Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Nghiên cứu đa dạng cây thuốc ngành ngọc lan (magnoliophyta) của đồng bào dân tộc Dao đỏ ở huyện Bắc Hà tỉnh Lào Cai (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.12 MB, 120 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VN

VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

VŨ VĂN QUÂN

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG CÂY THUỐC NGÀNH NGỌC LAN
(MAGNOLIOPHYTA) CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC DAO ĐỎ
Ở HUYỆN BẮC HÀ – TỈNH LÀO CAI

LUẬN VĂN THẠC SỸ SINH HỌC

Hà Nội, 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VN

VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

VŨ VĂN QUÂN

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG CÂY THUỐC NGÀNH NGỌC LAN
(MAGNOLIOPHYTA) CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC DAO ĐỎ
Ở HUYỆN BẮC HÀ – TỈNH LÀO CAI


Chuyên ngành: Thực vật học
Mã số: 60 42 01 11

LUẬN VĂN THẠC SỸ SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học
TS. VŨ TIẾN CHÍNH

Hà Nội, 2017


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với thầy giáo TS. Vũ
Tiến Chính – Bảo tàng thiên nhiên Việt Nam đã trực tiếp tận tình hướng dẫn
cũng như cung cấp tài liệu thông tin khoa học cần thiết để tôi hoàn thành luận
văn này.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh
vật, phòng đào tạo sau đại học, Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, Viện Hàn
lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt
công việc nghiên cứu khoa học của mình.
Tôi xin cảm ơn Dự án thành phần BSTMV.05/14-16 đã hỗ trợ tôi thực
hiện đề tài.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình,bạn bè, đồng nghiệp đơn
vị công tác đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện Luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Học viên

Vũ Văn Quân



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, các số liệu và
kết quả trong luận văn là trung thực và chưa được công bố ở bất kỳ công trình
nào.
Học viên

Vũ Văn Quân


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................. 2
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên thế giới ..... 2
1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam ............................. 8
1.3. Tình hình nghiên cứu tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam. ............................................................................ 11
1.4. Tình hình nghiên cứu tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của
đồng bào dân tộc Dao đỏ ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai................................... 12
1.5.1. Điều kiện tự nhiên .................................................................................. 12
1.5.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới, diện tích ........................................................... 12
1.5.1.2 Địa chất, địa hình.................................................................................. 12
1.5.1.3. Khí hậu, thủy văn ................................................................................ 13

1.5.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ....................................................................... 14
1.5.2.1. Điều kiện về kinh tế ............................................................................. 14
1.5.2.2. Điều kiện về xã hội .............................................................................. 14
Chương 2: MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CƯU ................................................................................................. 26
2.1. Mục tiêu của đề tài .................................................................................... 16
2.1.1. Mục tiêu tổng quát .................................................................................. 16
2.1.2. Mục tiêu cụ thể ....................................................................................... 16
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 16
2.3. Nội dung nghiên cứu ................................................................................. 16
2.4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 16
2.4.1. Phương pháp kế thừa: ............................................................................. 16
2.4.2. Điều tra thực địa theo tuyến: ................................................................... 16
2.4.3. Thu thập số liệu, tài liệu: ........................................................................ 17
2.4.4. Xử lý số liệu. .......................................................................................... 17
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................. 20
3.1. Thống kê các loài cây thuốc của đồng bào dân tộc Dao đỏ ở huyện Bắc
Hà, tỉnh Lào Cai ............................................................................................... 20
3.2. Đánh giá về đa dạng các loài cây được đồng bào dân tộc Dao đỏ ở huyện
Bắc Hà, tỉnh Lào Cai sử dụng làm thuốc .......................................................... 20
3.2.1. Đa dạng về các bậc phân loại của các loài cây được đồng bào dân tộc
Dao đỏ ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai sử dụng làm thuốc ................................ 20
3.2.1.1. Đánh giá sự đa dạng về lớp .................................................................. 20
3.2.1.2. Đa dạng về bậc họ ............................................................................... 21


3.2.1.3. Đa dạng về bậc chi............................................................................... 22
3.2.2. Đa dạng về dạng sống của các loài cây thuốc. ........................................ 23
3.2.3. Sự phân bố cây thuốc theo môi trường sống tại khu vực nghiên cứu. ..... 24
3.2.4. Xây dựng bản đồ phân bố các loài cây thuốc có giá trị cần được bảo vệ. 26

3.3. Vấn đề sử dụng cây thuốc của đồng bào dân tộc Dao đỏ ở huyện Bắc Hà,
tỉnh Lào Cai...................................................................................................... 27
3.3.1. Sự đa dạng về tần số sử dụng của các bộ phận. ....................................... 27
3.3.2. Sự đa dạng về số lượng các bộ phận của từng loại được sử dụng. ........... 29
3.3.3. Một số bài thuốc truyền thống của đồng bào dân tộc Dao đỏ ở huyện
Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. ....................................................................................... 29
3.4. Đề xuất các giải pháp bảo tồn các loài cây thuốc và nguồn tri thức bản địa
cho cộng đồng dân cư địa phương .................................................................... 35
3.4.1. Tình hình khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên cây thuốc và các bài
thuốc ................................................................................................................ 35
3.4.2. Các mối đe dọa đối với tài nguyên cây thuốc ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào
Cai.................................................................................................................... 36
3.4.3. Các biện pháp bảo tồn tài nguyên cây thuốc ở Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. ..... 36
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .......................................................................... 38
Kết luận:........................................................................................................... 38
Kiến nghị.......................................................................................................... 38


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3. 1 Số lượng họ, chi, loài cây thuốc ở hai lớp trong ngành Ngọc lan (Magnoliophita) . 20
Bảng 3.2: Các họ nhiều loài cây thuốc nhất ở huyện Bắc Hà ................................................. 21
Bảng 3.3: Các chi đa dạng nhất về cây thuốc của ngành Ngọc lan......................................... 22
Bảng 3.4: Dạng thân của các loài cây thuốc được đồng bào dân tộc Dao đỏ huyện Bắc Hà
đã sử dụng ............................................................................................................................ 23
Bảng 3.5: Thống kê các loài cây thuốc theo môi trường sống................................................ 25
Bảng 3.6: Các loài cây thuốc đang bị đe dọa được đồng bào dân tộc Dao đỏ tại huyện Bắc
Hà, tỉnh Lào Cai sử dụng ...................................................................................................... 26
Bảng 3.7: Sự đa dạng trong các bộ phận được sử dụng làm thuốc ......................................... 28
Bảng 3.8: Tổng hợp các bài thuốc thu thập được trong quá trình nghiên cứu ........................ 30
Bảng 3.9: Cây thuốc chữa tắc tia sữa, lưu thai ...................................................................... 31

Bảng 3.10: Cây thuốc đại bổ cho phụ nữ, chu kì kinh nguyệt kéo dài.................................... 31
Bảng 3.11: Cây thuốc chữa viêm đại tràng............................................................................ 32
Bảng 3.12: Cây thuốc chữa sỏi thận ...................................................................................... 32
Bảng 3.13: Cây thuốc tắm sau sinh ....................................................................................... 33
Bảng 3.14: Cây chuốc chữa băng huyết ................................................................................ 33
Bảng 3.15: Cây thuốc chữa ho .............................................................................................. 33
Bảng 3.16: Cây thuốc chữa ghẻ ............................................................................................ 33
Bảng 3.17: Cây thuốc mát gan, giải độc gan, viêm gan do rượu ............................................ 34
Bảng 3.18: Cây thuốc về bệnh xương khớp........................................................................... 34
Bảng 19: Cây thuốc trị mụn nhọt .......................................................................................... 34
Bảng 3.20: Cây thuốc chữa loãng tinh trùng ......................................................................... 35
Bảng 3.21: Cây thuốc chữa gẫy xương ................................................................................. 35


DANH MỤC HÌNH
Hình 3.1: Sự đa dạng về bộ, họ, chi, loài cây thuốc tại khu vực nghiên cứu .......................... 20
Hình 3. 2: Các họ đa dạng nhất về cây thuốc của ngành Ngọc lan ở Bắc Hà, Lào Cai ............ 22
Hình 3.3: Các chi đa dạng nhất về cây thuốc của ngành Ngọc lan ở Bắc Hà, Lào Cai ............ 23
Hình 4.4: Thể hiện dạng sống của các cây thuốc được đồng bào dân tộc Dao đỏ ở huyện
Bắc Hà sử dụng .................................................................................................................... 24
Hình 3.5: Biểu đồ số lượng các loài cây thuốc phân ố theo môi trường sống ......................... 25
Hình 3. 6: Biểu đồ thể hiện kinh nghiệm sử dụng các bộ phận cây làm thuốc của đồng bào
dân tộc Dao đỏ ở Bắc Hà ...................................................................................................... 28
Hình 3.7: Loài cây thuốc sử dụng chữa bệnh tại khu vực nghiên cứu .................................... 30


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CD: Công dụng
BP: Bộ phận
DC: Dạng sống

MTS: Môi trường sống
G: Cây thân gỗ
B: Cây thân bụi
T: Cây thân thảo
L: Cây leo
K: Cây ký sinh
SĐ: Sách đỏ
EV: Nguy cấp
VU: Sẽ nguy cấp
IUCN: Danh lục các loài có nguy cơ bị đe dọa của hiệp hội bảo tồn thiên
nhiên quốc tế
NĐ 32: Nghị định 32 của chính phủ năm 2006
IA: Loài cấm khai thác và sử dụng vì mục đích thương mại
IIA: Hạn chế khai thác và sử dụng vì mục đích thương mai.


MỞ ĐẦU
Người Dao là một dân tộc có địa bàn cứ trú truyền thống ở Nam Trung
Quốc và lân cận ở các bắc phần tiểu vùng Đông Nam Á. Ở Việt Nam, người
Dao cư trú chủ yếu ở các bản làng miền rừng núi trải rộng khắp phía Bắc như
Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Hòa Bình … Người Dao có nhiều
nhóm khác nhau phân biệt theo vùng. Mỗi nhóm người lại có những nét riêng
về văn hóa, phong tục tập quán và những bài thuốc mang đậm bản sắc của
dân tộc mình. Nhắc đến thuốc của người Dao, có lẽ nhiều người sẽ nghĩ ngay
đến thuốc tắm, bởi đây là bài thuốc được sử dụng phổ biến nhất. Nhưng ít ai
biết rằng, bên cạnh bài thuốc tắm nổi tiếng, người Dao đỏ còn nắm giữ nhiều
phương thuốc bí truyền khác có tác dụng chữa bệnh hiệu quả, bồi bổ, nâng
cao sức khỏe…
Từ thủa xa xưa cho đến ngày nay, đồng bào các dân tộc Dao trên đất
nước ta đã không ngừng tìm tòi nghiên cứu, sử dụng nguồn tài nguyên cây

thuốc chữa bệnh. Cùng với kinh nghiệm cổ truyền của dân tôc, sự phát triển
của khoa học kỹ thuật đã minh chứng cơ sở khoa học của những cây thuốc
qua thành phần hóa học, tác dụng kháng khuẩn … chúng ta càng thấy rõ hơn
tác dụng của nó. Các cây thuốc phân bố rộng và đa dạng, số loài cây thuốc
được ghi nhận vào năm 2007 là 3948 loài trong hệ thực vật Việt Nam. Cùng
với sự phát triển của kinh tế xã hội một cách nhanh chóng thì chúng ta đang
phải đối mặt với nhiều thách thức lớn khi môi trường ngày càng ô nhiễm,
thiên tai xảy ra liên tiếp cùng với nó là sự xuất hiện của nhiều loại bệnh tật
mới mà thuốc tây vẫn chưa có thuốc đặc trị. Vì vậy, ngày nay tất cả các nước
trên thế giới đang hết sức quan tâm tới việc sử dụng hiệu quả nguồn tài
nguyên cây thuốc.
Tuy nhiên, hiện nay việc lưu giữ và truyền lại những bài thuốc của
người Dao đỏ ở các thôn, bản gặp rất nhiều khó khăn, bởi không có tài liệu
ghi chép và nguồn dược liệu tự nhiên ngày càng khan hiếm. Theo tìm hiểu
của chúng tôi, hầu hết các bài thuốc của người Dao đỏ đều được truyền lại
bằng phương thức truyền miệng. Thậm chí có dòng họ chỉ truyền lại cho con
trai hoặc con gái khiến các bài thuốc quý được truyền lại ngày càng ít. Bên
cạnh đó, nhiều người cũng không muốn học nghề gia truyền bởi việc học
nghề thuốc và hiểu rõ dược tính của các loài cây thuốc trong rừng cần sự kiên
trì, tỉ mỉ, chịu khó, chịu khổ.
Xuất phát từ những vấn đề trên và để kho báu của người Dao đỏ không
bị thất truyền, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đa dạng cây
thuốc thuộc ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) của đồng bào dân tộc Dao đỏ
ở huyện Bắc Hà - tỉnh Lào Cai”. Để hoàn thiện nghiên cứu luận văn tốt
nghiệp của mình.

1


Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên thế
giới
Khi xã hội loài người hình thành chúng ta đã biết sử dụng các loài thực
vật để sinh tồn và chống chọi với thiên nhiên, bệnh tật, họ đã biết sử dụng các
loài cây cỏ trong tự nhiên để phục vụ cuộc sống của mình như sử dụng làm
thức ăn, nhà ở, làm thuốc, mồi săn bắt…Từ những kinh nghiệm đó, dần dần
hình thành một khoa học gọi là Thực vật dân tộc học. Khoa học này nghiên
cứu các mối quan hệ giữa các dân tộc khác nhau với các loài cây cỏ phục vụ
cho cuộc sống của họ. Mỗi quốc gia đều có những nền y học cổ truyền riêng,
đặc biệt trong đó có những kinh nghiệm tìm kiếm và sử dụng những cây thuốc
để phòng và trị bệnh ở người, vật nuôi. Những ghi chép đầu tiên về cây thuốc
được tìm thấy cách đây hơn 5 ngàn năm, đó là những nét khắc trên đất sét của
người Sumeria, thuộc Mesopotamia cổ xưa (là Irắc ngày nay), đề cập đến sử
dụng cây carum và cây húng tây. Cũng thời gian này, kinh nghiệm sử dụng
cây thuốc cũng bắt đầu hình thành và phát triển ở Trung Quốc và Ấn Độ. Tuy
nhiên, nhiều bằng chứng khảo cổ học cho thấy kinh nghiệm sử dụng cây
thuốc xuất hiện từ rất lâu đời. Rễ của cây Thục quỳ (Althea officinalis), cây
Lan dạ hương (Hyacinthus sp.) và cây Cỏ thi (Achillea millefolium) được cất
giữ quanh bộ xương người có niên đại vào thời kỳ đồ đá ở Irắc. Cho đến nay,
giá trị làm thuốc của ba loài thực vật kể trên vẫn được thừa nhận. Điều này
cho thấy, trên thực tế, thực vật được dùng làm thuốc xuất hiện trước khi có sự
ghi chép của sử sách.
Hiện nay, số loài cây thuốc được sử dụng trên thế giới ước tính từ
khoảng gần 70.000 loài [1]. Các vùng nhiệt đới trên thế giới, bao gồm lưu vực
sông Amazon của châu Mỹ, Đông Nam Á, Ấn Độ, Tây Phi,… là kho tàng
chứa đựng số lượng loài cây cỏ khổng lồ, cũng như giàu có về tri thức sử
dụng. Ở vùng nhiệt đới châu Á có khoảng 6.500 loài thực vật có hoa được
dùng làm thuốc, riêng ở Ấn Độ có 6.000 loài, ở Trung Quốc là 5.136 loài
[24].

Trung Quốc là quốc gia được đánh giá là có truyền thống trong việc sử
dụng cây cỏ làm thuốc và có sự đa dạng về cây thuốc phát triển bậc nhất thế
giới. Cách đây khoảng 5000 năm tại Trung Quốc, cuốn sách “Thần nông bản
thảo” là một trong những tài liệu cổ quý giá của y học dân tộc. Bản thảo đã
ghi rõ người Trung Hoa cổ đại đã sử dụng 365 vị và cây thuốc để phòng và
chữa bệnh. Trong đó, nhiều bài thuốc vẫn được sử dụng cho tới ngày nay như
cây Gai mèo (Cannabis sp.) để chống nôn, cây Đại phong tử (Hydnocarpus
kurzii) làm thuốc chữa bệnh phong…Vào thời Tam Quốc, danh y Hoa Đà, sử
dụng Đàn hương, Tử đinh hương để chế hương nang (túi thơm) để phòng
chống và chữa trị bệnh lao phổi và bệnh lỵ. Ông còn dùng hoa Cúc, Kim ngân
phơi khô cho vào chiếc gối (hương chẩm) để điều trị chứng đau đầu, mất ngủ,
cao huyết áp. Từ thời nhà Hán (năm 168 trước Công nguyên) trong cuốn sách
2


“Thủ hậu bị cấp phương” tác giả đã kê 52 đơn thuốc chữa bệnh từ các loại cây
cỏ. Giữa thế kỷ XVI, Lý Thời Trân đã thống kê 12.000 vị thuốc trong tập
“Bản thảo cương mục”.
Ngoài nền Y học cổ truyền chính thống của người Hán (Trung y), các
cộng đồng không phải người Hán, với dân số khoảng 100 triệu người, cũng có
các nền Y học riêng của mình, gọi là Y học dân tộc cổ truyền biết sử dụng
khoảng 8.000 loài cây cỏ làm thuốc. Trong đó, có các nền Y học chính là: Y
học cổ truyền Tây Tạng (sử dụng 3.294 loài), Mông Cổ (1.430
loài)…“Shennong Bencao Jing” là cuốn sách được đặt theo tên của Thần
Nông, cuốn sách đã đề cập tới 364 thảo dược của Trung Quốc; bao gồm 252
loại bộ phận của cây, 67 bộ phận của động vật và 46 loại khoáng sản làm
thuốc, trong đó cũng đã mô tả tác dụng chúng [11]. Cuốn sách đã tạo nên nền
tảng cho sự phát triển liên tục của nền y học cổ truyền Trung Quốc cho đến
nay.
Năm 1977, Trung Quốc đã xuất bản cuốn “Đại từ điển đông dược”,

cuốn sách đã thống kê 5.757 mục từ, trong đó đa số là các loại thảo dược.
Năm 1985, cuốn sách “Cây thuốc Trung Quốc” đã được xuất bản, cuốn sách
đã thống kê hầu hết các loài cây cỏ có tác dụng chữa bệnh ở Trung Quốc [86].
Và gần đây Li đã công bố hơn 1.000 loài cây thuốc được sắp xếp theo bảng
chữ cái Latinh [14].
Ấn Độ là một trong những quốc gia có nền văn minh lâu đời, cách đây
khoảng 5.000 năm dọc theo bờ sông ở miền Nam Ấn Độ. Trong bộ sử thi
Vedas được viết năm 1500 TCN, chứa đựng những kiến thức phong phú về
thảo dược thời kỳ đó. Theo những ghi chép còn sót lại cho thấy nền y học cổ
truyền được hình thành cách đây hơn 3000 năm. Chủ trương của người Ấn là
ngừa bệnh là chính, nếu phải điều trị bệnh thì các liệu pháp tự nhiên chủ yếu
thông qua thực phẩm và thảo mộc sẽ giúp loại bỏ gốc rễ căn bệnh. Trong đó,
nhiều loài cây được xem là những “cây thiêng” dành cho những vị thần đặc
biệt, chẳng hạn như cây Trái nấm (Aegle marmelos L.) là cây dành cho thánh
thần của người Hindu, thánh Lakshmi (Thánh mang lại sự giàu có và may
mắn), thánh Samhita (Vị thánh của sức khoẻ) và cây được trồng gần các đền
thờ [90]. Gần đây, y học cổ truyền Ấn Độ Ayurveda đã phát triển rất mạnh,
nhiều tri thức bản địa đã được nghiên cứu, đánh giá và sử dụng có hiệu quả,
trong đó có khoảng 2.000 cây cỏ làm thuốc. [25]. Dãy Hymalaya hùng vĩ của
đất nước Ấn Độ, là nơi có sự đa dạng về thực vật rất lớn, ở đây có khoảng
8.000 loài thực vật hạt kín, 44 loài thực vật hạt trần, trong đó có 1.748 loài
được sử dụng làm thuốc. Ngoài Hymalaya thì khu vực Hy Mã Lạp Sơn (IHR)
cũng là cái nôi cung cấp nguồn cây thuốc cho hàng triệu người dân Ấn Độ.
Ấn Độ được đánh giá là quốc gia rất phát triển về nghiên cứu thảo dược như
tổng hợp chất hữu cơ, tách chiết chứng minh cấu trúc, sàng lọc sinh học, thử
nghiệm độc tính và nghiên cứu tác dụng hóa học của các chất tới cơ thể con
người. Hiện nay, chính phủ khuyến khích sử dụng công nghệ cao trong trồng
3



cây thuốc. Hầu hết các viện nghiên cứu của Ấn Độ đã tham gia vào nghiên
cứu chuyển hóa các loại thuốc và hợp chất có hoạt tính từ thực vật.
Ở châu Âu, thảo dược cũng rất đa dạng và phần lớn dựa vào nền tảng
của y học truyền thống cổ điển. Các kiến thức về cây thuốc chủ yếu được các
thầy tu nghiên cứ và sưu tầm. Họ trồng cây thuốc và dịch các tài liệu về thảo
mộc bằng tiếng Ả rập. Trong đó hiểu biết về thảo mộc của người Hy Lạp và
Roma gắn liền với nền văn minh phát triển từ rất sớm của họ. Người Hy Lạp
cổ xưa chịu ảnh hưởng của người Babylon, Ai Cập, Ấn Độ. Hippocrat (460 –
377 TCN) là thầy thuốc nổi tiếng người Hy Lạp được mệnh danh là cha đẻ
của y học hiện đại khi ông là người đưa ra quan niệm “Hãy để thức ăn của
bạn là thuốc và thuốc chính là thức ăn của bạn”. Tiếp đến là Ai Cập là nước
có nền văn minh Cổ Đại và có nhiều tài liệu về sử dụng cây thuốc được ghi
chép lại cách đây khoảng 3600 năm với 800 cây thuốc và trên 700 bài thuốc
từ cây cỏ [30]. Các nhà thực vật người Pháp được coi là những người đầu tiên
của Châu Âu nghiên cứu về thực vật Đông Dương, với họ sau những cánh
rừng nhiệt đới còn tiềm ẩn rất nhiều loài cây thuốc có giá trị. Vào những năm
đầu thế kỷ XX, trong chương trình nghiên cứu về thực vật nơi đây, Erry đã
công bố 1.000 loài cây và dược liệu tại Đông Nam Á đã được kiểm chứng và
gần đây (1985) tổng hợp thành cuốn sách: “Medicinal Plant of East and
Southeast Asia” [3].
Được mệnh danh là cái nôi của nền văn minh cổ xưa nhất trên thê giới.
Thổ dân Châu Úc với những kiến thức thực tiễn về cây thuốc chỉ có ở Úc
được đánh giá hiệu quả rất cao trong trị bệnh. Đặc biệt là những nghiên cứu
về công dụng làm thuốc của các loài thực vật do thổ dân Yaegl sử dụng. Khi
nghiên cứu về tình hình sử dụng cây thuốc của người thổ dân Yaegl ở miền
Bắc New South Wales, Australia. Nghiên cứu đã ghi nhận có 32 loài cây
thuốc thuộc 21 loài được thổ dân Yaegl sử dụng để điều trị bệnh [13]. Tuy
nhiên những kiến thức này của họ đã không còn khi người Châu Âu tới định
cư. Hiện nay đa phần thảo dược ở Châu Úc là sự di nhập từ Phương Tây, Ấn
Độ, Trung Quốc và các nước ven Thái Bình Dương.

Ở châu Phi Là một trong những Châu lục có điều kiện khí hậu nắng
nóng và có nhiều sa mạc đời sống kinh tế khó khăn và lạc hậu. Chính vì vậy,
người dân Châu Phi cũng đã biết sử dụng cây thuốc bản địa từ rất lâu đời để
tự chữa bệnh cho mình và cộng đồng. Qua những nghiên cứu mới đây cho
thấy việc sử dụng cây thuốc của người dân bản địa Châu Phi cũng hết sức
phong phú và đa dạng. Tại Kenya có 448 loài cây thuốc được người dân Mt.
Nyiru Turkana dùng để điều trị những bệnh khác nhau [12]. Tiến hành nghiên
cứu cây thuốc theo kinh nghiệm của người dân Zegie Peninsula, phía Tây Bắc
Ethiopia đã tìm thấy 67 loài cây thuốc thuộc 64 chi và 42 họ sử dụng để điều
trị các bệnh liên quan đến rối loạn tiêu hóa và nhiễm trùng [6]. Cũng ở đất
nước Ethiopia nhưng ở tộc người Bench, trong nghiên cứu cũng đã thống kê
được 35 loài thực vật được sử dụng làm thuốc [8]. Đặc biệt tại Châu Phi các
thầy lang có vai trò rất quan trọng trong việc sử dụng những bài thuốc cổ
4


truyền từ thực vật. Qua việc tiến hành điều tra về tri thức trong việc sử dụng
cây thuốc của các thầy lang trong khu vực nghiên cứu ở vùng Oshikoto,
Namibia đã tìm thấy 61 loài thuộc 25 họ được các thầy lang trong khu vực sử
dụng để điều trị các bệnh khác nhau như: tâm thần, nhiễm trùng, rắn cắn, tim
mạch [13]. Việc sử dụng liệu pháp điều trị bằng cây thuốc ở châu Phi mang
một dấu ấn mạnh mẽ giống như những thần dược.
Châu Mỹ với nền văn minh cổ đại như Maya, Aztec, Inca cũng có nền
y học cổ truyền phát triển và những kiến thức uyên thâm về tri thức bản địa.
Ở các nước Trung Mỹ khác như Cộng hòa Dominica và Nicaragua, chính phủ
đã mở ra các dự án dạy cho phụ nữ cách dùng các loại thảo dược tại địa
phương, để điều trị cho cộng đồng của họ. Còn ở Amazon khi nghiên cứu về
cây thuốc của Tacana – một dân tộc Bolivia ở đây đã thu thập được khoảng
450 loài thực vật trong đó có 33% được sử dụng làm thuốc. Tại tỉnh Loja,
Ecuador đã tìm ra 215 loài thực vật được người dân địa phương sử dụng để

điều trị bệnh [28]. Việc sử dụng cây thuốc ở miền Bắc Peru đã xác định được
510 loài dùng để làm thuốc, trong đó các các họ được sử dụng nhiều nhất là:
họ Cúc (Asteracae), họ Đậu (Fabaceae), họ Bạc hà (Lamiaceae), họ Cà
(Solanacae), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Hòa thảo (Poaceae) [5]. Tại
Xing – một khu vực khô hạn tại vùng Đông Bắc Brazil, đã thống kê được 187
loài thực vật thuộc 128 chi và 64 loài được sử dụng điều trị các bệnh như
viêm phế quản, cảm mạo, bệnh tim mạch, thận và an thần [7]. Cây thuốc của
cộng đồng người dân tộc Ashasninka ở Bajo Quimiriki, Junnín, Peru được
xác định có 402 loài dùng làm thuốc. Trong đó các loài được sử dụng nhiều
nhất là: họ Cúc (Asteraceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Ráy (Araceae), họ
Thầu dầu (Euphorbiaceae), họ Cà (Solanaceae), họ Hồ tiêu (Piperaceae).
Nghiên cứu về cây thuốc của người thổ dân ở khu vực phía Bắc ở Canada đã
chỉ ra 546 loài dùng để điều trị 28 bệnh trong đó các loài được sử dụng nhiều
nhất để chữa bệnh dạ dày, cơ xương [18]. Nghiên cứu về cây thuốc ở làng
Genoy, Pasto, Colombia, họ cũng đã sử dụng 63 loài thuộc 56 chi, 31 họ dùng
để điều trị các bệnh khác nhau, trong đó nhiều nhất thuộc các họ Bạc hà
(Lamiaceae), họ Cúc (Asteraceae) và họ Hoa tán (Apiaceae) [6]. Khi nghiên
cứu về cây thuốc trong cộng đồng Mapuche – Tehuelche ở vùng Dagagonia,
Argentina đã tìm thấy 121 loài dùng để điều trị các bệnh tiêu hóa, tim mạch,
giảm đau, chống viêm, bệnh phụ nữ [24]. Kết quả khảo sát về cây thuốc của
người Rayones ở Nuevo León, Mexico đã thống kê được 252 loài cây thuốc
thuộc 228 chi và 91 họ, trong đó họ được sử dụng nhiều nhất là: họ Cúc
(Asteraceae), họ Đậu (Fabaceae) [94]. Hiện nay ở châu Mỹ người ta tập trung
đi sâu nghiên cứu các loại thảo dược bản xứ để sản xuất các loại thuốc chữa
bệnh, trong đó nổi tiếng là trung tâm Belem ở Đông Bắc Brazil và Bogota ở
Colombia.
Qua việc nghiên cứu lịch sử về tài nguyên cây thuốc trên thế giới cho
thấy sự phát triển của ngành thảo dược gắn liền với sự phát triển của văn
minh nhân loại. Việc sử dụng cây cỏ làm thuốc chữa bệnh được đúc rút từ
5



kinh nghiệm rồi được truyền lại cho các thế hệ tiếp theo. Ngày nay với sự
phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ đã tập trung nghiên cứu làm rõ
vai trò của thảo dược làm thuốc như thử hoạt tính, tách các hợp chất… Điều
này một lần nữa khẳng định vai trò to lớn của thảo dược trong điều trị bệnh
góp phần quan trọng trong việc chăm sóc bảo vệ sức khỏe của cộng đồng.
Cùng với phương thức chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, các nhà
khoa học trên thế giới tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu cơ chế và các hợp chất
hóa học trong cây có tác dụng chữa bệnh, đúc rút thành những cuốn sách có
giá trị. Các nhà khoa học công nhận rằng hầu hết các cây cỏ đều có tính kháng
sinh, đó là khả năng miễn dịch tự nhiên của thực vật. Tác dụng kháng khuẩn
do các hợp chất tự nhiên có mặt phổ biến trong thực vật như phenolic, antoxy,
các dẫn xuất quino, ancaloid, flavonoid, saponin… Cho đến nay, nhiều hợp
chất tự nhiên đã được giải mã về cấu trúc, những hợp chất này được chiết xuất
từ cây cỏ để làm thuốc. Dựa vào cấu trúc được giải mã, người ta có thể tổng
hợp nên các chất nhân tạo để chữa bệnh. Gotthall(1950) đã phân lập được
chất Glucosid barbaloid từ cây Lô hội (Aloe vera), chất này có tác dụng với vi
khuẩn lao ở người và vi khuẩn Baccilus subtilis. Lucas và Lewis (1994) đã
chiết xuất một hoạt chất có tác dụng với các loài vi khuẩn gây bệnh tả, lị, mụn
nhọt từ Kim ngân (Lonicera sp). Từ cây Hoàng liên (Coptis teeta), người ta đã
chiết xuất được berberin. Trong lá và rễ cây Hẹ (Allium odorum) có các hợp
chất sulfua, sapoin và chất đắng. Năm 1948, Shen-Chi-Shen phân lập được
một hoạt chất Odorin ít độc đối với động vật bậc cao nhưng lại có tác dụng
kháng khuẩn. Hạt của cây Hẹ cũng có chứa chất Alcaloid có tác dụng kháng
khuẩn gram+ và gram-, nấm. Reserpin và Serpentin là chất hạ huyết áp được
chiết xuất từ cây Ba gạc (Rauvolfa spp.). Đặc biệt, Vinblastin và Vincristin
vừa có tác dụng hạ huyết áp vừa có tác dụng làm thuốc chống ung thư, được
chiết xuất từ cây Dừa cạn. Digitalin được chiết xuất từ cây Dương địa hoàng
(Digitalis spp.), strophatin được chiết xuất từ cây Sừng dê (Strophanthus spp)

để làm thuốc trợ tim. Từ những thành tựu nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính của
các hợp chất tự nhiên, nhiều loại thuốc có tác dụng chữa bệnh cao đã ra đời
bằng tổng hợp hoặc bán tổng hợp.
Dược lý hiện đại chủ yếu tập trung vào các hợp chất tự nhiên có hoạt
tính chữa bệnh trong khi các nhà nghiên cứu về thảo mộc cho rằng tác dụng
chữa bệnh của cây thuốc là do sự kết hợp của nhiều thành phần có trong cây
thuốc. Chẳng hạn như chất khoáng, vitamin, tinh dầu, glycosid và nhiều chất
khác đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường hoặc hỗ trợ các đặc tính
chữa bệnh của cây thuốc, bảo vệ cơ thể của các tác nhân gây độc. Trong khi
đó, các hợp chất được phân lập và tổng hợp có khả năng chữa bệnh hiệu quả
nhưng vì thiếu đi các hợp chất tự nhiên khác nên chúng có khả năng gây độc
đối với cơ thể. Trước đây, việc sử dụng thảo dược để chữa bệnh thường bị
hiểu lầm với phép thuật và mê tín dị đoan. Ngày nay, khoa học hiện đại đã
chứng minh được khả năng chữa bệnh của thảo mộc. Vì vậy, thế giới ngày
6


càng quan tâm tới cây thuốc cũng như phương pháp chữa bệnh bằng y học cổ
truyền.
Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO), có trên 20.000 loài
thực vật bậc cao có mạch và ngành thực vật bậc thấp được sử dụng trực tiếp
làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất tự nhiên để làm thuốc. Trong đó, vùng
nhiệt đới châu Mỹ có hơn 1.900 loài, vùng nhiệt đới châu Á có khoảng 6.500
loài thực vật có hoa được dùng làm thuốc. Mức độ sử dụng thuốc thảo dược
ngày càng cao.
Khoảng 80% dân số ở các quốc gia đang phát triển sử dụng các phương
pháp y học cổ truyền để chăm sóc sức khỏe, trong đó chủ yếu là cây cỏ.
Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới, có nền y học dân tộc phát triển
nên trong số cây thuốc đã biết hiện nay có tới 80% số loài (khoảng trên 4.000
loài) là được sử dụng theo kinh nghiệm cổ truyền của các dân tộc ở đât nước

này. Ở Ghana, Mali, Nigeria và Zambia, 60% trẻ em có triệu chứng sốt rét
ban đầu được điều trị tại chỗ bằng thảo dược. Tỷ lệ dân số tin tưởng vào hiệu
quả sử dụng thảo dược và các biện pháp chữa bệnh bằng y học cổ truyền cũng
đang tăng nhanh ở các quốc gia phát triển. Ở châu Âu, Bắc Mỹ, và một số
nước khác, ít nhất 50% dân số sử dụng thực phẩm bổ sung hay thuốc thay thế
từ thảo mộc. Ở Đức, 90% dân số sử dụng các phương thuốc có nguồn gốc
thiên nhiên để chăm sóc sức khỏe. Ở Anh, chi phí hàng năm cho các loại
thuốc thay thế từ thảo mộc là 230 triệu đôla.
Theo số liệu của trung tâm thương mại quốc tế từ năm 1976, các nước
công nghiệp phát triển đã nhập khẩu hơn 300 triệu USD và đến năm 1980 con
số này đã tăng lên 551 triệu USD. Chỉ tính riêng 12 loại dược liệu có nhu cầu
sử dụng cao ở Mỹ là Bạch quả, Sâm Triều Tiên, Tỏi, Valeriana officinalis, …
từ năm 1998 đã đạt doanh số bán lẻ là 552 triệu USD. Đến năm 2003, thị
trường thảo dược toàn cầu đã vượt mức 60 tỷ USD hàng năm và con số này
vẫn tiếp tục tăng.
Tuy nhu cầu sử dụng cây thuốc của con người trong việc chăm sóc sức
khỏe ngày một tăng, nhưng nguồn tài nguyên thực vật đang bị suy giảm.
Nhiều loài thực vật đã bị tuyệt chủng hoặc đang bị đe dọa tuyệt chủng do các
hoạt động trực tiếp và gián tiếp của con người. Theo tổ chức Bảo tồn thiên
nhiên và tài nguyên thiên nhiên (IUCN) cho biết, trong tổng số 43.000 loài
thực vật mà cơ quan này lưu giữ thông tin có tới 30.000 loài được coi là đang
bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác nhau. Trong đó có nhiều loài là cây
thuốc quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Chẳng hạn như ở Bangladesh, một số
cây thuốc quý như Tylophora indica để chữa hen, Zannia indica (thuốc tẩy
xổ)…trước đây mọc rất phổ biến, nay đã trở nên hiếm hoi. Loài Ba gạc
Rauvolfia serpentina vốn mọc rất tự nhiên ở Ấn Độ, Bangladesh, Thái
Lan…mỗi năm có thể khai thác hàng ngàn tấn nguyên liệu xuất khẩu sang thị
trường Âu, Mỹ làm thuốc chữa cao huyết áp. Tuy nhiên, do bị khai thác liên
tục nhiều năm nên nguồn gốc cây thuốc này đã bị cạn kiệt. Vì vậy một số
bang ở Ấn Độ đã đình chỉ khai thác loài Ba gạc này [9]. Ở Trung Quốc, loài

7


Dioscorea sp. đã từng có trữ lượng lớn và từng được khai thác tới 30.000 tấn,
nhưng hiện nay số lượng bị giảm đi rất nhiều, có loài đã phải trồng lại. Một
vài loài cây thuốc dân tộc quý như Fritillaria cirrhosa làm thuốc ho, phân bố
nhiều ở vùng Tây bắc tỉnh Tứ Xuyên nay chỉ còn có ở 1 đến 2 điểm với số
lượng ít ỏi.
Nguyên nhân gây nên sự suy giảm nghiêm trọng về mặt số lượng của
các loài cây thuốc trước hết là do sự khai thác quá mức nguồn tài nguyên
dược liệu và do môi trường sống của chúng bị hủy diệt bởi các hoạt động của
con người. Đặc biệt, ở các vùng rừng nhiệt đới và Á nhiệt đới là nơi có mức
độ đa dạng sinh học cao của thế giới nhưng lại bị tàn phá nhiều nhất. Theo số
liệu của tổ chức Nông Lương (FAO) của Liên hợp quốc, trong vòng 40 năm
(1940 – 1980), diện tích của các loại rừng kể trên đã bị thu hẹp tới 44%, ước
tình khoảng 75.000 hecta rừng bị phá hủy.
Tiềm năng chữa bệnh của nhiều loài thảo dược đang ngày càng được
khám phá, vì thế vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và bảo tồn cây
thuốc nói riêng đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia nhằm phục
vụ cho mục đích chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của con người.
1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam
Nền y học cổ truyền của Việt Nam đã có từ rất lâu đời, nhiều phương
thuốc bào chế từ cây thuốc được áp dụng chữa bệnh trong dân gian. Những
kinh nghiệm này đã được ghi chép thành những cuốn sách có giá trị và lưu
truyền rộng rãi trong nhân dân. Với tổng diện tích đất liền là 327.480 km2 và
lợi thế về khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm. Hiện nay theo thống kê cả
nước có 31 vườn Quốc gia và 57 khu bảo tồn thiên nhiên với trữ lượng tài
nguyên thực vật phong phú. Ước tính, nước ta có khoảng 12.000 loài thực vật
bậc cao có mạch, 800 loài rêu, 600 loài nấm và hơn 2.000 loài tảo [9]. Có
khoảng trên 3.000 loài thực vật bậc cao dùng làm thuốc. Bên cạnh đó có rất

nhiều loài có triển vọng được sử dụng làm thuốc.
Trải qua lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước, người Việt Nam đã
phải đấu tranh với thiên nhiên, bệnh tật và chiến tranh, dần dần đã tích luỹ
được kinh nghiệm và tri thức trong sử dụng cây thuốc. Trong cuốn sách “Nam
Dược Thần Hiệu” và “Hông Nghĩa Giác Tư Y Thư” của Tuệ Tĩnh đã mô tả
hơn 630 vị thuốc, 50 đơn thuốc chữa các loại bệnh trong đó 37 đơn thuốc
chữa bệnh thương hàn. Hai cuốn sách này được xem là những cuốn sách xuất
hiện sớm nhất về cây thuốc Việt Nam. Đến thế kỷ 18, Hải Thượng Lãn Ông
Lê Hữu Trác đã xuất bản bộ sách lớn “Y Tông Tâm Tĩnh” gồm 28 tập, 66
quyển đã mô tả khá chi tiết vệ thực vật, các đặc tính chữa bệnh [6].
Thời kỳ Pháp thuộc (1884 – 1945), nền y học cổ truyền của Việt Nam
chịu nhiều ảnh hưởng của dược học phương Tây. Các phương thức chữa bệnh
mới được mang đến qua quá trình khai thác thuộc địa, họ đã gián tiếp thúc
đẩy quá trình nghiên cứu thực vật của Việt Nam nói chung và nghiên cứu cây
thuốc nói riêng. Đặc biệt bộ sách “Thực vật chí đại cương Đông Dương” của
Lecomte xuất bản cuối thể kỷ XVIII đầu thể kỷ XIX đã mô tả và phân loại
8


hơn 7.000 loài thực vật. Bộ sách “Danh mục các sản phẩm ở Đông Dương”
của Ch. Crévost và A. Pétélot năm 1935 đã thống kê được 1.340 vị thuốc có
nguồn gốc thảo mộc được dùng trong y học của Đông Dương. Đến năm 1952
tác giả tái bản lại cuốn sách, bổ sung và đặt tên mới là “Những cây thuốc của
Campuchia, Lào và Việt Nam” gồm 4 tập, 1.050 trang và thống kê khoảng
1.480 loài thực vật. Tuy nhiên cuốn sách này chưa hoàn thiện về mô tả, phân
bố, thành phần hóa học và dược lý của các loại thảo mộc.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nhất là sau khi miền Bắc được
giải phóng năm 1954, các nhà khoa học Việt Nam có nhiều thuận lợi trong
việc sưu tầm, nghiên cứu nguồn tài nguyên cây thuốc. Đáng chú ý nhất là năm
1957, cuốn sách “Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam” gồm 3 tập đã

được biên soạn. Năm 1961 tái bản in thành 2 tập, trong đó tác giả mô tả và
nêu công dụng của hơn 100 cây thuốc nam. Từ năm 1962 - 1965, xuất bản bộ
sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập. Đến năm 1969 tái
bản thành 2 tập, trong đó giới thiệu hơn 500 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc,
động vật và khoáng vật. Bộ sách bổ sung liên tục các loài cây thuốc trong các
công trình được tái bản nhiều lần vào các năm 1970, 1977, 1981, 1986, 1995,
1999, 2001, 2003. Lần tái bản thứ 7 (1995) số cây thuốc đã lên tới 792 loài và
gần đây nhất là lần tái bản lần thứ 10 (2005); trong đó, đã mô tả tỉ mỉ tên khoa
học, phân bố, công dụng, thành phần hoá học, chia tất cả các cây thuốc đó
theo các nhóm bệnh khác nhau. Đây là một bộ sách có giá trị lớn về khoa học
và thực tiễn, kết hợp giữa khoa học dân gian và khoa học hiện đại.
Phạm Hoàng Hộ và Nguyễn Văn Dương đã xuất bản bộ sách “Cây cỏ
Việt Nam” vào năm 1980 đã giới thiệu được công dụng làm thuốc của nhiều
loài thực vật [4]. Đỗ Tất Lợi (1995) đã xuất bản bộ sách “Những cây thuốc và
vị thuốc Việt Nam” và tái bản vào năm 2000 [9], [12]. Công trình này thống
kê gần 800 loài cây, con và vị thuốc, trong đó nhiều loài thực vật đã được mô
tả về mặt cấu tạo, phân bố, cách thu hái và chế biến, thành phần hóa học, công
dụng và liều dùng.
Cuốn sách từ điển cây thuốc Việt Nam, do Võ Văn Chi (1991) biên
soạn đã mô tả được 3.200 loài cây thuốc, trong đó thực vật có hoa là 2.500
loài thuộc 1.050 chi, được xếp và 230 họ thực vật theo hệ thống của
Takhtajan [3]. Tác giả đã trình bày về cách nhận biết, các bộ phận được sử
dụng, nơi sống và thu hái, thành phần hóa học, tính vị và tác dụng, công dụng
của các loài thực vật. Đến năm 2000, Võ Văn Chi và Trần Hợp tiếp tục giới
thiệu cuốn sách “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” mô tả khoảng 6.000 loài thực vật
bậc cao có mạch với các đặc điểm hình thái, sinh thái, phân bố và công dụng.
Trần Đình Lý (1995) và cộng sự đã xuất bản cuốn sách “1900 loài cây
có ích” [22]. Trong số các loài thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam
có 76 loài cho nhựa thơm, 160 loài có tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600
chứa tanin, 500 loài cây gỗ có giá trị cao, 400 loài tre nứa, 40 loài song mây.

Trong số các nhóm thực vật này, rất nhiều loài có công dụng làm thuốc. Cũng
trong năm này, Vương Thừa Ân cho ra đời cuốn “Thuốc quý quanh ta” [26].
9


Nhiều cuốn sách có giá trị về tài nguyên cây thuốc được các nhà khoa
học của Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Khoa học và Công nghệ
Việt Nam biên soạn. Trong đó, đáng chú ý là những cuốn sách “Tài nguyên
thực vật có tinh dầu ở Việt Nam” của tác giả Lã Đình Mỡi và cộng sự (2001 –
2002) các tác giả đã trình bày giá trị sử dụng làm thuốc của nhiều loài thực
vật có tinh dầu của Việt Nam. Năm 2005, Lã Đình Mỡi và cộng sự giới thiệu
tiếp công trình “Những cây chứa các hợp chất có hoạt tính sinh học” đây được
coi là những ghi chép đầu tiên, có hệ thống và tương đối hoàn chỉnh về nguồn
tài nguyên thực vật có chứa các chất có hoạt tính sinh học được sử dụng làm
thuốc ở nước ta.
Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005) đã công bố bộ sách “Danh
lục các loài thưc vật Việt Nam”. Cuốn sách đã trình bày đầy đủ các thông tin
về tên khoa học, tên thường gọi, nhận dạng, phân bố, dạng sống – sinh thái và
công dụng. Bộ sách này rất có ý nghĩa cho việc tra cứu hệ thực vật nói chung
và tra cứu thành phần loài cây thuốc nói riêng.
Trong những năm qua, nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách đầu
tư cho công tác điều tra, nghiên cứu về cây thuốc và kế thừa nền y học cổ
truyền, phục vụ cho nhu cầu chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân dân.
Các ngành Y tế, Lâm nghiệp và Sinh học đã tiến hành nhiều đợt điều tra cơ
bản, đặc biệt là chương trình điều tra nghiên cứu cây thuốc của Viện Dược
liệu – Bộ Y tế đã tiến hành trên phạm vi toàn quốc. Theo kết quả điều tra của
Viện Dược liệu công bố năm 2004 thì ở nước ta có khoảng 3.948 loài cây
thuốc được ghi nhận, thuộc 307 họ của 9 ngành thực vật bậc cao và bậc thấp,
bao gồm cả nấm. Gần đây nhất, năm 2016 thì theo kết quả điều tra mới nhất
của Viện Dược liệu thì ở Việt Nam ghi nhận 5.117 loài, thuộc 1.823 chi, 360

họ, của 8 ngành Thực vật bậc cao có mạch, cùng với một số loài thuộc nhóm
Tảo lớn, Rêu và Nấm lớn có công dụng làm thuốc đã biết ở nước ta. Kết quả
điều tra được ghi nhận từ các kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng
dân tộc ở các địa phương trong cả nước. Các nhà khoa học thuộc Viện Sinh
thái và Tài nguyên Sinh vật trong những năm qua đã có nhiều công trình
nghiên cứu về trí thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam. Đặc biệt là các nghiên cứu về y học cổ truyền của các
dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc trong những năm gần đây như: Điều tra
nghiên cứu về tri thức bản địa và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của đồng
bào Thái tại Mai Châu – Hòa Bình của tác giả Nguyễn Tiến Bân và cộng sự
vào năm 2001; Nghiên cứu và ứng dụng thành công tri thức sử dụng cây
Ngấy (Rubus cochinchinesis) của đồng bào dân tộc trong việc chữa trị u tiền
liệt tuyến của tác giả Lưu Đàm Cư và cộng sự (2002). Năm 2001, Nguyễn Thị
Phương Thảo và cộng sự đã điều tra đánh giá về tài nguyên cây thuốc và kinh
nghiệm sử dụng các loài thực vật làm thuốc của một số cộng đồng dân tộc
Dao, Tày và Hoa tại Yên Tử - Quảng Ninh và đã thu thập được 362 loài thực
vật làm thuốc. Năm 2005, tác giả và cộng sự thực hiện đề tài “Nghiên cứu tác
động kinh tế - dân sinh của các cộng đồng dân tộc vào tài nguyên thực vật và
10


ảnh hưởng của nó tới đa dạng sinh học tại Chiềng Yên – Mộc Châu – Sơn
La”. Kết quả đã thống kê được 209 loài cây thuốc do người Mường sử dụng
và 176 cây thuốc được người Dao sử dụng.
1.3. Tình hình nghiên cứu tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Các dân tộc thiểu số nói chung, do đời sống gắn liền với khai thác sử
dụng thực vật nên có nhiều kinh nghiệm và tri thức quý trong quá trình chế
biến, sử dụng thực vật đặc biệt là các kinh nghiệm sử dụng cây thuốc. Tuy
nhiên, các tri thức và kinh nghiệm dân tộc thường được sử dụng và lưu truyền

trong một phạm vi hẹp (dân tộc, dòng họ, gia đình), vì vậy không được phát
huy để phục vụ cho xã hội và có nguy cơ thất thoát rất cao. Nhận thức được
tầm quan trọng này, trong khoảng 10 năm trở lại đây, nghiên cứu cây thuốc
dân tộc được đặc biệt quan tâm tại một số cơ sở của nước ta và đã thu được
nhiều kết quả khả quan.
Nhiều công trình điều tra về thành phần loài và kinh nghiệm sử dụng
cây thuốc của các dân tộc thiểu số ở nước ta đã được tiến hành trong những
năm vừa qua. Nhiều nghiên cứu về cây thuốc đã được phòng Thực vật dân tộc
học thuộc Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật thực hiện với các công đồng
dân tộc thiểu số như: H’ Mông, Dao, Tu Dí, Mường … tại một số tỉnh chủ yếu
ở Tây Bắc. Ngoài ra, còn nhiều các nghiên cứu của nhiều tác giả như: Nguyễn
Nghĩa Thìn và cộng sự. Kết quả của các nghiên cứu trên cho thấy các dân tộc
nước ta có nhiều tri thức quý giá và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc độc đáo
để phòng và chữa bệnh.
Nhiều bài thuốc dân tộc có hiệu quả chữa trị cao đã được thu thập và
đưa vào nghiên cứu thực nghiệm. Đồng thời, đã phát hiện nhiều loài cây
thuốc mới; đặc biệt là các công dụng mới của nhiều loài cây thuốc. Như vậy,
nghiên cứu cây thuốc truyền thống của các dân tộc thiểu số đã góp phần sử
dụng hiệu quả hơn nguồn tài nguyên cây thuốc ở nước ta.
Cùng với việc điều tra thành phần loài, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc
của các cộng đồng thiểu số; nghiên cứu sàng lọc các bài thuốc dân tộc sử
dụng rộng rãi góp phần chăm sóc sức khỏe cộng đồng và phát triển kinh tế xã
hội được chú trọng nghiên cứu trong những năm gần đây. Từ kinh nghiệm
truyền thống của các dân tộc đã có những nghiên cứu và sản xuất thành công
các loại thuốc chữa bệnh cho người dân. Có thể nhận thấy, nghiên cứu cây
thuốc dân tộc không chỉ góp phần sử dụng bền vững nguồn tài nguyên cây
thuốc của đất nước, mà còn là cơ sở để sản xuất các loại dược phẩm mới để
điều trị các bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên, hiện nay rất nhiều giống cây thuốc
quý phân bố chủ yếu ở các khu vực núi cao đang bị khai thác cạn kiệt và nguy
cơ dẫn đến tuyệt chủng. Vì vậy vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là tư liệu hóa

thực trạng sử dụng cây thuốc của đồng bào các dân tộc thiểu số từ đó đề ra
các biện pháp quản lý, sử dụng, bảo tồn, phát triển nhằm gìn giữ tri thức bản
địa của các cộng đồng dân tộc thiểu số.
11


1.4. Tình hình nghiên cứu tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của
đồng bào dân tộc Dao đỏ ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai.
Tại khu vực nghiên cứu đời sống của nhiều người dân nơi đây còn gặp
rất nhiều khó khăn. Cuộc sống nơi đây vẫn mang tính tự cung tự cấp, trong
những năm trở lại đây do chính sách của Đảng và nhà nước có sự điều chỉnh
và quan tâm nhiều đến bà con vùng cao nên đời sống của họ đã phần nào bớt
đi được những khó khăn. Tuy nhiên cuộc sống nơi vùng núi cao cũng đã bắt
buộc họ phải sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, trong cuộc sống mỗi khi ốm
đau người dân nơi đây vẫn vào rừng tìm kiếm những loài cây trong rừng về
làm thuốc. Trải qua bao thế hệ, những kinh nghiệm đó đã ngày càng được
người dân nơi đây tích lũy. Sự hiểu biết về các loài cây thuốc của người dân
nơi đây được thể hiện thông qua việc sử dụng chúng trong việc trị bệnh cho
người ốm, việc thu hái, địa điểm thu hái cũng như cách thức chế biến chúng.
Như đã trình bày ở trên khu vực nghiên cứu có tài nguyên, cũng như tri
thức về cây thuốc rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu về
tài nguyên cây thuốc cũng chưa được chú trọng. Nhiều chương trình dự án
cũng đã và đang được tỉnh cũng như các cơ quan chức năng khác đầu tư và
thực hiện, đặc biệt là các chương trình nghiên cứu về sự đa dạng thành phần
loài, các nhóm loài.
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào về
vấn đề tài nguyên cây thuốc mà được đồng bào dân tộc Dao đỏ nơi đây sử
dụng. Được sự hướng dẫn của các thây, cô tại Bảo tàng thiên nhiên Việt Nam
tôi đã mạnh dạn nghiên cứu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp cao học của
mình.

1.5. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu
1.5.1. Điều kiện tự nhiên
1.5.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới, diện tích
Bắc Hà là một huyện Đông Bắc tỉnh Lào Cai, nằm ở độ cao khoảng
1.000 đến 1.500 m so với mực nước biển. Diện tích của huyện rộng
686,78 km2, ranh giới huyện Bắc Hà được xác định như sau:
Phía Bắc giáp với huyện Si Ma Cai;
Phía Nam giáp huyện Bảo Yên, Bảo Thắng;
Phía Đông giáp huyện Xín Mần (Hà Giang);
Phía Tây giáp huyện Mường Khương.
1.5.1.2 Địa chất, địa hình
a) Địa hình
Bắc Hà có địa hình đồi núi bị chia cắt mạnh, độ dốc trung bình 240 ÷
280. Địa hình được chia làm 3 vùng như sau: .
Vùng thấp: Độ cao từ 116 ÷ 600 m gồm 8 xã Bảo Nhai, Nậm Lúc, Cốc
Ly, Cốc Lầu, Bản Cái, Nậm Khánh, Nậm Đét, Bản Liền;
Vùng trung huyện: Độ cao từ 600 ÷ 1.000 m gồm 7 xã Lầu Thí Ngài,
Thải Giàng Phố, Na Hối, Tà Chải, thị trấn Bắc Hà, Bản Phố, Nậm Mòn;
Vùng cao: Độ cao từ 1.000 ÷ 1.800 m gồm 6 xã Lùng Phình, Lùng Cải,
12


Bản Già, Tả Củ Tỷ, Hoàng Thu Phố, Tả Văn Chư.
b) Địa chất
Trên cơ sở các tài liệu khoa học ngoài hiện trường cũng như các kết
quả và phân tích trong phòng thí nghiệm: Khu vực khảo sát nằm trong vùng
có cấu trúc địa chất tương đối đơn giản. Bao gồm các lớp:
Lớp 1: Lớp phủ; sét pha màu xám vàng; Lớp này phân bố rộng khắp
trên vùng. Tại khu vực nghiên cứu gặp tại các vị trí trũng thành tạo bởi quá
trình tích tụ do nước mưa mang đến, cũng như trong quá trình phong hoá

hoàn toàn của đá gốc. Lớp có bề dày thay đổi từ 0,3m (HK02) đến 2,2m
(HK05) thành phần chủ yếu là sét pha màu xám vàng, xám nâu trạng thái dẻo
mềm;
Lớp 2: Đá phiến sét vôi, xám đen, xám trắng, nứt nẻ vừa, trạng thái
cứng; Lớp này phân bố rộng khắp trong khu vực khảo sát, gặp tất cả các hố
khoan. Là lớp nằm ngay sau lớp đất phủ có bề dày lớn, trong quá trình khảo
sát chúng tôi kết thúc khoan tại lớp này với chiều sâu khoan vào lớp này ở tất
cả các hố khoan là 7,0m ở HK04 là 10,0m. Đặc trưng là đá liền khối, nứt nẻ
vừa đá cứng chắc.
1.5.1.3. Khí hậu, thủy văn
a) Khí hậu
Tại tỉnh Lào Cai hiện nay chỉ có 04 trạm Khí tượng tại thành phố Lào Cai,
huyện Bảo Yên (trạm Phố Ràng), huyện Bắc Hà và huyện Sa Pa.
Theo các số liệu khí tượng của trạm Bắc Hà thì khu vực nghiên cứu có
khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết mát mẻ vào mùa hè và lạnh, có sương
muối, băng giá vào mùa đông. Mùa mưa thường nóng từ tháng 4 đến tháng
10, mùa khô thường lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau:
+Nhiệt độ không khí
Độ chênh lệch về nhiệt độ không khí trung bình các tháng ở lưu vực
không lớn, từ thượng lưu xuống hạ lưu, nhiệt độ từ vùng núi cao đến vùng
lòng sông trũng có xu hướng tăng dần. Theo thống kê tài liệu trạm khí tượng
Bắc Hà, nhiệt độ không khí trung bình nhiều năm là 22,70C, nhiệt độ không
khí trung bình tháng cao nhất là tháng 5 (40,60C), thấp nhất là tháng 2 (2,10C.
+Lượng mưa
Mưa cả năm không đều, phân thành mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ
tháng 4 đến tháng 9, chiếm khoảng 75-85% lượng mưa cả năm, mùa khô bắt
đầu từ tháng 10, kết thúc vào tháng 3 năm sau, lượng mưa mùa khô chỉ
chiếm15-25% lượng mưa cả năm. Theo thống kế tài liệu của trạm Bắc Hà,
lượng mưa trung bình nhiều năm là 1.573,8mm, từ tháng 4 đến tháng 9 chiếm
83,6% lượng mưa cả năm.

b) Thủy văn
Trên địa bàn huyện có sông Chảy và các suối nhỏ như suối Bắc Hà,
suối Bản Phố, suối Nậm Cáy,... Đây là nguồn nước chính để phục vụ các hoạt
động dân sinh và hoạt động sản xuất.
13


Đối với khu vực xã Lùng Phình do kết cấu địa tầng vùng núi Lùng
Phình có ảnh hưởng lớn đến chế độ nước của các khe suối nhỏ, hiện tượng
Kastơ xảy ra khá phổ biến ở Lùng Phình. Hoạt động Karstơ tạo ra các lỗ đùn
nước, khe lạch nhỏ nhưng lượng nước không đáng kể.
1.5.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
1.5.2.1. Điều kiện về kinh tế
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới cơ chế quản lý Nhà
nước, kinh tế huyện Bắc Hà duy trì được nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định.
Giá trị sản xuất ước đạt 484,47 tỷ đồng, tổng thu ngân sách trên địa bàn huyện
đạt 19,083 tỷ đồng.
a)
Sản xuất nông - lâm nghiệp
+ Trồng trọt: Năm 2016 tổng sản lượng cây lương thực có hạt đạt
20.840 tấn, tăng 1.302 tấn so với năm 2015. Trong đó diện tích lúa ruộng
1.962 ha, năng suất 40,42 tạ/ha; lúa nương 400 ha với năng suất đạt 11 tạ/ha.
Diện tích trồng cây ngô đạt 4.510 ha với sản lượng đạt 12.903 tấn.
Cây chè và quế là các cây công nghiệp được trồng tại địa phương. Địa
phương đã tổ chức chăm sóc diện tích chè tập trung là 405 ha, trồng mới 36
ha cho sản lượng chè tươi 550 tấn tăng 100 tấn so với năm 2015. Diện tích
cây quế trên toàn huyện đạt 1.235 ha, trong đó diện tích cây cho sản phẩm là
635 ha, cây quế được trồng tập trung chủ yếu ở vùng thấp.
1.5.2.2. Điều kiện về xã hội
a)

Dân số, lao động, việc làm
Năm 2016 toàn huyện hơn 60.529 dân sinh sống, tỷ lệ tăng dân số tự
nhiên là 2,13%, có chiều hướng giảm so với các năm trước. Trên địa bàn
huyện Bắc Hà có 14 dân tộc người sinh sống, trong đó chủ yếu là người dân
tộc Mông chiếm 45%, còn lại là các dân tộc khác như: Giao, Phù Lá, Tày,
Nùng, Kinh.
Tổng số lao động trên địa bàn huyện năm 2016 khoảng 29.000 người,
lực lượng lao động tập trung phần lớn trong lĩnh vực nông - lâm nghiêp, kinh
doanh thương mại.
b)
Giáo dục - Đào tạo
Năm 2016 toàn huyện đã phổ cập tiểu học 21/21 xã, 11 trường đạt
chuẩn quốc gia, tỷ lệ học sinh đến lớp đạt 99,5%, tỷ lệ học sinh lên lớp bậc
tiểu học đạt 97,5%, trung học cơ sở đạt 88,4%, bậc trung học phổ thông đạt
74,5%.
c)
Y tế chăm sóc sức khoẻ
Hiện nay huyện có 110 giường bệnh, các xã đều có trạm y tế. Trong
năm 2016 đã tổ chức khám chữa bệnh cho 111.715 lượt người. Chất lượng
khám chữa bệnh được nâng cao, các chương trình y tế quốc gia được triển
khai tích cực, có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa các ban ngành.
Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em được quan tâm chú trọng, đặc biệt
là các trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt. Tổ chức thực hiện công tác tiêm
chủng cho trẻ em dưới 1 tuổi đạt tỷ lệ 98%, khám chữa bệnh cho người nghèo
14


và trẻ em dưới 6 tuổi được thực hiện đúng quy định. Tuy nhiên việc tỷ lệ trẻ
em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn khá cao chiếm 36,2%


15


Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu đa dạng cây thuốc thuộc ngành Ngọc lan (Magnoliophyta)
của đồng bào dân tộc Dao đỏ ở huyện Bắc Hà - tỉnh Lào Cai
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Tập hợp và hệ thống các loài thực vật thuộc ngành Ngọc lan được
đồng bào dân tộc Dao đỏ, huyện Bắc Hà sử dụng làm thuốc. Đưa ra các giải
pháp bảo tồn một số loài cây có giá trị.
- Đánh giá mức độ đa dạng về thành phần các taxon, các bệnh được
chữa trị, các bộ phận sử dụng và dạng sống của những loài thực vật được
đồng bào dân tộc Dao đỏ, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai sử dụng làm thuốc.
2.2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Các loài thực vật thuộc ngành Ngọc lan được đồng bào dân tộc Dao đỏ,
huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai sử dụng làm thuốc.
Thời gian thực hiện: Từ tháng 10 năm 2016 đến tháng 10 năm 2017.
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Tập hợp và hệ thống hóa các thông tin về tài nguyên cây thuốc tại
huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai từ trước tới nay;
- Điều tra thu thập và xử lý mẫu ngoài thực địa cũng như trong phòng
thí nghiệm;
- Tình hình khai thác và bảo tồn cây thuốc tại ở huyện Bắc Hà, tỉnh Lào
Cai;
- Điều tra kinh nghiệm của các thầy lang tại khu vực nghiên cứu.
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.4.1. Phương pháp kế thừa:
Kế thừa các tài liệu có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu: Nguyễn Tiến
Bân, 1997; Phạm Hoàng Hộ, 1991 - 1993; Nguyễn Nghĩa Thìn, Ngô Trực
Nhã, Nguyễn Thị Hạnh, 1999; Võ Văn Chi, 2003; các báo cáo khoa học của
khu bảo tồn, kỷ yếu, tạp chí khoa học, internet, ….
2.4.2. Điều tra thực địa theo tuyến:
Điều tra khảo sát sơ bộ sau đó ta tiến hành chọn tuyến điều tra. Tuyến
được chọn phải đảm bảo yêu cầu phải chạy qua các sinh cảnh đặc trưng cho
khu vực nghiên cứu. Trên mỗi tuyến cắt ngang chọn các ô tiêu chuẩn là
những điểm chốt đặc trưng nhất để nghiên cứu đa dạng tài nguyên cây thuốc
(Theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997).
Trên mỗi tuyến, tiến hành điều tra các loài cây thuốc của đồng bào dân
tộc Dao đỏ sử dụng trong phạm vi 10 m mỗi bên. Mỗi loài lấy 5 - 6 tiêu bản.
- Các tuyến điều tra thực địa:
- Các ông Lang bà mê đã phỏng vấn
Bà Lý Thị Còi, xã Nậm Đét
16


×