Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

bài dự thi tìm hiểu 87 năm truyền thống đoàn TNCSHCM và hiến kế cho đoàn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 22 trang )

BÀI DỰ THI TÌM HIỂU VỀ “CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH, 87 NĂM TRUYỀN THỐNG, LỊCH SỬ VẺ VANG CỦA ĐOÀN
TNCS HỒ CHÍ MINH VÀ HIẾN KẾ CHO ĐOÀN”
Câu hỏi 1: Đồng chí hãy nêu những bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin
và trình bày khái niện các bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin?
Trả lời:
Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học do C.Mác,
Ph Awnghen sáng lập từ những năm giữa thế kỷ XIX và đã được V.I.Lênin bổ sung,
phát triển hoàn thiện trong điều kiện mới của lịch sử thế giới đầu thế kỷ XX.và Lênin
kế thừa và phát triển. Là thế giới quan, phương pháp luận phổ biến của nhận thức
khoa học và thực tiễn cách mạng, là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản,
giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức bóc lột và tiến tới giải phóng toàn
thể nhân loại. Chủ nghĩa Mác- Lênin có giá trị khoa học và thực tiễn. Đây là học
thuyết đã tiến đến một giai cấp giải phóng toàn thể nhân loại.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ thống lý luận thống nhất được cấu thành từ ba bộ
phận lý luận cơ bản là triết học Mác – Lênin, kinh tế chính trị học Mác Lênin và chủ
nghĩa xã hội khoa học; là hệ thống lý luận khoa học thống nhất về mục tiêu, con
đường, biện pháp, lực lượng thực hiện sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, nhân
dân lao động, giải phóng con người, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản.
+ Triết học Mác – Lênin là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã
hội và tư duy; có vai trò trang bị cho con người thế giới quan khoa học và phương
pháp luận đúng đắn để nhận thức và cải tạo thế giới.
+ Kinh tế chính trị học Mác – Lênin là khoa học nghiên cứu phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, chỉ rõ bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa; những
quy luật kinh tế chủ yếu hình thành, phát triển và đưa chủ nghĩa tư bản tới chồ diệt
vong; những quy luật phát triển của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
+ Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu những quy luật chuyển biến từ xã hội tư bản
chủ nghĩa lên xã hội xã hội chủ nghĩa và phương thức xây dựng xã hội mới. Nó chúng
minh rằng, việc xã hội hoá lao động trong chủ nghĩa tư bản đã tạo ra cơ sở vật chất
chủ yếu cho sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội; động lực trí tuệ và tinh thần của sự


chuyển biến đó là chủ nghĩa Mác – Lênin; lực lượng xã hội thực hiện sự chuyển biến
đó là giai cấp vô sản và nhân dân lao động.
Câu hỏi 2: Trình bày các nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh?


Trả lời: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là
1. Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh và mong muốn của Người là
mục tiêu giành độc lập, tự do cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, làm cho
nhân dân “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Để thực hiện mục tiêu
đó cần thực hiện sự giải phóng triệt để: Đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người. Chính vì mục tiêu cao cả đó, Người đi tìm đường cứu nước và
đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, đóng góp quan
trọng vào sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động trên toàn thế giới.
2. Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại.
Người đã chỉ ra rằng: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản”. Người đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và
giai cấp, quốc gia và quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Những
tư tưởng quan trọng này xuất phát từ một đòi hỏi thực tiễn bức xúc: Phải chống chủ
nghĩa thực dân, phải gắn liền cách mạng thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Con
đường để giữ vững độc lập, tự do, hạnh phúc, ấm no cho dân tộc là con đường đi lên
xã hội chủ nghĩa, phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên mọi lĩnh vực. Độc
lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội
là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ di sản lý luận Hồ Chí Minh.
3. Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, Hồ Chí Minh đã đưa vai trò của nhân dân lên tầm cao mới: Nhân dân là

chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là người chủ thực sự của đất nước; coi nhân tố con người
là nguồn lực cơ bản tạo nên sức mạnh vô địch để kháng chiến, kiến quốc. Người
thường nói: Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó vạn lần dân liệu cũng xong. Sức
mạnh của nhân dân được nhân lên gấp bội khi thực hiện được khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt
Nam. Người khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công,
đại thành công”..
4. Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do
dân, vì dân.
Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN. Dân chủ là mục tiêu, là động lực của cách
mạng XHCN. Thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, trong nhân dân là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Nhà nước là công cụ chủ yếu để nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Do đó, Hồ Chí Minh coi trọng việc xây dựng


Nhà nước trong sạch, vững mạnh, của dân, do dân, vì dân. Nhà nước ta mang bản chất
giai cấp công nhân, có tính dân tộc và nhân dân sâu sắc do Đảng lãnh đạo, hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực; đội ngũ cán bộ Nhà nước
phải có đức, có tài, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là công bộc
của nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ. Để xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì
dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chỉ rõ phải kiên quyết đấu tranh chống tham ô, lãng
phí, quan liêu. Coi tham ô, lãng phí, quan liêu là ba thứ “giặc nội xâm” rất nguy hiểm.
5. Tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về bạo lực cách mạng, Hồ
Chí Minh luôn coi bạo lực cách mạng là sức mạnh tổng hợp của nhân dân, bao gồm
các hình thức: Chính trị, quân sự và sự kết hợp giữa chính trị và quân sự. Trong quá
trình đấu tranh giành và giữ chính quyền, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bên
cạnh việc chăm lo xây dựng lực lượng chính trị, phải chăm lo xây dựng, củng cố lực
lượng vũ trang, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thực

hành chiến tranh nhân dân với sức mạnh tổng hợp. Người nhấn mạnh: Quân sự phải
phục tùng chính trị, lấy chính trị làm gốc. Quân đội ta là quân đội nhân dân, từ nhân
dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, quân đội ta là đội quân chính trị, đội quân chiến
đấu, đội quân công tác. Lực lượng vũ trang nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt của Đảng.
6. Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân.
Suốt đời Hồ Chí Minh phấn đấu cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân.
Người chỉ rõ: Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập
cũng chẳng có ý nghĩa gì! Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đảng cần
phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng
cao đời sống của nhân dân”.
7. Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Hồ Chí Minh luôn chăm lo giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và mọi người dân về
phẩm chất đạo đức cách mạng. Người đặt lên hàng đầu tư cách “Người cách mệnh”
và bản thân Người cũng là một tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư. Người coi đạo đức như là gốc của cây, là nguồn của các
dòng sông. Người cộng sản mà không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân. Cốt lõi của đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh
là trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do, vì CNXH.
8. Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Người coi bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất
cần thiết “Vì lợi ích mười năm trồng cây; vì lợi ích trăm năm trồng người”. Người
nói: Đảng cần phải chăm lo, giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành
những người thừa kế xây dựng CNXH vừa “hồng” vừa “chuyên”.


9. Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Theo Hồ Chí Minh, muốn làm cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng, Đảng có
vững cách mạng mới thành công. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa chân chính làm

cốt, chủ nghĩa như trí khôn của người, như la bàn của con tầu. Đảng là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Muốn vậy, Đảng
phải trong sạch, vững mạnh về mọi mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức, kiên định mục
tiêu, lý tưởng; có đường lối cách mạng đúng đắn; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập
trung dân chủ, thực hành tự phê bình và phê bình; thực sự đoàn kết nhất trí; mỗi đảng
viên phải không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ để thật sự xứng đáng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, xứng đáng với
niềm tin yêu của quần chúng nhân dân.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú, toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề rất cơ bản của cách mạng Việt Nam, đã và đang soi đường cho thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào Việt Nam, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững
bước tiến lên giành những thắng lợi lịch sử có ý nghĩa thời đại sâu sắc.
Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện đổi mới, mở cửa và hội nhập, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Bên cạnh thuận lợi, chúng ta cũng có nhiều khó khăn, do đó mỗi người
cần nghiên cứu, học tập, nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm
vững đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước để kiên định mục
tiêu lý tưởng cách mạng: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, như Bác Hồ hằng mong
muốn.
Câu hỏi 3: Sự ra đời của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh? Những truyền thống vẻ
vang của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh từ ngày thành lập đến nay?
Trả lời:
* Lịch sử ra đời của đoàn TNCS Hồ Chí Minh:
Mùa xuân năm 1931, từ ngày 20 đến ngày 26/3, tại Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 2, Trung ương Đảng đã giành một phần quan trọng trong
chương trình làm việc để bàn về công tác thanh niên và đi đến những quyết định có ý
nghĩa đặc biệt, như các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương phải cử ngay các

ủy viên của Đảng phụ trách công tác Đoàn. Trước sự phát triển lớn mạnh của Đoàn
trên cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, ở nước ta xuất hiện nhiều tổ chức Đoàn cơ sở với
khoảng 1.500 đoàn viên và một số địa phương đã hình thành tổ chức Đoàn từ xã,
huyện đến cơ sở.


Sự phát triển lớn mạnh của Đoàn đã đáp ứng kịp thời những đòi hỏi cấp bách của
phong trào thanh niên nước ta. Đó là sự vận động khách quan phù hợp với cách mạng
nước ta; đồng thời, phản ánh công lao trời biển của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh
vô cùng kính yêu - Người đã sáng lập và rèn luyện tổ chức Đoàn. Được Bộ Chính trị
Ban chấp hành Trung ương Đảng và Bác Hồ cho phép, theo đề nghị của Trung ương
Đoàn thanh niên Lao động Việt Nam, Đại hội toàn quốc lần thứ 3 họp từ ngày 22 25/3/1961 đã quyết định lấy ngày 26/3/1931 (một ngày trong thời gian cuối của Hội
nghị Trung ương Đảng lần thứ 2, dành để bàn bạc và quyết định những vấn đề rất
quan trọng đối với công tác thanh niên) làm ngày thành lập Đoàn hàng năm. Ngày
26/3 trở thành ngày vẻ vang của tuổi trẻ Việt Nam, của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh quang vinh.
* Những truyền thống vẻ vang của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:
Kể từ ngày thành lập (26.3.1931) đến nay, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã trải
qua 87 năm cống hiến và trưởng thành dưới ngọn cờ của Đảng quang vinh và Bác Hồ
kính yêu. Trong quá trình đó, tổ chức Đoàn và tuổi trẻ nước ta đã xây đắp nên những
giá trị truyền thống quý báu:
Truyền thống yêu nước nồng nàn, gắn bó thiết tha, trung thành tuyệt đối với
Đảng, với nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Truyền thống của một đội quân xung kích cách mạng, dám đón lấy những
nhiệm vụ nặng nề, dám đi đến những nơi khó khăn, gian khổ, dám suy nghĩ sáng
tạo… để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Truyền thống gắn bó đoàn kết trong lớp người cùng lứa tuổi, trong các tổ chức
Đoàn và Hội; đoàn kết gắn bó với nhân dân; thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong
hoạn nạn, đặc biệt là vào những thời điểm đối mặt với kẻ thù hay thiên tai. Đoàn kết
dân tộc và đoàn kết quốc tế luôn hòa quyện với nhau, thông cảm và đồng tâm hợp

lực bì những mục tiêu cao cả của dân tộc và thời đại.
Truyền thống hiếu học, ham hiểu biết để tự mình nâng cao trình độ chính trị, học
vấn, khoa học, kỹ thuật, quản lí và quân sự, sống có văn hóa… say mê sáng tạo
trong hoạt động thực tiễn, để cống hiến cho sự nghiệp của dân tộc và của Đảng. Học
ở nhà trường, học trong cuộc sống, học để việc, học để làm người có ích cho xã hội
luôn được các thế hệ thanh niên ta phấn đấu, thực hiện ngày càng tốt hơn.
Những truyền thống vẻ vang đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể của
những người trẻ tuổi. Đó chính là điểm tựa cho mọi hoạt động của Đoàn, cũng như
phát huy vai trò cuốn hút thanh niên tập hợp dưới ngọn cờ Đoàn. Trong đấu tranh


giành độc lập, tự do cho dân tộc, "mỗi thanh niên là một dân quân", "mỗi thiếu niên
là một dũng sĩ”, góp phần làm nên những chiến thắng vẻ vang.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, những truyền thống quý báu của tổ chức
Đoàn được tuổi trẻ tiếp tục phát huy, nâng lên tầm cao mới. Nhiều phong trào được
phát động đã thu hút đông đảo sự tham gia của đoàn viên, thanh niên như "Thanh
niên khỏe để lập nghiệp và giữ nước", "Ba xung kích" trên mặt trận lao động sản
xuất, "5 xung kích phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc", "4 đồng hành với
thanh niên lập thân, lập nghiệp", "Mùa hè xanh"…
Phát huy những truyền thống quý báu nêu trên, các thế hệ đoàn viên, hội viên,
thanh niên, đội viên thiếu niên và nhi đồng ở nước ta đang tiếp bước theo nhau dưới
ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ, làm cho đội ngũ những người
cách mạng trẻ tuổi ngày càng hùng hậu. Đất nước ta có phát triển mạnh mẽ, vượt
qua khó khăn, thử thách, đạt tới sự giàu mạnh theo con đường công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, bước ra biển lớn hội nhập quốc tế, chính là từ những nỗ lực, nhiệt tình và sự
sáng tạo của đội ngũ lớp lớp những người trẻ tuổi.
Câu hỏi 4: Đồng Chí hãy cho biết Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã trải qua mấy kỳ
đại hội? Mỗi kỳ đại hội diễn ra thời gian nào? ở đâu? Và tại đại hội đó ai được bầu
làm bí thư thứ nhất Trung ương đoàn TNCS Hồ Chí Minh?

Trả lời:
Trãi qua 87 năm xây dựng và trưởng thành, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã tổ
chức thành công 11 kỳ đại hội đại biểu toàn quốc.


* Đại hội đại biểu Đoàn toàn quốc lần thứ I (nhiệm kỳ 1950 - 1956): Tên gọi khi đó
là Đoàn thanh niên cứu quốc Việt Nam, diễn ra từ ngày 7 đến ngày 14-2-1950 tại xã
Cao Văn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Dự đại hội có hơn 400 đại biểu đại diện
cho đoàn viên, thanh niên trên khắp mọi miền đất nước. Đại hội đã bầu ra BCH T.Ư
Đoàn gồm 5 đồng chí, đồng chí Nguyễn Lam được bầu làm Bí thư Đoàn thanh niên
cứu quốc Việt Nam.
* Đại hội đại biểu Đoàn toàn quốc lần thứ II (nhiệm kỳ 1956 - 1961) diễn ra từ
ngày 25-10 đến ngày 4-11-1956 tại Hà Nội, với sự tham dự của 479 đại biểu đại diện
cho gần 500 nghìn đoàn viên, thanh niên trong cả nước. Đại hội đã bầu ra BCH T.Ư
Đoàn gồm 30 đồng chí, đồng chí Nguyễn Lam được bầu lại làm Bí thư thứ nhất BCH
T.Ư Đoàn.
* Đại hội đại biểu Đoàn toàn quốc lần thứ III (nhiệm kỳ 1961 - 1980) diễn ra từ
ngày 23 đến ngày 25-3-1961 tại Hà Nội, với sự tham dự của 677 đại biểu đại diện cho
một triệu đoàn viên, thanh niên trong cả nước. Được sự đồng ý của Bộ Chính trị và
Bác Hồ, Đại hội đã quyết định lấy ngày 26-3-1931 là Ngày thành lập Đoàn. Đại hội
đã bầu ra BCH T.Ư Đoàn gồm 71 đồng chí, đồng chí Nguyễn Lam được bầu lại làm
Bí thư thứ nhất BCH T.Ư Đoàn. Sau đại hội, đồng chí Nguyễn Lam được Đảng điều
động nhận nhiệm vụ mới (1962), đồng chí Vũ Quang được cử làm Bí thư thứ nhất
BCH T.Ư Đoàn, Sau khi Vũ Quang chuyển công tác (1978), Đặng Quốc Bảo được


bầu.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976) đã ra quyết định Đoàn Thanh niên Lao
động Hồ Chí Minh mang tên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Đại hội đại

biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh toàn quốc lần thứ IV (nhiệm kỳ 1980-1987) diễn ra từ
ngày 20 đến ngày 22-11-1980 tại Hà Nội. 623 đại biểu đại diện cho 4,3 triệu đoàn
viên, thanh niên cả nước đã về dự đại hội. Đại hội đã bầu BCH T.Ư Đoàn gồm 113
đồng chí, đồng chí Đặng Quốc Bảo, Ủy viên BCH T.Ư Đảng được bầu làm Bí thư thứ
nhất BCH T.Ư Đoàn. Sau khi đồng chí Đặng Quốc Bảo chuyển công tác (1982), đồng
chí Vũ Mão được bầu.
* Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh toàn quốc lần thứ V (nhiệm kỳ 1987
- 1991) diễn ra từ ngày 27 đến ngày 30-11-1987 tại Hà Nội. Dự đại hội có 750 đại
biểu đại diện cho 17 triệu đoàn viên, thanh niên trong cả nước. Đại hội đã bầu BCH
T.Ư Đoàn gồm 150 người, đồng chí Hà Quang Dự được bầu làm Bí thư thứ nhất BCH
T.Ư Đoàn.
* Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh toàn quốc lần thứ VI (nhiệm kỳ 1992
- 1997) diễn ra từ ngày 15 đến ngày 18-10-1992, tại Hà Nội. Dự đại hội có 797 đại
biểu. Đại hội đã bầu BCH T.Ư Đoàn gồm 91 đồng chí, đồng chí Hồ Đức Việt được
bầu làm Bí thư thứ nhất BCH T.Ư Đoàn. Sau đại hội, tháng 2-1993 Hội nghị BCH
T.Ư Đoàn lần thứ 2 (khóa VI) đã phát động hai phong trào lớn là: "Thanh niên lập
nghiệp" và "Tuổi trẻ giữ nước". Tại Hội nghị BCH T.Ư Đoàn lần thứ 9, khóa VI, đồng
chí Vũ Trọng Kim được bầu làm Bí thư thứ nhất BCH T.Ư Đoàn thay đồng chí Hồ
Đức Việt được Đảng điều động nhận nhiệm vụ mới.
* Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh toàn quốc lần thứ VII (nhiệm kỳ


1997-2002) diễn ra từ ngày 26 đến ngày 29-11-1997, tại Hà Nội. Dự đại hội có 899
đại biểu. Đại hội đã bầu BCH T.Ư Đoàn gồm 125 đồng chí, đồng chí Vũ Trọng Kim
được bầu lại làm Bí thư thứ nhất BCH T.Ư Đoàn. Đại hội đã quyết định tiếp tục phát
triển hai phong trào "Thanh niên lập nghiệp" và "Tuổi trẻ giữ nước" lên một tầm cao
mới. Tại Hội nghị Ban Chấp hành T.Ư Đoàn lần thứ 9 khóa VII (tháng 6-2001), đồng
chí Hoàng Bình Quân được bầu làm Bí thư thứ nhất BCH T.Ư Đoàn thay đồng chí Vũ
Trọng Kim được Đảng phân công nhiệm vụ mới.
* Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh toàn quốc lần thứ VIII (nhiệm kỳ

2002 - 2007) diễn ra từ ngày 8 đến ngày 11-12-2002, tại Hà Nội, với sự tham gia của
898 đại biểu. Đại hội đã bầu BCH T.Ư Đoàn gồm 134 đồng chí, đồng chí Hoàng Bình
Quân được bầu lại làm Bí thư thứ nhất BCH T.Ư Đoàn.
Ngày 1-4-2005, Bộ Chính trị ra Quyết định cử đồng chí Đào Ngọc Dung giữ trách
nhiệm Quyền Bí thư thứ nhất BCH T.Ư Đoàn. Tại Hội nghị BCH T.Ư Đoàn lần thứ
11, khóa VIII, ngày 13-1-2007, đồng chí Võ Văn Thưởng được bầu làm Bí thư thứ
nhất BCH T.Ư Đoàn thay đồng chí Đào Ngọc Dung được Đảng phân công nhiệm vụ
mới.
* Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh toàn quốc lần thứ IX (nhiệm kỳ
2007-2012) diễn ra từ ngày 17 đến ngày 21-12-2007 tại Hà Nội. Dự đại hội có 1.033
đại biểu. Đại hội đã bầu BCH T.Ư Đoàn gồm 145 đồng chí, đồng chí Võ Văn Thưởng
được bầu lại làm Bí thư thứ nhất. Đại hội đã phát động hai phong trào "Năm xung
kích phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc" và "Bốn đồng hành với thanh niên
lập thân, lập nghiệp".
Ngày 5-10-2011, tại Hội nghị BCH T.Ư Đoàn lần thứ 11, khóa IX, đồng chí Nguyễn
Đắc Vinh, Ủy viên Dự khuyết BCH T.Ư Đảng được bầu làm Bí thư thứ nhất BCH T.Ư
Đoàn (khóa IX) thay đồng chí Võ Văn Thưởng được Đảng phân công nhiệm vụ mới.


* Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh toàn quốc lần thứ X (nhiệm kỳ 2012-2017)
diễn ra từ ngày 11 đến ngày 14-12, tại Hà Nội, với sự tham gia của 997 đại biểu đoàn
viên ưu tú. Độ tuổi bình quân của các đại biểu là 29,8; đại biểu trẻ nhất 15 tuổi; đại
biểu có trình độ học vấn từ thạc sĩ trở lên chiếm 20%; trình độ lý luận chính trị trung,
cao cấp chiếm 66,8%. Đại hội đã bầu BCH T.Ư Đoàn gồm 151 đồng chí, đồng chí
Nguyễn Đắc Vinh được bầu lại làm Bí thư thứ nhất BCH T.Ư Đoàn. Sau khi Nguyễn
Đắc Vinh chuyển công tác (4/2016), Lê Quốc Phong được bầu.


* Đại hội Đoàn TNCS Hồ Chí Minh toàn quốc lần thứ XI (nhiệm kỳ 2012-2017)
diễn ra từ ngày 10 đến ngày 13-12, tại Hà Nội, với sự tham gia của 1000 đại biểu là

những cán bộ, đoàn viên ưu tú đại diện cho hơn 6,4 triệu đoàn viên và gần 24 triệu
thanh niên Việt Nam trong và ngoài nước. Trong đó: Đại biểu đương nhiên là các
đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn khóa X: 135 đồng chí (chiếm
13,6%); Đại biểu được bầu tại Đại hội các tỉnh, thành đoàn, đoàn trực thuộc: 814
đồng chí (chiếm 81,4%); Đại biểu được chỉ định: 50 đồng chí (chiếm 5%). Độ tuổi
bình quân của đại biểu tham dự Đại hội là 30,7 tuổi, đại biểu trẻ nhất là 16 tuổi (đại
biểu Trương Hiếu Ngân, sinh ngày 18/11/2001, học sinh lớp 11, Ủy viên BCH Đoàn
trường THPT Tân Hiệp, tỉnh Tiền Giang); Có 383 đại biểu là nữ (chiếm 38,3%); 196
đại biểu là người dân tộc thiểu số (chiếm 19,6%). Trình độ học vấn từ thạc sĩ trở lên
có 313 đại biểu (chiếm 31,3%, trong đó có 1 Phó giáo sư, 28 tiến sĩ). Trình độ lý luận
chính trị trung, cao cấp và cử nhân có 690 đại biểu (chiếm 69%).
Có 3 đại biểu đoàn viên, thanh niên ưu tú đang học tập, công tác ở ngoài nước (gồm:
Cu Ba, Nga và Trung Quốc) về dự Đại hội. Đại hội đã bầu BCH T.Ư Đoàn gồm 151
đồng chí, đồng chí Lê Quốc Phong được bầu lại làm Bí thư thứ nhất BCH T.Ư Đoàn.
10 đề án trọng điểm của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh giai đoạn 2017 – 2022 được xác
định là:


1. Đề án Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho
thanh thiếu nhi;
2. Đề án Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp;
3. Đề án Tư vấn, hướng nghiệp và giới thiệu việc làm cho thanh thiếu niên;
4. Đề án Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tham gia xây dựng nông thôn mới;
5. Đề án Đoàn TNCS Hồ Chí Minh xung kích bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi
khí hậu;
6. Đề án Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tham gia đảm bảo trật tự an toàn giao thông;
7. Đề án Phòng, chống ma túy cho thanh thiếu niên;
8. Đề án Nâng cao năng lực tiếng Anh cho thanh thiếu niên Việt Nam;
9. Đề án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đoàn, Hội, Đội;
10. Đề án Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tham gia phòng chống đuối nước và tai nạn

thương tích trẻ em.

Câu hỏi 5: Từ khi thành lập đoàn đến nay Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã mấy
lần đổi tên? Bạn hãy cho biết hoàn cảnh và lý do của việc đổi tên gọi của Đoàn qua
các thời kỳ?
Trả lời:
Từ ngày 26/3/1931 đến nay, để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ
cách mạng, Đoàn đã đổi tên nhiều lần:


• Từ 1931 - 1936: Đoàn TNCS Việt Nam, Đoàn TNCS Đông Dương
• Từ 1937 - 1939: Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương
• Từ 11/1939 - 1941: Đoàn Thanh niên phản đế Đông Dương
• Từ 5/1941 - 1956: Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam
• Từ 25/10/1956 - 1970: Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam
• Từ 2/1970 - 11/1976: Đoàn Thanh niên lao động Hồ Chí Minh
• Từ 12/1976 đến nay: Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

(Chủ tịch Hồ Chí Minh)
*Hoàn cảnh và lý do của việc đổi tên gọi của đoàn qua các thời kỳ:
Mỗi chặng đường lịch sử của dân tộc, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh có những hình
thức đấu tranh và những nhiệm vụ đặt lên hàng đầu khác nhau. Với mỗi giai đoạn, tên
gọi của Đoàn đã được thay đổi.
1.Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương
Tháng 5/1935, Mặt trận Nhân dân Pháp được thành lập và sau đó giành được đa số
phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội tháng 6/1936. Chính phủ phái tả lên cầm quyền ở


Pháp. Căn cứ diễn biến tình hình thế giới và trong nước, tháng 7/1936, Hội nghị T.Ư
Đảng đã định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh cách mạng trong thời

kỳ mới.
Nhiệm vụ của Đảng và nhân dân ta lúc này là tập trung mũi nhọn đấu tranh chống bọn
phản động thuộc địa và tay sai, đòi các quyền tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Vì
vậy, Đảng chủ trương lập Mặt trận Nhân dân Phản đế sau đổi thành mặt trận Thống
nhất Dân chủ. Hội nghị BCH T.Ư Đảng họp tháng 7/1936 đã ra những quyết định
quan trọng nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động TN.
Theo đó, trong thời kỳ cách mạng từ giữa năm 1936 đến mùa thu năm 1939, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Đông Dương mang tên Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương
phù hợp với nhiệm vụ chính trị qua các nghị quyết của Đảng như trên đã nêu. Đoàn
Thanh niên Dân chủ hoạt động công khai, có cơ quan báo chí riêng, đó là các tờ “Bạn
dân”, “Thế giới”, “Mới” phát hành ở cả ba miền đất nước. Đoàn đã xây dựng đội ngũ
của mình gồm hàng vạn đoàn viên, đấu tranh kiên cường dưới ngọn cờ của Đảng, tiếp
nối truyền thống vẻ vang của Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương (1931 – 1935).
Ngoài việc phát hành báo, tổ chức Đoàn còn lập các Hội đọc sách, Hội văn nghệ, Hội
thể thao, đặc biệt là hình thành các nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Nhiều tác phẩm
chính trị, văn học của C.Mác. F.Angghen, V.I.Lênin, Goocki… như: “Tuyên ngôn
Đảng cộng sản”, “Tư bản”, “Nhà nước là gì?”, “Người mẹ”… cũng như các cuốn sách
do các chiến sĩ cộng sản Việt Nam viết như: “Vấn đề dân cầy” của Qua Ninh và Vân
Đình, “Mác xít phổ thông” của Hải Triều và Thơ Tố Hữu được đông đảo đoàn viên,
thanh niên hân hoan đón đọc.
Được sự quan tâm của các Xứ ủy Đảng, phong trào TN và tổ chức Đoàn được củng
cố, phát triển sâu rộng, có hệ thống từ cơ sở lên đến tỉnh, thành và xứ.
Tuy nhiên, đến tháng 9/1939, đại chiến thế giới lần thứ 2 bùng nổ. Thực dân Pháp
thẳng tay thi hành chính sách đàn áp, khủng bố phong trào đấu tranh của các tầng lớp
nhân dân và TN ta. Tổ chức Đoàn phải trở lại hoạt động bí mật.
2. Đoàn Thanh niên Phản đế Đông Dương
Tháng 11/1939, T.Ư Đảng họp Hội nghị lần thứ 6 tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định).
NQ Hội nghị nhấn mạnh giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của CMGP dân tộc,
là nhiệm vụ hàng đầu của CM Đông Dương. Hội nghị chủ trương lập Mặt trận Thống
nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các

giai cấp và dân tộc ở Đông Dương để đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai của chúng.
Theo chủ trương của Đảng, Đoàn Thanh niên Dân chủ Đông Dương mang tên mới là
Đoàn Thanh niên Phản đế Đông Dương tiếp nối sự nghiệp vẻ vang của các tổ chức
TNCS và TNDC trước đây. Đoàn đã xây dựng được cơ sở ở nông thôn, trong nhà máy
và các trường học. Trong tình hình mới, tổ chức Đoàn hoạt động bí mật và được tổ
chức chặt chẽ. Những ĐVTN Dân chủ được thử thách, lựa chọn và chuyển thành


ĐVTN Phản đế, các hội viên TN trong các tổ chức TN phổ thông được giao những
công tác thích hợp để thử thách bồi dưỡng.
Tháng 9/1940, Phát xít Nhật xâm lược Đông Dương. Từ đây nhân dân Việt Nam một
cổ hai tròng, bị hai kẻ thù là phát xít Nhật và thực dân Pháp cùng thống trị. Nhưng
nhân dân Việt Nam và thế hệ thanh niên nước ta thời kỳ này không chịu khuất phục:
Tháng 9/1940, khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra; tháng 11/1940, khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ
với sự xuất hiện lần đầu tiên lá Cờ đỏ Sao Vàng; tháng 1/1941, nổ ra cuộc binh biến ở
đồn Chợ Rạng và đồn Đô Lương.
Các tổ chức Đoàn TN Dân chủ sau đó là Đoàn Thanh niên Phản đế đã vận động thanh
niên đi đầu trong các cuộc đấu tranh và khởi nghĩa vũ trang từng phần, báo hiệu một
thời kỳ mới: chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
3. Đoàn Thanh niên cứu quốc Việt Nam
Tháng 11/1940, Hội nghị TƯ Đảng lần thứ 7 họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) trong đó
có phần nói về: “Vấn đề tổ chức các đoàn thể quần chúng”. Nghị quyết hội nghị ghi:
“Vì chính sách của Đảng ta hiện tại là chính sách cứu quốc cho nên mục đích các hội
quần chúng cũng xoay về việc cứu quốc là cốt yếu…… Việt Nam thanh niên Cứu
quốc từ nay là đoàn thể của tất thảy thanh niên từ 18 đến 22 tuổi muốn tranh đấu đánh
Pháp, đuổi Nhật”.
Ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc bí mật về nước để cùng Ban chấp hành TW
Đảng trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Đây là sự kiện hết sức quan
trọng trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta…
Tháng 5/1941, Hội nghị lần thứ 8 của TƯ Đảng họp tại Pắc Bó (Cao Bằng) do

Nguyễn ái Quốc, đại diện của Quốc tế cộng sản triệu tập và chủ trì. Hội nghị đã nêu
một quyết tâm sắt đá: “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp trâu ngựa, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến
vạn năm cũng không đòi lại được”.
Để tập hợp động viên các tầng lớp nhân dân đứng lên đánh đuổi phát xít Pháp - Nhật,
Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam Độc lập đồng minh (Gọi tắt là Việt Minh) và
các Hội cứu quốc, trong đó có: Đoàn Thanh niên Cứu quốc - Việt Nam - một tổ chức
của những thanh niên yêu nước tiếp nối sự nghiệp của các tổ chức thanh niên do Đảng
ta và lãnh tụ Nguyễn ái Quốc sáng lập và lãnh đạo trước đó.
Hội nghị TƯ Đảng lần thứ 8 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn thành việc
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong thời kỳ mới. Hội nghị đã nêu rõ vai trò, trách
nhiệm của Đoàn TN Cứu quốc trong cao trào đấu tranh của giải phóng dân tộc. Trong
suốt chặng đường dài từ 1941 – 1956, Đoàn TNCQ Việt Nam đã đóng góp to lớn, kể
cả hy sinh xương máu, cùng dân tộc vùng dậy trong Cách mạng Tháng Tám, lập nên
Nhà nước Dân chủ, cộng hòa - Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam á.
Tháng 2/1950, Đại hội Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam được triệu tập tại căn cứ


địa kháng chiến Việt Bắc. Đây là Đại hội đại biểu toàn quốc đầu tiên của Đoàn, gồm
trên 400 đại biểu của ba miền đất nước. Sau đó, Đoàn đã vận động đoàn viên, TN đi
tiếp chặng đường hơn 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hy sinh góp phần xứng đáng
làm nên một Điện Biên chấn động địa cầu, giải phóng hoàn toàn miền Bắc (7/1954),
bắt tay xây dựng hậu phương lớn XHCN ở miền Bắc, chi viện cho cách mạng giải
phóng miền Nam.
4 - Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam
Tháng 7/1954, hòa bình đợc lập lại trên miền Bắc, căn cứ vào tình hình và nhiệm vụ
mới, Bộ Chính trị T.Ư Đảng trong phiên họp tháng 9/1954 đã chủ trơng đổi tên Đoàn
TNCQ Việt Nam thành Đoàn TNLĐ Việt Nam và xây dựng Đoàn TNLĐ Việt Nam
thành một tổ chức thực sự có tác dụng là lực lợng dự trữ và cánh tay của Đảng.

Quyết nghị có đoạn viết: “Đảng ta là Đảng Lao động Việt Nam. Việc Đoàn TNCQ
Việt Nam đổi tên thành Đoàn TNLĐ Việt Nam sẽ làm cho thanh niên thêm phấn khởi,
thêm gắn bó với Đảng và do đó càng quyết tâm phấn đấu đến cùng dới ngọn cờ của
Đảng”.
Trong “Quyết nghị về đổi tên Đoàn TNCQ Việt Nam thành Đoàn TNLĐ Việt Nam và
kế hoạch xây dựng Đoàn TNLĐ Việt Nam” (Ban Bí th T.Ư - ngày 19/10/1955) đã nêu
rõ tính chất, nhiệm vụ, vấn đề tổ chức và kế hoạch xây dựng Đoàn TNLĐ Việt Nam.
Về tính chất của Đoàn TNLĐ Việt Nam, Quyết nghị nêu: “Đoàn TNLĐ Việt Nam là
một tổ chức quần chúng tiên tiến của TN Việt Nam, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của
Đảng. Đoàn TNLĐ Việt Nam là trờng học của chủ nghĩa Mác-Lênin của thanh niên,
là nơi bồi dỡng lực lợng dự trữ của Đảng, là cánh tay thực hiện mọi chính sách của
Đảng”. Quyết nghị của Đảng đã vạch rõ nhiệm vụ của Đoàn trong thời kỳ mới và đề
ra kế hoạch xây dựng Đoàn là:
1. Đảm bảo tính chất tiên tiến của Đoàn… Không kết nạp ồ ạt và tập thể. Nơi nào
chưa có đủ điều kiện đổi tên Đoàn thì chưa đổi.
2. Làm cho ĐVTN có một nhận thức đúng đắn về Đoàn TNLĐ Việt Nam. Việc kết
nạp đoàn viên hoặc đổi tên Đoàn phải trên cơ sở tự nguyện, tự giác của TN.
3. Kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện những nhiệm vụ công tác chính trớc mắt do
Đảng đề ra… Việc xây dựng Đoàn TNLĐ Việt Nam cần làm một cách có lãnh đạo và
có kế hoạch cụ thể cho từng vùng…”.
Quyết nghị nêu kết luận: “Việc đổi tên Đoàn TNCQ Việt Nam thành Đoàn TNLĐ Việt
Nam là một việc rất quan trọng có ảnh hởng đến việc xây dựng một phong trào thanh
niên lớn mạnh trong toàn quốc, đến việc phát triển cơ sở Đảng trong quần chúng lao
động và việc hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng hiện nay. Các cấp ủy Đảng cần
nắm vững đờng lối vận động thanh niên của Đảng, trực tiếp lãnh đạo thực hiện nghị
quyết này”.
5 - Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh


Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và nhân dân Việt

Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, người sáng lập rèn
luyện Đoàn ta qua đời. Toàn thể cán bộ, ĐVTN và đội viên thiếu niên, nhi đồng nước
ta vĩnh biệt Người với nỗi xót thương vô hạn. Bác Hồ và Đảng đã coi sự trưởng thành
của lớp thanh niên nước ta là một trong những thành quả vĩ đại của cách mạng, có
quan hệ trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay và mai sau.
Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác, đáp ứng nguyện vọng của thế hệ trẻ và theo
đề nghị của Đoàn TNLĐ Việt Nam, nhân dịp kỉ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Đảng
(3/2/1930 – 3/2/1970), BCH T.Ư Đảng đã ra Nghị quyết cho Đoàn Thanh niên và đội
thiếu niên, Đội Nhi đồng được mang tên Bác.
Nghị quyết nêu rõ: “… Thể theo nguyện vọng của thế hệ trẻ nước ta và đề nghị của
Đoàn TNLĐ Việt Nam”. BCH T.Ư Đảng Lao động Việt Nam Quyết định:
- Đoàn TNLĐ Việt Nam nay là Đoàn TNLĐ Hồ Chí Minh
- Đội TNTP Việt Nam nay là Đội TNTP Hồ Chí Minh
- Đội Nhi đồng Việt Nam nay là Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh
Tổ chức Đoàn và tổ chức đội được mang tên Bác là vinh dự lớn lao, đồng thời là trách
nhiệm nặng nề trước Tổ quốc và nhân dân. Đoàn ta được mang tên Bác Hồ càng làm
rõ mục đích và tính chất của Đoàn là đội tiên phong chiến đấu của TN, đi đầu phấn
đấu cho lý tưởng cách mạng cao cả của Đảng và Bác Hồ là độc lập, dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
6. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
Tháng 4-1975, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi, giải phóng hoàn
toàn miền Nam.
Ngày 26/3/1976, Lễ kỷ niệm lần thứ 45 ngày thành lập Đoàn đã được tổ chức trọng
thể tại Hà Nội. Tại Lễ kỷ niệm này, tổ chức Đoàn trong cả nước đã thống nhất mang
tên chung là Đoàn Thanh Niên Lao động Hồ Chí Minh.
Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến 20/12/1976 tại Thủ đô Hà Nội đã
quyết định đổi tên đảng Lao động Việt Nam (2-1951) thành Đảng Cộng Sản Việt Nam
và thể theo nguyện vọng của cán bộ, ĐVTN cả nước, Đại hội Đảng lần thứ IV đã
quyết định đổi tên Đoàn TNLĐ Hồ Chí Minh (1970) thành: Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh.

Đại hội Đảng chỉ rõ nhiệm vụ của Đoàn và phong trào thanh niên trong giai đoạn mới
là: “Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phải được xây dựng và củng cố vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là trường học CSCN của lớp người trẻ tuổi, là
cánh tay đắc lực và đội hậu bị tin cậy của Đảng”.
Được mang tên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là vinh dự và tự hào lớn của toàn thể cán
bộ đoàn viên nước ta.


Câu hỏi 6: Từ thực tế học tập, công tác của mình, là một cán bộ đoàn, là một
đoàn viên, là một thanh niên, bạn có đề xuất gì “Hiến kế cho đoàn” để xây dựng tổ
chức đoàn, hội vững mạnh, mỡ rộng mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên, phát huy
vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương, đất
nước?
Trả lời: Từ thực tế công tác của mình, là một cán bộ đoàn để xây dựng tổ chức
đoàn, hội vững mạnh, mỡ rộng mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên, phát huy vai trò
của thế hệ trẻ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương, đất nước tôi
xin “Hiến kế cho đoàn” các vấn đề sau:
Thứ nhất: Về công tác cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Cán bộ như thế nào phong trào như thế ấy. Thách
thức của tổ chức Đoàn là phải tìm được cán bộ giỏi. Cán bộ Đoàn giỏi phải hội đủ hai
yêu cầu rất quan trọng là phẩm chất thủ lĩnh và tính chuyên nghiệp cao. Phẩm chất thủ
lĩnh là sự vững vàng về chính trị, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; sống gương
mẫu, có uy tín, quy tụ được Đoàn viên thanh niên và làm việc được với mọi người. Tính
chuyên nghiệp đòi hỏi người cán bộ Đoàn phải lao động cá nhân nghiêm túc, phải có
kiến thức về những vấn đề liên quan, thiết kế và tổ chức được phong trào. Ngoài ra cũng
cần phải có sức khỏe và có một trình độ, kỹ năng khá toàn diện: kỹ năng tham mưu, chỉ
đạo, kỹ năng quản lý điều hành, kỹ năng tổ chức các hoạt động, kỹ năng viết, kỹ năng
nói, kỹ năng giao tiếp... Tuy nhiên, cán bộ Đoàn tại các xã phường khi tham gia công tác
Đoàn thì chuyên môn còn hạn chế. Chính vì vậy, công tác cán bộ trong các tổ chức cơ sở
cần phải được quan tâm đặc biệt.



(Đoàn viên thanh niên Ninh Hòa ra quân dọn dẹp vệ sinh, xoá bỏ các quảng cáo, tờ
rơi trên các cột điện)
Việc lựa chọn người cán bộ Đoàn là hết sức quan trọng, do vậy phải dành sự tâm
sức và hỗ trợ vật chất cần thiết cho hoạt động của cán bộ Đoàn cấp xã, phường. Trong
công tác Đoàn, người cán bộ Đoàn cần phải là người có thực tâm và thực tài. Thực tâm
tức là người cán bộ Đoàn có tâm huyết, có niềm đam mê thực sự với công tác Đoàn, là
người sẵn sàng cống hiến cho hoạt động chung của tập thể mà không hề vụ lợi cho riêng
mình, là người sẵn sàng đi sớm về khuya vì công việc. Thực tài tức là người cán bộ Đoàn
cần phải là một người có phẩm chất thủ lĩnh, là một người có chuyên môn cao, làm việc
có khoa học, chất lượng, là người có phẩm chất chính trị vững vàng, có lối sống lành
mạnh, như thế thì mới có thể làm cho anh em đoàn viên thanh niên nể phục, mới thu hút
được các anh em đoàn viên thanh niên làm theo.
Vấn đề đào tạo, huấn luyện về nghiệp vụ công tác Đoàn cho cán bộ cấp xã, phường
cũng rất quan trọng. Những người cán bộ Đoàn khi đảm nhiệm công tác hầu hết không
được học qua một trường đào tạo cán bộ Đoàn nào cả, mà chỉ làm việc dựa trên kinh
nghiêm, uy tín, niềm đam mê, nhiệt huyết là chủ yếu. Vì vậy, các cấp bộ Đoàn phải
thường xuyên mở các lớp tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ này, qua đó nâng cao tính
chuyên nghiệp của họ trong hoạt động công tác Đoàn.


Để thực hiện nhóm giải pháp này Đoàn cần tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp
ủy Đảng, lãnh đạo chuyên môn, để có thể lựa chọn được nhân tố phù hợp, đưa vào quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm kịp thời, đảm bảo tính kế thừa, liên tục trong công
tác cán bộ.
Thứ hai: Cần đa dạng hóa nội dung, hình thức hoạt động Đoàn tại các xã,
phường Đoàn.
Tổ chức cơ sở Đoàn là nơi tập hợp sinh hoạt của các bạn trẻ vì vậy để thu hút được
họ tham gia thì các hình thức sinh hoạt phải phong phú, đa dạng, sinh động phù hợp với

lứa tuổi và điều kiện của từng đơn vị, từng lĩnh vực hoạt động.
Để thu hút được sự tham gia của các bạn trẻ, các xã, phường Đoàn cần căn cứ vào
nhiệm vụ chính trị, chuyên môn của đơn vị mình mà có hình thức sinh hoạt cho phù hợp;
Luôn bám sát các nội dung chỉ đạo của cấp uỷ, chuyên môn, trên cơ sở đó có sáng kiến
tạo ra những hoạt động vừa thu hút được các Đoàn viên thanh niên tham gia hăng hái,
vừa góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ
Đoàn viên thanh niên tại xã, phường Đoàn đa số sống ở địa bàn khu dân cư, vì vậy
các cấp bộ Đoàn cần thường xuyên tổ chức nhiều buổi giao lưu, kết nghĩa giữa các tổ
chức cơ sở Đoàn trên địa bàn mình với những khu vực khác như đoàn trường học, khối
lực lượng vũ trang, doanh nghiệp… Thông qua những buổi giao lưu đó sẽ tạo ra không
khí mới mẻ trong các hoạt động, đồng thời tạo cơ hội để các Đoàn viên thanh niên học
hỏi lẫn nhau trong các hoạt động chuyên môn.

ĐVTN tham gia sinh hoạt.
Các buổi sinh hoạt Đoàn trong các xã, phường Đoàn cũng nên có nhiều đổi mới
theo hướng đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung sinh hoạt. Ngoài việc sinh hoạt


chi đoàn thường kỳ tại hội trường, phòng họp thì cũng nên thường xuyên có sự thay đổi
về không gian, thời gian sinh hoạt (Ví dụ có thể tổ chức sinh hoạt chi đoàn tại các khu di
tích lịch sử, di tích văn hóa, khu công viên, vui chơi giải trí...), hoặc thỉnh thoảng có thể
tổ chức sinh hoạt chi đoàn ghép giữa các chi đoàn trong xã, phường mình.
Thứ ba: Một số vấn đề khác.
Cần tranh thủ sự lãnh đạo, đồng thời nâng cao hơn nữa trách nhiệm của cấp ủy
Đảng, lãnh đạo chuyên môn đối với công tác Đoàn tại xã, phường Đoàn. Cần có sự
chung tay vào cuộc của cả hệ thống chính trị quyết tâm đưa tổ chức Đoàn tại địa phương
trở thành tổ chức quan trọng góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị, chuyên môn đáp
ứng nhu cầu của thời kỳ hội nhập.
Các tổ chức cơ sở Đoàn xã, phường Đoàn cần nắm vững những quan điểm, chủ
trương, phương hướng và biện pháp của Đảng, của Đoàn cấp trên, đồng thời kết hợp với

nhiệm vụ chính trị tại địa phương để từ đó lên chương trình, kế hoạch hợp lý, khoa học
cho từng giai đoạn.

(Đoàn viên Ninh Hòa giúp đỡ nhân dân khắc phục hậu quả cơn bão số 12)


Một khó khăn lớn trong công tác Đoàn tại các xã phường đó là vấn đề kinh phí. Các
xã, phường Đoàn sử dụng kinh phí nhà nước, hàng năm phân bổ cho hoạt động Đoàn còn
rất eo hẹp, gây khó khăn cho việc tổ chức các hoạt động Đoàn. Chính vì vậy, các xã,
phường Đoàn cần có mối quan hệ công tác với cấp uỷ, từ đó tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ
đạo và tích cực xây dựng các chương trình phối hợp cũng như tạo điều kiện về kinh phí.
Đồng thời tích cực nghiên cứu, sáng tạo tham mưu đảm nhận các công trình, phần việc
thanh niên để vừa thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, vừa tạo nguồn kinh phí cho hoạt
động Đoàn.
Các xã, phường Đoàn cần sâu sát, kịp thời nắm bắt tư tưởng, tâm tư nguyện vọng
của đoàn viên để giúp đỡ, chia sẻ những vấn đề khúc mắc trong công việc cũng như
trong cuộc sống. Có thể đại diện cho đoàn viên để xuất với Đảng ủy, chuyên môn những
khó khăn để có hướng giải quyết. Tổ chức Đoàn ở xã phường khi đã thực sự trở thành
một người bạn, địa chỉ tin cậy của Đoàn viên thanh niên tại địa phương thì mỗi khi họ
gặp khó khăn, tổ chức Đoàn cần ra lời kêu gọi họ phát huy sức trẻ, tinh thần xung kích
của mình để chung tay phát triển quê hương, đất nước thì họ sẽ sẵn sàng chia sẻ, tham
gia, hưởng ứng.
Và cuối cùng, để một tổ chức Đoàn hoạt động có chất lượng, hiệu quả thì không chỉ
là sự nỗ lực của các cấp bộ Đoàn, của cấp uỷ mà quan trọng hơn cả đó là phát huy sự
nhiệt tình hăng hái, sự tâm huyết say mê của mỗi người đoàn viên thanh niên chúng ta.



×