Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Chương 3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.38 KB, 20 trang )

Chương 3
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM
1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện lý
luận:
+ 1923 - 1924: Ngày 13/6/1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời
Pari đi Liên Xô. Ngày 30/6/1923, Người đến Pêtơrôgrát, quê
hương của Cách mạng Tháng Mười và ít ngày sau Người lên
xe lửa đi Mátxcơva. Nguyễn Ái Quốc đã trở thành người Việt
Nam đầu tiên có mặt trên đất nước Lênin, nơi nhân dân Liên
Xô đã được tự do và đang xây dựng một cuộc sống hạnh
phúc, bình đẳng. Trên đất nước của Lênin, Nguyễn Ái Quốc
tích cực hoạt động, học tập để hướng tới con đường giải
phóng dân tộc và góp phần phát triển tư tưởng độc lập tự do
cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Cùng với hoạt động
thức tiễn, Nguyễn Ái Quốc luôn hiểu sâu sắc việc cần phải
học tập nâng cao nhận thức lý luận về chủ nghĩa Mác-Lênin.
Cho nên, cuối năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đã tranh thủ tham
gia lớp học ngắn hạn của trường Đại học Phương Đông. Được
học ở ngôi trường này, Người đã nhận thức rõ hơn về tầm
quan trọng của việc đào tạo lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộ của phong trào cách mạng Việt Nam.
+ 1934 - 1938: Mùa thu năm 1934, Quốc tế cộng sản ra Quyết
định số 45 cử Người đi học tại Trường Bồi dưỡng Lý luận
quốc tế mang tên Lênin, đăng ký trong danh sách sinh viên số
hiệu 375, bí danh Lin, niên khóa 1934-1935.



+ Người tự nghiên cứu, tìm hiểu:
* Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học
của lý luận Mác - Lênin, trước hết là từ khát vọng giải phóng
dân tộc Việt Nam.
* Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội ở phương diện đạo
đức, hướng tới giá trị nhân đạo, nhân văn, giải quyết tốt quan
hệ giữa cá nhân với xã hội theo quan điểm của Mác và
Ăngghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.
* Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hóa. Văn hóa
trong xã hội Việt Nam có quan hệ biện chứng với chính trị,
kinh tế.
- Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện thực
tiễn.
+ Thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của
nhân dân Liên Xô:
* Công cuộc khôi phục kinh tế (1945- 1950)
● Liên Xô hoàn thành kế hoạch 5 năm khôi phục kinh tế
(1946-1950) trong 4 năm 3 tháng, trước thời hạn 9 tháng.
● Năm 1950, sản lượng CN tăng 73%, sản lượng nông
nghiệp đạt mức trước chiến tranh.
● Năm 1949 Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử,
phá vỡ thế độc quyền vũ khí hạt nhân của Mĩ.
* Liên Xô xây dựng Chủ nghĩa xã hội từ 1950 đến nửa đầu
những năm 70.
● Công nghiệp: Liên Xô trở thành cường quốc công
nghiệp đứng thứ hai thế giới sau Mĩ, đi đầu trong công
nghiệp vũ trụ, công nghiệp điện hạt nhân và đã chiếm
lĩnh nhiều đỉnh cao trong nhiều lĩnh vực KH-KT



● Nông nghiệp: Sản lượng nông phẩm tăng trung bình 16%
.
● Khoa học – Kĩ thuật:
✓ 1957 Liên Xô là nước đầu tiên phóng thành công
vệ tinh nhân tạo.
✓ 1961 Liên Xô đã phóng con tàu vũ trụ đưa nhà
du hành Gagarin bay vòng quanh Trái đất, mở
đầu kỷ nguyên chinh phục vũ trụ của loài người.
● Chính trị: ổn định
● Xã hội có nhiều biến đổi: Công nhân chiếm 55% lao
động cả nước, 3/4 dân số có trình độ trung học và đại
học.
● Chính sách đối ngoại :Thực hiện chích sách bảo vệ hòa
bình thế giới, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc và
giúp đỡ các nước Xã hội chủ nghĩa.
+ Thực tiễn đời sống nhân dân các nước thuộc địa trong đó có
Việt Nam:
* Chính sách cai trị của thực dân Pháp
● Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực
dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính
quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam ra thành
ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi
kỳ một chế độ cai trị riêng. Đồng thời với chính sách
nham hiểm này, thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa
chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với
nhân dân Việt Nam.
● Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột về
kinh tế: tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền;
đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công



nghiệp; xây dựng hệ thống đường giao thông, bến cảng
phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp
đã tạo nên sự chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam
(hình thành một số ngành kinh tế mới...) nhưng cũng dẫn
đến hậu quả là nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào tư
bản Pháp, bị kìm hãm trong vòng lạc hậu.
● Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa,
giáo dục thực dân; dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu...
Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ cai trị thực
dân ở Đông Dương: “Chúng tôi không những bị áp bức
và bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu
độc một cách thê thảm... bằng thuốc phiện, bằng rượu...
chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng
tôi không có quyền tự do học tập”.
* Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt
Nam: Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh
tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá
trình phân hóa sâu sắc.
● Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân
Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên,
trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa,
một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ
thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình
thức và mức độ khác nhau.
● Giai cấp nông dân: giai cấp nông dân là lực lượng đông
đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong
kiến áp bức bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần
cùng của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm



lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, làm tăng
thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành
lại ruộng đất và quyền sống tự do.
● Giai cấp công nhân Việt Nam: Ra đời từ cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp. Đa số công
nhân Việt Nam, trực tiếp xuất thân từ giai cấp nông dân,
nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực
dân Pháp thi hành ở Việt Nam. Vì vậy, giai cấp công
nhân có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông
dân. Giai cấp công nhân Việt Nam bị đế quốc, phong
kiến áp bức, bóc lột. Đặc điểm nổi bật của giai cấp công
nhân Việt Nam là ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc Việt
Nam, và vừa lớn lên nó đã sớm tiếp thụ ánh sáng cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhanh chóng trở thành
một lực lượng chính trị tự giác, thống nhất khắp Bắc
Trung Nam…
● Giai cấp tư sản Việt Nam: Bao gồm tư sản công nghiệp,
tư sản thương nghiệp… Trong giai cấp tư sản có một bộ
phận kiêm địa chủ. Ngay từ khi ra đời, giai cấp tư sản
Việt Nam đã bị tư sản Phảp và tư sản người Hoa cạnh
tranh, chèn ép, do đó, thế lực kinh tế và địa vị chính trị
của giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé và yếu ớt. Vì vậy,
giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh đạo
cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
● Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: bao gồm học sinh, trí
thức, viên chức và những người làm nghề tự do… Trong
đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng của
tầng lớp tiểu tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam

bấp bênh và dễ bị phá sản trở thành những người vô sản.


Tiểu tư sản Việt Nam có lòng yêu nước, căm thù đế quốc,
thực dân, lại chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ
từ bên ngoài truyền vào. Vì vậy, đây là lực lượng có tinh
thần cách mạng cao và nhạy cảm chính trị. Được phong
trào cách mạng rầm rộ của công nông thức tỉnh và cổ vũ,
họ bước vào hàng ngũ cách mạng ngày càng đông và
đóng một vai trò quan trọng trong phong trào đấu tranh
của nhân dân, nhất là ở thành thị.
=> Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác
động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời hai giai cấp
mới là công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp
trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người bị
mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân Pháp
áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu
thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp
địa chủ phong kiến, đã nẩy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa
chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là:
mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược, giành độc lập cho nhân dân, tự do cho nhân
dân; hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành lại dân chủ cho
nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân.
+ Bản thân Hồ Chí Minh trực tiếp được thụ hưởng thành tựu
tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội: Cách mạng Tháng Mười Nga và
hệ thống Xã hội chủ nghĩa là thành quả quan trọng nhất mà
nhân loại đã giành được trong quá trình đấu tranh với các thế
lực áp bức, bóc lột để tự giải phóng mình.Xã hội chủ nghĩa đã

đạt được thành tựu to lớn và có đóng góp đặc biệt quan trọng


vào tiến trình phát triển văn minh nhân loại. Chỉ trong
khoảng 20 năm (1921 - 1940), Lênin, Stalin và Đảng Cộng
sản Liên Xô đã lãnh đạo nhân dân Liên Xô thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và biến nước
Nga từ một nước tư bản phát triển trung bình (thấp xa so với
Anh, Pháp, Mỹ, Đức…) thành một nước Nga công nghiệp hoá
hùng mạnh và biến 14 nước cộng hoà thuộc liên bang vốn là
những nước lạc hậu chậm phát triển thành các quốc gia có
công nghiệp, nông nghiệp, khoa học và giáo dục phát triển.
-Tính tất yếu của Chủ nghĩa xã hội: Xã hội chủ nghĩa là một
xã hội tốt đẹp hơn Xã hội tư bản
=> “ Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”. Hồ Chí Minh, toàn tập,
Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002,tập10, tr.128.
2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
+ Hồ Chí Minh có quan niệm tổng quát khi coi chủ nghĩa
cộng sản chủ nghĩa xã hội như là một chế độ xã hội bao gồm
các mặt rất phong phú hoàn chỉnh, trong đó con người được
phát triển toàn diện, tự do. Trong một xã hội như thế mọi thiết
chế cơ cấu xã hội đều nhằm tới mục tiêu giải phóng con
người.
+ Hồ Chí Minh diễn đạt quan niệm của mình về chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam trên một số mặt nào đó của nó như chính trị,
kinh tế, văn hóa. xã hội... Với cách diễn đạt như thế của Hồ

Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, chúng ta không nên tuyệt đối


hóa từng mặt, hoặc tách riêng rẽ từng mặt của nó mà cần đặt
trong một tổng thể chung.
+ Hồ Chí Minh quan niệm về chủ nghĩa xã hội ở nước ta bằng
cách nhấn mạnh mục tiêu vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân
dân, là làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung
sướng, tự do là “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do đồng bào ai cùng có cơm ăn áo mặc ai cũng
được học hành” như "ham muốn tột bậc" mà Người đã trả lời
các nhà báo tháng 1 nám 1946.
+ Hồ Chí Minh nêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
trong ý thức, động lực của toàn dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Xây dựng một xã hội như thế là
trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi, động lực của toàn dân tộc.
Cho nên với động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
sức mạnh tổng hợp được sử dụng và phát huy, đó là sức mạnh
toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
- Đặc trưng, bản chất tổng quát của Chủ nghĩa xã hội
+ Đó là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ:
+ Chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát
triển cao, gắn liền với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật
+ Chủ nghĩa xã hội là chế độ không còn người bóc lột người
+ Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa,
đạo đức
3. Quan điểm Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam
a) Mục tiêu
- Mục tiêu chung: Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ

nghĩa xã hội và mục tiêu phấn đấu của Người là một đó là độc


lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao
cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành.
- Mục tiêu cụ thể
+ Mục tiêu chính trị: Chế độ chính trị phải là do nhân dân lao
động làm chủ. Nhà nước là của dân do dân và vì dân. Nhà
nước có hai chức năng: dân chủ với nhân dân. chuyên chính
với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó không tách rời
nhau, mà luôn luôn đi đôi với nhau. Một mặt, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh phải phát huy quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị
của nhân dân; mặt khác lại yêu cầu phải chuyên chính với
thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân: chống lại
chế độ xã hội chủ nghĩa.
+ Mục tiêu kinh tế: Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của
chủ nghĩa xã hội chỉ được bảo đảm và đứng vững trên cơ sở
một nền kinh tế vững mạnh. Nền kinh tế mà chúng ta xây
dựng là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công - nông nghiệp
hiện đại. khoa học - kỹ thuật tiên tiến, cách bóc lột theo chủ
nghĩa tư bản được bỏ dần, đời sống vật chất của nhân dân
ngày càng được cải thiện. Nền kinh tê xã hội chủ nghĩa ở
nước ta cẩn phát triển toàn diện các ngành mà những ngành
chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó
“công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế nước
nhà”. Kết hợp các loại lợi ích kinh tế là vấn đề rất được Hồ
Chí Minh quan tâm. Người đặc biệt nhấn mạnh chế độ khoán
là một trong những hình thức của sự kết hợp lợi ích kinh tế.

+ Mục tiêu văn hóa: Theo Hồ Chí Minh, văn hóa là một mục
tiêu cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa thể hiện


trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội đó là xóa nạn mù chữ,
xây dựng, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng phát
triển văn hóa - nghệ thuật. Về bản chất của nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Người khẳng định: “phải xã hội chủ
nghĩa về nội dung”: để có một nền văn hóa như thế ta phải
phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc, đồng thời học tập văn
hóa tiên tiến của thế giới. Phương châm xây dựng nền văn hóa
mới là: Dân tộc, khoa học, đại chúng. Hồ Chí Minh đặt lên
hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa là đào tạo
con người. Bởi lẽ, mục tiêu cao nhất, động lực quyết định nhất
công cuộc xây dựng chính là con người.
+ Mục tiêu xã hội: thực hiện nếp sống mới, thực hành vệ sinh
phòng bệnh, giải trí lành mạnh, bài trừ mê tín dị đoan, khắc
phục phong tục tập quán lạc hậu.
b) Động lực
- Động lực bên trong:
+ Con người: con người là động lực của chủ nghĩa xã hội, hơn
nữa là động lực quan trọng nhất. Hồ Chí Minh đã nhận thấy ở
động lực này có sự kết hợp giữa cá nhân với xã hội. Người
cho rằng, không có chế độ xã hội nào coi trọng lợi ích chính
đáng của cá nhân con người bằng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự đoàn kết cộng đồng,
sức lao động sáng tạo của nhân dân, đó là sức mạnh tổng hợp
tạo nên động lực quan trọng của chủ nghĩa xã hội.
+ Động lực chính trị: Nhà nước đại diện cho ý chí và quyền
lực của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện chức

năng quản lý xã hội, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
đến thắng lợi. Người đặc biệt quan tâm đến hiệu lực của tổ
chức, bộ máy, tính nghiêm minh của kỷ luật, pháp luật, sự


trong sạch, liêm khiết của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp
từ Trung ương tới địa phương.
+ Động lực kinh tế: Hồ Chí Minh rất coi trọng động lực kinh
tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, làm cho mọi
người, mọi nhà trở nên giàu có, ích quốc lợi dân, gắn liền kinh
tế với kỹ thuật, kinh tế với xã hội.
+ Động lực tiềm tàng: Văn hóa, giáo dục, tư tưởng. Cùng với
động lực kinh tế. Hồ Chí Minh cũng quan tâm tới văn hóa,
khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể
thiếu của chủ nghĩa xã hội.
- Động lực bên ngoài: Sự giúp đỡ của các nước Xã hội chủ
nghĩa
- Phát huy và khắc phục trở lực: Nét độc đáo trong phong
cách tư duy biện chứng Hồ Chí Minh là chỗ bên cạnh việc chỉ
ra các nguồn động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội, Người
còn lưu ý, cảnh báo và ngăn ngừa các yếu tố kìm hãm, triệt
tiêu nguồn năng lượng vốn có của chủ nghĩa xã hội, làm cho
chủ nghĩa xã hội trở nên trì trệ, xơ cứng, không có sức hấp
dẫn, đó là tham ô, lãng phí, quan liêu... mà Người gọi đó là
“giặc nội xâm”.
- Mối quan hệ giữa động lực bên trong và động lực bên ngoài:
Tất cả những nhân tố động lực nêu trên là những nguồn lực
tiềm tàng của sự phát triển. Làm thế nào để những khả năng,
năng lực tiềm tàng đó trở thành sức mạnh và không ngừng
phát triển. Hồ Chí Minh nhận thấy sự lãnh đạo đúng đắn của

Đảng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của chủ
nghĩa xã hội. Đây là hạt nhân trong hệ động lực của chủ nghĩa
xã hội. Ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh, phải
kết hợp được với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc


tế, chủ nghĩa yêu nước phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của
giai cấp công nhân, phải sử dụng tốt những thành quả khoa
học - kỹ thuật thế giới...
II. CON ĐƯỜNG, BIỆN PHÁP QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về thời kì quá độ:
+ Tính tất yếu:
*Một là: CNTB và Chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất.
CNTB được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, dựa trên chế độ áp bức bóc lột. Còn
Chủ nghĩa xã hội xây dựng trên cơ sở công hữu tư liệu sản
xuất là chủ yếu, không còn các giai cấp đối kháng, không còn
chế độ áp bức, bóc lột. muốn có được xã hội như vậy thì ta
cần phải có một khoảng thời gian nhất định.
*Hai là: Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên nền sản xuất
đại công nghiệp có trình độ
cao. CNTB đã tạo ra tiền đề vật chất- kỹ thuật nhất định cho
Chủ nghĩa xã hội. Nhưng muốn tiền đề đó phục vụ cho Chủ
nghĩa xã hội thì Chủ nghĩa xã hội cần phải tổ chức, sắp xếp
lại. Đối với những nước chưa trải qua công nghiệp hóa, hiện
đại hóa tiến lên Xã hội chủ nghĩa thì thời kỳ quá độ có thể
phải kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm là là tiến hành công
nghiệp hóa Xã hội chủ nghĩa

*Ba là: Các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự
phát nảy sinh trong lòng chế độ tư bản chủ nghĩa, đó là kết
quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Dù sự
phát triển của CNTB có ở mức cao đến mấy thì cũng chỉ tạo
ra tiền đề vật chất – kỹ thuật, điều kiện hình thành các quan hệ


xã hội mới- Xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cần phải có thời gian
để xây dựng, phát triển các quan hệ đó.
*Bốn là: Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công cuộc mới
mẻ, khó khăn và phức tạp, cần phải có thời gian để giai cấp
công nhân từng bước làm quen với những công việc đó. Thời
lỳ quá độ ở những nước có trình độ phát triển kinh tế xã hội
khác nhau thì khác nhau. Nước đã phát triển lên trình độ cao
thì tương đối ngắn, còn những nước lạc hậu, kém phát triển
thì phải kéo dài hơn và gặp phải nhiều khó khăn phức tạp hơn.
+ Hai con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Theo quan
điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, có hai
con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. * Con đường thứ nhất
là quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội từ những nước tư bản
chủ nghĩa phát triển ở trình độ cao.
* Con đường thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở
những nước chủ nghĩa tư bản phát triển còn thấp, hoặc như
V.l.Lênin cho rằng, những nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa
trải qua thời kỳ phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng có thể đi
lên chủ nghĩa xã hội được trong điều kiện cụ thể nào đó nhất
là trong điều kiện đảng kiểu mới của giai cấp vô sản nắm
quyền lãnh đạo (trở thành đảng cầm quyền) và được một hay
nhiều nước tiên tiến giúp đỡ. Trên cơ sở vận dụng lý luận về
cách mạng không ngừng, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình
hình thực tế Việt Nam. Hồ Chí Minh đã khẳng định con
đường cách mạng Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc,
hòan thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên
chủ nghĩa xã hội. Như vậy, quan niệm Hồ Chí Minh về thời


kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quan niệm về
một hình thái quá độ gián tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành
được độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội. Chính ở nội
dung cụ thể này. Hồ Chí Minh đã cụ thể và làm phong phú
thêm lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
+ Điều kiện quá độ: Theo V.I.Lênin, điều kiện để một nước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là:
* Thứ nhất, điều kiện bên trong, có Đảng cộng sản lãnh đạo
giành được chính quyền và sử dụng chính quyền nhà nước
công, nông, trí thức liên minh làm điều kiện tiên quyết để xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
* Thứ hai, điều kiện bên ngoài, có sự giúp đỡ của giai cấp
vô sản của các nước tiên tiến đã giành thắng lợi trong cách
mạng vô sản. Các nước lạc hậu có khả năng quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không
phải là quá độ trực tiếp, mà phải qua con đường gián tiếp với
một loạt những bước quá độ thích hợp, thông qua “chính sách
kinh tế mới”. Chính sách kinh tế mới là con đường quá độ
gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội, được áp dụng ở Liên Xô từ
mùa xụân 1921 thay cho “ chính sách cộng sản thời chiến”
được áp dụng trong nhửng năm nội chiến và can thiệp vũ

trang của chủ nghĩa đế quốc.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về thời kì quá độ
+ Hồ Chí Minh thừa nhận tính tất yếu và các con đường quá
độ : “Nhưng tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con
đường khác nhau. Có nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội
(cộng sản) như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ dân


chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - như các
nước Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta” Hồ Chí Minh:
Toàn tập, t.8. Nxb Chính trị quốc gia. H, 2011. Tr. 293
+ Nhiệm vụ lịch sử của thời kì quá độ:
*Một là, xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa
xã hội, xây dựng các tiền đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tư
tưởng cho chủ nghĩa xã hội.
*Hai là, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải
tạo và xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm làm nội
dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài
+ Tính chất: Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến tính chất tuần tự,
dần dần của thời kỳ quả độ lên chủ nghĩa xã hội. Tính chất
phức tạp và khó khăn của nó được Người lý giải trên các điểm
sau:
* Thứ nhất, đây thực sự là một cuộc cách mạng làm đảo lộn
mọi mặt đời sống xã hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nó đặt ra và
đòi hỏi đồng thời giải quyết hàng loạt mâu thuẫn khác nhau.
Như trong Di chúc Hồ Chí Minh đã coi sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội là một cuộc chiến đấu khổng lồ của toàn
Đảng toàn dân Việt Nam.
* Thứ hai, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng!

Nhà nước, và nhân dân ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên
lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ đối với
Đảng ta nên phải vừa làm vừa học và có thể có vấp váp, thiếu
sót. Xây dựng xã hội mới bao giờ cũng khó khăn, phức tạp
hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời.


* Thứ ba sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước là luôn
luôn bị các thế lực phản động trong và ngoài nước tìm cách
chống phá.
+ Nội dung xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ
* Trong lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải
giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải
luôn luôn tự đổi mới và tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp
ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền Mối
quan tâm lớn nhất của Người về Đảng cầm quyền là làm sao
cho Đảng không trở thành Đảng quan liêu, xa dân, thoái hóa,
biến chất, làm mất lòng tin của dân, có thể dẫn đến nguy cơ
sai lầm về đường lối, cắt đứt mối quan hệ máu thịt với nhân
dân và để cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở dưới nhiều hình thức.
Đồng thời, củng cố và tăng cường vai trò quản lý của nhà
nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng
trở thành nhiệm vụ rất quan trọng. Một nội dung chính trị
quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là củng
cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên
minh công nhân, nông dân và tri thức, do Đảng Cộng sản lãnh
đạo; củng cố và tăng cường sức mạnh toàn bộ hệ thống chính
trị cũng như thành tố của nó.

* Nội dung kinh tế: Được Hồ Chí Minh đề cập trên các mặt:
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế.
Người nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao động trên cơ sở
tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đối với cơ cấu
kinh tế Hồ Chí Minh đề cập cơ cấu ngành và cơ cấu các thành
phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ. Người quan niệm


hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp, lấy
nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, củng cố hệ thống thương
nghiệp làm cầu nối tốt nhất giữa các ngành sản xuất xã hội,
thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Đối với kinh tế
vùng, lãnh thổ. Hồ Chí Minh lưu ý phải phát triển đồng đều
giữa kinh tế đô thị và kinh tế nông thôn. Người đặc biệt chú
trọng chỉ đạo phát triển kinh tế vùng núi, hải đảo, vừa tạo điều
kiện không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của đồng
bào, vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng cho đất nước. Ở nước
ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương phát triển cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Người xác định rõ vị trí và xu hướng vận động
của từng thành phần kinh tế. Nước ta cần ưu tiên phát triền
kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã
hội, thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã
là hình thức sở hữu tập thế của nhân dân lao động, Nhà nước
cần đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát
triển, về tổ chức hợp tác xã, Hồ Chí Minh nhấn mạnh nguyên
tắc dần dần, từ thấp đến cao, tự nguyện, cùng có lợi, chống
chủ quan, gò ép, hình thức. Đối với người làm nghề thủ công
và lao động riêng lẻ khác. Nhà nước bao hộ quyền sở hữu về
tư liệu sản xuất, ra sức hướng dẫn và giúp họ cải tiến cách làm

ăn. khuyến khích họ đi vào con đường hợp tác. Đối với những
nhà tư sản công thương, vì họ đã tham gia ủng hộ cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, có đóng góp nhất định trong khôi
phục kinh té và sẵn sàng tiếp thu, cải tạo đế góp phần xây
dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nên Nhà nước
không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác
của họ, mà hướng dẫn họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân


sinh, phù hợp với kinh tế nhà nước, khuyến khích và giúp đỡ
họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức tư bản nhà
nước. Bên cạnh chế độ và quan hệ sở hữu, Hồ Chí Minh rất
coi trọng quan hệ phân phối và quản lý kinh tế. Quản lý kinh
tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử
dụng tốt các đòn bẩy trong phát triển sản xuất Người chủ
trương và chi rõ các điều kiện thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không
làm không hưởng. Gắn liền với nguyên tắc phân phối theo lao
động, Hồ Chí Minh bước đầu đề cập vấn đề khoán trong sản
xuất, "Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã
hội. nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho
nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và là lợi riêng...:
làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện
nay"
* Nội dung văn hóa:
Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng con người mới.
Đề cao vai trò của văn hóa, giáo dục và khoa học kỹ thuật
trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Người cho rằng muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội nhất định
phải có học thức, cần phải học cả văn hóa, chính trị, kỹ thuật

và Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn đưa loài
người đến hạnh phúc vô tận
* Nội dung văn hóa: Coi trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo
và sử dung nhân tài.
2. Biện pháp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Hồ Chí Minh để ra hai nguyên tắc có tính chất phương pháp
luận:


+ Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ
biến mang tính quốc tế, cần quán triệt các nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chế độ mới, có thể
tham khảo, học tập kinh nghiệm của các nuớc anh em. Học
tập những kinh nghiệm của các nước tiên tiến, nhưng không
được sao chép, máy móc, giáo điều Hồ Chí Minh cho rằng,
Việt Nam có thể làm khác Liên Xô, Trung Quốc và các nước
khác vì Việt Nam có điều kiện cụ thể khác.
+ Hai là xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã
hội chủ yếu xuất phát từ điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc,
nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân.
+ Chú ý khi áp dụng hai nguyên tắc: Hồ Chí Minh lưu ý vừa
chống việc xa rời các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
Lênin, quá tuyệt đối hóa cái riêng, những đặc điểm của dân
tộc, vừa chống máy móc. giáo điều khi áp dụng các nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lênin mà không tính đến những điều
kiện lịch sử - cụ thể của đất nước và của thời đại.
- Các biện pháp cụ thể
+ Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp
cải tạo với xây dựng, .lấy xây dựng làm chính.
+ Kết hợp xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai nhiệm

vụ chiến lược ở hai miền Nam – Bắc khác nhau trong phạm vi
một quốc gia.
+ Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp,
quyết tâm để thực hiện thắng lợi kế hoạch.
+ Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản quyết định lâu
dài trong xây dựng chủ nghĩa xã hội là đem của dân, tài dân,


sức dân làm lợi cho dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
⇨ KẾT LUẬN: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ
nghĩa xã hội và con đường quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam bao quát những vấn
đề cốt lõi, cơ bản nhất, trên cơ sở vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin



×