Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Vai trò của Triết học trong đời sống con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.15 KB, 15 trang )

Chuyên đề: Vai trò của Triết học trong đời sống con người

TRƯỜNG ĐHSP TP.HCM
PHÒNG NCKH & SAU ĐẠI HỌC
Tiểu Ban Triết Học

Chuyên đề:

VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG
ĐỜI SỐNG CON NGUỜI

Học viên: Võ Thành
Toàn
Lớp: Cao Học Thuỷ
Sản K.8
LỜI NÓI ĐẦU

Triết học Mác xuất phát từ con người, nhưng C.Mác đã vượt qua quan niệm trừu tượng
về con người để nhận thức con người hiện thực. Theo C.Mác, con người có đời sống hiện thực
và biến đổi cùng với sự biến đổi đời sống hiện thực của nó; trong đó, phương thức sản xuất vật
chất không chỉ đơn thuần là sự tái sản xuất ra tồn tại thể xác của cá nhân, mà hơn thế nữa "nó đã
là một hình thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của sự biểu
hiện đời sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ". Vì vậy, để hiểu được
nguyên nhân sâu xa của tình trạng
tha hóa bản01chất con
người, nhờ đó mà nhận thức được đúng
Tháng
2002
con đường giải phóng con người, giải phóng nhân loại, Mác đã đi vào nghiên cứu sự vận động
và biến đổi của quá trình sản xuất vật chất của xã hội, vạch ra qui luật khách quan của nó. Từ đó
1




Chuyên đề: Vai trò của Triết học trong đời sống con người
triết học Mác có được quan niệm khoa học về giai cấp và đấu tranh giai cấp và đi tới lý luận
khoa học về nhà nước, về cách mạng xã hội…
Trong đời sống xã hội, con người có quan hệ với thế giới xung quanh, có nhu cầu tìm
hiểu, nhận thức thế giới cũng như nhận thức bản thân mình. Trong quá trình tìm hiểu, nhận thức
đó, con người đã bắt gặp hàng loạt vấn đề cần được lý giải: bản chất thế giới là gì? Thế giới có
tồn tại thực tế không hay chỉ là ảo ảnh của con người? Con người là gì? Con người có vai trò
như thế nào đối với thế giới? Ý nghĩa cuộc sống con người là ở chỗ nào? v.v. Từ đó hình thành ở
con người những quan điểm, quan niệm về thế giới cũng như về vai trò con người trong thế giới.
Trong thực tiển, con người có thể áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để giải quyết
công việc đã định. Quá trình lựa chọn phương pháp có thể đúng hoặc sai. Vậy làm thế nào để
xác định được phương pháp đúng đắn, khoa học? Từ đó, xuất hiện nhu cầu tri thức khoa học về
phương pháp và đó cũng là lý do để khoa học về phương pháp ra đời. Đây chính là cơ sở lý luận
của phương pháp luận khoa học mà các nhà triết học đã nêu ra.
Với mong muốn là góp phần nhỏ bé của mình vào hoạt động nghiên cứu, vận dụng và
phát triển thế giới quan, phương pháp luận và nhận thức luận về vai trò của triết học đối với đời
sống con người. Với sự hiểu biết có hạn của mình qua phần truyền đạt những kiến thức hết sức
quý báu của Quý thầy cô và bản thân tự nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến nội dung của
chuyên đề nầy, chắc hẳn sẽ không tránh khỏi những sự thiếu sót. Chúng tôi rất mong được sự
đóng góp và bổ khuyết của quý thầy cô và bạn đọc.
Tác giả

PHẦN I:
THẾ GIỚI QUAN CỦA TRIẾT HỌC MÁC
TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học, là đỉnh cao
của thế giới quan duy vật, là chủ nghĩa duy vật triệt để. Chính nhận định nầy mà các nhà lý luận
tư sản đã quan niệm sai lầm rằng triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung ra đời như

một biệt phái, như một sự độc thoại và tự dành cho mình quyền phát ngôn chân lý cuối cùng.
Nhờ đó, giai cấp vô sản và chính đảng của nó có một thế giới quan thật sự khoa học.
Trái lại, sự xuất hiện của triết học Mác là một tất yếu lịch sử, một hiện tượng hợp qui
luật. Nó là kết tinh của tất cả các giá trị cao quý của tư duy triết học, văn hóa, khoa học của lịch
sử nhân loại. Đồng thời cũng dựa trên những tiền đề về kinh tế - xã hội đạt được ở thời đại đó.
Nói cách khác sự hình thành và phát triển của triết học Mác không nằm ngoài lịch sử chung của
tư duy khoa học và nhân loại thế giới. Sự ra đời đó nó dựa vào những tiền đề cơ bản sau đây:
2


Chuyên đề: Vai trò của Triết học trong đời sống con người
I. Tiền đề về kinh tế - xã hội
Vào những năm 30 của thế kỷ thứ XIX, chủ nghĩa tư bản bắt đầu đi vào giai đoạn phát triển
mới. Đặc biệt là giữa những năm 40 của thế kỷ XIX, sự ra đời của chủ nghĩa tư bản như là một
tất yếu, nó đạt được một số thành tựu và trở thành hệ thống thống trị về mặt kinh tế ở nhiều
nước Châu Âu. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở thời kỳ nầy đã phát triển mạnh và trở
thành lực lượng kinh tế thống trị ở Anh, Pháp, một phần ở Đức và các nước Tây Âu. Nó phát
triển nhanh chóng và tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, chủ nghĩa tư bản thể hiện sự đơn giản
hóa tạo không gian thông thoáng và phá vỡ hàng rào ngàn đời của chế độ phong kiến.
Chủ nghĩa tư bản tạo ra môi trường cạnh tranh rất khốc liệt giúp con người phải rèn luyện, cạnh
tranh và phát triển. Nhưng sự phát triển của phương thức sản xuất chủ nghĩa tư bản đã làm bộc
lộ những mâu thuẩn bên trong vốn có của nó, đó là sự phân cực xã hội, ngăn cách giữa người và
người, mâu thuẩn giữa tính chất xã hội và nền sản xuất đồng thời biểu hiện về mặt xã hội là các
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống các nhà tư bản. Nhiều cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân đã mang tính chất của khởi nghĩa vũ trang: ở Anh có phong trào hiến chương mang
tính chất chính trị và quần chúng rộng lớn đòi hỏi pháp luật của nhà nước phải đảm bảo các
quyền lợi của giai cấp công nhân về tiền lương, giờ làm công,… ở Pháp có cuộc khởi nghĩa của
công nhân Li-ông vào năm 1831; ở Đức có công nhân thợ dệt Xilêdi nổ ra vào năm 1844 - đêm
trước của cuộc cách mạng tư sản Đức.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước tư bản Tây Âu trong giai đoạn nầy còn

mang tính tự phát, thiếu tổ chức, do đó nhu cầu khách quan đặt ra là phải có một vũ khí lý luận
sắc bén phản ánh một cách khoa học quá trình vận động cách mạng của giai cấp công nhân. Các
học thuyết xã hội chủ nghĩa không tưởng thời đó của Xanh Xi-mông, Phu-ri-ê, Ô-oen đã không
phản ánh được lợi ích căn bản của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân vì sự nghiệp
giải phóng giai cấp mình và giải phóng quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột.
Triết học Mác ra đời đã phản ánh đúng đắn lịch sử khách quan phong trào đấu tranh cách mạng
của giai cấp công nhân toàn thế giới, cũng như nguyện vọng và lợi ích chân chính của nó. Với
sự ra đời của triết học Mác, giai cấp công nhân đã tìm thấy ở đó sức mạnh và vũ khí tinh thần
của mình, là một học thuyết khoa học dẫn dắt phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đi từ
tự phát đến tự giác. Bên cạnh triết học Mác còn có mối quan hệ hữu cơ với phong trào cách
mạng của công nhân, Mác nói: "triết học nhận thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất và tinh
thần của mình".
II. Tiền đề về lý luận
Tiền đề về kinh tế - xã hội là hết sức quan trọng và cần thiết cho sự ra đời của triết học Mác.
Song nó chỉ là tiền đề khách quan, nó chỉ đặt ra cho nhu cầu lịch sử và tạo khả năng cho sự giải
quyết nhu cầu đó. Nhưng nhu cầu lịch sử không thể tự nó thực hiện và khả năng không tự hiện
thực hóa và nó cần có sự hoạt động của con người, của nhân tố chủ thể. Chủ thể ở đây không chỉ
là quần chúng nhân dân mà còn là cá nhân lỗi lạc, có tầm trí tuệ cao, đủ sức nắm lấy và giải
quyết những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của loài người đặt ra. C.Mác và Ph.Ăng-ghen, như
Lênin nhận xét, là những cá nhân như thế.
Triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung không phải là một trào lưu biệt phái, nó
không tách rời văn minh chung của nhân loại. Nền văn minh đó, trực tiếp là những trào lưu tư
3


Chuyên đề: Vai trò của Triết học trong đời sống con người
tưởng và lý luận ở Châu Âu thế kỹ XIX: triết học cổ điển Đức (với các đại biểu Can-tơ, Phíchtơ, Sê-linh, Hê-ghen, Phoi-ơ-bắc); kinh tế chính trị Anh (đại biểu A.Xmít, Đ.Ri-các-đô); xã hội
chủ nghĩa không tưởng Pháp (đại biểu Xanh Xi-mông, S.Phu-ri-ê) và xã hội chủ nghĩa không
tưởng Anh (R.Ôoen) được C.Mác và Ph.Ăng-ghen kế thừa và phát triển một cách xuất sắc.
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hê-ghen và Phoi-ơ-bắc đã có

ảnh hưởng rất quan trọng về mặt lý luận đến sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của
C.Mác và Ph.Ăng-ghen.
Trên cơ sở đấu tranh, phê phán chủ nghĩa duy tâm, giải phóng phép biện chứng của Hê-ghen
khỏi tính chất thần bí, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã xây dựng phép biện chứng duy vật - hình thức
cao nhất của phép biện chứng, đối lập căn bản với phép biện chứng của Hê-ghen.
Phép biện chứng của Hê-ghen và chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc có ảnh hưởng rất lớn trong
việc hình thành thế giới quan duy vật, là một trong những tiền đề lý luận trực tiếp của triết học
Mác - Ăngghen.
Một cơ sở nữa không thể thiếu được để tạo ra các quan điểm duy vật về lịch sử trong triết học
Mác và khắc phục tính chất duy tâm siêu hình trong các quan niệm về xã hội của chủ nghĩa duy
vật trước Mác là nghiên cứu và cải tạo kinh tế chính trị học Anh với các đại biểu A.Xmit và
Đ.Ri-các-đô.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen cũng nghiên cứu có phê phán những tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa không tưởng từ năm 1843. Sự nghiên cứu đó (đặc biệt là về các đại biểu Xanh Ximông, S.Phu-ri-ê và R.Ô-oen) đã giúp cho C.Mác và Ph.Ăng-ghen hiểu một cách duy vật - biện
chứng về đời sống xã hội, dự báo sự phát triển tương lai của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa.
III. Tiền đề về khoa học tự nhiên
Ngoài hai tiền đề nêu trên, sự ra đời của triết học Mác còn có tiền đề về khoa học tự
nhiên. Theo Ph.Ăng-ghen, mỗi lần có một phát minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa
học tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại phải thay đổi hình thức của nó. Điều nầy chứng tỏ giữa
khoa học và triết học có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Chính sự phát minh của các nhà khoa
học buộc các nhà duy vật phải có sự biến đổi về tư duy.
Sự phát triển của khoa học tự nhiên vào thế kỹ thứ XVII và XVIII căn bản là của các khoa học
cụ thể, khoa học các bộ phận riêng rẻ của tự nhiên và do đó làm hình thành phương pháp siêu
hình. Đến cuối thế kỹ thứ XVIII và đầu thế kỹ thứ XIX, sự phát triển của khoa học tự nhiên đã
chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn phát triển khoa học tự nhiên lý luận. Khoa học nầy
đòi hỏi phải chuyển phương pháp nghiên cứu từ siêu hình, máy móc sang phương pháp biện
chứng, nghĩa là trình bày sự phát triển của tự nhiên như một quá trình vận động và liên hệ thống
nhất.
Trong quá trình phát triển của khoa học tự nhiên vào đầu thế kỹ thứ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nói đến ba phát minh lớn có ý nghĩa đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng,

đó là: quy luật bảo tồn và chuyển hóa năng lượng, học thuyết tế bào và thuyết tiến hóa của Đắcuyn. Phát minh thứ nhất cho phép vạch ra được mối liên hệ thống nhất giữa các hình thức vận
4


Chuyên đề: Vai trò của Triết học trong đời sống con người
động khác nhau của thế giới vật chất. Phát minh thứ hai chứng minh cho sự thống nhất, sự phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của thế giới sinh vật. Phát minh thứ ba đó là
thuyết tiến hóa của Đắc-uyn, giải thích tính chất biện chứng của sự phát triển phong phú, đa
dạng của giống loài trong thế giới tự nhiên hữu sinh. Trước đó do khoa học chưa phát triển nên
các nhà duy vật cho rằng triết học là "khoa học của các khoa học", nhưng khi các phát minh lớn
ra đời buộc các nhà duy vật phải thay đổi tư duy. Cuộc đấu tranh con người đã bắt đầu từ đâu và
quay về đâu đã được học thuyết tế bào đem đến lời giải đáp nghiêm túc. Học thuyết nầy còn gợi
ý cho việc đi tìm sự sống của loài người dựa vào sự tương đồng của cấu trúc di truyền.
Sự hình thành các khoa học tự nhiên mang tính lý luận. Như vậy, nó đã làm cho triết học về tự
nhiên trước đây có tham vọng đóng vai trò "khoa học của các khoa học" sẽ không còn tồn tại,
như Ph.Ăng-ghen đã nhận xét.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
như một triết học phù hợp với sự phát triển của các khoa học cụ thể (khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội), đồng thời trở thành thế giới quan và phương pháp luận cho các khoa học đó.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác và triết học của nó không phải là ngẩu nhiên, không phải là kết
quả của sự suy tư cá nhân, mà là một hiện tượng hợp quy luật, là sự suy tư mang tầm vóc đúc
kết và khái quát lịch sử thời đại, nó do những nguyên nhân kinh tế - xã hội và sự phát triển của
tư tưởng nhân loại trước đó. Khái quát kinh nghiệm của phong trào công nhân và những thành
tựu của khoa học tự nhiên, nghiên cứu phê phán những tư tưởng triết học trước đó.

PHẦN II:
PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC
TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
Triết học là một hệ thống những quan niệm chung nhất của con người về giới tự nhiên và xã hội
về vai trò của con người đối với thế giới. Để nghiên cứu, giải thích những vấn đề khoa học phát

sinh trong cuộc sống, đồng thời để đạt được mục đích yêu cầu chinh phục tự nhiên và xã hội,
con người đã sử dụng nhiều phương pháp và cách thức khác nhau, xem xét các sự vật, hiện
tượng dưới nhiều góc độ khác nhau và dĩ nhiên các kết luận mà họ đưa ra sẽ có những sự khác
biệt. Lịch sử triết học đã ghi nhận ba hình thức của phép biện chứng, hay nói cách khác, đó là ba
cách thức nhận thức khác nhau của phương pháp luận triết học Mác về thế giới mà con người đã
tiếp cận: "phép biện chứng tự phát thời cổ đại; phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng
duy vật".
Nghiên cứu các hình thức lịch sử của phép biện chứng đã giúp cho chúng ta một cái nhìn toàn
diện hơn và đầy đủ hơn về bức tranh chung của thế giới trải qua quá trình lịch sử phát triển của
nhân loại, nhất là về mặt nhận thức. Đặc biệt, việc tiếp cận và nghiên cứu phép biện chứng duy
5


Chuyên đề: Vai trò của Triết học trong đời sống con người
vật Mác - phép biện chứng khoa học, triệt để, mang ý nghĩa lý luận và thực tiển sâu sắc, là nền
tảng vững chắc nhất cho chúng ta trong quá trình nghiên cứu, khám phá thế giới khách quan bên
ngoài. Bên cạnh đó, chúng ta không thể bỏ qua những tư tưởng biện chứng của thời đại, trải qua
bao thăng trầm lịch sử, ít nhiều có những cống hiến nhất định vào kho tàng lý luận, nhận thức
của nhân loại.
Sự ra đời của triết học cổ điển Đức (Hê-ghen, 1770 -1831) lần đầu tiên khái niệm biện chứng
được hiểu một cách đầy đủ là phương pháp nghiên cứu và nhận thức thế giới. Từ đó, chủ nghĩa
duy vật Mác đã khẳng định: "Phép biện chứng là một trong những phương pháp chung nhất
giải quyết các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng, tư duy con người ở trạng động và không
ngừng phát triển". Cho đến nay, phép biện chứng đã được thể hiện dưới ba hình thức lịch sử
như sau:
I. Phép biện chứng tự phát thời cổ đại
Phép biện chứng tự phát ra đời vào thời kỳ cổ đại cùng với sự ra đời của triết học và chủ nghĩa
duy vật chất phát, sơ khai (vào khoảng thế kỹ thứ X - TCN). Chính trong thời kỳ nầy, đã tồn tại
nhiều quan niệm khác nhau mang đậm chất duy vật sơ khai, ít nhiều thể hiện quyết tâm của các
nhà duy vật cổ đại muốn được lý giải các vấn đề về bản chất và khởi nguyên của thế giới dựa

trên một số tri thức khoa học sơ khai sẳn có thời đó. Họ coi toàn bộ thế giới như một chỉnh thể
thống nhất, sinh ra từ một khởi nguyên duy nhất - khởi nguyên đó gắn liền với những dạng cụ
thể vật chất hoặc một thuộc tính sẳn có nào đó của thế giới vật chất, mà từ đó, theo quan niệm
của họ là nguồn gốc của mọi sự tồn tại.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, nó được xem như là cái nôi của tri thức văn minh nhân loại,
chúng ta thấy gắn liền với tên tuổi của các triết gia nổi tiếng như: Thales (625-547, TCN),
Anaximandre (610-546, TCN), Anaximen (588-525, TCN) và đặc biệt là Heraclite (530-470,
TCN) - Heraclite được xem là nhà duy vật tự phát và là cha đẻ của pháp biện chứng.
Thales vừa là một nhà toán học, vừa là nhà triết học, ông được coi là người sáng lập trường phái
triết học Milê của Hy Lạp cổ đại. Thế giới quan của ông là duy vật, khi bàn về bản nguyên của
thế giới, Thales cho rằng nước là bản chất chung của mọi vật, mọi hiện tượng trong thế giới.
Mọi cái trên thế gian đều sinh ra từ nước và khi bị phân hủy lại biến thành nước, nước tồn tại
vĩnh viễn còn mọi vật do nó tạo nên thì không ngừng biến đổi, sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế
giới là một chỉnh thể thống nhất, tồn tại tựa như một vòng tuần hoàn biến đổi không ngừng mà
nước là nền tảng của vòng tuần hoàn đó. Quan điểm trên của Thales rõ ràng mang mầm móng
của tư tưởng biện chứng: thế giới dưới cái nhìn của ông luôn vận động, chuyển hóa dù sự vận
động, chuyển hóa đó bị ông giới hạn ở yếu tố nước, một hạn chế về trình độ nhận thức do hoàn
cảnh lịch sử đem lại.
Trong triết học của mình, Anaximandre (khoảng 610-546, TCN) cũng thể hiện mầm móng tư
tưởng biện chứng, khác với Thales, quy luật mọi sự vận động, tồn tại về nước Anaximandre cho
rằng nguồn gốc, cơ sở của mọi sự vật là apeiron. Apeiron là một cái vô định hình, vô cùng tận,
tồn tại vĩnh viễn, là nguồn gốc và sự thống nhất của các sự vật đối lập nhau như nóng - lạnh,
sinh ra - chết đi. Toàn bộ vũ trụ được cấu thành từ apeiron tồn tại như một vòng tuần hoàn biến
đổi không ngừng. Đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật sơ khai, Anaximandre đã phê
phán các quan niệm trực quan của thần thoại và tôn giáo nguyên thủy về thế giới, ông cho rằng:

6


Chuyên đề: Vai trò của Triết học trong đời sống con người

"những gì bề ngoài mà thế giới hiện ra trước mắt chúng ta chưa hẳn là bản thân thế giới đích
thực".
Ở phương Đông đã tồn tại những tư tưởng biện chứng rất sớm. Tiêu biểu là thuyết "Âm dương Ngũ hành", thể hiện quan niệm duy vật chất phác về tự nhiên, tư tưởng biện chứng sơ khai về tự
nhiên, con người của triết học Trung Hoa cổ đại. Lý luận trên cho rằng, Kim-Mộc-Thủy-HỏaThổ là năm yếu tố cấu thànhnên thế giới. Chính sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các sự vật theo
chiều hướng tương sinh - tương khắc đã góp phần tạo nên sự đa dạng của thế giới vật chất, quan
điểm nầy cũng thể hiện tính biện chứng sâu sắc của con người phương Đông cổ đại, tuy còn
chất phác và máy móc nhưng trong buổi đầu của lịch sử nhân loại nó đã có tác dụng tích cực
chống lại chủ nghĩa duy tâm và mục đích luận trong quan niệm về tự nhiên.
Thành tựu đáng kể nhất của phép biện chứng cổ đại là công lao của Heraclite (530-470, TCN),
nhà biện chứng nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại. Ông xuất thân từ tầng lớp chủ nô quý tộc nhưng
bản thân sống rất nghèo khổ và đơn độc. Ông có nhiều tư tưởng biện chứng sâu sắc nhưng trong
cách thể hiện biến chứng ở ông không rõ ràng, có nhiều ẩn dụ khó hiểu.
Trong quan niệm về thế giới, Heraclite cho rằng bản nguyên của thế giới là lửa, "mọi cái biến
đổi thành lửa và lửa thành mọi cái như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hoá thành vàng"
hoặc "thế giới nầy đã luôn là ngọn lửa lung linh, lúc bùng cháy, lúc tắt đi trong đó lửa chuyển
hóa thành vạn vật và vạn vật quay về với lửa". Chuẩn mực của mọi sự vật theo Heraclite đó là
logos, nó tồn tại cả dưới dạng khách quan và chủ quan. Logos khách quan là trật tự khách quan
của mọi cái đang diễn ra trong thế giới, biến cả thế giới thành một chỉnh thể thống nhất đầy sống
động. Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời nói. Heraclite đã tiếp cận được với quan niệm
đúng đắn khi ông cho rằng: về nguyên tắc, thì logos chủ quan phải phù hợp với logos khách
quan nhưng nó biểu hiện ở từng người khác nhau, phù hợp với logos khách quan tức là những
quy luật vận động khách quan của thế giới được coi là tiêu chuẩn đánh giá mọi hoạt động, suy
nghĩ của con người.
Có thể nói, Heraclite là người đầu tiên trong triết học Hy Lạp xem xét thế giới như một quá trình
trải qua các trạng thái "hư vô - tồn tại - hư vô". Ông ví thế giới như "một dòng sông mà mọi thứ
ở đó đều chảy", cho nên "chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông". Dưới cái
nhìn biện chứng của ông, thế giới là một chỉnh thể năng động, sự vật thay đổi, biến hóa không
hổn độn mà có tính quy luật, chuyển hóa vào mặt đối lập của mình. Trong đời sống con người,
sự chuyển hóa nầy không phải là một quá trình đơn giản mà là đấu tranh, nguồn gốc của sự
đồng nhất bên trong và sự phát triển đấu tranh là hiện thân của tất cả. Bản thân logos theo quan

niệm của Heraclite cũng là sự thống nhất của các mặt đối lập.
Tóm lại, phép biện chứng thời cổ đại dù ra đời trong hoàn cảnh lịch sử còn nhiều hạn chế về mặt
trình độ nhận thức nhưng những tri thức sơ khai về tự nhiên, xã hội của chúng bước đầu đã đặt
nền móng cho chủ nghĩa duy vật tồn tại và phát triển.

II. Phép biện chứng duy tâm
Thế kỹ XVII và XIX trong lòng xã hội các nước phương Tây đã diễn ra những thay đổi
hết sức sâu sắc, cuộc cách mạng tư sản thắng lợi, giai cấp tư sản trở thành lực lượng lãnh đạo
7


Chuyên đề: Vai trò của Triết học trong đời sống con người
nhà nước, cùng với nó là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật với những thành tựu có ý nghĩa to
lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực cơ học đã làm thay đổi bộ mặt của đời sống xã hội. Song song đó,
triết học giai đoạn nầy cũng đã có những bước tiến đáng kể, nhiều nhà triết học duy vật với
những quan điểm tích cực về tự nhiên, xã hội và con người đã ra đời, ít nhiều thể hiện tư tưởng
biện chứng dưới những hình thức phong phú và đa dạng. Tiêu biểu như Bêcơn, Spinoza, Galile
và Locke…, nhưng có lẽ thành tựu quan trọng nhất của phép biện chứng thời kỳ nầy là phải kể
đến công lao của nhà triết học cổ điển lỗi lạc người Đức F.Hêghen (1770-1831), triết học của
ông là đỉnh cao của phép biện chứng và chủ nghĩa duy tâm trước Mác, là bộ óc bách khoa của
thời đại mình.
Khác với các quan điểm truyền thống coi phép biện chứng là nghệ thuật tranh luận,
Hêghen hiểu đây là một khoa học về sự phát triển của các khái niệm được ông đồng nhất với
bản chất của sự vật. Phép biện chứng nói chung là nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và
mọi hoạt động trong phạm vi hiện thực. Cái biện chứng còn là linh hồn của mọi nhận thức khoa
học chân chính.
Lần đầu tiên trong lịch sử của nhân loại, Hêghen đã trình bày những nội dung cơ bản của
phép biện chứng một cách có hệ thống với các khái niệm, phạm trù và những qui luật cơ bản.
Khi quan niệm về sự phát triển, Hêghen cho rằng: sự phát triển là một quá trình phủ định biện
chứng, trong đó liên tiếp diễn ra cái mới thay thế cái cũ, nhưng đồng thời kế thừa những yếu tố

của cái cũ mà vẫn có khả năng thúc đẩy sự phát triển. Những hình thái trên đây không chỉ khác
nhau mà còn bài trừ không dung hợp nhau, tuy nhiên bản chất sống động làm chúng trở thành
những yếu tố của một chỉnh thể hữu cơ, trong đó chúng không những không mâu thuẩn với nhau
mà cái nầy cũng tất yếu như cái kia, mà chỉ có tính tất yếu như nhau, như thế tạo nên cuộc sống
của chỉnh thể. Mọi sự vật trong thế giới, theo quan điểm của Hêghen đều phát triển theo những
quy luật biện chứng. Phát triển là quy luật tất yếu bên trong của mọi vật, đó là sự thay đổi dần
dần về lượng dẫn đến sự biến đổi nhảy vọt về chất, là sự nảy sinh và giải quyết mâu thuẩn giữa
các mặt đối lập trong lòng mỗi sự vật, là sự phủ định của phủ định. Phát triển là quy luật khách
quan không gì có thể cưỡng lại được.
Bên cạnh những quan niệm biện chứng về vận động và phát triển Hêghen còn xây dựng
một hệ thống các cặp phạm trù cơ bản trong triết học có ý nghĩa lý luận sâu sắc. Để hiểu rõ hơn
về mối quan hệ giữa các sự vật, Hêghen đã chỉ ra cặp phạm trù nội dung - hình thức, đó là mọi
sự vật chuyển hóa biện chứng từ hình thức sang nội dung và ngược lại và diễn ra trong những
điều kiện nhất định. Chính sự chuyển hóa đó làm cho bản chất sự vật thể hiện sinh động hơn,
bản chất trong sự sống động của mình là hiện tượng hay nói cách khác bản chất thì hiện ra, còn
hiện tượng thì có bản chất, bản chất sâu sắc hơn, nhưng hiện tượng phong phú hơn. Cái lặp lại
liên tục trong các hiện tượng là quy luật. Thực tiển khác với tồn tại bởi hai đặc trưng của nó là
khả năng và tất yếu. Mặt đối lập với tất yếu là ngẩu nhiên, tức là cái gì đó có thể có, có thể
không, có thể thế nầy, có thể thế kia. Song, xét cho cùng các sự vật và hiện tượng đều diễn ra
theo mối quan hệ nhân quả.
Theo Hêghen, mọi cái đều là sự thống nhất, nhưng không phải là sự thống nhất khô cứng
mà là sự thống nhất của các mặt đối lập. Bước chuyển từ giai đoạn nầy sang giai đoạn khác là
quá trình tích lũy dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại, đồng thời đây cũng
là quá trình phủ định của giai đoạn sau đối với giai đoạn trước. Tồn tại của sự vật được phân
biệt bởi chất và lượng, sự thống nhất của hai cái đó tạo ra khái niệm độ. Nếu độ bị phá hủy thì
8


Chuyên đề: Vai trò của Triết học trong đời sống con người
chất cũ bị mất đi, chất mới xuất hiện. Ba quy luật: mâu thuẩn, phủ định của phủ định, sự thay

đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất gắn liền hữu cơ với nhau trên mọi giai đoạn phát triển
của sự vật và khái niệm. Chính những cặp phạm trù và những quy luật cơ bản trên của phép biện
chứng mà Hêghen đã dày công nghiên cứu, xây dựng nên cùng với những tư tưởng tiến bộ về
việc nhìn nhận sự vận động, liên hệ và phát triển diễn ra không ngừng trong thế giới đã được
phép biện chứng duy vật của hai nhà triết học C.Mác và Ph.Ăng-ghen sau nầy kế thừa và hoàn
thiện hơn để nó trở thành một phương pháp khoa học đích thực có ý nghĩa lý luận và thực tiển
sâu sắc phục vụ cho hoạt động khoa học và nhận thức của nhân loại. Mặc dù để lại những tư
tưởng biện chứng xuất sắc nhất trong giai đoạn triết học trước Mác nhưng những tư tưởng biện
chứng trên của Hêghen vẫn còn chứa đựng nhiều hạn chế:
-

Do thế giới quan là duy tâm nên phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm
khách quan, phép biện chứng của ý niệm thần bí, thiếu khoa học, thiếu triệt để. Ông quá đề
cao, tuyệt đối hóa vai trò của "ý niệm tuyệt đối", coi đây là nguồn gốc sản sinh ra sự vật,
hiện tượng. Theo Hêghen, "ý niệm tuyệt đối" là cái có trước thế giới, giới tự nhiên, xã hội là
cái biểu hiện ra bên ngoài của "ý niệm tuyệt đối", do "ý niệm tuyệt đối" tha hóa mà thành.
Từ đó, ông kết luận rằng chính biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng của sự vật.
Đây là một sai lầm quan trọng, nó ảnh hưởng đến toàn bộ nội dung phép biện chứng của
ông.

-

Triết học của Hêghen cũng như phép biện chứng duy tâm của ông còn chưa đựng những yếu
tố bảo thủ, phi lịch sử. Nếu như trong phép biện chứng của mình, Hêghen khẳng định sự
phát triển là phổ biến thì trong hệ thống triết học Hêghen lại phủ nhận tính phổ biến của sự
phát triển. Bởi vì thiên nhiên, theo Hêghen, không phát triển trong thời gian mà chỉ triển
khai đa dạng trong không gian. Quan niệm siêu hình nầy về giới tự nhiên rõ ràng xuất phát
từ luận điểm duy tâm khởi đầu của Hêghen.

-


Triết học của Hêghen cũng như phép biện chứng của ông còn chứa đựng nhiều mâu thuẩn,
không triệt để. Nếu phép biện chứng của ông khẳng định rằng sự phát triển là vô hạn thì
trong hệ thống triết học của mình Hêghen lại đặt ra giới hạn cho sự phát triển của tư duy,
nhận thức nói chung và xã hội. Hơn nữa, bản thân phép biện chứng của Hêghen cũng không
triệt để bởi tính chất duy tâm của nó, không đủ sức thoát ra khỏi hệ thống triết học duy tâm,
lý giải chưa toàn diện sự thống nhất của các mặt đối lập, chỉ nhấn mạnh sự đồng hóa lẫn
nhau, sự đồng nhất và sự tương liên. Chính những mâu thuẩn và tính không triệt để nầy đã
làm cho phép biện chứng của Hêghen có ý nghĩa về mặt học thuật thì nhiều, nhưng ý nghĩa
về mặt thực tiển thì ít.

Tóm lại, dù còn nhiều hạn chế nhưng phép biện chứng của Hêghen đã thể hiện sự phát
triển của tư duy thời đại, đem lại cho nhân loại một hệ thống các quan điểm, cặp phạm trù, quy
luật và các nguyên lý. Những vấn đề hạn chế mà Hêghen nêu ra nhưng chưa giải quyết triệt để
sẽ được tiếp tục giải quyết trên mảnh đất mới với phương pháp mới, đó là phép biện chứng duy
vật.
III. Phép biện chứng duy vật
C.Mác và Ph.Ăng-ghen là những người sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng vào
giữa thế kỹ thứ XIX và sau đó được Lênin phát triển hơn nữa vào đầu thế kỹ thứ XX đã đem lại

9


Chuyên đề: Vai trò của Triết học trong đời sống con người
cho phép biện chứng một hình thức mới về chất. Đó là phép biện chứng duy vật. Theo Ph.Ăngghen, phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận
động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy. Hay nói cách khác, phép
biện chứng duy vật là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển của
tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương
pháp luận biện chứng, có tính kế thừa trực tiếp và hoàn thiện phép biện chứng của Hêghen. Nhờ

đó, phép biện chứng duy vật đã khắc phục được những hạn chế trước đây của phép biện chứng
chất phác, thô sơ thời cổ đại và phép biện chứng duy tâm, nó thực sự trở thành khoa học.
Phép biện chứng duy vật có sự thống nhất giữa biện chứng khách quan và biện chứng
chủ quan. Biện chứng là đặc tính phổ biến của thế giới khách quan và tư duy con người. Biện
chứng khách quan là toàn bộ giới tự nhiên và xã hội với những quy luật khách quan của nó.
Biện chứng chủ quan là tư duy biện chứng, quy luật phản ánh của tư duy con người.
Phép biện chứng duy vật có nội dung hết sức phong phú. Nói một cách khái quát nó là
khoa học về mối quan hệ phổ biến và sự phát triển của sự vật và hiện tượng của thế giới vật
chất. Đó được xem là hai nguyên lý chung nhất của phép biện chứng duy vật.
-

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Mối liên hệ mang tính khách quan diễn ra giữa các yếu
tố cấu thành sự vật, giữa sự vật, hiện tượng nầy với sự vật, hiện tượng khác, nó vừa mang
tính trực tiếp vừa mang tính gián tiếp. Do đó, muốn nhận thức đúng mối liên hệ phải có quan
điểm toàn diện, khắc phục quan điểm phiến diện một chiều.

-

Nguyên lý về sự phát triển: Phát triển là sự vận động mà kết quả là đưa sự vật tiến lên từ
giản đơn đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Tuỳ theo các lĩnh
vực khác nhau mà sự phát triển sẽ thể hiện khác nhau.

Tính chất siêu hình của các quan điểm trước Mác về bản chất con người biểu hiện ở chỗ
coi bản chất đó là cái vốn có, trừu tượng, đặc trưng bản chất con người được quy về bản tính tự
nhiên, do đó nó trở nên bất biến. Họ không thấy được rằng, nó được hình thành và biến đổi
trong quá trình biến đổi của đời sống xã hội. Ngay cả các nhà duy vật Pháp và Anh thế kỹ thứ
XVIII, mặc dù đã thấy được sự phụ thuộc của con người vào hoàn cảnh nhưng rốt cuộc vẫn xem
những biểu hiện bản chất con người trong cuộc sống thực (tính ích kỷ, hành vi chinh phục…)
như những bản tính tự nhiên của con người.
Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, triết học Mác giúp chúng ta

đi tới nhận thức được bản chất con người với những biểu hiện thực sinh động của nó. Ngay từ
bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, một trong những tác phẩm đầu tiên, Mác đã cắt nghĩa sự
tha hóa con người từ lao động bị tha hóa, nghĩa là ông đã tìm ra bản chất con người ở lao động.
Chỉ có xem xét con người trong đời sống xã hội hiện thực mới hiểu được đúng bản chất của nó
không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá thể người. Và trong luận cương của Phoi-ơ-bắc
(1845), Mác đã đi tới luận đề: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội.
Thông qua các hoạt động thực tiển, con người làm biến đổi đời sống xã hội, đồng thời
cũng biến đổi chính bản thân mình. Đây là phát hiện có giá trị to lớn của Mác về bản chất con
10


Chuyên đề: Vai trò của Triết học trong đời sống con người
người, ở đây Mác chỉ xem xét yếu tố cấu thành bản chất con ngườikhông những bằng các quan
hệ xã hội, mà còn vạch ra bản chất con người không những bằng các quan hệ xã hội mà còn
vạch ra bản chất con người trong tính hiện thực của nó.
Tóm lại, nghiên cứu ba hình thức lịch sử của phép biện chứng giúp cho chúng ta một cái
nhìn đúng đắn, toàn diện hơn về thế giới hiện thực xung quanh mình. Phép biện chứng thơ ngây,
thô sơ thời cổ đại dù mang trên mình những hạn chế lớn do trình độ nhân thức, hoàn cảnh lịch
sử đem đến, nhưng những đóng góp của các nhà triết học cổ đại đã thực sự đặt nền móng cho
những tư tưởng biện chứng sau nầy phát triển và hoàn thiện hơn. Phê phán quan điểm phép biện
chứng duy tâm thần bí của Hêghen, nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận những đóng góp của
ông đặc biệt là tư tưởng biện chứng, lần đầu tiên được đúc kết lại một cách có hệ thống.

PHẦN III:
NHẬN THỨC LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC
TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
Như đã biết, một trong những nguyên lý nền tảng của học thuyết Mác
là nguyên lý tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội, trong đó những nhân tố vận
động chủ yếu được xác định là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của

xã hội. Chính nguyên lý tiếp cận trên đây đã dẫn đến một kết quả khoa học
cực kỳ quan trọng, quyết định tương lai của nhân loại. Đó là mâu thuẩn tất
yếu giữa lực lượng sản xuất với tính xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ
sản xuất dựa trên tư hữu về tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản đã trở nên
không còn phù hợp sẽ dẫn đến cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, khác hẳn
với cuộc cách mạng tư sản trước đây ở chỗ là nó sẽ dẫn đến xoá bỏ giai cấp,
đưa loài người tiến lên chủ nghĩa cộng sản.

11


Chuyên đề: Vai trò của Triết học trong đời sống con người
Kết luận khoa học trên đây đã được phát triển sáng tạo trong thực tiển
của Cách mạng Tháng Mười Nga, một sự kiện lịch sử quan trọng mở đầu của
thế kỷ XX.
Rất đáng tiếc, sau sự kiện tháng 8 năm 1991, sự tan rã của nhà nước
Liên Xô đã đặt ra những vấn đề lý luận to lớn, một mặt theo hướng phát
triển để không những giải thích được các sự kiện lịch sử hiện đại mà còn
định hướng những hoạt động thực tiển cách mạng; mặt khác phải đấu tranh
chống lại các trào lưu lý luận cơ hội tấn công vào và với tham vọng phủ nhận
học thuyết Mác.
Bài viết này trình bày một cách nhìn mợihoc thuyết Mác thông qua
thực tiển xã hội hiện đại, mong đóng góp nhỏ bé vào việc bảo vệ học thuyết
Mác và có liên hệ với thực tiển phát triển của cách mạng Việt Nam .
Trong quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong thế giới hiện đại,
cho thấy: những khái niệm khoa học kinh tế chính trị về lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất đã được C.Mác và Ph. Ăng-ghen tổng hợp xây dựng rất
hoàn chỉnh và khoa học, đặc biệt trong các tác phẩm Hệ tư tưởng Đức và bộ
Tư bản.
Về lực lượng sản xuất bao gồm nhiều thành phần, chủ yếu là lao động,

các phương tiện tác động lên đối tượng lao động (ví dụ các trang thiết bị,
máy móc…) và các đối tượng lao động đã hàm chứa lao động quá khứ và có
nguồn gốc từ tự nhiên, nói gọn là lao động và tư liệu sản xuất. Trong thế giới
hiện đại, lực lượng sản xuất phát triển rất đa dạng như C.Mác đã dự kiến,
khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Lao động hiện nay đang
chuyển dần sang chủ yếu lao động có trình độ kiến thức, tay nghề cao và lao
động trí óc nói chung. Các đối tượng lao động cũng không chỉ trực tiếp có
nguồn gốc tự nhiên mà ngày càng xuất hiện nhiều loại không từng có trong
tự nhiên (xét đến tận gốc rễ thì mới thấy nguồn gốc từ tự nhiên). Trong bối
cảnh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, các thành phần
chủ yếu của lực lượng sản xuất có thể thâm nhập xen lẫn nhau ngày càng
mạnh mẽ. Ví dụ, giữa lao động và các phương tiện tác động lên đối tượng lao
động đã có sự thâm nhập lẫn nhau rất cao, như trong các dây chuyền tự
động, các người máy, v.v.. Ở đây, cần nhấn mạnh rằng trong dây chuyền tự
động và người máy đã kết tinh một lượng lớn của lao động quá khứ trình độ
cao, và tiềm ẩn một "cái có thể" về sự liên thông giữa lao động quá khứ và
lao động sống. Bởi vậy, lý luận cho rằng người máy có thể hoàn toàn thay
con người sản xuất, do đó không có khía niệm bóc lột giá trị thặng dư, là rất
hời hợt và dẫn đến sai lầm.
Nhìn chung trong lịch sử loài người, lực lượng sản xuất tăng liên tục và
có những bước nhảy vọt là yếu tố năng động nhất, cách mạng nhất của sản
xuất, với xu hướng hàm lượng lao động trí óc, tính xã hội hóa toàn diện và
toàn cầu hóa ngày càng tăng.

12


Chuyên đề: Vai trò của Triết học trong đời sống con người
Trong quá trình nghiên cứu về lực lượng sản xuất, không thể không
xem xét đến mối quan hệ của nó với quan hệ sản xuất và các yếu tố xã hội

khác. Vì đó là một đối tượng nghiên cứu rất phức tạp, một "thực thể nhiều
chiều", nên cách tiếp cận ban đầu của phương pháp tư duy bao giờ cũng
mong muốn đơn giản hóa bài tóan bằng cách lựa chọn ra nhiều yếu tố tổng
hợp có tính đặc trưng nhất của lực lượng sản xuất. Chính Lênin đã nêu lên
năng suất lao động như là một yếu tố tổng hợp đặc trưng trình độ của lực
lượng sản xuất, thậm chí có vai trò quyết định "ai thắng ai". hiển nhiên năng
suất lao động chỉ phản ánh trình độ lực lượng sản xuất khi có quan hệ sản
xuất phù hợp. Ngày nay, năng suất lao động còn phải hiểu bao hàm cả chất
lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất.
Trong quan hệ sản xuất có mối liên hệ chặt chẽ với lực lượng sản xuất
ngay trong bản thể sản xuất. Có thể hiểu quan hệ sản xuất theo nghĩa rộng
là toàn bộ những mối tương tác qua lại giữa người và người về mặt kinh tế
thì cốt lõi nhất vẫn là quan hệ giữa người và người về quyền sỡ hữu tư liệu
sản xuất, điều kiện cốt yếu để mọi quá trình sản xuất trở thành hiện thực.
Quan hệ sản xuất còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, chứ không thể tùy theo ý muốn của con người. Các hình thức của
quan hệ sản xuất, do đó cũng phát triển theo sự phát triển của trình độ của
lực lượng sản xuất.

Một trong những quy luật cơ bản của duy vật lịch sử trong học thuyết
Mác và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này có nghĩa là giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn có mối tương tác qua lại, không
phải chỉ là ảnh hưởng một chiều của lực lượng sản xuất lên quan hệ sản xuất
và ngược lại. Chính ở đây, nó thể hiện quá trình thống nhất biện chứng giữa
hai mặt mâu thuẫn nhau của sản xuất. Tuy nhiên, cho đến nay một phương
pháp luận để tiếp cận vấn đề thế nào là đã có sự phù hợp tương đối giữa hai
mặt của sản xuất, vẫn còn đang ở trong tình trạng mô tả, giải thích hơn là
một phương pháp phân tích có căn cứ không đa nghĩa. Cũng tương tự như
vậy, đối với tình trạng không có sự phù hợp và mâu thuẫn giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất đang trở nên gay gắt thì những công cụ lý luận có

khả năng dự báo thường bất cập và nhiều khi không tránh khỏi các sai lầm
nghiêm trọng.
Tóm lại, thời kỳ quá độ là một thời kỳ có định hướng, đòi hỏi nổ lực cao
và đầy thử thách, để hòan tất về mặt lực lượng sản xuất những gì còn chưa
có so với khi đã đi qua chủ nghĩa tư bản phát triển, về mặt quan hệ sản xuất
và văn hóa - xã hội phải phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó
các nước đã qua thời kỳ quá độ có thể "tự nhiên" tiến vào chủ nghĩa xã hội
hoàn toàn, mà không phải dừng lại cải tạo ở giai đọan "phòng chờ". Mặt
khác, sự nghiệp giải phóng con người và loài người là sự nghiệp tự giải
phóng; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Không phải là một lý tưởng
13


Chuyên đề: Vai trò của Triết học trong đời sống con người
mà hiện thực phải khuôn theo. Đối với các ông, chủ nghĩa xã hội là một
phong trào hiện thực, trong đó con người, quần chúng đông đảo vừa là mục
tiêu, vừa là chủ thể. Để có xã hội cộng sản chủ nghĩa, phải có trình độ phát
triển rất cao cả về kinh tế và về con người.

KẾT LUẬN
Nghiên cứu triết học Mác thông qua các hình thức nhận thức về thế
giới quan, phương pháp luận và nhận thức luận đối với đời sống con người,
cho thấy vai trò của con người ngày càng cần được chú ý, đặc biệt là khi
nghiên cứu các quy luật xã hội. Chúng ta đều biết rằng, tính khách quan của
quy luật xã hội không thể hiểu theo nghĩa là nó tác động tách rời hoạt động
của con người. Trước đây, khi trình bày các quy luật xã hội, vai trò của con
người thường lại không được chúng ta quan tâm thích đáng. Chẳng hạn, nếu
chúng ta tách hoạt động của con người ra khỏi quá trình nghiên cứu quy luật
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì
nhận thức về vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản

xuất cũng như tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản
xuất sẽ trở nên trừu tượng và đơn giản.
Thế giới quan có vai trò quan trọng trong cuộc sống của mỗi con
người, mỗi giai cấp, mỗi cộng đồng người và của xã hội nói chung. Có thể coi
thế giới quan là "lăng kính", qua đó, con người có thể xem xét và nhìn nhận
được thế giới. Từ đó, nó định hướng cuộc sống, chi phối nhận thức và hoạt
động thực tiển của con người. Hình thành và phát triển thế giới quan là một
trong những chỉ tiêu quan trọng của quá trình hình thành và phát triển nhân
cách con người. Trong thế giới quan, có sự thống nhất giữa tri thức và niềm
tin, lý trí và tình cảm. Trong lịch sử xã hội, thế giới quan được thể hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau, trong đó, chủ yếu là các hình thức thần thoại,
tôn giáo và triết học. Như vậy, triết học là sự nắm bắt thế giới quan bằng lý
14


Chuyên đề: Vai trò của Triết học trong đời sống con người
luận, là sự thể hiện cô đọng và tập trung thế giới quan của một giai cấp, một
thời đại nhất định. Nó thể hiện chiều sâu của tư tưởng, trình độ cao của trí
tuệ con người trong quá trình nhận thức thế giới quan của triết học Mác đối
với đời sống con người.
Phép biện chứng duy vật do C.Mác và Ph.Ăng-ghen khởi xướng và được
Lênin hoàn thiện, phát triển thêm đã trang bị cho nhân loại một thế giới
quan duy vật đúng đắn, khoa học, giúp con người nhận thức đúng đắn, cải
tạo hiện thực xung quanh. Chính vì thế, việc nghiên cứu sâu nội dung của
phép biện chứng duy vật mácxít có ý nghĩa lý luận và thực tiển sâu sắc đối
với chúng ta, nhất là trong giai đoạn đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới
như hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại cương Triết học phương Tây, Đinh Ngọc Thạch. Đại Học Tổng Hợp

Tp.HCM.
2. Giáo trình Triết học Mác - Lênin, NXB - CTQG, 1999.
3. Triết học Mác - Lênin, đề cương bài giảng dùng cho các trường Đại Học và
Cao Đẳng từ năm 1991-1992, Tập I. Bộ GD-ĐT, 1992.
4. Triết học. Tập I, II, III dùng cho Nghiên cứu sinh và Cao học không thuộc
chuyên ngành triết học, Bộ GD-ĐT, 1999.
5. Nghiên cứu - Trao đổi về Lược đồ Mác với nhận thức vùng quá độ và cơ
chế thị trường, Số 2, 01-1999.

15



×