Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIEU LUAN TRIET sự kết hợp GIỮA PHÁT HUY nội lực và hội NHẬP KINH tế ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.95 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
A) LỜI NÓI ĐẦU.....................................................................................................2
B) NỘI DUNG..........................................................................................................2
1) NỘI DUNG CỦA NGUYÊN LÝ.........................................................................2
1.1) PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN..............2
1.2) Ý NGHĨA VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN........................................................3
2) NỘI LỰC KINH TẾ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ.................................................3
2.1) NỘI LỰC CỦA MỘT NỀN KINH TẾ..........................................................3
2.2) HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ:.................................................................5
3) MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA PHÁT HUY NỘI LỰC VỚI HỘI
NHẬP KINH TẾ.......................................................................................................6
3.1) YẾU TỐ CHỦ QUAN CỦA MỐI LIÊN HỆ NÀY.......................................6
3.2) HỘI NHẬP KINH TẾ LÀ MỘT TẤT YẾU KHÁCH QUAN.......................6
3.3) MỐI LIÊN HỆ GIỮA PHÁT HUY LỘI LỰC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
..................................................................................................................................7
4) SỰ KẾT HỢP GIỮA PHÁT HUY LỘI LỰC VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY.............................................................................................7
4.1) NHẬN ĐỊNH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA TRONG CÔNG CUỘC
PHÁT TRIỂN KINH TẾ..........................................................................................7
4.2) THAM GIA HỘI NHẬP KINH TẾ CỦA VIỆT NAM.....................................9
4.3) NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ CỦA
NƯỚC TA.................................................................................................................9
4.4) HẠN CHẾ CỦA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ ĐỐI VỚI NƯỚC TA
TRONG THỜI ĐIỂM NÀY...................................................................................11
C) KẾT LUẬN.......................................................................................................13
D) DANH MỤC TÀI LIỆU....................................................................................14

1


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC


A) LỜI NÓI ĐẦU
Nước ta chịu ảnh hưởng lâu ngày của cơ chế kế hoạch tâp trung quan liêu
bao cấp đã đưa mô hình chủ nghĩa xã hội nói chung và nền kinh tế nước ta rơi vào
tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trước tình hình đó, đường lối phát triển
của ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM được khẳng định trong văn kiện ĐẠI HỘI
IX là:“ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ..., chủ động hội nhập kinh tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững” (1)

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 xác định:“ gắn chặt nền kinh tế

độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế ” là một trong năm quan điểm phát
triển kinh tế ở nước ta.
Hướng đi này của Đảng ta là rất phù hợp với điều kiện và thực trạng nền
kinh tế nước ta hiện nay - một nền kinh tế đi lên từ tàn dư của một mô hình“ kinh
tế chỉ huy” hay mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Chúng
ta đã và đang quá độ nên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, xu hướng vận động và phát
triển là kinh tế hàng hóa. Trong hoàn cảnh thị trường quốc tế diễn ra vô cùng phức
tạp, đầy biến động và cạnh tranh gay gắt thì việc xây dựng một nền kinh tế độc
lập tự chủ là một điều rất cần thiết để kinh tế nước ta có thể tồn tại và hòa nhịp
cung bước đi của kinh tế thế giới. Và nền kinh tế độc lập sẽ là nền tảng, cơ sở
quan trọng cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong thời đại hiện nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là vấn
đề thời sự đối với hầu hết các nước. tính khách quan, phổ biến của nó bắt nguồn từ
yêu cầu của chính mỗi quốc gia, sự tác động qua lại để cùng nhau phát triển. Hội
2


nhập kinh tế sẽ đem laị những lợi ích nhất định cho các nước tham gia, nhưng
cũng có thể đưa nền kinh tế đó đến những kết quả khôn lường. Vấn đề trọng yếu
được đặt ra ở đây là, làm thế nào để đạt được kết quả như mong đợi từ quá trình

hội nhập kinh tế?. Nó có quan hệ thế nào với việc xây dựng và phát huy nội lực
nền kinh tế nói chung và nền kinh tế hiện nay của VIỆT NAM nói riêng. Đây cũng
chính là nội dung nghiên cứu trong bài tiểu luận này của em.
Do kinh nghiệm nghiên cứu còn chưa nhiều nên bài làm không tránh khỏi
những thiếu sót . Xin chân thành cảm ơn cô giáo đã hướng dẫn em hoàn thành bài
tiểu luận này .
B) NỘI DUNG
1) NỘI DUNG CỦA NGUYÊN LÝ
1.1) PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
Sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan là vô cùng phong phú, mà
phép biện chứng duy vật là sự phản ánh thế giới vô cùng vô tận đó. Trong đó
phép biện chứng duy vật có đề cập đến mối liên hệ phổ biến của các vật chất. Và
trong bài tiểu luận này em chỉ đề cập đến nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Nhà triết học duy tâm PALATON cho rằng:“ thế giới những thực thể tinh
thần tồn tại vĩnh viễn, bất biến là bản chất chân chính của mọi sự vật. Nhưng sự
vật mà ta cảm nhận được chỉ là hình bóng của những thực thể tinh thần mà thôi”
(9,tr 250). Quan điểm này đã không được thừa nhận. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng khẳng định rằng, giữa các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan
không cái nào tồn tại cô lập, biệt lập mà chúng là một thể thống nhất, gắn bó chặt
chẽ với nhau, vừa mâu thuẫn, vừa đối lập nhau. Nhưng lại quy định, ràng buộc, tác
động lẫn nhau. Mối liên hệ này diễn ra ở mọi sự vật hiện tượng trong thế giới. Đó
chính là tính phổ biến của hiện tượng.
Quan điểm biện chứng duy vật còn khẳng định tính khách quan và đa dạng
của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ đó là khách quan, là cái
vốn có của sự vật hiện tượng, cơ sở của nó là tính thống nhất vật chất thế giới.
Mối liên hệ đó không phải do một thế lực nào tạo ra và cũng không ai làm nó mất
đi. Tính đa dạng của mối liên hệ thể hiện ở chỗ; có mối liên hệ bên trong và mối
liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, có mối liên hệ chung mang
3



tính khái quát, và cũng có mối quan hệ riêng biệt của từng bộ phận, có mối liên hệ
tất yếu và mối liên hệ ngẫu nhiên…. Tuy nhiên quan điểm biện chứng duy vật
cũng thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại các mối liên hệ.
Trong tính đa dạng của các hình thức và các loại liên hệ tồn tại trong tự
nhiên , trong xã hội và tư duy con người, phép biện chứng duy vật tập trung
nghiên cứu mối liên hệ phổ biến - mối liên hệ chung nhất, phổ biến nhất của thế
giới khách quan, mà tính chất của nó thể hiện ở các mối liên hệ liên quan cụ thể.
Vì thế, ĂNGGHEN viết“ phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến”
[1, Tr 5].
1.2) Ý NGHĨA VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, giúp cho chúng ta
nhìn nhận thực tiễn một cách toàn diện hơn, cụ thể hơn. Và cũng từ đó để chúng ta
hiểu rằng khi nghiên cứu, xem xét sự vật, hiện tượng hay nhận thức giải quyết một
vấn đề gì thì ta cũng phải xem xét nó trong mối quan hệ, và phải phân biệt được vị
trí, vai trò của các mối liên hệ. có vậy thì ta mới hiểu ra được bản chất của sự vật
hiện tượng trong thế giới.
2) NỘI LỰC KINH TẾ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ
2.1) NỘI LỰC CỦA MỘT NỀN KINH TẾ
2.1.1) NỘI DUNG CỦA VIỆC PHÁT HUY NỘI LỰC KINH TẾ
Nội lực của một nền kinh tế hay còn gọi là sức mạnh kinh tế của một quốc
gia , chính là sự độc lập tự chủ về kinh tế của chính quốc gia đó. Vậy bản chất của
nội lực kinh tế quốc gia là một nền kinh tế độc lập, tự chủ - một nền kinh tế không
bị lệ thuộc, phụ thuộc vào các nước khác, người khác hoặc một tổ chức kinh tế nào
đó về đường lối chính sách phát triển, không bị bất cứ một thế lực nào áp đặt về
kinh tế, tài chính, thương mại…. Và một nền kinh tế độc lập tự chủ còn là nền
kinh tế không bị khống chế, bị làm tổn hại đến chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ
bản của dân tộc. ĐẢNG ta đã đưa ra một khái niệm rất xác đáng về một nền kinh
tế độc lập“ nền kinh tế độc lập, tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của thị
trường, trước sự khủng hoảng của nền kinh tế - tài chính bên ngoài, nó vẫn có khả

năng duy trì sự ổn định và phát triển; trước sự bao vây, cô lập và chống phá của

4


các thế lực thù địch, nó vẫn có khả năng đứng vững, không bị sụp đổ, không bị rối
loạn” [7, Tr 109].
Khi đã có một nền kinh tế độc lập tự chủ, tức là quốc gia đó dã có một
nguồn lực kinh tế, một sức mạnh kinh tế nội lực. Xong để duy trì giữ vững được
nó thì bản thân mỗi quốc gia đó cần phải áp dụng sức mạnh đó vào thực tiễn, phát
huy nó. Đó là nội dung của vấn đề phát huy nội lực kinh tế.
2.1.2) MỘT SỐ NÉT VỀ ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN NỘI LỰC NỀN KINH TẾ
NƯỚC TA:
2.1.2.2) PHƯƠNG CHÂM PHÁT HUY SỨC MẠNH KINH TẾ CỦA NƯỚC TA:
Trước sự sụp đổ về đường lối kinh tế XHCN ở Liên Xô và hệ thống XHCN
trên toàn thế giới. Để bước tiếp trên con đường XHCN và để xây dựng cho mình
một nền kinh tế độc lập tự chủ. Đảng và Nhà nước ta đã từng bước vạch ra hướng
đi cho mình.
Thứ nhất về cơ cấu nền kinh tế. Khi bước vào thời ký quá độ tiến lên CNXH,
điểm xuất phát về lực lượng sản xuất, về phân công lao động xã hội, năng suất lao
động và trình độ phát triển kinh tế rất thấp không đồng đều giữa các xí nghiệp,
giữa các ngành, các vùng… trong nền kinh tế. Bên cạnh đó xã hội cũ không ít các
thành phần kinh tế mà không thể bỗng chốc có thể cải biến ngay được. Hơn nữa
sau nhiều năm cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới, đã làm xuất hiện thêm
nhiều thành phần kinh tế mới như kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế tư
bản nhà nước… Nhìn chung số lượng thành phần kinh tế ở nước ta ngày một
nhiều hơn. Nhìn vào tình hình đó để phát huy tốt lợi thế này, Đảng ta đã khẳng
định rằng:“ Chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có
tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH và thể hiện tinh thần dân chủ kinh tế
đảm bảo cho mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật” ( Nghị quyết Hội nghị

Ban chấp hành Trung Ương Đảng cộng sản Viêt Nam lần thứ 6 khóa VI).
Đồng thời để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho đất nước, chúng ta đã và
đang từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đưa nước ta từ một nước sản
xuất nhỏ, công nghiệp lạc hậu, công nghệ và năng suất lao động thấp thành một
nước có cơ cấu công - nông nghiệp và dịch vụ hiện đại, khoa học và công nghệ
5


tiên tiến, năng suất lao động cao trong các ngành kinh tế quốc dân. Đảng ta cho
rằng:“ Phát huy lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước… là nhiệm vụ trọng
tâm” ( Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH).
Ở nước ta nền kinh tế hàng hóa hay nền kinh tế thị trường đã và đang trên đà
phát triển. Nó đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế hàng hóa kém phát
triển mang nặng tính tự cấp, tự túc sang thành nền kinh tế hàng hóa phát triển từ
thấp đến cao có thể nói nó đang đi theo đúng hướng mà Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VII đã xác định: “ Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước”
Với những phương hướng, đường lối mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đang
từng bước đưa nền kinh tế nước ta đi lên, theo kịp tiến độ của nền kinh tế thế giới.
Chúng ta cũng đã phần nào phát huy khả năng kinh tế của mình để góp phần xây
dựng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. nhằm mục đích xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ trước sự biến động của nền kinh tế thế giới.
2.2) HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ:
2.2.1) NỘI DUNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ:
Chúng ta đã từng biết đến cụm từ:“ Toàn cầu hóa kinh tế” vậy thì hội nhập kinh tế
quốc tế cũng mang ý nghĩa tương tự.“Có thể hiểu đó là quá trình phát triển kinh tế
của một quốc gia trên thế giới vượt khỏi giới hạn quốc gia đó, hướng tới phạm vi
các nước cùng khu vực hoặc phạm vi toàn thế giới. Trên cơ sở lực lượng sản xuất
cũng như trình độ khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ và phân công quốc tế

ngày càng sâu rộng, tính chất xã hội hóa của xã hội ngày càng tăng. Hội nhập kinh
tế quốc tế với trọng tâm là mở cửa nền kinh tế, tham dự phân công hợp tác quốc
tế, tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước và quốc tế, mở rộng
không gian môi trường để phát triển, chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể được
trong quan hệ kinh tế quốc tế”. ( Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Nguyễn Thúy
Anh, Tạp chí Cộng sản, số 12 (tháng 6-2001) Tr 19).
2.2.2) LỢI ÍCH VÀ HẠN CHẾ CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ.
2.2.2.1) LỢI ÍCH:
6


Ngày nay , xu thế toàn cầu hóa kinh tế; hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy
nền kinh tế thế giới phát triển với tốc độ và quy mô rất lớn mạnh, lợi ích mà nó
đem lại cho mỗi quốc gia là một thực tế mà mỗi chúng ta đều đã khẳng định được.
Quá trình hội nhập kinh tế đã khiến cho nền kinh tế giữa các nước phụ thuộc
vào nhau chặt chẽ hơn, “ có thể nói thị trường của nền kinh tế thế giới vừa là đầu
vào, vừa là đầu ra đối với hoạt động kinh tế của mỗi nước. Điều đó vừa làm cho
các nước phụ thuộc vào nhau và lợi dụng lẫn nhau để phát huy thế mạnh, khắc
phục thứ yếu của mình, sản xuất sản phẩm mình có ưu thế, và mua sản phẩm
không sản xuất được hoặc sản xuất sẽ rất đắt” [54, Tr 129].
2.2.2.2) HẠN CHẾ:
Hội nhập quốc tế là quá trình mở rộng thị trường, giao lưu buôn bán, trao đổi
công nghệ, nó đã mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia. Nhưng bên cạnh đó nó
vẫn còn những hạn chế.
Khi tham gia vào quá trình toàn cầu hóa nghĩa là các nước đã bước chân vào
một cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt. Mà trong cuộc cạnh tranh đó nếu đất nước
nào không nắm bắt kịp hoặc còn non nớt về khả năng kinh tế, chính trị thì đất
nước đó không những không giữ được nền kinh tế của đất nước mình, mà còn làm
cho nó đi xuống. Tổng kết của UNDP( tổ chức hỗ trợ phát triển liên hợp quốc) cho
rằng từ khi diễn ra quá trình toàn cầu hóa đến nay trên thế giới có 10 nước giầu

lên, nhưng có 130 nước nghèo đi, trong đó có 60 nước GDP bình quân đầu người
trước khi tham gia toàn cầu hóa. Tổng cước những nước vay nợ để phát triển kinh
tế cho thấy, chưa đến 10% số nước có khả năng trả nợ, số còn lại trở thành con nợ
lưu cữu. [5, Tr 25].
Qua những lợi ích và hạn chế của quá trình hội nhập kinh tế, cho ta thấy rằng
để có thể phát triển được nền kinh tế thì ta phải điều tiết tốt giữa quá trình phát
huy nội lực và hội nhập kinh tế quốc tế. Vậy mối quan hệ này như thế nào?
3) MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA PHÁT HUY NỘI LỰC VỚI HỘI
NHẬP KINH TẾ.
Phát huy nội lực và hội nhập kinh tế là hai hướng đi khác nhau của một quốc gia,
xong nó lai có mối liên hệ chặt chẽ và hỗ trợ cho nhau.
7


3.1) YẾU TỐ CHỦ QUAN CỦA MỐI LIÊN HỆ NÀY
Trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế, tất cả các nước tham gia hội nhập kinh tế
đều xuất phát từ mục tiêu bên trong, phục vụ cho yêu cầu, lợi ích quốc gia. Toàn
cầu hóa, tự do hóa làm cho nền kinh tế phụ thuộc, đan xen vào nhau, tuy nhiên sự
ràng buộc đó không mang tính thuần túy, và điều kiên, mà chính là vì phải chia sẻ
lợi ích một cách hợp pháp, hợp lý, nhằm mục đích thu được nhiều lợi ích cho dân
tộc mình, đất nước mình, giữ được tính độc lập của nền kinh tế qua mối quan hệ
ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau – một sự ràng buộc đa phương về lợi ích, nhưng
những lợi ích do hội nhập kinh tế đem lại không phải tự nhiên mà có, đó luôn là
những lợi ích ở dạng tiềm tàng và nó có thành hiện thực hay không, và có được ở
mức độ nào lại phụ thuộc vào điều cơ bản nhất là nội lực của nền kinh tế đó
Nhưng tính chủ quan của quá trình hội nhập kinh tế nó đang diễn ra, còn có
tính chủ quan bởi chủ nghĩa tư bản, nhất là các nước tư bản phát triển đang chi
phối quá trình này, lợi dụng, thúc đẩy, định hướng nó theo mục đích chủ ý của
mình. “Đối với Mỹ, toàn cầu hóa chỉ được chấp nhận và có thể chấp nhận được
khi nó phục vụ sức mạnh của Mỹ. Toàn cầu hóa sẽ không được chấp nhận nữa khi

nó có ý áp đạt lên trật tự pháp lý Mỹ một trật tự khác cao hơn” [5, Tr 20]. “Mỹ
muốn mở rộng tự do hóa thương mại trên thế giới và làm cho xu hướng trở nên
không thể đảo ngược, nhưng họ lại đòi hỏi chu mình rất nhiều ngoại tệ: [6, Tr
124].
Bên cạnh những yêu cầu chủ quan còn có những giải thích khách quan đẻ dẫn
đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2) HỘI NHẬP KINH TẾ LÀ MỘT TẤT YẾU KHÁCH QUAN
Trong thời đại này, nở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là một vấn đề
cập nhập đối với hầu hết các nước.
Tính khách quan và phổ biến của nó bắt nguồn từ yêu cầu của quy luật về sự
phân công và hợp tác giữa các nước, từ sự phân bố tài nguyên thiên nhiên không
đồng đều, và trình độ công nghiệp giữa các nước này với nước khác. “Sự tác động
mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ làm cho lực lượng sản xuất
vượt khỏi khuân khổ quốc gia để trở thành quốc tế [4, Tr 218]. Đời sống thì luôn
phát triển vì vậy nhu cầu tiêu dùng, sinh hoạt của mỗi cá nhân cũng phong phú
8


hơn, cao hơn. Mà để đáp ứng được nhu cầu này thì lại đòi hỏi đến thị trường thế
giới, chứ thị trường quốc gia thì chưa đủ.
3.3) MỐI LIÊN HỆ GIỮA PHÁT HUY LỘI LỰC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Trong thời đại hiện nay, sức mạnh của một nền kinh tế không còn được hiểu là
một nên kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, mà được đặt trong mối liên hệ biện
chứng với mở cửa, hội nhập, phải tham gia giao lưu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế
trên cơ sở phát huy tối đa nội lực và lợi thế so sánh của quốc gia. Nếu ta kết hợp
và nắm bắt được những yếu tố bên trong, bên ngoài, để phát huy được tiềm năng
của mình trong quá trình hội nhập thì việc hội nhập kinh tế sẽ đem lại cho ta
những lợi ích để phát triển kinh tế. Còn nếu ta chỉ thụ động với vấn đề hội nhập
kinh tế thì những gì ta nhận được chỉ là sự suy giảm của kinh tế. Nói như vậy có
nghĩa là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, luôn cải thiện, phát huy nó sẽ là

điều kiện đảm bảo cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, còn hội nhập kinh tế
quốc tế là cơ hội, điều kiện để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
4) SỰ KẾT HỢP GIỮA PHÁT HUY LỘI LỰC VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
4.1) NHẬN ĐỊNH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA TRONG CÔNG CUỘC
PHÁT TRIỂN KINH TẾ.
Đứng trước tình hình của đất nước và sự nhìn nhận về tình hình quốc tế. Trong
hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng (Khóa VIII) và văn kiện đại hội VIII xác định
“Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ đối ngoại”, “… Kiên trì đường lối kinh tế đối ngoại độc lập, tự chủ, mở
rộng, …”. Như vậy Đảng ta đã đưa ra một định hướng phát triển kinh tế phù hợp,
và đúng với quan hệ vốn có của nó. Việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối chính trị độc lập tự chủ, mà còn đòi
hỏi của thực tiễn, nhằm đảm bảo độc lập tự chủ vững chắc về chính trị, đảm bảo
phát triển bền vững có hiệu quả cho chính ngay nền kinh tế, cho việc mở cửa, hội
nhập kinh tế quốc tế.
Khi nhu cầu của đất nước ngày càng phát triển, và việc toàn cầu hóa thế giới
diễn ra vô cùng sôi nổi. Đảng ta đã nhận thấy không thể ngồi yên chờ đợi, thụ
động chịu tác động của toàn cầu hóa kinh tế mà đã đưa ra chiến lược, các chính
sách phát triển nhằm nâng cao năng lực nội sinh, vừa tham gia toàn cầu hóa, vừa
9


để chiếm giữ vị trí, lợi thế, tự bảo vệ nền kinh tế của mình, khuếch trương ưu thế
và những giá trị của mình đến mức cao nhất.
Để đảm bảo độc lập tự chủ về kinh tế. Đảng đã chỉ rõ hai điều kiện là phải có
đường lối, chính sách độc lập tự chủ và có thực lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng
được nên kinh tế độc lập tự chủ thì trước hết chúng ta phải giữ được độc lập tự chủ
về đường lối chính sách kinh tế. Tức là chúng ta đã tự mình lựa chọn đường lối
phát triển, tự mình xác định chủ chương, chính sách và mô hình kinh tế, không bị

thụ động và lệ thuộc bên ngoài, không chịu sức ép của bất kỳ ai vì mục đích không
lành mạnh của họ “Xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ là xây dựng được
nền kinh tế có thực lực đủ mạnh”. Tức là có mức tích lũy ngày càng cao từ nội bộ
nền kinh tế, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh, kết cấu hạ tầng ngày càng
hiện đại và có một số ngành công nghiệp nặng then chốt, có những lực nội sinh về
khoa học và công nghệ, giữ vững ổn đinh kinh tế, tài chính vĩ mô, đảm bảo an
ninh lương thực, an toan năng lượng tài chính môi trường.
Đó là đường lối xây dựng kinh tế độc lập của nhiều nước mà cụ thể là của nước
ta trong thời kỳ này. Vậy nếu ta xây dựng được nền kinh tế độc lập, tự chủ là đảm
bảo tăng trưởng kinh tế, phát triển ổn định, có được năng lực cạnh tranh, có được
nền kinh tế có khả năng ứng phó trước biến động kinh tế, chính trị, xã hội từ bên
ngoài.
Một bài học kinh nghiệm sâu sắc đối với một số nước châu á nói chung và
nước ta nói riêng rút ra sau khi cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ 1997 – 1998,
là sự phụ thuộc của nền kinh tế về vốn, công nghệ, thị trường nước ngoài và sự
đầu cơ trục lợi của những nhà kinh doanh tiền tệ qua thị trường chứng khoán và
các luồng vốn ngắn hạn. Các nền kinh tế này vượt qua giai đoạn khó khăn, phục
hồi lại đất nước, theo các nhà phân tích kinh tế nước ngoài là do nền kinh tế Mỹ
mấy năm qua có sự tăng trưởng khá. Tuy nhiên hiện nay nền kinh tế Mỹ đang
ngập trong những khó khăn, nhất là sau ngày 11-09-2001 vừa qua người ta lại dự
đoán rằng nền kinh tế một số nước châu á khó bề vươn dậy vì đã dựa quá nhiều
vào xuất khẩu, không tranh thủ thời cớ tiến hành những cải cách trong nước nhằm
đảm bảo sự ổn định trong nền kinh tế của mình. Rồi nợ nần và những hậu quả
10


nghiêm trọng như: bất ổn chính trị, lật đổ, đảo chính, chiến tranh giữa các phe
phái… là minh chứng cho thấy chỉ biết sống dựa vào bên ngoài phụ thuộc hẳn vào
bên ngoài, thì sẽ chẳng bao giờ phát triển được kinh tế đất nước.
Thực tế cho thấy, trong công cuộc khủng hoảng tài chính –tiền tệ khu vực vừa qua,

nhưng nền kinh tế sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước, quốc tế đều có
sức chịu đựng tốt hơn và hạn chế tối đa được tác động tiêu cực của khủng hoảng.
Và, không nhất thiết phải có một nên kinh tế lớn mới đạt được trình độ cạnh tranh
cao, mà một nền kinh tế nhỏ nếu biết khai thác, vận dụng, phát huy tốt các lợi thế
so sánh thì vẫn có thể đạt được sực cạnh tranh cao. Đây là một yếu tố mà nhà nước
ta cũng đang chú ý phát huy, đặc biệt là về yếu tố con người - nguồn nhân lực, sự
phong phú về tài nguyên thiên nhiên, sự tiến bộ của khoa học – công nghệ và năng
lực quản lý để nhằm tăng sức canh tranh cho đất nước.
Trong thời đại ngày nay, lợi thế và sức mạnh cạnh tranh kinh tế cũng như sự
phát triển của một quốc gia phần lớn tùy thuộc vào khả năng nắm bắt, vận dụng,
phát triển khoa học và công nghệ đặc biệt nhưng công nghệ hiện đại là một trong
những yếu tố mang tính tất yếu, mang tính quyết định, giúp cho việc giành ngôi
thứ và vị trí trong nền kinh tế toàn cầu. Vì thế đã xuất hiện tình trang phụ thuộc,
yếu thế do thiếu công nghệ hiện đại của riêng mình. Mà nước ta là một trong số
nhưng nước bị thiếu vế công nghệ hiện đại của riêng mình. Đây cũng là một cơ
hội cho các nước công nghệ cao sử dụng công nghệ hiện đại làm công cụ để tăng
thêm và tập trung quyền lực cho họ, tạo thêm ưu thế mặc cả, một lợi thế cạnh
tranh cho các siêu cường.
Như vây, chỉ có thể xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ mới bảo đảm nền kinh
tế phát triển ổn định, bền vững, tạo cho nền kinh tế nước ta thế và lực trên trường
quốc tế, để có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Quan điểm nhất quán mà Đảng ta đưa ra là: Vừa phát triển mạnh mẽ nội lực,
vừa đẩy manh quan hệ hợp tác bên ngoài, tham gia quá trình toàn cầu hóa kinh tế,
hội nhập kinh tế quốc tế. Đến đại hội Đảng IX, Đảng ta một lần nữa khẳng định và
nhấn mạnh hơn là phải chủ động hội nhập kinh tế. Hội nhập kinh tế không phải là
mục tiêu mà là phương tiện để lợi dụng các nguồn lực bên ngoài, nuôi dưỡng phát
11


huy nguôn lực trong nước, xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ đáp ứng yêu

cầu của bản thân nước ta trong quá trình phát triển theo định hướng đã lựa chọn,
đồng thời qua đó phát huy vai trò của nước ta trong trường quốc tế.
Vậy bước đi, kết quả và hạn chế mà đất nước ta gặp phải trên con đường hội
nhập quốc tế.
4.2) THAM GIA HỘI NHẬP KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
Quá trình gia nhập thị trường quốc tế của nước ta thực tế chỉ diễn ra mạnh mẽ
trong mấy năm trở lại đây. Mà có lẽ cái mốc của quá trình này là từ ngày
25/7/1995. Khi nước ta trở thành thành viên của ASEAN và từ ngày 1/1/1996 ta
bắt đâu thi hành nghĩa vụ thành viên ASEAN bằng cách chính thức tham gia vào
khu vực mâu dịch tự do ASEAN(AFTA) và hiệp định vế thuế quan ưu đãi có hiệu
lực chung của ASEAN(AFTA/CEPT).15/9/1996 ta gửi đơn gia nhập diễn đàn hợp
tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương(APEC) và 11/1993 đã trở thành viên chính
thức của tổ chức này, một tổ chức hiện có 21 thành viên. Và giờ đây chúng ta gia
nhập vào tổ chức thương mại quốc tế WTO. Có thể nói quá trinh hội nhập của
nước ta diễn ra khá thuận lợi, với mục tiêu là phát triển bền vững thông qua quá
trình thúc đẩy mở cửa và thuận lợi hóa thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế - kĩ
thuật theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tự nguyện, công khai và không phân
biệt đối xử giữa các nước.
Trong quá trinh hội nhập đó nước ta đã có được những kết quả như mong muốn
nhưng cung đã găp phải rất nhiều hạn chế, khó khăn
4.3) NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ CỦA
NƯỚC TA
Chúng ta dã làm thất bại chính sách bao vây cấm vận, cô lập nước ta của các
thế lực thù địch, tạo dựng được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.
Tínhcho đến nayta đã ký 86 hiệpddinhjsong phương , 46 hiệp định khuyến khích
và bảo hộ đầu tư ,có quan hệ thương mại với trên 160 nước trên thế giới .
Không những vây, chúng ta còn nhanh chóng mở rộng xuất nhập khẩu, thúc
đẩy sản xuất trong nước phát triển, tạo thêm việc làm, phát triển ngân sách, cụ thể:
Mức tăng trưởng kinh tế cao: tống sản phẩm trong nước (GDP) trong kỳ 1991 –

12


2000 đã tăng bình quân hàng năm là 7.4%, theo đó tổng giá trị GDP đạt gấp đôi
năm 1990, GDP đầu người tăng 1.8 lần.
Nông nghiệp tăng 5.4%, thủy sản răng 9.1%, lâm nghiệp tăng 2.1%. Các công
nghề chế biến đã có tốc độ tăng trưởng khá và đã chiếm tới 60.6%giá trị toàn
ngành công nghiệp năm 1999.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã tăng lên đáng kể. tính đến quý I năm
1999 đã có 2626 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 35.8
tỷ USD, nếu tính các vốn bổ xung là 40.3 tỷ USD. Cho đến nay thì con số đó đã
tăng lên là 42 tỷ USD vốn đầu tư, với trên 3000 dự án,đã thực hiện khoảng 21 tỷ
USD trong số đó. Nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài giữ một vị trí quan trọng
trong nền kinh tế nước ta: gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% gu\ía trị sản xuất công
nghiệp, 20% xuất khẩu, giải quyết việc làm cho khoảng 40 vạn lao động trực tiếp
và hàng trục vạn lao động gián tiếp.
Có cơ cấu kinh tế cũng đã có bước chuyển biến tuchs cực, tỷ trọng nông, lâm,
ngư nghiệp trong GDP đã giảm từ 38.7% năm 1990 xuống còn 25.4% năm 1999,
công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 22.6% lên 34.9% năm 1999, dịch vụ từ 35.7%
đến 40.1%.
Tranh thủ nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn, đồng thời
giảm đáng kể nợ nước ngoài cho đến nay, các nhà tài trợ đã cam kết dành cho
nước ta gần 20 tỷ USD. Bên cạnh đó, thành tựu về sự tiếp thu khoa học, công
nghệ, kỹ năng quản lý đã góp phần rất lớn giúp chúng ta đào tạo được một đội ngũ
các bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động, sáng tạo quá trình sản xuất được
cải tiến đáng kể. Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế
vào môi trường cạnh tranh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh.
Tuy đây chỉ là kết quả bước đầu của quá trình hội nhập kinh tế nhưng cũng đã
cho ta thấy được tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế với việc xây dựng

nền kinh tế nước nhà. Nhưng không vì thấy kết quả đó mà Đảng ta chủ quan hội
nhập kinh tế thật nhanh, thật nhiều. Chúng ta luôn đi và thực hiện theo đường lối
chủ chương phát triển kinh tế của Đảng: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
13


khu vực trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN, chủ quyền
quốc gia và bản sắc dân tộc, bình đẳng cùng có lợi, vừa hợp tác vừa đấu tranh, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trong hội nhập, đề cao cảnh giác
trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Và Đảng cũng chỉ rõ nội
dung chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế mà nước ta cần và có thể tham gia từng
bước là mở của thị trường về thương mại, đầu tư và dịch vụ” [7, Tr 122]. Qua đây
ta thấy tư tưởng chủ động hội nhập mà Đảng đưa ra hàm chứa không chỉ phương
châm của hội nhập kinh tế quốc tế mà còn bao hàm cả nội dung công việc cần làm
để có thể tiếp tục trên con đường hội nhập. Tinh thần chủ động ở đây còn thể hiện
cả sự tự tin, đường đi nước bước phù hợp, không quá chậm chạp nhưng cũng
không quá chần chừ bỏ qua cơ hội, tích cực và bản lĩnh, thận trọng và quyết đoán.
Để có được phương châm đúng đắn này là do Đảng ta luôn nhìn nhận ta mặt trái
của vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế đem lại.
4.4) HẠN CHẾ CỦA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ ĐỐI VỚI NƯỚC TA
TRONG THỜI ĐIỂM NÀY
Hội nhập kinh tế là một xu thế khách quan, nó đem lại cho nền kinh tế không ít
những lợi ích, xong nó cũng đang đưa nhân loại đứng trước những vấn đề mang
tính toàn cầu. nó đặt những quốc gia, các nhóm, khu vực các nước trước những
thách thức gay gắt, những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích…, công bằng mà nói,
sức mạnh kinh tế và kỹ thuật đã và đang trong tay các nước thuộc khối Bắc Mỹ,
cộng đồng kinh tế châu âu (FEC), Nhật Bản và gần đây là các nước công nghiệp
mới (NIC). Họ luôn luôn tìm cách dùng những sức mạnh vốn có của mình để chi
phối, thao túng thị trường thế giới, áp đặt điều kiện với các nước chậm phát triển
thậm chí họ sẵn sàng dùng những biện pháp thô bạo như bao vây, cấm vận, trừng

phạt, làm thiệt hại lợi ích của các nước đang phát triển và chậm phát triển.
Nước ta là một trong những nước có nền kinh tế đang phát triển. Khi gia nhập
vào thị trường quốc tế, chúng ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thách thức.
Trong tiến rình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, các cấp các ngành còn
chưa nhận thức đầy đủ những cơ hội và thách thức hội nhập và cũng chưa thực sự
nắm vững để có khả năng chủ động nắm bắt quá trình hội nhập. Các doanh nghiệp
nhỏ và vừa còn ít hiểu biết về lộ trình và yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, còn
14


trông chờ vào sự bảo hộ của nhà nước. Hệ thống pháp luật và chính sách quản lý
kinh tế chưa đồng bộ, còn thay đổi chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Chính sách
điều chỉnh cơ câu kinh tế thiếu đồng bộ và chưa phù hợp với điều kiện toan cầu
hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Năng lực canh tranh của các doanh nghiệp còn yếu,
chính sách vĩ mô chưa được động lực khuyến khích các doanh nghiệp phát huy
tính cạnh tranh. Thêm vào đó năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập còn
yếu. Thực hiện quá trình hội nhập còn bất cập, chưa có chiến lược tổng thể cho hội
nhập kinh tế cho cả giai đoạn dài với các lộ trình mở cửa trong từng lĩnh vưc cụ
thể
Riêng với các nhà sản xuất, họ sẽ phải đối mặt nhiều hơn với các vụ kiện bán
phá giá của nước ngoài đối với sản phẩm xuất khẩu của mình, do đó phải xây
dựng kế hoạch phòng bị. Trong tạp chí kinh tế, phóng viên Phan Minh Ngọc đã
nhận định: ”Gia nhập WTO không có nghĩa là sẽ giảm được rủi ro vướng vào
tranh chấp thương mại với các đối tác, ít nhất trong vòng 12 – 15 năm là thời gian
Việt Nam bị coi là nền kinh tế phi thị trường và dễ bị các nước đối tác tận dụng để
áp đặt biện pháp chống phá và các biện pháp tự vệ đặc biệt cũng như tự vệ từng
loại hàng hóa”. Khi gia nhập vào thị trường thương mại quốc tế (WTO) buộc các
nhà sản xuất Việt Nam phải nâng cấp sản phẩm của mình trên bậc thang giá trị
thặng dư và đa dạng hóa thị trường của họ.
Nước ta tuy là một nước dân số trẻ, lực lượng lao dộng dồi dào nhưng trình độ

và khả năng tiếp cận công nghệ sản xuất hiên đại của họ lại không cao. Đội ngũ
lao động với trình độ chuyên môn hóa còn kém. Điều này sẽ dẫn đến sự hạn chế
về chất lượng sản phẩm hàng hóa. Trong khi, việc gia nhập thị trường quốc tế lại
đòi hỏi công viêc tuân thủ các tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế như tiêu chuẩn ISO mà
vẫn duy trì được tính cạnh tranh của sản phẩm. Cùng với việc thi hành các tiêu
chuẩn quốc tế thường có nghĩa là sẽ rất tốn kém cho quá trình sản xuất (đôi khi đủ
lớn để làm mất đi lợi thế của lao động giá rẻ tại Việt Nam). Một số nước nhập
khẩu có thể sử dụng các tiêu chuẩn này làm hàng rào phi thuế quan để bảo vệ
ngành công nghiệp trong nước của họ. Đặc biệt trường hợp của rào cản công nghệ
(TBT) hay còn gọi là“ tiêu chuẩn xanh” theo đó mỗi nước nhập khẩu được phép
15


có tiêu chuẩn và quy chế riêng và theo đuổi các” biện pháp cần thiết” để áp đặt
chúng, cổ phần giao dịch để áp dụng ngững tiêu chuẩn quốc gia này thậm chí còn
cao hơn tiêu chuẩn quốc tế.
Như vậy, qua những khó khăn, thử thách đó, đã cho ta thấy rằng để chủ động
hội nhập kinh tế, thì trước hết chúng ta phải chủ động tìm ra lối đi và giải thoát
cho riêng mình, chúng ta chỉ có được những gì chúng ta mong muốn từ quá trình
hội nhập kinh tế khi chúng ta xây dựng và phát huy tốt tiềm năng, sức mạnh kinh
tế của chính mình. Nếu không có một nền kinh tế độc lập tự chủ thì khi ra nhập
kinh tế , chúng ta sẽ trở thành “ miếng mồi” để các nước khác xâu xé, lợi dụng.
Ngược lại khi đã xây dựng được cho mình một nền kinh tế có sức cạnh tranh, có
một thế lực riêng hay còn gọi là một nền kinh tế độc lập thì quá trình hội nhập
kinh tế sẽ là một “đòn bẩy” để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trước thực tế đó
Đảng và nhà nước ta đã đề ra những biện pháp cụ thể cho quá trình hội nhập kinh
tế như sau :
Nâng cao nhận thức về hội nhập kinh tế của Việt Nam , chống tư tưởng ỷ lại,
trông chờ vào nhà nước
Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bằng cách , tăng cường đổi mới

phương hướng vào xuất – nhập khẩu , đầu tư thiết bị công nghệ tiên tiến , khai
thác các nghành lợi thế trước mắt và lâu dài , tăng cường cải cách hành chính
Đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nầng cao chất
lượng và khả năng cạnh tranh đi đôi với việc giải quyết việc làm và thay đổi nghề
lao động
Coi trọng thị trường trong nước đi đôi với mở rộng thị trường xuất –nhập
khẩu , đẩy mạnh và phát triển thương mại dịch vụ
Xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế , để các ngành , các
cấp và các nhà doanh nghiệp nhìn nhận rõ hơn về hội nhập
Hoàn thiện , nâng cao hiệu quả của hệ thống văn bản pháp luật phục vụ cho
việc quản lý , và tham gia hội nhập kinh tế quốc tế

16


Tập trung đàm phán WTO để có thể gia nhập càng sớm càng tốt , chuẩn bị sẵn
tinh thần dể đối mặt với các thách thức mở cửa thị trường , để các ngành kinh tế
phải tự vươn lên không trông chờ vào sự bảo hộ của nhà nước
Đào tạo nguồn nhân lực cho tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế.
C) KẾT LUẬN
Thế giới mà ta đang sống có vô vàn những sự vật, hiện tượng. Nó chính là thực
thể cấu tạo nên thế giới, “ dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song
chúng chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất”.[9, Tr
209]. Có lẽ chính nhờ vào cơ sở đó mà chủ nghĩa duy vật đã khẳng định rằng mọi
sự vật hiện tượng luôn có mối quan hệ qua lại khăng khít. Vì vậy nguyên lý mối
quan hệ phổ biến trở thành nguyên lý cơ bản, nền tảng của phép biện chứng duy
vật.
Do đó, việc vận dụng nguyên lý cơ bản này để phân tích một nền kinh tế là một
việc đúng đắn. Và Đảng ta cũng đã đưa ra những chủ trương, đường lối về kinh tế
dựa trên nguyên lý này. Vì vậy mà đã giup chúng ta không những hiểu rõ chủ

trương, đường lối. Đúng đắn mà Đảng đã đưa ra.
Đứng trước một nền kinh tế với vô vàn khó khăn, sự sụp đổ của CNXH trên thế
giới, những tàn dư của chế độ cũ, tàn dư của chiến tranh…. Đảng ta đã vận dụng
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong việc phân tích mối liên hệ giữa phát huy
nội lực để xây dựng một nền độc lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế. Thông
qua việc phân tích mối liên hệ bên trong, bên ngoài, từ đó Đảng ta đã đưa ra một
nhận định là:” Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng
nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước tư bản phát triển và các tập
đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có
mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vưa có đấu tranh” [7, Tr 21]. Đây
là một nhận định vô cùng quan trọng trong việc nhìn nhận về vấn đề hội nhập kinh
tế của Đảng và nhà nước ta.
Qua những gì phân tích chung ta có thể khẳng định một lần nữa: giữa phát huy
nội lực và hội nhập kinh tế quốc tế có mối quan hệ biện chứng với nhau, chỉ có thể
phát huy được sức mạnh mà mình đang có thì ta mới xây dựng được một nền kinh
17


tế độc lâp tự chủ. Đó chính là cơ sở về thực lực chủ động hội nhập kinh tế trong
quy mô một nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp thì nền kinh tế của chúng ta
cũng không thể đủ mạnh để có thể đáp ứng nhu cầu của chính chung ta. Mà chỉ có
hội nhập kinh tế quốc tế chung ta mới có thể phát huy tốt sức mạnh của nội lực, và
bổ sung, sửa chữa được những thiếu hụt, những khuyết điểm vẫn đang tồn tại ở
nền kinh tế nước ta. Hội nhập kinh tế sẽ luôn là động lực để phát triển kinh tế,
phục vụ cho quá trình xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ.

18


D) DANH MỤC TÀI LIỆU

1,BIỆN CHỨNG CỦA TỰ NHIÊN _NXB SỰ THẬT , HÀ NỘI ,1971
2, VĂN KIỆN ĐẠI HỘI VII CỦA ĐẢNG , NXB CHÍNH TRỊ - QUỐC GIA ,
HÀ NỘI , 1996
3, VĂN KIỆN ĐẠI HỘI VIII CỦA ĐẢNG _NXB CHÍNH TRỊ QUỐC GIA ,
HÀ NỘI
4, KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC_ LÊNIN _NXB GIÁO DỤC , 1997
5, TOÀN CẦU HÓA , NXB CHÍNH TRỊ QUỐC GIA , HÀ NỘI ,2000
6, VÒNG ĐÀM PHÁN THIÊN NIÊN KỶ , NXB CHÍNH TRỊ QUỐC GIA ,
HÀ NỘI , 2000
7, VĂN KIỆN ĐẠI HỘI IX CỦA ĐẢNG, NXB CHÍNH TRỊ QUỐC GIA , HÀ
NỘI , 2001
8, TẠP CHÍ CỘNG SẢN ,2001
9, GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC MÁC_LÊNIN, NXB CHÍNH TRỊ QUỐC
GIA , HÀ NỘI ,2004
10,

19


20



×