Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Nghiên cứu tính đa dạng cây thuốc ngành ngọc lan (magnoliophyta) ở khu rừng mường phăng – điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.81 MB, 64 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

*****

LÊ BÁ DUY

“NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG CÂY THUỐC NGÀNH NGỌC LAN
(Magnoliophyta) Ở KHU RỪNG MƯỜNG PHĂNG, ĐIỆN BIÊN”

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC
Chuyên ngành: Thực vật
Mã ngành: 60420111

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: T.S VŨ TIẾN CHÍNH

HÀ NỘI – 2015


i

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi nhận được sự hướng dẫn khoa học của
TS. Vũ Tiến Chính. Nhân dịp này tôi xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến
các thầy cô.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Trần Thế Bách – Viện Sinh thái và
Tài nguyên sinh vật và tôi xin trân trọng cảm ơn các cán bộ Phòng thực vật–
Viện sinh thái và tài nguyên sinh vật, Ban lãnh đạo và phòng đào tạo sau đại
học-Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu.


Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ của UBND xã Mường Phăng, ban quản lý khu
du tích lịch sử rừng Tướng Giáp – Huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên đã tạo điều
kiện cho tôi hoàn thiện đề tài.
Cuối cùng, tôi xin bầy tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè đồng nghiệp
đã động viên, ủng hộ tôi trong suốt thời gian học tập.
Hà Nội, ngày 6 tháng 10 năm 2015
HỌC VIÊN

Lê Bá Duy


ii

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố ở bất kỳ công trình nào.
HỌC VIÊN

Lê Bá Duy


iii

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................1
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU ......................................................................2
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên thế giới ..............2
1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam ..................................7
1.3. Tình hình nghiên cứu thực vật ở khu vực nghiên cứu .....................................12
1.4. Tình hình nghiên cứu tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc ở khu vực

nghiên cứu ...................................................................................................................12
CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
......................................................................................................................................14
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................14
2.2. Nội dung nghiên cứu ............................................................................................14
2.3. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................14
2.3.1. Phương pháp kế thừa .................................................................................................. 14
2.3.2. Điều tra thực địa theo tuyến ..................................................................................... 15
2.3.3. Điều tra tình hình khai thác sử dụng dược liệu . Error! Bookmark not defined.
2.3.4. Thu thập số liệu, tài liệu ............................................................................................. 16
2.3.5. Xử lý số liệu ..................................................................................................................... 16
CHƯƠNG 3 ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ VÀ XÃ HỘI KHU
RỪNG MƯỜNG PHĂNG, TỈNH ĐIỆN BIÊN .......................................................20
3.1. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên khu vực nghiên cứu ....................20
3.2. Điều kiện kinh tế, xã hội ......................................................................................23
3.2.1. Dân số và dân tộc .......................................................................................................... 23
3.2.2. Các hoạt động kinh tế chủ yếu ................................................................................. 25
3.2.2.1. Sản xuất nông nghiệp ...................................................................................... 25
3.2.2.2. Sản xuất lâm nghiệp ........................................................................................ 26
3.2.2.3. Tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, dịch vụ ...................................................... 26
3.2.2.4. Thương mại và du lịch .................................................................................... 26
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ..................................................................29
4.1. Đa dạng cây thuốc thuộc ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) ở khu vực nghiên
cứu ................................................................................................................................29
4.1.1. Tính đa dạng về các bậc taxon ................................................................................. 29
4.1.2 Đa dạng họ (92 họ) ......................................................................................................... 30
4.1.3. Sự đa dạng ở mức độ chi: .......................................................................................... 32


iv


4.2 Một số nhóm bệnh được chữa trị bằng cây ở khu vực nghiên cứu ..................33
4.2.1 Đa dạng các nhóm bệnh ............................................................................................... 33
4.3 Các loài trong Sách đỏ Việt Nam (2007) ............................................................49
4.4. Một số bài thuốc truyền thống của đồng bào dân tộc ở khu vực nghiên cứu ......49
4.5. Đề xuất các giải pháp bảo tồn các loài cây thuốc và nguồn trí thức bản địa
cho cộng đồng dân cư địa phương ............................................................................51
4.5.1. Tình hình khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên cây thuốc và các bài
thuốc dân tộc ................................................................................................................................... 51
4.5.2. Các mối đe dọa đối với tài nguyên cây thuốc và việc sử dụng cây thuốc ở
khu vực nghiên cứu ....................................................................................................................... 51
4.5.3. Đề xuất các giải pháp bảo tồn .................................................................................. 52
KẾT LUẬN .................................................................................................................55
KIẾN NGHỊ ................................................................................................................56


v

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CR

Rất nguy cấp

EN

Nguy cấp

PRA

Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia.


FAO

Tổ chức Nông Lương của Liên Hợp Quốc

HTX

Hợp tác xã

IUCN

Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế

KHCN và MT

Khoa học công nghệ và môi trường

UBND

Ủy ban nhân dân

VQG

Vườn quốc gia

TCN

Trước công nguyên

VU


Sẽ nguy cấp

WHO

Tổ chức Y tế thế giới


vi

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1.1: Tổng hợp diện tích các loại đất trên địa bàn xã Mường Phăng ..................................22
Bảng 3.1.2 Thống kê diện tích hạng mục rừng.................................................................................23
Bảng 3.1.3 Tổng hợp hiện trạng dân số của xã phân theo thành phần dân tộc .................................24
Bảng 4.1. Sự phân bố các taxon trong các ngành của các loài cây thuốc .......................................29
Bảng 4.2. Danh sách 10 họ nhiều loài thuộc ngành Ngọc lan ở khu vực nghiên cứu ....................30
Bảng 4.3. Thống kê các chi có nhiều loài cây thuốc nhất ................................................................. 32
Bảng 4.4: Một số nhóm bệnh chữa trị bằng cây thuốc tại khu vực nghiên cứu ....................................33
Bảng 4.5. Các loài có tiềm năng giúp An thần ..................................................................................34
Bảng 4.6. Các loài có tiềm năng chữa bệnh Bại liệt .........................................................................34
Bảng 4.7. Các loài có tiềm năng Giải độc ..........................................................................................35
Bảng 4.8. Các loài có tiềm năng chữa bệnh Hen suyễn ....................................................................36
Bảng 4.9. Các loài có tiềm năng chữa Rắn cắn .................................................................................37
Bảng 4.10. Các loài có tiềm năng chữa bệnh Sốt rét ........................................................................40
Bảng 4.11. Các loài có tiềm năng chữa bệnh Thấp khớp .................................................................41
Bảng 4.12. Các loài có tiềm năng chữa bệnh Tiểu đường ................................................................44
Bảng 4.13. Các loài có tiềm năng chữa bệnh về Tim mạch, Huyết áp ............................................45
Bảng 4.14. Các loài có tiềm năng chữa bệnh Trĩ .............................................................................45
Bảng 4.15. Các loài có tiềm năng chữa bệnh Viêm gan ...................................................................46
Bảng 4.16. Các loài có tiềm năng chữa bệnh Viêm não ...................................................................47

Bảng 4.17. Các loài có tiềm năng chữa bệnh vô sinh .......................................................................47
Bảng 4.18. Các loài có tiềm năng chữa bệnh xơ gan ........................................................................48
Bảng 4.19. Các loài có tiềm năng chữa bệnh xuất huyết não ..........................................................48
Bảng 4.20. Danh sách những loài trong sách đỏ Việt Nam thuộc ngành Ngọc lan ở khu vực
nghiên cứu.............................................................................................................................................49


vii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.1. Số lượng các taxon của các ngành cây thuốc.................................................................30
Biểu đồ 4.2. Các họ có nhiều loài nhất thuộc ngành Ngọc lan..........................................................31
Biểu đồ 4.3. Các chi có nhiều loài cây thuốc nhất..............................................................................32
Biểu đồ: 4.4. Loài cây thuốc sử dụng chữa bệnh tại khu vực nghiên cứu.......................................34

DANH MỤC BẢN ĐỒ
Bản đồ Quy hoạch 3 loại rừng.............................................................................................................28


1

MỞ ĐẦU
Việt Nam là một trong những Trung tâm đa dạng sinh học của thế giới,
với hệ động, thực vật rất phong phú. Theo thống kê chưa đầy đủ thì nước ta có
khoảng 15.000 loài thực vật có mạch đã được mô tả [29], trong đó có đến 1/3 số
cây cỏ đã và đang được sử dụng làm thuốc chữa bệnh [12],[13],[14].
Trải qua hơn 4000 năm lịch sử hình thành và phát triển, nhân dân ta đã
không ngừng tìm tòi, tích lũy kinh nghiệm về mọi mặt trong đời sống. Đặc biệt
là sử dụng các cây cỏ quanh mình để chăm sóc sức khỏe cho bản thân, gia đình
và cả cộng đồng. Do sự khác biệt về phong tục tập quán, về hệ thực vật mà mỗi

dân tộc ở mỗi vùng lại có những kinh nghiệm, kiến thức trong việc sử dụng cây
thuốc để chữa bệnh khác nhau.
Trong những năm gần đây, dưới sự áp lực của phát triển kinh tế, bùng nổ
dân số nên nguồn tài nguyên nói chung, cây thuốc nói riêng đang bị suy thoái
nghiêm trọng. Những cây thuốc có giá trị bị thương mại hóa, cung cấp cho các
ông lang, bà mế, các công ty dược phẩm có giá thành ngày càng cao. Do vậy
chúng bị khai thác rất nhiều dẫn đến cạn kiệt. Những cây ít có giá trị, hoặc có
giá trị nhưng người dân chưa biết đến bị phá hoại để nhường chỗ cho sản xuất
nông nghiệp, công nghiệp. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu gây trồng cây thuốc
còn hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng của thị trường cũng là nguy cơ
rất lớn đối với sự tồn tại và phát triển của cây thuốc tự nhiên.
Tiềm năng chữa bệnh của nhiều loài thảo dược đang ngày càng được
khám phá, vì thế vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và bảo tồn cây
thuốc nói riêng đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia nhằm phục
vụ cho mục đích chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của con người.
Khu Rừng Mường Phăng (rừng tướng Giáp) là một khu rừng nguyên sinh
nằm trong khu di tích lịch sử nên được bảo vệ rất nghiêm ngặt, nơi đây có nhiều
thảo mộc được bà con nhân dân sử dụng để chữa bệnh. Nhằm góp phần tìm hiểu
các thực vật làm thuốc cũng như kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của đồng bào
dân tộc Thái Đen trong khu rừng Mường Phăng– Điện Biên học viên tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu tính đa dạng cây thuốc ngành Ngọc lan
(Magnoliophyta) ở khu rừng Mường Phăng – Điện Biên” để hoàn thiện
nghiên cứu luận văn tốt nghiệp.


2

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU


1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên thế giới
Dân tộc thực vật học đã được hình thành ngay từ khi xuất hiện con người
để sống và đấu tranh hòa nhập với thiên nhiên. Con người đã sử dụng cây cỏ
phục vụ cho cuộc sống của mình (như cây làm thức ăn, làm nhà ở, cây làm
thuốc, cây lấy tinh dầu…). Các loài cây và các bài thuốc gia truyền gắn liền với
đời sống các dân tộc. Sự phát triển của loài người, mỗi dân tộc, mỗi Quốc gia
đều có những nền y học cổ truyền riêng. Những ghi chép đầu tiên về cây thuốc
được tìm thấy cách đây hơn 5 ngàn năm, từ những nét khắc trên đất sét của
người Sumeria, thuộc Mesopotamia cổ xưa (là Irắc ngày nay), đề cập đến sử
dụng cây carum và cây húng tây. Cũng thời gian này, kinh nghiệm sử dụng cây
thuốc cũng được bắt đầu hình thành và phát triển ở Trung Quốc và Ấn Độ. Cho
đến nay giá trị làm thuốc của hai loài thực vật kể trên vẫn được thừa nhận. Tuy
nhiên, nhiều bằng chứng khảo cổ học cho thấy kinh nghiệm sử dụng cây thuốc
xuất hiện từ rất lâu đời. Rễ của cây Thục quỳ (Althea officinalis), cây Lan dạ
hương (Hyacinthus sp.) và cây Cỏ thi (Achillea millefolium). Điều này cho thấy,
trên thực tế, thực vật được dùng làm thuốc xuất hiện trước khi có sự ghi chép
của sử sách.
Sử dụng cây thuốc được các quốc gia trên thế giới tiến hành ở các mức độ
khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển của dân tộc đó. Nền y học Trung Quốc
được xem là cái nôi của y học cổ truyền, các bài thuốc được xem như hình thành
sớm nhất từ đây. Từ năm 3216 trước công nguyên, Thần Nông – một nhà dược
học tài năng đã chú ý tìm hiểu tác động của cây cỏ đến sức khỏe con người. Ông
đã thử nghiệm tác dụng các loài cây thuốc trên chính bản thân bằng uống, nếm
rồi ghi chép tất cả những hiều biết vào cuốn sách “Thần nông bản thảo” gồm
365 vị thuốc rất có giá trị. Trong đó, nhiều bài thuốc vẫn được sử dụng cho tới
ngày nay như cây Gai mèo (Cannabis sp) để chống nôn, cây Đại phong tử


3


(Hydnocarpus kurzii) làm thuốc chữa bệnh phong [9],[10],[34]. Vào thời Tam
Quốc, danh y Hoa Đà, sử dụng Đàn hương, Tử đinh hương để chế hương nang
(túi thơm) để phòng chống và chữa trị bệnh lao phổi và bệnh lỵ. Ông còn dùng
hoa Cúc, Kim ngân phơi khô cho vào chiếc gối (hương chẩm) để điều trị chứng
đau đầu, mất ngủ, cao huyết áp. Từ thời nhà Hán (năm 168 trước Công nguyên)
trong cuốn sách “Thủ hậu bị cấp phương” tác giả đã kê 52 đơn thuốc chữa bệnh
từ các loại cây cỏ[10],[17],[47]. Giữa thế kỷ XVI, Lý Thời Trân đã thống kê
12.000 vị thuốc trong tập “Bản thảo cương mục”.
Ở Ấn Độ, nền y học cổ truyền được hình thành cách đây hơn 3000 năm, khi
đó nhân dân Ấn Độ đã sử dụng lá cây Ba chẽn (Desmodium triangulare) sao
vàng sắc đặc để trị tiêu chảy. Chủ trương của người Ấn Độ là ngừa bệnh là
chính, nếu phải điều trị bệnh thì các liệu pháp tự nhiên chủ yếu thông qua thực
phẩm và thảo mộc sẽ giúp loại bỏ gốc rễ căn bệnh. Bộ sử thi Vedas được viết
vào năm 1.500 TCN và cuốn Charaka samhita được thầy thuốc Charaka bổ sung
tiếp vào bộ sử thi Vedas, trình bày cụ thể 350 loài thảo dược [9],[10],[46]. Ấn
Độ là quốc gia rất phát triển về nghiên cứu thảo dược như tổng hợp chất hữu cơ,
tách chiết chứng minh cấu trúc, sàng lọc sinh học, thử nghiệm độc tính, và
nghiên cứu tác dụng hóa học của các chất tới cơ thể con người. Hiện nay, chính
phủ khuyến khích sử dụng công nghệ cao trong trồng cây thuốc. Hầu hết các
viện nghiên cứu dược của Ấn Độ đã tham gia vào nghiên cứu chuyển hóa các
loại thuốc và hợp chất có hoạt tính từ thực vật.
Những hiểu biết về thảo mộc của người Hy Lạp và Roma gắn liền với nền
văn minh phát triển từ rất sớm của họ. Người Hy Lạp cổ xưa chịu ảnh hưởng
của người Babylon, Ai Cập, Ấn Độ. Hippocrat (460 – 377 TCN) là thầy thuốc
nổi tiếng người Hy Lạp được mệnh danh là cha đẻ của y học hiện đại khi ông là
người đưa ra quan niệm “Hãy để thức ăn của bạn là thuốc và thuốc chính là thức
ăn của bạn”.[9],[10].
Ở châu Âu, vào thời Trung cổ, các kiến thức về cây thuốc chủ yếu được các
thầy tu sưu tầm và nghiên cứu. Họ trồng cây thuốc và dịch các tài liệu về thảo
mộc bằng tiếng Ả rập. Vào năm 1649, Nicolas Culpeper đã viết cuốn sách



4

“A Physical Directory”, sau đó vài năm, ông lại xuất bản cuốn “The English
Physician” [9],[10]. Đây là cuốn dược điển có giá trị và là một trong những cuốn
sách hướng dẫn đầu tiên dành cho nhiều đối tượng sử dụng, người không chuyên
có thể sử dụng để làm cẩm nang chăm sóc sức khỏe. Cho đến nay, cuốn sách
này vẫn được tham khảo và trích dẫn rộng rãi.
Thầy lang và những bài thuốc cổ truyền từ thực vật đóng vai trò quan trọng
đối với sức khỏe của hàng triệu người. Tỷ lệ người làm nghề thuốc cổ truyền và
các bác sĩ được đào tạo ở các trường Đại học có liên quan tới toàn bộ dân số
của các nước châu Phi. Ước tính số lượng thầy lang ở Tanzania có khoảng
30.000 – 40.000 người, trong đó, bác sĩ làm nghề y chỉ có khoảng 600 người.
Tương tự ở Malawi có khoảng gần 20.000 người làm nghề thuốc cổ truyền
nhưng số lượng bác sĩ rất ít. Nền y học cổ truyền ở các quốc gia châu Phi có ảnh
hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng.
Cùng với phương thức chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, các nhà khoa
học trên thế giới tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu cơ chế và các hợp chất hóa học
trong cây có tác dụng chữa bệnh, đúc rút thành những cuốn sách có giá trị. Các
nhà khoa học công nhận rằng hầu hết các cây cỏ đều có tính kháng sinh, đó là
khả năng miễn dịch tự nhiên của thực vật. Tác dụng kháng khuẩn do các hợp
chất tự nhiên có mặt phổ biến trong thực vật như phenolic, antoxy, các dẫn xuất
quino, ancaloid, flavonoid, saponin, … Cho đến nay, nhiều hợp chất tự nhiên đã
được giải mã về cấu trúc, những hợp chất này được chiết xuất từ cây cỏ để làm
thuốc. Dựa vào cấu trúc được giải mã, người ta có thể tổng hợp nên các chất
nhân tạo để chữa bệnh. Gotthall (1950) đã phân lập được chất Glucosid
barbaloid từ cây Lô hội (Aloe vera), chất này có tác dụng với vi khuẩn lao ở
người và vi khuẩn Baccilus subtilis. Lucas và Lewis (1994) đã chiết xuất một
hoạt chất có tác dụng với các loài vi khuẩn gây bệnh tả, lị, mụn nhọt từ Kim

ngân (Lonicera sp). Từ cây Hoàng liên (Coptis teeta), người ta đã chiết xuất
được berberin. Trong lá và rễ cây Hẹ (Allium odorum) có các hợp chất sulfua,
sapoin và chất đắng. Năm 1948, Shen-Chi-Shen phân lập được một hoạt chất
Odorin ít độc đối với động vật bậc cao nhưng lại có tác dụng kháng khuẩn. Hạt


5

của cây Hẹ cũng có chứa chất alcaloid có tác dụng kháng khuẩn gram+ và
gram-, nấm. Reserpin và Serpentin là chất hạ huyết áp được chiết xuất từ cây Ba
gạc (Rauvolfia spp.). Đặc biệt, Vinblastin và Vincristin vừa có tác dụng hạ huyết
áp vừa có tác dụng làm thuốc chống ung thư, được chiết xuất từ cây Dừa cạn.
Digitalin được chiết xuất từ cây Dương địa hoàng (Digitalis spp.), strophatin
được chiết xuất từ cây Sừng dê (Strophanthus spp) để làm thuốc trợ tim. Từ
những thành tựu nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính của các hợp chất tự nhiên, nhiều
loại thuốc có tác dụng chữa bệnh cao đã ra đời bằng tổng hợp hoặc bán tổng
hợp.
Dược lý hiện đại chủ yếu tập trung vào các hợp chất tự nhiên có hoạt tính
chữa bệnh trong khi các nhà nghiên cứu về thảo mộc cho rằng tác dụng chữa
bệnh của cây thuốc là do sự kết hợp của nhiều thành phần có trong cây thuốc.
Chẳng hạn như chất khoáng, vitamin, tinh dầu glycosid và nhiều chất khác đóng
vai trò quan trọng trong việc tăng cường hoặc hỗ trợ các đặc tính chữa bệnh của
cây thuốc, bảo vệ cơ thể của các tác nhân gây độc. Trong khi đó, các hợp chất
được phân lập và tổng hợp có khả năng chữa bệnh hiệu quả nhưng vì thiếu đi
các hợp chất tự nhiên khác nên chúng có khả năng gây độc đối với cơ thể. Trước
đây, việc sử dụng thảo dược để chữa bệnh thường bị hiểu lầm với phép thuật và
mê tín dị đoan. Ngày nay, khoa học hiện đại đã chứng minh được khả năng chữa
bệnh của thảo mộc. Vì vậy, thế giới ngày càng quan tâm tới cây thuốc cũng như
phương pháp chữa bệnh bằng y học cổ truyền.
Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO), có trên 20.000 loài thực

vật bậc cao có mạch và ngành thực vật bậc thấp được sử dụng trực tiếp làm
thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất tự nhiên để làm thuốc. Trong đó, vùng nhiệt
đới Châu Mỹ có hơn 1.900 loài, vùng nhiệt đới châu Á có khoảng 6.500 loài
thực vật có hoa được dùng làm thuốc. Mức độ sử dụng thuốc thảo dược ngày
càng cao.
Khoảng 80% dân số ở các quốc gia đang phát triển sử dụng các phương
pháp y học cổ truyền để chăm sóc sức khỏe, trong đó chủ yếu là cây cỏ. Trung


6

Quốc là nước đông dân nhất thế giới, có nền y học dân tộc phát triển nên trong
số cây thuốc đã biết hiện nay có tới 80% số loài (khoảng trên 4.000 loài) là được
sử dụng theo kinh nghiệm cổ truyền của các dân tộc ở đất nước này. Ở Ghana,
Mali, Nigeria và Zambia, 60% trẻ em có triệu chứng sốt rét ban đầu được điều
trị tại chỗ bằng thảo dược. Tỷ lệ dân số tin tưởng vào hiệu quả sử dụng thảo
dược và các biện pháp chữa bệnh bằng y học cổ truyền cũng đang tăng nhanh ở
các quốc gia phát triển. Ở châu Âu, Bắc Mỹ, và một số nước khác, ít nhất 50%
dân số sử dụng thực phẩm bổ sung hay thuốc thay thế từ thảo mộc. Ở Đức, 90%
dân số sử dụng các phương thuốc có nguồn gốc thiên nhiên để chăm sóc sức
khỏe. Ở Anh, chi phí hàng năm cho các loại thuốc thay thế từ thảo mộc là 230
triệu đôla.
Theo số liệu của trung tâm thương mại quốc tế từ năm 1976, các nước
công nghiệp phát triển đã nhập khẩu hơn 300 triệu USD và đến năm 1980 con số
này đã tăng lên 551 triệu USD. Chỉ tính riêng 12 loại dược liệu có nhu cầu sử
dụng cao ở Mỹ là Bạch quả, Sâm Triều Tiên, Tỏi, Valeriana officinalis, … từ
năm 1998 đã đạt doanh số bán lẻ là 552 triệu USD. Đến năm 2003, thị trường
thảo dược toàn cầu đã vượt mức 60 tỷ USD hàng năm và con số này vẫn tiếp tục
tăng. (Đề án phát triển ngành dược và xây dựng hệ thống cung cấp thuốc của
Việt Nam giai đoạn 2007 – 2015 và tầm nhìn đến 2020).

Tuy nhu cầu sử dụng cây thuốc của con người trong việc chăm sóc sức
khỏe ngày một tăng, nhưng nguồn tài nguyên thực vật đang bị suy giảm. Nhiều
loài thực vật đã bị tuyệt chủng hoặc đang bị đe dọa tuyệt chủng do các hoạt động
trực tiếp và gián tiếp của con người. Theo tổ chức Bảo tồn thiên nhiên và tài
nguyên thiên nhiên (IUCN) cho biết, trong tổng số 43.000 loài thực vật mà cơ
quan này lưu giữ thông tin có tới 30.000 loài được coi là đang bị đe dọa tuyệt
chủng ở các mức độ khác nhau. Trong đó có nhiều loài là cây thuốc quý hiếm,
có giá trị kinh tế cao. Chẳng hạn như ở Bangladesh, một số cây thuốc quý như
Tylophora indica (để chữa hen), Zannia indica (thuốc tẩy xổ)…trước đây mọc
rất phổ biến, nay đã trở nên hiếm hoi. Loài Ba gạc (Rauvolfia serpentina) vốn


7

mọc rất tự nhiên ở Ấn Độ, Bangladesh, Thái Lan…mỗi năm có thể khai thác
hàng ngàn tấn nguyên liệu xuất khẩu sang thị trường Âu, Mỹ làm thuốc chữa
cao huyết áp. Tuy nhiên, do bị khai thác liên tục nhiều năm nên nguồn gốc cây
thuốc này đã bị cạn kiệt. Vì vậy một số bang ở Ấn Độ đã đình chỉ khai thác loài
Ba gạc này. Ở Trung Quốc, loài Dioscorea sp đã từng có trữ lượng lớn và từng
được khai thác tới 30.000 tấn, nhưng hiện nay số lượng bị giảm đi rất nhiều, có
loài đã phải trồng lại. Một vài loài cây thuốc dân tộc quý như Fritillaria
cirrhosa làm thuốc ho, phân bổ nhiều ở vùng Tây bắc tỉnh Tứ Xuyên nay chỉ
còn phân bố ở 1 đến 2 điểm với số lượng ít ỏi.
Nguyên nhân gây nên sự suy giảm nghiêm trọng về mặt số lượng của các
loài cây thuốc trước hết là do sự khai thác quá mức nguồn tài nguyên dược liệu
và do môi trường sống của chúng bị hủy diệt bở các hoạt động của con người.
Đặc biệt, ở các vùng rừng nhiệt đới và Á nhiệt đới là nơi có mức độ đa dạng
sinh học cao của thế giới nhưng lại là nơi bị tàn phá nhiều nhất. Theo số liệu của
tổ chức Nông Lương của Liên hợp quốc (FAO), trong vòng 40 năm (1940 –
1980), diện tích của các loại rừng kể trên đã bị thu hẹp tới 44%, ước tình khoảng

75.000 hecta rừng bị phá hủy.
Tiềm năng chữa bệnh của nhiều loài thảo dược đang ngày càng được khám
phá, vì thế vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và bảo tồn cây thuốc nói
riêng đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia nhằm phục vụ cho mục
đích chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của con người.
1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam
Việt Nam được công nhận là một trong những trung tâm đa dạng và
phong phú nhất thế giới, bởi vì có đặc điểm địa lý, khí hậu nhiệt đưới gió mùa
nòng và ẩm cũng như tác động của di cư thực vật từ miền Nam Trung Quốc,
Ấn Độ và các khu vực Himalaya Malaysia-Indonesia.
Ước tính, nước ta có khoảng 15.000 loài thực vật bậc cao có mạch [29] ,
800 loài rêu, 600 loài nấm và hơn 2.000 loài tảo [22],[23],[36]. Trong tổng số
gần 4000 loài cây thuốc đã được ghi nhận ở Việt Nam, có tới 90% là cây thuốc


8

mọc tự nhiên, tập tung chủ yếu trong các quần xã rừng và chỉ có khoảng 10%
là cây thuốc trồng. Theo số liệu thống kê của ngành Y tế, mỗi năm ở Việt
Nam tiêu thụ từ 30 - 50 ngàn tấn các loại dược liệu khác nhau để sử dụng trong
y học cổ truyền làm nguyên liệu ngành cho công nghiệp Dược và xuất khẩu.
Trong đó, trên 2/3 khối lượng này được khai thác từ nguồn cây thuốc mọc tự
nhiên và trồng trọt. Riêng từ nguồn cây thuốc tự nhiên đã cung cấp tới trên 20
ngàn tấn mỗi năm. Khối lượng dược liệu này trên thực tế mới chỉ bao gồm từ
hơn 200 loài được khai thác và đưa vào thương mại có tính phổ biến hiện
nay. Bên cạnh đó, còn nhiều loài dược liệu khác vẫn được thu hái, sử dụng tại
chỗ trong cộng đồng và hiện chưa có những con số thống kê cụ thể.
Trong cuốn sách “Nam Dược Thần Hiệu” và “Hông Nghĩa Giác Tự Y Thư”
của Tuệ Tĩnh đã mô tả hơn 630 vị thuốc, 50 đơn thuốc chữa các loại bệnh trong
đó 37 đơn thuốc chữa bệnh thương hàn. Hai cuốn sách này được xem là những

cuốn sách xuất hiện sớm nhất về cây thuốc Việt Nam. Đến thế kỷ 18, Hải
Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã xuất bản bộ sách lớn “Y Tông Tâm Tĩnh”
gồm 28 tập, 66 quyển đã mô tả khá chi tiết vệ thực vật, các đặc tính chữa bệnh.
[67].
Thời Lê Dụ Tông xuất hiện Hải Thượng Lãn Ông, tên thực là Lê Hữu
Trác (1721-1792), ông là người am hiểu nhiều về y học, sinh lý học, đọc nhiều
sách thuốc. Di sản để lại ngày nay cho con cháu là hàng chục bộ sách y dược
quý. Ngoài kế thừa “Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh, ông còn bổ sung thêm
329 vị thuốc mới. Mặt khác ông còn mở trường đào tạo y sinh truyền bá tư
tưởng, hiểu biết của mình về y học, vì vậy ông còn được mệnh danh là ông tổ
sáng lập ra nghề thuốc Việt Nam.
Thời kỳ Pháp thuộc (1884 – 1945), nền y học cổ truyền của Việt Nam
chịu nhiều ảnh hưởng của dược học phương Tây. Các phương thức chữa bệnh
mới được mang đến qua quá trình khai thác thuộc địa, họ đã gián tiếp thúc đẩy
quá trình nghiên cứu thực vật của Việt Nam nói chung và nghiên cứu cây thuốc
nói riêng. Đặc biệt bộ sách “Thực vật chí đại cương Đông Dương” của Lecomte
xuất bản cuối thể kỷ XVIII đầu thể kỷ XIX đã mô tả và phân loại hơn 7.000 loài


9

thực vật [58]. Đến năm 1952 tác giả tái bản lại cuốn sách, bổ sung và đặt tên
mới là “Những cây thuốc của Campuchia, Lào và Việt Nam” gồm 4 tập, 1.050
trang và thống kê khoảng 1.480 loài thực vật. Tuy nhiên cuốn sách này chưa
hoàn thiện về mô tả, phân bố, thành phần hóa học và dược lý của các loại thảo
mộc.
Ngay sau khi đất nước được thống nhất, có rất nhiều công trình điều tra
nghiên cứu cây thuốc được thực hiện. Phạm Hoàng Hộ và Nguyễn Văn Dương
đã xuất bản bộ sách “Cây cỏ Việt Nam” vào năm 1980 đã giới thiệu được công
dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật [21]. Đỗ Tất Lợi (1995) đã xuất bản bộ

sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” và tái bản vào năm 2000 [30].
Công trình này thống kê gần 800 loài cây, con và vị thuốc, trong đó nhiều loài
thực vật đã được mô tả về mặt cấu tạo, phân bố, cách thu hái và chế biến, thành
phần hóa học, công dụng và liều dùng.
Năm 1980 Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chương đã giới thiệu 519 loài cây
thuốc, trong đó có 150 loài mới phát hiện “Sổ tay cây thuốc Việt Nam”.[6]
Đề cập đến cây thuốc trong hệ thực vật Việt Nam,Võ Văn Chi là người đầu tiên
có tâm huyết, năm 1976 trong luận án khoa học của mình, ông đã thống kê có
1360 loài cây thuốc thuộc 192 họ trong ngành hạt kín ở miền Bắc Việt Nam.
Năm 1991, trong một báo cáo tham gia hội thảo quốc gia về cây thuốc lần thứ II
ở thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã giới thiệu một danh sách các loài cây thuốc
ở Việt Nam có 2 280 loài cây thuốc, thuộc 254 họ trong 8 ngành. Năm 1997 tác
giả giới thiệu “ Từ điển cây thuốc Việt Nam” giới thiệu 3.200 loài cây thuốc,
đây là một công trình có ý nghĩa khoa học và thực tiễn rất lớn phục vụ cho
ngành dược và các nhà thực vật học [12]. Đặc biệt năm 2012, tác giả đã tái bản
có bổ sung công trình trên với 4.470 loài cây thuốc [13].
Các kết quả điều tra dược liệu của Viện Dược liệu từ năm 1961 đến 1985
đã phát hiện 1.863 loài cây thuốc, trong 1033 chi, 236 họ, 101 bộ, 17 lớp, 11
ngành được xếp loại theo hệ thống của nhà thực vật học Takhtajan. Đến năm
2000, số loài cây thuốc đã tăng lên tới 3.849 loài thuộc 307 họ thực vật.


10

Theo Đỗ Huy Bích hàng năm nước ta khai thác và sử dụng tới 300 loài
cây thuốc ở các mức độ khác nhau[7]. Khó mà thống kê được một cách đầy đủ
khối lượng dược liệu tự nhiên được khai thác bởi vì hàng năm ngoài cơ sở sản
xuất của nhà nước còn có những cơ sở của tư nhân, của những ông Lang, bà Mế
và người dân từng địa phương tự thu hái về chữa bệnh theo kinh nghiệm dân
gian.

Trần Đình Lý (1993) và cộng sự đã xuất bản cuốn sách “1900 loài cây có
ích” [32]; trong số các loài thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam có 76
loài cho nhựa thơm, 160 loài có tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 loài chứa
tanin, 500 loài cây gỗ có giá trị cao, 400 loài tre nứa, 40 loài song mây. Trong số
các nhóm thực vật này, rất nhiều loài có công dụng làm thuốc. Cũng trong năm
này, Vương Thừa Ân cho ra đời cuốn “Thuốc quý quanh ta” [1].
Nhiều cuốn sách có giá trị về tài nguyên cây thuốc được các nhà khoa học
của Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật, Viện Khoa học và Công nghệ Việt
Nam biên soạn. Trong đó, đáng chú ý là những cuốn sách “Tài nguyên thực vật
có tinh dầu ở Việt Nam” của tác giả Lã Đình Mỡi và cộng sự (2001, 2002) các
tác giả đã trình bày giá trị sử dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật có tinh dầu
của Việt Nam [34]. Năm 2005, Lã Đình Mỡi và cộng sự giới thiệu tiếp công
trình “Những cây chứa các hợp chất có hoạt tính sinh học” đây được coi là
những ghi chép đầu tiên, có hệ thống và tương đối hoàn chỉnh về nguồn tài
nguyên thực vật có chứa các chất có hoạt tính sinh học được sử dụng làm thuốc
ở nước ta [35].
Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005) đã công bố bộ sách “Danh lục
các loài thực vật Việt Nam”. Cuốn sách đã trình bày đầy đủ các thông tin về tên
khoa học, tên thường gọi, nhận dạng, phân bố, dạng sống – sinh thái và công
dụng. Bộ sách này rất có ý nghĩa cho việc tra cứu danh pháp các loài thực
vật[4],[5].
Năm 1990-1995 trong hội thảo quốc tế lần thứ 2 về Dân tộc sinh học tại
Côn Minh - Trung Quốc, Nguyễn Nghĩa Thìn đã giới thiệu lịch sử nghiên cứu về
vấn đề dân tộc dược học, giới thiệu 2 300 loài thuộc 1136 chi, 234 họ thuộc 6


11

ngành thực vật có mạch Việt Nam được sử dụng làm thuốc và giới thiệu hơn
1000 bài thuốc được thu thập ở Việt Nam.

Trần Văn Ơn, trong luận án tiến sĩ của mình đã xác định ở Vườn Quốc gia
Ba Vì có 503 loài cây thuốc được người Dao sử dụng để chữa 131 loại bệnh
[36].
Như vậy, mặc dù chưa thống kê đầy đủ song các dẫn liệu kể trên cũng đã
nói lên sự phong phú và tầm quan trọng của nguồn tài nguyên cây thuốc của
Việt Nam.
Tình trạng về nguồn tài nguyên thực vật nói chung và nguồn cây thuốc
nói riêng hiện nay không còn nguyên vẹn như xưa. Do phá rừng, đốt nương làm
rẫy, khai thác ồ ạt dẫn tới nguồn tài nguyên cây thuốc ngày càng cạn kiệt, nhiều
loài cây thuốc bị giảm về trữ lượng như Bình vôi (Stephania brachyandra),
Chùa dù (Elsholtzia penduliflora), Tục đoạn (Dipsacus asper),… Đặc biệt đối
với những cây quý hiếm thì tình trạng suy kiệt càng trở nên gay gắt hơn nhiều:
Sâm vũ diệp (Panax bipinnatifidus), Tam thất hoang (Panax stipuleanatus), Ngũ
gia bì gai (Acanthopanax trifoliatus)… hiện lâm vào tình trạng bị đe dọa tuyệt
chủng.
Nhận thức được vai trò và tiềm năng của cây thuốc trong công tác chăm sóc
sức khỏe, chữa bệnh và phát triển kinh tế, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc
trong nhiều năm nay, Nhà nước Việt Nam trong đó các Bộ ngành và các cơ
quan đã tích cực tham gia và phê chuẩn các công ước quốc tế như “Công ước
đa dạng sinh học (1992)”, “kế hoạch hành động đa dạng sinh học (1994)” và
ban hành nhiều luật chính sách có gắn liền với chăm sóc sức khỏe, phát triển
ngành dược với việc bảo tồn cây thuốc như: “Định hướng chiến lược chăm sóc
sức khỏe bảo vệ nhân dân trong thời gian 1996 – 2010” và “chính sách quốc gia
về thuốc Việt Nam (1996)”, “chiến lược phát triển ngành Dược đến 2010
(2002)”, “chính sách quốc gia về y dược học cổ truyền đến năm 2010 (2003)”,
“Đề án phát triển ngành dược và xây dựng hệ thống cung cấp thuốc của Việt
Nam giai đoạn 2007– 2015 và tầm nhìn đến 2020 (2007)”. Một trong số đó là
việc triển khai nhiệm vụ “bảo tồn nguồn gen và phát triển giống cây thuốc”



12

của Bộ KHCN và MT từ năm 1988 trước khi có hướng dẫn bảo tồn cây thuốc
của Tổ chức y tế thế giới (WHO) và chuyển thành đề án bảo tồn nguồn gen
và giống cây thuốc năm 1997. Từ thực tế nêu trên, việc nghiên cứu các biện
pháp sàng lọc, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển cây dược liệu có giá trị và
tách chiết một số hợp chất có khả năng chữa bệnh từ các loài cây dược liệu tại
khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc là rất cần thiết.
1.3. Tình hình nghiên cứu thực vật ở khu vực nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu về tài nguyên thực vật nói chung và tài nguyên cây
thuốc nói riêng vẫn chưa được chú trọng. Theo thống kê sơ bộ ban đầu khu rừng
Mường Phăng có khoảng 296 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 251 chi và 92
họ trong ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) có tiềm năng chữa bệnh. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào nghiên cứu về đa dạng cây thuốc khu rừng Mường
Phăng. Đề tài nghiên cứu tính đa dạng cây thuốc ngành Ngọc lan
(Magnoliophyta) ở khu rừng Mường Phăng - Điện Biên hy vọng là sẽ tổng hợp
và có dẫn liệu mới về nguồn tài nguyên cây thuốc và các bài thuốc sưu tầm ở
đây.
1.4. Tình hình nghiên cứu tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc ở khu
vực nghiên cứu
Tại khu rừng Xã Mường Phăng – Huyện Điện Biên, Điện Biên mặc dù là
khu du lịch đời sống của người dân nơi đây vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Cuộc
sống của người dân nơi đây vẫn còn mang tính tự cung tự cấp cho dù là khu du
lịch, nhưng do cách xa trung tâm thành phố, số lượng du khách còn ít, trong
những năm trở lại đây do chính sách của Đảng và Nhà nước có sự điều chỉnh và
quan tâm nhiều đến bà con vùng cao nên đời sống của họ phần nào bớt đi được
những khó khăn. Cuộc sống nơi vùng núi cao xa trung tâm cũng bắt họ phần lớn
phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, trong cuộc sống mỗi khi ốm đau người dân nơi
đây vẫn vào rừng kiếm những loài cây rừng về làm thuốc, cũng vì là khu du lịch
cùng với tài nguyên cây thuốc phong phú người dân nơi đây đã đưa các phương

thuốc địa phương phục vụ vào thương mại, buôn bán cho khách du lịch. Trải qua


13

bao thế hệ, những kinh nghiệm đó đã ngày càng được người dân tích lũy. Sự
hiểu biết về các loài cây thuốc của người dân nơi đây được thể hiện qua việc sử
dụng chúng trong việc trị bệnh người ốm, việc thu hái, địa điểm thu hái cũng
như cách chế biến chúng.
Khu rừng Mường Phăng – Điện Biên Đông tỉnh Điện Biên là một khu
rừng nguyên sinh nằm trong khu du tích lịch sử nên tại đây vấn đề nghiên cứu
về tài nguyên thực vật nói chung và tài nguyên cây thuốc nói riêng chưa được
chú trọng. Mới đây, một số chương trình dự án đã được các cơ quan chức năng
và các tổ chức nước ngoài đầu tư và thực hiện, đặc biệt là các chương trình
nghiên cứu về sự đa dang thành phần loài, các nhóm loài.
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào về vấn đề
tài nguyên cây thuốc mà được đồng bào Thái Đen nơi đây sử dụng. Dưới sự
hướng dẫn của các thầy cô tại Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật tôi đã
mạnh dạn nghiên cứu để hoàn thành luận văn tốt nghiệp cao học của mình.


14

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đánh giá đa dạng tài nguyên cây thuốc, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc
của đồng bào dân tộc trong khu rừng Mường Phăng – Điện Biên.
Các loài cây thuốc thuộc ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) và một số bài
thuốc của một số ông lang, bà mế có kinh nghiệm của đồng bào dân tộc ở khu

vực nghiên cứu.
Thời gian thực hiện: Từ tháng 12 năm 2014 đến tháng 11 năm 2015.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Đa dạng thực vật: Thu thập và xử lý mẫu vật, xác định tên, xây dựng danh
lục, phân tích, đánh giá đa dạng các bậc taxon (lớp, họ, chi) của các loài cây
thuốc và các bài thuốc được đồng bào dân tộc ở khu vực nghiên cứu.
Vấn đề sử dụng cây thuốc: Đa dạng về công dụng chữa trị của các loài
cây thuốc. Một số bài thuốc chữa bệnh của các ông lang, bà mế.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp kế thừa
Dựa trên các công trình nghiên cứu đã được thực hiện và công bố trước
đây về thành phần thực vật, tài nguyên thực vật tại Khu rừng Mường Phăng,
Điện Biên cũng như một số tài liệu có liên quan sau:
·

Kế thừa các kết quả của các nghiên cứu khoa học, các công trình nghiên
cứu, bài báo, các thông tin có liên quan tới các loài cây ăn được nói chung
và các loài thực vật có phân bố tại Khu vực nghiên cứu.

·

Danh lục thực vật mới nhất đang được sử dụng tại Khu rừng Mường
Phăng, Điện Biên.

·

Thu thập các số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội liên quan đến
Khu rừng Mường Phăng, Điện Biên.



15

Sau khi thu thập đầy đủ các tài liệu liên quan, tiến hành thống kê, kiểm tra
và hiệu chỉnh lại toàn bộ thông tin một cách chính xác trên cơ sở các tại liệu
tham khảo chuyên ngành từ đó xác định giá trị thông tin kế thừa.
2.3.2. Điều tra thực địa theo tuyến
Dựa trên nền bản đồ địa hình, bản đồ hiện trạng rừng của Khu rừng Mường
Phăng, Điện Biên kết hợp đi thực địa để xác định các hướng tuyến điều tra.
Nguyên tắc lập tuyến: Tuyến điều tra phải đại diện, phải đảm bảo đi qua
tất cả các kiểu rừng.
Lựa chọn người dân đi cùng để dẫn đường, phải là người biết nhiều về
cây rừng, thường xuyên đi rừng. Lựa chọn người dẫn đường thuộc nhiều thành
phần dân tộc trong khu vực nghiên cứu để khai thác được kiến thức bản địa của
người dân trong phương thức thu hái và sử dụng cây rừng có giá trị làm thuốc.
Trong quá trình điều tra ngoại nghiệp tiến hành thu mẫu, ghi chép, chụp
ảnh sau đó giám định mẫu trong phòng tiêu bản.
Với những mẫu chưa biết tên hoặc mẫu quý hiếm ngoài thực địa tiến hành
xử lý mẫu, ghi chép lại những đặc điểm dễ nhận biết như: Đặc điểm vỏ cây, kích
thước cây nhất là đặc điểm màu sắc, mùi vị… sau đó chuyển đến Viện Sinh thái
và Tài nguyên Sinh vật Việt Nam để giám định mẫu.
Điều tra khảo sát sơ bộ sau đó ta tiến hành chọn tuyến điều tra. Tuyến
được chọn phải đảm bảo yêu cầu phải chạy qua các sinh cảnh đặc trưng cho khu
bảo tồn. Trên mỗi tuyến cắt ngang chọn các ô tiêu chuẩn là những điểm chốt đặc
trưng nhất để nghiên cứu đa dạng tài nguyên cây thuốc (Theo Nguyễn Nghĩa
Thìn, 1997).
Trên mỗi tuyến, tiến hành điều tra các loài cây thuốc của đồng bào dân tộc
sử dụng trong phạm vi 10 m mỗi bên. Mỗi loài lấy 5 - 6 tiêu bản.
- Các tuyến điều tra thực địa:

- Bản Phăng 1

- Bản Tân Bình
- Bản Phăng 2
- Bản Phăng 3


16

2.3.3. Thu thập số liệu, tài liệu
Tiến hành thu thập số liệu từ các nguồn thông tin đáng tin cây như các
báo cáo khoa học của khu bảo tồn, kỷ yếu, tạp chí khoa học, internet, ….
Sử dụng phương pháp phỏng vấn nhanh có sự tham gia của người dân
(PRA): Phỏng vấn các ông Lang, bà Mế, các cán bộ làm công tác quản lý tại khu
du lịch và cộng đồng dân cư địa phương thông qua bảng hỏi đã được xây dựng
sẵn. Để sưu tầm và phát hiện các bài thuốc, cây thuốc sử dụng theo kinh nghiệm
dân gian. Mỗi cây thuốc, bài thuốc nếu có mẫu thu và ghi chép các thông tin cần
thiết nhất công dụng, bộ phận sử dụng, cách sử dụng của cây.
Điều tra tình hình khai thác và sử dụng cây thuốc chính là phương pháp điều tra
nhanh về thị trường dược liệu. Mục đích chủ yếu là nắm những loài cây thuốc
đang có nhu cầu sử dụng và khối lượng sử dụng của mỗi loại hàng năm là bao
nhiêu. Căn cứ vào kết quả điều tra để giới thiệu cho khai thác và sử dụng.
Phương pháp chung để tiến hành điều tra là phương pháp phỏng vấn trực tiếp.
Đối tượng phỏng vấn bao gồm: những người thường xuyên đi khai thác
cây thuốc, người sử dụng cây thuốc làm dược liệu chữa bệnh. Để thu thập các
cây thuốc và bài thuốc dân tộc một cách tốt nhất, nên giải thích rõ mục đích
phỏng vấn và tạo niềm tin để họ cung cấp đầy đủ và chính xác mọi loại thông
tin.
- Các ông Lang bà mế đã phỏng vấn: - Ông Lường Văn Thành
- Bà Lò Thị Diên
- Bà Lò Thị Hiêm
2.3.4. Xử lý số liệu

Phương pháp chuyên gia: Dựa vào kinh nghiệm của các chuyên gia đặc
biệt là các vật đề như xác định tên khoa học các mẫu đã thu hái.
Phương pháp xử lý mẫu vật, chỉnh lý tên khoa học (theo Nguyễn Nghĩa
Thìn, 1997). Các tiêu bản tươi được thu thập ngoài thực địa tiếp tục xử lý trong
phòng thí nghiệm tại Phòng Thực vật, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật.


17

Các mẫu sau khi sấy khô được ngâm tẩm bằng dung dịch cồn chứa 0,3-0,5%
HgCl2 để diệt khuẩn và chống côn trùng phá hại. Các mẫu tiêu bản được sấy
khô, ép khẳng, trình bày và khâu trên giấy bìa cứng kích thứoc 28 cm x 42 cm.
Xác định tên khoa học, kiểm tra, chỉnh lý tên theo các tài liệu chính là các
tập Thực vật chí Việt Nam, Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam.
Xây dựng danh lục: Điều chỉnh khối lượng họ, chi theo hệ thống của bộ
Sách “Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam”. Danh lục được xây dựng theo
nguyên tắc sự tiến hóa của các ngành thực vật, các chi loài được xếp theo vần
ABC. Ngành Ngọc lan do khối lượng lớn nên chia thành 2 lớp Ngọc lan và lớp
Hành. Danh lục ngoài tên khoa học, tên Việt Nam của các loài còn có các thông
tin khác như dạng sống, công dụng, môi trường sống, bộ phận sử dụng làm
thuốc theo mẫu.
Đánh giá tính đa dạng của các loài cây thuốc, về tần số sử dụng các bộ
phận, về số lượng các bộ phận sử dụng làm thuốc, nhóm bệnh,...
Xác định các loài quí hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt: Trên cơ sở danh lục
thực vật, lập danh sách các loài quí hiếm ở khu vực nghiên cứu. Các loài được
xác định quí hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt dựa vào tiêu chí của công trình sau:
- Sách đỏ Việt Nam, 2007;
Các nhóm bệnh được phân chia theo tài liệu của Lê Trần Đức (1997) “Cây
thuốc Việt Nam trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu”. Chi tiết như sau:
- Nhóm 1: Bệnh ngoại cảm (gồm Cảm mạo phát sốt ớn lạnh, Nghẹt mũi, Cảm

cúm hơi sốt sợ lạnh, Đau mỏi, Cảm gió lạnh, Rét run, Cảm nóng rét nắng mưa
thời khí hỗn tạp, Cảm về mùa hè nôn đầy, Cảm cúm mùa hè sốt dai đau mình,
Cảm nắng hay sốt nóng đơn thuần, Nóng rét qua lại, Sốt rét cơn, Sốt dị ứng,
phát ngứa sưng phù, Bệnh ôn nhiệt sốt hè thu, Trúng gió méo mồm lệch mắt,
Trúng phong thấp hôn mê co cứng, Trùng phong hàn hôn mê quyết lạnh).
- Nhóm 2: Bệnh về hô hấp (Ngạt mũi, Sổ mũi, Hắt hơi, Viêm mũi dị ứng, Ho,
viêm họng, Ho đờm, Ho khan, Viêm phế quản, Viêm phổi, Sưng phổi, Hen phế
quản, Hen suyễn, Suyễn thở, Ho lao).


×