡ cách mạng.

+ Hồ Chí Minh phế phán: “ Bàn về khả năng và các biện pháp thực hiện cách
mạng, đề ra kế hoạch của cuộc chiến đấu sắp tới, các đồng chí Anh và Pháp
cũng như các đồng chí ở các đảng khác hoàn toàn bỏ qua luận điểm cực kỳ quan
trọng có tính chiến lược này. Chính vì thế, tôi hết sức kêu gọi các đồng chí: Hãy
chú ý!".




Tạo ra sự trông chờ, ỷ lại của cách mạng thuộc địa đối với Cách mạng vô
sản ở chính quốc. Đây là điều không tốt.

- Quan niệm của Hồ Chí Minh:
+ Vai trò của thuộc địa:
* Đối với Chủ nghĩa tư bản:
• Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, thuộc địa của Anh đã rải hầu khắp địa
cầu, chiếm 1/4 diện tích lục địa (33 triệu km2) và 1/4 dân số thế giới (400 triệu
người).
• Pháp: Đến trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, thuộc địa của Pháp được mở
rộng chỉ đứng sau Anh, với diện tích gần 11 triệu km- và 55,5 triệu dân.


Thuộc địa là nguồn nguyên nhiên liệu, lao động cho Chủ nghĩa đế quốc.
Thuộc địa đóng góp lớn về kinh tế và quân sự cho đế quốc.

+ Sức mạnh lòng yêu nước và khả năng làm cách mạng của thuộc địa: “ Đằng
sau sự phục tùng tiêu cực. Người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục,
đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến.”



Người cộng sản chỉ cần gieo hạt mầm, tinh thần sức mạng ấy sẽ bùng lên.

- Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
+ Cách mạng thuộc địa phải kết hợp với cách mạng ở chính quốc: Theo Hồ Chí
Minh. Giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở
chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lần nhau trong
cuộc đấu tranh Chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ
bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính - phụ.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc cần phải chủ động, sáng tạo:
* Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách
mạng vô sản và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Giải phóng dân
tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công
nhân.
* Trong Đường cách mệnh, Người viết: “ Phàm làm việc gì cũng vậy, bất kỳ lớn
bé, bất kỳ khó dễ, nếu không ra sức thì chắc không thành công. Tục ngữ Tàu có
câu: "Sư tử bắt thỏ tất dùng hết sức". Sư tử mạnh biết chừng nào, nếu bắt thỏ thì
có khó gì, thế mà còn phải dùng hết sức, huống gì làm việc to tát như việc giải
phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại, nếu không hết sức thì làm


sao được.”, “ Nhưng biết cách làm, biết đồng tâm hiệp lực mà làm thì chắc làm
được, thế thì không khó. Khó dễ cũng tại mình, mình quyết chí làm thì làm
được thôi”
* Trong thư kêu gọi tổng khởi nghĩa : “... Vừa đây Việt Minh lại triệu tập “Việt
Nam quốc dân đại biểu Đại hội”, cử ra Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam để
lãnh đạo toàn quốc nhân dân kiên quyết đấu tranh kỳ cho nước được độc
lập...Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam cũng như Chính phủ lâm thời của ta

lúc này. Hãy đoàn kết chung quanh nó, làm cho chính sách và mệnh lệnh của nó
được thi hành khắp nước. Như vậy thì Tổ quốc ta nhất định mau được độc lập,
dân tộc ta nhất định mau được tự do” .
* Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “ Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ
người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt
Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng.
Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai
cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất
nước.
Dù phải gian khổ kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi
nhất định về dân tộc ta!”
+ Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức
mạnh dân tộc. Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc từ thuộc
địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
- Giá trị, ý nghĩa quan điểm của Hồ Chí Minh: Đây là một luận điểm sáng tạo,
có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn: một cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí
Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đã được thắng lợi của
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ
qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
+ So sánh:
* Năm 1945, công cuộc kháng Nhật cứu nước thành công, trong khi đó Nhật
chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, nhân dân lao dộng bị áp bức bóc lột nặng nề
nên đứng lên đấu tranh đòi tự do dân chủ, đòi tăng lương và cải thiện đời sống.


* Năm 1954, kháng chiến chống Pháp thành công, trong khi đó nhân dân Pháp
khổ sở vì Pháp là một nước hiếu chiến và nhiều lần thất bại, thiệt hại lớn về
người và của cải.

* 1975, kháng chiến chống Mỹ thành công, Trong khi đó ở chính quốc, vai trò
tổng thống do 2 đảng Dân Chủ và Cộng hòa thay nhau cầm quyền, chính sách
đối nội , đối ngoại phục vụ cho Giai cấp tư sản, hệ thống tách ly chủng tộc kìm
hãm người da đen luôn ở vị trí thấp kém về kinh tế, xã hội và chính trị. Toàn
miền nam vẫn bần cùng cho đến nửa sau của thế kỷ 20.
* Cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa trên thế giới:
• Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc ở châu Á: Năm 1921, cuộc cách mạng
nhân dânMông Cổthắng lợi. Trong những năm 1918 - 1922, nhân dânẤn Độđã
tăng cường đấu tranh chống thực dân Anh. ỞThổ Nhĩ Kì, cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc 1919 - 1922 (do giai cấp tư sản lãnh đạo) đã kết thúc thắng lợi.
• Phong trào cách mạng ở châu Phi: ỞTuynidi,phong trào diễn ra sôi nổi trong
những năm 1920 – 1922. Phong trào đấu tranh chính trị lên tới đỉnh cao vào
tháng 4 - 1922, đòi hỏi phải khẩn trương thực hiện những cải cách hiến pháp.
Tháng 6 - 1922, chính phủ Pháp buộc phải ban hành sắc lệnh về cải cách hiến
pháp ở Tuynidi. Phong trào đấu tranh vũ trang bùng lên mạnh mẽ ở nhiều
vùngMarốc(thuộc Pháp) và đặc biệtMarốcthuộc Tây Ban Nha.
• Phong trào cách mạng ở Mĩ latinh: ỞBraxin,làn sóng bãi công tiếp diễn trong
suốt năm 1920 đã buộc chính phủ phải có một số nhượng bộ (như thực hiện chế
độ ngày làm 8 giờ và nâng cao tiền lương cho công nhân một số ngành; thi hành
chế độ tiền lương mới cho công nhân, thi hành chế độ trợ cấp cho công nhân bị
tai nạn lao động).
=> Quan điểm cũng Hồ Chí Minh là đúng đắn. Quan điểm này đã bổ sung và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt
Nam.
6. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực
- Cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa sử dụng biện pháp gì?
+ Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách
mạng bạo lực. Bởi vì các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống
trị thuộc địa, đàn áp dã man các phong trào yêu nước. "Chế độ thực dân tự bản

thân nó, đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi". Chưa


đánh bại được lực lượng và đè bẹp ý chí xâm lược của chúng thì chưa thể có
thắng lợi hoàn toàn.
+ Bạo lực cách mạng của ai?: Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng
bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng được giác ngộ.
+ Bạo lực cách mạng có những hình thức nào? Hình thức của bạo lực cách
mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, nhưng phải "tùy tình
hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử
dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính
trị để giành thắng lợi cho cách Mạng
* Trong cách mạng tháng Tám, bạo lực thể hiện bằng khởi nghĩa vũ trang với
lực lượng chính trị là chủ yếu. Đó là công cụ đập tan chính quyền của bọn
Phátxít Nhật và tay sai giành chính quyền về tay nhân dân.
* Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị
trí quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, làm thất bại những âm
mưu quân sự và chính trị của chúng. Nhưng đấu tranh vũ trang không tách biệt
với đấu tranh chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể cách mạng càng phát
triển, quần chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để
tổ chức lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang.
+ Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong tư tưởng về cách mạng bạo lực:
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu chiến
của các thế lực đế quốc xâm lược. Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý
trọng sinh mạng con người. Người luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính
quyền ít đổ máu. Người tìm mọi cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng
mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình, chủ động đàm phán,
thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ có nguyên tắc.
* Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chí khí không

còn khả năng hòa hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ
muốn giành thắng lợi bằng quân sự thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát động
chiến tranh. Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo, hòa bình thống
nhất biện chứng với nhau. Yêu thương con người, yêu chuộng hòa bình, tự do,
công lý, tranh thủ mọi khả năng hòa bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi
không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên
quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng để
giành, giữ và bảo vệ hòa bình, vì độc lập, tự do. Đánh giặc không phải là tiêu


×