Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Thực trạng công tác thanh tra về an toàn – vệ sinh lao động (AT – VSLĐ) tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.71 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................................1
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT......................................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THANH TRA LAO ĐỘNG...................................................1
1.1. Một số khái niệm liên quan..............................................................................................1
1.2. Vị trí và chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra lao động..............................1
1.3. Mục đích của Thanh tra lao động.....................................................................................2
1.4. Nguyên tắc của Thanh tra lao động..................................................................................2
1.5. Cơ cấu tổ chức Thanh tra lao động..................................................................................2
1.6. Hình thức hoạt động Thanh tra lao động.........................................................................2
1.7. Phương thức hoạt động Thanh tra lao động.....................................................................3
1.8. Nội dung của Thanh tra lao động.....................................................................................3
1.9. Thanh tra an toàn vệ sinh lao động..................................................................................3
1.9.1. Chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra an toàn – vệ sinh lao động..............................3
1.9.2. Nội dung thanh tra về an toàn – vệ sinh lao động.....................................................3
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THANH TRA LAO ĐỘNG VỀ VỆ SINH AN
TOÀN LAO ĐỘNG TẠI DOANH NGHIỆP FDI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..........................5
2.1 Giới thiệu tổng quan về doanh nghiệp FDI tại Việt Nam hiện nay...................................5
2.2 Thực trạng công tác Thanh tra lao động về An toàn vệ sinh lao động tại doanh nghiệp
FDI ở Việt Nam hiện nay........................................................................................................6
2.2.1 Cơ quan thực hiện chức năng thanh tra......................................................................6
2.2.2 Tình hình về công tác thanh tra..................................................................................8
2.3 Đánh giá............................................................................................................................9
2.3.1 Thuận lợi....................................................................................................................9
2.3.2 Khó khăn..................................................................................................................10
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÔNG TÁC THANH TRA VỀ TOÀN VỆ
SINH LAO ĐỘNG TẠI DOANH NGHIỆP FDI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..........................12
KẾT LUẬN.................................................................................................................................1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................2



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
An toàn vệ sinh lao động
Doanh nghiệp

FDI
ATVSLĐ
DN


LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động thanh tra mà đặc biệt là thanh tra lao động là một trong những khâu
quan trọng trong hệ thống quản lý nhà nước về lao động ở nước ta. Cùng với việc phát
triển mạnh mẽ của các hoạt động sản xuất kinh doanh thì hoạt động thanh tra lao động
đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc phát hiện, phòng ngừa, xử lý những vi
phạm pháp luật về lao động. Trong khi đó, số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài FDI đang hoạt động ở Việt Nam những năm gần đây không ngừng tăng, chúng
đóng một vai trò nhất định trong sự phát triển chung của đất nước. Bên cạnh việc thu
hút được nhiều nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, Việt Nam cũng phải đối mặt với việc
quản lý, giám sát tình hình thực hiện những quy định pháp luật về lao động ở các
doanh nghiệp này. Công tác thanh tra lao động cũng như thanh tra về AT-VSLĐ hiện
nay còn thiếu và yếu cả về số lượng lẫn chất lượng. Đặc biệt số cuộc thanh tra được
tiến hành ở các doanh nghiệp FDI còn ít, chưa phát hiện và xử lý hết các trường hợp vi
phạm, gây ra những tổn thất về người và tài sản cho cá nhân, gia đình và xã hội.
Nhận thấy được vai trò cũng như tầm quan trọng của công tác thanh tra AT
– VSLĐ ở các doanh nghiệp hiện nay, em đã chọn đề tài: “ Thực trạng công tác
thanh tra về an toàn – vệ sinh lao động (AT – VSLĐ) tại doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài FDI ở Việt Nam hiện nay” để làm đề tài viết tiểu luận môn Thanh tra
lao động.



CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THANH TRA LAO ĐỘNG
1.1. Một số khái niệm liên quan
Thanh tra là gì?
Thanh tra là hoạt động kiểm tra, xem xét, đánh giá việc thực hiện pháp luật của
các cơ quan , tổ chức, đơn vị, cá nhân, thường được thực hiện bởi một cơ quan chuyên
trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm kết luận đúng, sai, đánh
giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp
phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Thanh tra lao động là gì?
Thanh tra lao động là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
trong lĩnh vực lao động đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật
về lao động, quy định chuyên môn – kĩ thuật, quy tắc quản lý thuộc lĩnh vực lao động.
1.2. Vị trí và chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra lao động
Căn cứ Khoản 1, Điều 238 của Bộ Luật Lao động (Sửa đổi bổ sung năm 2012)
quy định: thanh tra Bộ Lao động – Thương binh, Thanh tra Sở Lao động – Thương
binh và Xã hội thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về lao động. Theo đó
thanh tra Lao động là tổ chức thanh tra thuộc ngành lao động; ở
Trung ương có Thanh tra Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội; ở tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương có Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội.
Thanh tra Lao động thực hiện chức năng hành chính và thanh tra chuyên ngành
về lao động trong phạm vi quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ, quyền hạn
Các nhiệm vụ chủ yếu bao gồm:
Thanh tra việc chấp hành các quy định pháp luật về lao động;
Điều tra tai nạn lao động và những vi phạm an toàn lao động, vệ sinh lao động;
Tham gia hướng dẫn áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về điều
kiện lao động, an toàn lao động. vệ sinh lao động;

Giải quyết khiếu nại, tố cáo về lao động theo quy định của pháp luật;
Xử lý theo thẩm quyền và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý các
vi phạm pháp luật về lao động.
( Điều 237, Bộ Luật lao động) .
Ngoài ra, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của các cơ quan thực hiện chức năng
thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội được quy định rõ trong chương 2,
Nghị định số 39/2013/NĐ-CP ban hành ngày 24 tháng 4 năm 2013 của Chính phủ về

1


tổ chức và hoạt động của thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội.
1.3. Mục đích của Thanh tra lao động
Mục đích của thanh tra lao động là nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý,
chính sách, pháp luật về lao động để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
biện pháp khắc phục, phòng ngừa, phát hiện và xử lý hình vi vi phạm pháp luật về lao
động giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật về lao
động, phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản
lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
(Theo Điều 2, Chương 1, Luật thanh tra 2010).
1.4. Nguyên tắc của Thanh tra lao động
- Hoạt động của thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội phải tuân
theo pháp luật, bảo đảm chính xác, trung thực, khách quan, công khai, dân chủ và kịp
thời.
- Hoạt động thanh tra hành chính được tiến hành theo Đoàn thanh tra; hoạt đông
Thanh tra chuyên ngành được tiến hành theo Đoàn thanh tra hoặc do Thanh tra viên,
công chức thanh tra chuyên ngành tiến hành độc lập.
(Điều 4, Nghị định số 39/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2013 quy định về

tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội).
1.5. Cơ cấu tổ chức Thanh tra lao động
(1) Các cơ quan thanh tra nhà nước:
– Thanh tra Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội;
– Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương.
(2) Các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành:
– Tổng cục dạy nghề;
– Cục Quản lý Lao động ngoài nước.
( Điều 5, Nghị định số 39/2013/ NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2013 quy định
về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Lao đông – Thương binh và Xã
hội) .
1.6. Hình thức hoạt động Thanh tra lao động
Thanh tra được thực hiện với hình thức thanh tra theo chương trình, kế
hoạch hoặc đột xuất.
– Thanh tra theo chương trình kế hoạch sau khi được Bộ trưởng Bộ lao động
– Thương binh và Xã hội hoặc Giám đốc sở phê duyệt.

2


– Thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân
có dấu hiệu vi phạm pháp luật về an toàn vệ sinh lao động; theo yêu cầu của việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo do thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao.
1.7. Phương thức hoạt động Thanh tra lao động
Công tác thanh tra lao động tiến hành bằng phương thức thanh tra viên phụ
trách vùng thông qua phiếu tự kiểm tra (Quyết định số 01/2006/QĐ-BLĐTBXH ngày
16 tháng 02 năm 2006 về việc ban hành quy chế hoạt động thanh tra nhà nước về lao
động theo phương thức thanh tra viên phụ trách vùng, quyết định 02/2006/QĐBLĐTBXH ngày 16 tháng 02/2006 của Bộ LĐTBXH về việc ban hành quy chế sử
dụng phiếu tự kiểm tra thực hiện pháp luật lao động).

1.8. Nội dung của Thanh tra lao động
Thanh tra lao động, thanh tra việc thực hiện pháp luật những nội dung sau:
– Tuyển dụng và đào tạo lao động
– Thực hiện hợp đồng lao động
– Thỏa ước lao động tập thể
– Thời giờ làm việc và nghỉ ngơi
– Tiền lương và trả công lao động
– An toàn lao động, vệ sinh lao động
– Lao động đặc thù
– Kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất
– Bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm thất nghiệp
– Tranh chấp lao động
– Khiếu nại về lao động
1.9. Thanh tra an toàn vệ sinh lao động
1.9.1. Chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra an toàn – vệ sinh lao động
Theo quy định tại Bộ luật Lao động năm 2012, Thanh tra an toàn và vệ sinh
lao động có chức năng, nhiệm vụ sau đây:
– Thanh tra viên chấp hành các quy định của pháp luật về an toàn vệ sinh lao
động.
– Điều tra tai nạn lao động và những vi phạm tiêu chuẩn, quy chuẩn về điều
kiện lao động, an toàn vệ sinh lao động.
– Giải quyết khiếu nại, tố cáo về an toàn vệ sinh lao động theo quy định của
pháp luật.
– Xử lý theo thẩm quyền và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý các vi
phạm pháp luật về an toàn vệ sinh lao động.
1.9.2. Nội dung thanh tra về an toàn – vệ sinh lao động.

3



- Việc thực hiện các quy phạm, tiêu chuẩn an toàn đối với máy, thiết bị, vật
tư, nhà xưởng, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất trong đó tập trung vào các máy và
hóa chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh lao động như nồi hơi, thiết bị áp
lực, thiết bị nâng, vật liệu nổ, thuốc bảo vệ thực vật...
- Việc thực hiện tiêu chuẩn vệ sinh lao động: tiếng ồn, độ rung, ánh sáng,
nhiệt độ.
Việc lập và thực hiện kế hoạch bảo hộ lao động.
- Công tác tự kiểm tra về an toàn lao động của cơ sở.
- Công tác huấn luyện về an toàn lao động.
- Việc thực hiện các quy định về an toàn lao động đối với các đối tượng có
yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động (chế tạo, sử dụng, bảo dưỡng)
- Việc thực hiện chế độ bảo hộ lao động: bồi dưỡng, chống độc hại bằng hiện
vật, trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi...
- Tình hình khai báo, báo cáo tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Hồ sơ, tài liệu có liên quan.

4


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THANH TRA LAO ĐỘNG VỀ VỆ
SINH AN TOÀN LAO ĐỘNG TẠI DOANH NGHIỆP FDI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1 Giới thiệu tổng quan về doanh nghiệp FDI tại Việt Nam hiện nay
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước
ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam hoặc là doanh nghiệp Việt
Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại. (Khoản 6, Điều 3,
Luật Đầu tư).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (ký hiệu thông thường là FDI- Foreign Dỉrect
Investment) ngày càng đóng vai trò quan trọng và thậm chí đáng kể trong thực hiện
các mục tiêu tăng trưởng và phát triển của Việt Nam. Điều này được khẳng định trong

vòng 30 năm qua. Tính đến ngày 22 tháng 3 năm 2017, có 23.731 dự án với tổng số
vốn đăng ký đạt 300,74 tỷ đô-la Mỹ và vốn thực hiện đạt khoảng 50%. FDI đóng góp
khoảng 23% vốn đầu tư toàn xã hội và 70% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Trong 6 tháng đầu năm 2017, FDI vào Việt Nam có xu hướng tăng lên cao hơn
so với cùng giai đoạn năm 2016.Khả năng chiếm lĩnh các lĩnh vực có lợi nhuận cao,
địa bàn thuận lợi cũng như công nghệ mũi nhọn, các khâu có giá trị gia tăng cao và
tiếp cận thị trường toàn cầu của FDI trở thành hiện hữu.
Mục tiêu tăng trưởng năm 2017 được Chính phủ đặt ra là 6,7%. Trong 6 tháng
cuối năm 2017, FDI có những dấu hiệu cho thấy FDI có xu hướng tăng cao do cơ hội
đầu tư vẫn còn khá lớn mặc dù việc mở cửa thị trường theo cam kết trong Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) từ ngày 11/1/2018, các cam kết quốc tế về thương mại tự
do được thực hiện có khả năng để làm suy giảm FDI vì FDI có thay thế hàng nhập
khẩu bị thay thế bởi quy mô khổng lồ và khả năng cạnh tranh cao của khối lượng hàng
nhập khẩu từ 165 thành viên với khoảng 95% thương mại toàn cầu. Đồng thời, kể từ
1/7/2017, mức tiền lượng cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ
trang có sự điều chỉnh tăng lên từ mức 1,210 triệu đồng lên 1,300 triệu đồng. Mức tiền
lương được điều chỉnh có thể làm tăng giá lao động hay giá yếu tố sản xuất vốn là yếu
tố hấp dẫn FDI.
Để thích nghi với những yếu tố mới có thể ví như trạng thái “nội công, ngoại
kích” của nền kinh tế Việt Nam trong 6 tháng cuối năm, cần rà soát và điều chỉnh
những yếu tổ cốt lõi của thể chế đầu tư để phục vụ công tác quản lý và điều hành hiệu
quả trong quá trình nền kinh tế đang chuyển đổi rất nhanh sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tăng trưởng GDP và FDI thực hiện của Việt Nam giai đoạn 1988-2018

5


Thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy trong
nửa đầu năm 2016, phần lớn các dự án FDI có vốn lớn đều đổ vào dệt may. Đơn cử,

nhà máy sản xuất và gia công các loại sợi của Công ty TNHH Hyosung Đồng Nai có
tổng vốn 660 triệu USD; dự án của Công ty TNHH Worldon Việt Nam có tổng vốn
300 triệu USD, xây nhà máy sản xuất các sản phẩm may mặc cao cấp tại TP HCM; dự
án nhà máy sợi, vải màu Lu Thai Việt Nam có vốn hơn 160 triệu USD tại Tây Ninh.
Cuối tháng 6, tỉnh Bình Dương cũng đã cấp phép dự án Công ty TNHH Polytex Far
Eastern Việt Nam có vốn đầu tư 274 triệu USD để xây nhà máy sản xuất xơ, sợi tổng
hợp, dệt kim...
Dệt may là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với kim ngạch đạt 24 tỉ USD
trong năm 2015 và mục tiêu năm 2016 là 27-27,5 tỉ USD. Có điều, tỉ trọng kim ngạch
xuất khẩu của DN trong nước ngày càng teo tóp, còn DN FDI không ngừng phình to.
Theo thống kê của Vitas, trong số 12 tỉ USD kim ngạch xuất khẩu từ đầu năm đến nay,
khối DN trong nước chỉ chiếm 27,5%, còn công lớn thuộc về khối FDI.
2.2 Thực trạng công tác Thanh tra lao động về An toàn vệ sinh lao động tại doanh
nghiệp FDI ở Việt Nam hiện nay
2.2.1 Cơ quan thực hiện chức năng thanh tra
Thanh tra Bộ Lao động – thương binh và xã hội là cơ quan thực hiện việc thanh
tra việc thực hiện pháp luật Bảo hiểm xã hội tại các doanh nghiệp FDI trong phạm vi
cấp quốc gia.
Chức năng, nhiệm vụ của thanh tra Bộ:
- Chủ trì hoặc tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo sự phân
công của Bộ trưởng; kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước về lao động, người
có công và xã hội.
6


- Chủ trì xây dựng kế hoạch thanh tra trình Bộ trưởng; tổ chức thực hiện kế
hoạch thanh tra thuộc trách nhiệm của Thanh tra Bộ; hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc,
kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thanh tra thuộc trách nhiệm của cơ quan được giao
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ.

Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan, tổ chức và cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bộ; thanh tra công vụ;
thanh tra việc thực hiện hoạt động nghề nghiệp của viên chức thuộc ngành, lĩnh vực
quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật.
- Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn
- kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực quản lý của Bộ. (Theo điều 2, Quyết
định số 614/QĐ-LĐTBXH)
Các văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang pháp lý trong việc thực hiện
công tác thanh tra về AT – VSLĐ ở Việt Nam hiện nay gồm:
- Bộ Luật lao động ( được sửa đổi, bổ sung năm 2012);
- Luật Thanh tra 2010;
- Nghị định số 106/2012/NĐ-CP ban hành ngày 20 tháng 12 năm 2012 của
Chính phủ, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ
- Lao động – Thương binh và Xã hội;
- Nghị định số 39/2013/NĐ-CP ban hành ngày 24 tháng 4 năm 2013 của
- Chính phủ, về tổ chức và hoạt động thanh tra ngành Lao động- Thương
binh và
- Xã hội;
- Quyết định số 614/QĐ-LĐTBXH ban hành ngày 16 tháng 04 năm 2013
- của Bộ trưởng Bộ Lao đông – Thương binh và Xã hội, về việc quy định
chức
- năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của thanh tra Bộ;
- Nghị định số 95/2013/NĐ- CP ban hành ngày 22 tháng 8 năm 2013 của
Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã
hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
- Thông tư số 02/2010/TT-TTCP ban hành ngày 02 tháng 3 năm 2010 của
Chinh Phủ, quy định quy trình tiến hành một cuộc thanh tra;
- Quyết định số 01/2006/QĐ-BLĐTBXH ngày 16 tháng 02 năm 2006 về việc
ban hành quy chế hoatj động thanh tra nhà nước về lao động theo phương thức thanh
tra viên phụ trách vùng.

- Quyết định số 02/2006/QĐ-BLĐTBXH ngày 16 tháng 02/2006 của Bộ
LĐTBXH về việc ban hành quy chế sử dụng phiếu tự kiểm tra thực hiện pháp luật lao

7


động.
- Và một số văn bản quy phạm khác có liên quan.
2.2.2 Tình hình về công tác thanh tra
Theo đánh giá của cơ quan chức năng, trong công tác đảm bảo an toàn lao động
tại doanh nghiệp thì các doanh nghiệp FDI thực hiện tốt hơn các doanh nghiệp trong
nước. Lý do là các doanh nghiệp này có tiềm lực tài chính tốt hơn, nên có sự đầu tư
lớn hơn cho công tác an toàn lao động. Với các tập đoàn đa quốc gia, họ luôn có bộ
tiêu chuẩn về công tác an toàn để thực hiện tại các nhà máy.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, gần đây vẫn còn không ít vụ tai nạn lao động, mất an
toàn nghiêm trọng xảy ra tại các doanh nghiệp FDI. Điển hình là vụ tai nạn do sập giàn
giáo vào tháng 3/2015 làm 13 người chết, 29 người bị thương tại hạng mục đúc thùng
chìm, công trường thi công sản xuất và lắp đặt thùng chìm trọng lực tại Dự án
Formusa của Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formusa Hà Tĩnh. Hay, tại
TP.HCM, vụ sập giàn giáo tại công trình Tòa nhà Văn phòng Nam Sài Gòn (phường
Tân Phong, quận 7), xảy ra vào tháng 7/2015 làm 3 người chết, 4 người bị thương...
Trên cả nước số cuộc thanh tra được tiến hành hàng năm còn ít. Nam 2012, cả
nước chỉ tiến hành được 4.184 cuộc thanh tra về pháp luật AT – VSLĐ và 1.366 cuộc
kiểm tra liên ngành. Tuy nhiên, việc thanh tra vẫn còn hình thức, chất lượng chưa cao.
Trong khi đó việc thanh tra mới chỉ chủ yếu diễ ra tại các doang nghiệp Nhà nước,
thống kê của Cục An toàn lao đọng cho thấy, 60% cuộc thanh tra diễn ra trong doanh
nghiệp Nhà nước và khoảng chỉ 20% tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều
này dẫn tới thực trạng, số các doanh nghiệp FDI không được thanh tra còn rất nhiều.
Như vậy thì rõ ràng vấn đề đảm bảo về AT – VSLĐ trong khu vực FDI bị bỏ ngỏ là
chuyện đương nhiên.

Lực lượng thanh tra viên về AT-VSLĐ
Hiện nay lực lượng thanh tra viên về AT-VSLĐ còn thiếu rất nhiều. Thống
kê năm 2016 của Thanh tra Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐ-TBXH),
hiện cả nước có 471 thanh tra viên lao động cảm nhận chức năng ở nhiều lĩnh vực như:
Người có công, bảo hiểm xã hội, lao động trẻ em, khiếu nại tố cáo, chính sách lao
động... nhưng cán bộ thực hiện thanh tra về AT-VSLĐ trong cả nước chỉ chiếm 1/3 số
cán bộ thanh tra nói trên (khoảng 130 người). Trong khi đó, theo báo cáo của Tổng cục
thống kê năm 2016, số doanh nghiệp đang hoạt động trong cả nước là hơn 3.750.000
doanh nghiệp. Như vậy, tính bình quân một thanh tra viên phải quản lý trên 1.300
doanh nghiệp.
Căn cứ theo phương thức thanh tra theo đoàn thì bình quân một thanh tra viên
chỉ đi được 30 doanh nghiệp/năm. Để thanh tra hết số doanh nghiệp mà mình phụ

8


trách như đã tính ở trên thì phải mất khoảng 40 năm. Theo khuyến cáo của tổ chức Lao
động Quốc tế (ILO), các nước đang phát triển như nước ta, trung bình 25.000 – 40.000
lao động thì cần có 1 thanh tra viên về lao động. Như vậy, với khoảng 43 triệu người
trong độ tuổi lao động như ở nước ta hiện
nay phải cần tối thiểu 1.500 thanh tra lao động.
Nguồn thanh tra viên còn yếu kém về trình độ. Có tới 30 – 50% là cán bộ
mới ra trường hoặc chuyển công tác. 25% cán bộ có trình độ cao đẳng, trung cấp. Thức
tế, Thanh tra các Sở LĐ- TBXH ở các tỉnh thành chưa đáp ứng được nhiệm vụ thanh
tra, kiểm tra ở các địa phương. Thời gian chủ yếu là làm việc và giải quyết đơn thư,
phần lớn các Sở chưa tổ chức thanh tra theo kế hoạch.
Hình thức thanh tra
Hiện nay hình thức thanh tra của các cuộc thanh tra đều là hình thức thanh tra
theo chương trình.
Ưu điểm của hình thức này là thanh tra có công tác chuẩn bị kỹ lưỡng, quy trình

thanh tra được đảm bảo đúng nguyên tắc và ít mắc sai lầm. Thế nhưng vì hình thức
thanh tra này công khai, không mang tính đột xuất nên các doanh nghiệp đã có sự rào
đón trong các khâu yếu kém nhằm qua được thanh tra. Với tình hình hiện nay, các
doanh nghiệp FDI càng có sự tinh vi hơn trong khâu sản xuất và quy trình hoạt động,
chính vì thế công tác thanh tra rất khó khăn.
Nếu công tác thanh tra an toàn vệ sinh lao động không có sự nhạy bén và linh
hoạt kết hợp với sự hợp tác của các bên liên quan thì không thể thanh tra chính xác
được tình hình thực tế mà các doanh nghiệp FDI đang xảy ra. Từ đó dẫn đến thanh tra
sai lệch, bỏ sót và gây ảnh hưởng đến an toàn người lao động, an toàn vệ sinh môi
trường xung.Kèm theo đó, hiện nay các trang thiết bị, máy móc, đo đạc, xe cộ... phục
vụ cho việc thanh tra AT – VSLĐ cũng đã lạc hậu nhiều, vì vậy mà công tác thanh tra
chưa đánh giá hiệu quả được thực sự.
Công tác quản lý về AT – VSLĐ hiện còn tồn tại một số hạn chế như: hệ thống
pháp luật; việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành còn chậm gây khó khăn cho việc
thực hiện; việc tuân thủ pháp luật về AT – VSLĐ chưa tập trung, lực lượng thanh tra còn
quá mỏng; tình hình thực hiện công tác thành tra AT – VSLĐ trong thời gian qua chưa
thực sự hiệu quả, số tai nạn lao động và mắc bệnh nghề nghiệp vẫn còn nhiều.
2.3 Đánh giá
2.3.1 Thuận lợi
Nhà nước
Việc ban hành các Bộ Luật Thanh tra, Luật An toàn vệ sinh Lao động với các
quy định rõ ràng, cụ thể là công cụ giúp cho công tác thanh tra diễn ra tại doanh

9


nghiệp diễn ra thuận lợi và đúng quy trình, đảm bảo đúng nguyên tắc thanh tra.
Nhà nước quan tâm đến việc huấn luyện các cán bộ, thanh tra viên, người
trực tiếp tham gia công tác thanh tra được rèn luyện chuyên môn về an toàn vệ sinh lao
động và các lĩnh vực khác. Vì vậy, mặc dù ít nhưng số lượng thanh tra viên này đã

phần nào hoàn thành xuất sắc chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình.
Doanh nghiệp FDI
Hầu hết các doanh nghiệp FDI luôn nhận thức được việc phải đảm bảo tuân
thủ pháp luật hiện hành của Việt Nam. Vì thế rất ít doanh nghiệp FDI vi phạm vào thỏa
ước lao động cũng như các Luật lao động , Luật An toàn vệ sinh Lao động và chấp
nhận bị thanh tra bất cứ lúc nào. Theo đánh giá của cơ quan chức năng, trong công tác
đảm bảo an toàn lao động tại doanh nghiệp thì các doanh nghiệp FDI thực hiện tốt hơn
các doanh nghiệp trong nước. Lý do là các doanh nghiệp này có tiềm lực tài chính tốt
hơn, nên có sự đầu tư lớn hơn cho công tác an toàn lao động. Với các tập đoàn đa quốc
gia, họ luôn có bộ tiêu chuẩn về công tác an toàn để thực hiện tại các nhà máy.
2.3.2 Khó khăn
Thứ nhất, hệ thống pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động còn
chồng chéo, phân tán; việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành còn chậm gây
khó khăn cho việc thực hiện các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Nội dung về an toàn lao động, vệ sinh lao động hiện đang được quy định trong
nhiều văn bản luật và nhiều văn bản do Chính phủ, các Bộ, ngành ban hành; hệ thống
quy chuẩn kỹ thuật an toàn lao động, vệ sinh lao động chậm được rà soát chuyển đổi
và ban hành đáp ứng yêu cầu sản xuất, phát triển công nghệ, vật liệu mới; đối tượng
điều chỉnh trong Bộ luật lao động hiện nay chỉ điều chỉnh, áp dụng đối với hoạt động
lao động có quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương với người sử
dụng lao động.
Thứ hai, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước nói chung còn rất thiếu
và yếu, bất cập giữa chức năng, nhiệm vụ với tổ chức bộ máy, biên chế và trình độ cán
bộ.
Tổ chức bộ máy của Thanh tra an toàn lao động, Thanh tra vệ sinh lao động của
Nhà nước trong những năm qua chưa ổn định. Đội ngũ cán bộ Thanh tra vừa thiếu về
số lượng lại vừa yếu về chất lượng; thanh tra an toàn lao động, vệ sinh lao động nằm
trong Thanh tra chung nên còn nhiều bất cập, hạn chế; nguồn lực cho công tác thanh
tra về an toàn lao động, vệ sinh lao động, lực lượng thanh tra lao động có chuyên môn
kỹ thuật để triển khai thanh tra, kiểm tra về an toàn lao động, vệ sinh lao động ngày

càng ít, có địa phương không có; việc quản lý môi trường lao động, quản lý sức khỏe
người lao động tại các cơ sở lao động còn rất hạn chế, số nơi làm việc, người lao động

10


trong diện quản lý chiếm tỷ lệ rất thấp; chưa có chế tài để xử phạt đối với người sử
dụng lao động, người lao động không chấp hành pháp luật về vệ sinh lao động; một số
địa phương còn “rải thảm đỏ” để đón các khu công nghiệp, có những quy định không
phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật về vệ sinh lao động, phòng chống bệnh nghề
nghiệp, vì vậy gây khó khăn trong việc tổ chức thực hiện công tác này.
Thứ ba, việc tuân thủ pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động của
phần lớn các doanh nghiệp hiện nay chưa nghiêm, nhiều doanh nghiệp thực hiện các
quy định có tính chất chống đối sự kiểm tra của cơ quan quản lí Nhà nước.

11


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÔNG TÁC THANH TRA VỀ
TOÀN VỆ SINH LAO ĐỘNG TẠI DOANH NGHIỆP FDI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Hoàn thiện về pháp luật
Hành lang pháp lý là một điều kiện tiên quyết cho các hoạt động kinh tế – xã hội
nói chung và hoạt động thanh tra nói riêng.
Hành lang pháp lý trong công tác thanh tra lao động bao gồm những quy định
của pháp luật về nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức thanh tra lao động các cấp và
thanh tra viên; phạm vi hoạt động; các quy định chế tài và thực hiện pháp luật đối với
đối tượng thanh tra; các quy định về tổ chức, biên chế và cơ chế hoạt động của thanh
tra chuyên ngành về lao động.
Chế tài xử phạt hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động được quy

định tại Nghị định 95/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2013 tuy đã góp phần vào
việc thực hiện pháp luật lao động, nhưng một số các quy định trong Nghị định này
chưa sát với thực tế, còn có điểm chưa phù hợp, đòi hỏi trong thời gian tới phải ban
hành Nghị định mới hướng dẫn việc xử phạt hành chính trong lĩnh vực lao động, là
một công cụ pháp lý phục vụ cho công tác thanh tra lao động.
Tăng cường đội ngũ thanh tra viên của các cơ quan thanh tra ngành Lao
động – Thương binh và Xã hội đảm bảo về số lượng, năng lực để hoàn thành
nhiệm vụ được giao.
Hiện nay nước ta có 63 tỉnh, thành phố. Đó là vùng lãnh thổ về hành chính mà
cần phải tính tới khi thực hiện việc Thanh tra độc lập. Theo khuyến cáo của Tổ chức
lao động Quốc tế, nếu lấy tiêu thức về số lượng lao động tại các cơ sở sản xuất, hiện có
3 mức về số lao động để bố trí 1 thanh tra viên :
- Tại các nước Công nghiệp phát triển nên bố trí mức 80.000 lao động có một
thanh tra viên.
- Tại các nước Công nghiệp mới phát triển nên bố trí mức 60.000 lao động có
1 thanh tra viên.
- Tại các nước đang phát triển nên bố trí mức 40.000 lao động có 1 thanh tra
viên.
Tuy nhiên cũng có một số tiêu thức khác để xác định số lượng thanh tra viên
như: Dựa theo số lượng doanh nghiệp trên địa bàn hoặc theo tiêu thức diện tích vùng
lãnh thổ, đặc điểm địa lý, mật độ dân cư …. Theo một số nghiên cứu thì 1 thanh tra
viên nên phụ trách khoảng 300 doanh nghiệp trong điều kiện bình thường, với số
doanh nghiệp như vậy thì trong vòng 2 năm các doanh nghiệp đều được thanh tra,
kiểm tra.
12


Hạn chế tối đa việc điều chuyển thanh tra viên lao động đi làm nhiệm vụ khác
và không tuyển dụng cán bộ chưa đủ điều kiện vào tổ chức thanh tra, thậm chí là cần
đòi hỏi trình độ cao hơn so với yêu cầu tuyển dụng vào ngành nói chung.

Xây dựng quy trình, nội dung thanh tra chuyên ngành các lĩnh vực thuộc
phạm vi quản lý nhà nước của ngành để áp dụng thống nhất trên phạm vi cả
nước.
Xây dựng thống nhất quy trình thanh tra chuyên ngành Lao động – Thương binh
và Xã hội và nội dung thanh tra các ngành, nghề có nhiều nguy cơ xảy ra tai nạn lao
động và sự cố nghiêm trọng nhằm giảm thiểu các thiệt hại do sự cố trong quá trình sản
xuất gây ra cho người và tài sản.
Tăng cường, bổ sung cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật chuyên dụng, hệ
thống công nghệ thông tin phục vụ công tác quản lý và hoạt động của các cơ quan
thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội.
Đảm bảo điều kiện làm việc cho thanh tra viên tại văn phòng cũng như khi đi
công tác như diện tích phòng làm việc và các trang thiết bị như máy tính, máy ảnh, các
thiết bị đo kiểm tra theo chuyên ngành, phương tiện đi lại…v…v…
Xây dựng cơ sở dữ liệu, lưu trữ hồ sơ; cập nhật các văn bản quy phạm pháp
luật, tài liệu liên quan trên hệ thống phần mền quản lý để trao đổi thông tin về hoạt
động và kết quả thanh tra của các cơ quan thanh tra ngành Lao động – Thương binh và
Xã hội.

13


KẾT LUẬN
Nhìn chung, công tác thanh tra nhà nước về lao động trong những năm gần đây
đã có những đóng góp tích cực nhất định trong việc tăng cường hiệu quả thực hiện
pháp luật về lao động tại các doanh nghiệp. Doanh nghiệp (người sử dụng lao động và
người lao động) đã bắt đầu thừa nhận và thấy vai trò, tầm quan trọng của công tác
thanh tra nhà nước về lao động tại doanh nghiệp của họ đối với việc bảo vệ quyền lợi
của hai bên, duy trì và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như các quan hệ
lao động tại doanh nghiệp.
Thanh tra là một chức năng không thể thiếu của quản lý Nhà nước. Điều này đã

được khẳng định trong bất kỳ hình thái quản lý Nhà nước nào, bất kỳ quốc gia nào.
Những năm qua, Thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội đã đạt được
những thành tựu quan trọng, góp phần đáng kể vào công cuộc bảo vệ đất nước và đặc
biệt là công cuộc đổi mới kinh tế do Đảng ta khởi xướng.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. 1.Bộ luật lao động ( sửa đổi, bổ sung 2012)
2. Luật Thanh tra 2010
3. Luật Đầu tư
4. Bài viết “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam giai đoạn cuối năm
2017” của PGS.TS. Nguyễn Thường Lạng,Đại học Kinh tế quốc dân.
(Nguồn: />u%20tu%20truc%20tiep%20tu%20nuoc%20ngoai%202017.pdf)
5. Bài báo “Tồn tại, hạn chế trong công tác ATVSLĐ và định hướng xây dựng
Luật An toàn – Vệ sinh Lao động” của TS. Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy
ban các vấn đề xã hội của Quốc hội, 2016.
6. Bài báo “Doanh nghiệp FDI hợp tác về an toàn lao động” của tác giả Hồng
Sơn đăng trên báo Báo Mới, ngày 30/03/2017.



×