Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Chương 7 Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, đạo đức và xây dựng con người mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.28 KB, 14 trang )

I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ
1. Định nghĩa về văn hoá và quan điểm xây dựng nền văn hoá mới.
a) Định nghĩa về văn hoá
- Định nghĩa văn hoá theo Hồ Chí Minh: “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi
phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng với những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
- Vai trò, vị trí của văn hoá theo Hồ Chí Minh:
+ Một là, văn hoá chịu sự quy định của chính trị, kinh tế, xã hội
* Hồ Chí Minh đặt văn hoá ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành 4
vấn đề chính của đời sống và chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau.
* Trong đó, chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hoá mới được giải
phóng. Ngược lại, chính trị giải phóng sẽ mở đường cho văn hoá phát triển.
Người nói: “Xã hội thế nào thì văn hoá thế ấy. Văn nghệ của ta rất phong phú,
nhưng dưới chế độ thực dân và phong kiến nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ
cũng bị nô lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được.
=> Phải tiến hành cách mạng chính trị trước, cụ thể là cách mạng giải phóng
dân tộc để giành chính quyền, từ đó giải phóng văn hoá, mở đường cho văn
hoá phát triển.
* Trong quan hệ với kinh tế: kinh tế là nền tảng của việc xây dựng văn hoá. Cho
nên, phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện
cho việc xây dựng và phát triển văn hoá. Kinh tế phải đi trước một bước.
+ Hai là, văn hoá tác động trở lại chính trị, xã hội
* Hồ Chí Minh cho rằng, văn hoá có tính tích cực, chủ động, nó đóng vai trò
như một động lực to lớn thúc đẩy kinh tế và chính trị phát triển. Người khẳng
định: “Trình độ văn hoá của nhân dân lên cao sẽ giúp cho chúng ta đẩy mạnh


công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ, cần thiết để xây dựng nước ta
thành một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.
* Trong kháng chiến chống Pháp, quan điểm “Văn hoá cũng là một mặt trận”;
“Kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến” mà Người đưa ra đã tao


nên một phong trào văn hoá, văn nghệ sôi động, đem lại sức mạnh vượt trội
cho nhân dân Việt Nam đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp
và sau này là đế quốc Mỹ.
b) Quan điểm về tính chất của nền văn hoá
- Quan điểm của Hồ Chí Minh
+ Ngày 7-9-1945, trong buổi tiếp đoàn đại biểu ủy ban Văn hóa lâm thời Bắc Bộ,
Người nói: “Cái văn hóa mới này cần phải có tính cách khoa học, tính cách đại
chúng thì mới thuận với trào lưu tiến hóa của tư tưởng hiện đại.”
+ Trong Báo cáo chính trị đọc tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng
(1951), Người khẳng định phải “Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính
chất dân tộc, khoa học và đại chúng”'.
- 3 tính chất của văn hoá
+ Tính dân tộc
* Tính dân tộc của văn hóa là sự thể hiện của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần
độc lập, tự cường của dân tộc trong lĩnh vực văn hóa, nên trước hết nó phải
được thể hiện ở nội dung tuyên truyền cho "lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do” và
“tinh thần vì nước quên mình” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói.
* Tính dân tộc của văn hóa đòi hỏi phải thể hiện được cốt cách và tâm hồn con
người Việt Nam, đó là truyền thống yêu nước, cần cù, dũng cảm, đoàn kết,
thương người...là tất cả những gì cao đẹp nhất trong tâm hồn và tính cách Việt
Nam đã được hun đúc trong suốt hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước


* Muốn thể hiện được yêu cầu này, Hồ Chí Minh đòi hòi các nhà văn hóa - văn
nghệ phải đi sâu vào quần chúng nhân dân, thực hiện ba cùng với họ, có thể
mới phát hiện và mô tả được chiều sâu của tính cách và tâm hồn quần chúng,
lại phải học Lịch sử, hiểu truyền thống dân tộc. Người từng cảnh báo: “Coi
chừng, có nhiều người Việt Nam lại không hiểu rõ lịch sử, đất nước, con người
và những cái vốn rất quý báu của mình bằng những người nước ngoài

* Tính dân tộc của văn hóa còn được thể hiện ở hình thức và phương tiện diễn
đạt. Mỗi dân tộc có nếp cảm, nếp nghĩ riêng, có hình thức diễn đạt riêng đi
thẳng vào lòng người, lay động sâu xa tâm hồn họ. Người nhắc nhở: “Nhân dân
ta có truyền thống kể chuyện ngắn gọn mà lại có duyên. Các chú phải học cách
kể chuyện của nhân dân’”.
* Về mặt ngôn ngữ, Người căn dặn: '‘Tiếng nói là một thứ của cải rất quý báu
của dân tộc, chúng ta phải hết sức giữ gìn lấy nó, chớ để bệnh nói chữ lấn át nó
đi”[2].
=> Quan điểm của Hồ Chí Minh về tính dân tộc của văn hóa. rất toàn diện và
sâu sắc, từ nội dung đến hình thức diễn đạt. Bản thân Người là nhà văn hóa
kiệt xuất, là biểu tượng cao đẹp của bản sắc, tính cách, tâm hồn dân tộc là tấm
gương cho các nhà văn hóa - văn nghệ học tập và noi theo.
+ Tính khoa học
* Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ trong truyền thống có mặt tích cực và mặt
tiêu cực.


Một trong những thiếu hụt của văn hóa cổ truyền là chưa hình thành
được một truyền thống khoa học. Tư duy nông nghiệp là một loại tư duy
kinh nghiệm, không mở đường cho khoa học tự nhiên phát triển, nên tư
duy lý luận, khái niệm khoa học, phương pháp khoa học chưa trở thành


mặt chủ đạo của ý thức toàn xã hội. Trong điều kiện đó, mê tín dị đoan


có đất để phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Nay nước ta đã được độc lập, tinh thần được
giải phóng, cần phải có một nền văn hóa hợp với khoa học và hợp với cả
nguyện vọng của nhân dân.


* Tính khoa học của văn hóa đòi hỏi phải đấu tranh chống lại những gì trái với
khoa học, phản tiến bộ; phải truyền bá tư tưởng triết học mácxít. Đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm thần bí, mê tín, dị đoan
* Trong việc khôi phục vốn cũ chỉ nên khôi phục cái gì tốt, còn cái gì không tốt
thì phải loại dần ra, không được khôi phục cả đồng bóng, rước xách thần
thánh.
* Để tuyên truyền nếp sống vệ sinh, phong cách sống và làm việc theo khoa
học. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết các tác phẩm Đời sống mới, Sửa đổi lối làm
việc,
+ Tính đại chúng của văn hóa
* Đây là vấn đề thuộc về tính nhân dân, về đối tượng phục vụ của văn hóa nghệ thuật. Trước kia, trong xã hội cũ, văn hóa - nghệ thuật được coi là món ăn
tinh thần sang trọng, chỉ dành riêng cho một thiểu số người ăn trên ngồi chốc.
Đó là
* Người nói: “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người
sáng tạo. Nhưng, quần chúng không chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho
xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa.


Người đặt vấn đề: "Văn hóa phục vụ ai” và Người khẳng định dứt khoát:
Văn hóa phải phục vụ đại đa số nhân dân, phải hướng về đại chúng, phải



phản ánh được tâm tư, nguyện vọng, ý chí của nhân dân.
Tại Hội nghị những người tích cực làm công tác văn hóa quần chúng (2-


1960), Người nói: “Văn hóa phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần
vào việc nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng”

* Văn hóa là trình độ phát triển của con người, do con người làm ra, nó phải
trở về phục vụ con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đấu tranh giải phóng dân tộc
để đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, trong đó có văn hóa
=> Ba tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng hợp lại thành một chỉnh thể thống
nhất, ngày càng thấm sâu vào ý thức sáng tạo của các nhà hoạt động văn hóa
nước ta, giúp họ sáng tạo nên những tác phẩm tiêu biểu cho nền văn hóa mới.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hoá
- Một là, văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng.
- Hai là, văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị,
phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. “Văn hoá
ở trong chính trị” tức là văn hoá phải tham gia nhiệm vụ chính trị, tham gia
cách mạng, kháng chiến và xây dựng CNXH.


“Văn hoá ở trong kinh tế” tức là văn hoá phải phục vụ, thúc đẩy xây dựng



và phát triển kinh tế.
“Văn hoá ở trong kinh tế và chính trị” cũng có nghĩa là chính trị và kinh tế
phải có tính văn hoá.

3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực chính của văn hoá
- Văn hoá giáo dục


+ Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục thực dân nửa phong kiến:
* Việc thay đổi nội dung giáo dục, bãi bỏ phép khoa cử truyền thống lấy Nho
giáo làm trọng tâm khiến Nho giáo mất dần ảnh hưởng lên đời sống xã hội và
chìm vào quên lãng. Điều này khiến xã hội tan rã do không được định hướng

bởi một hệ thống giá trị chung, không còn tín hiệu tập hợp; đạo đức xã hội suy
đồi và các giá trị văn hóa truyền thống bị thui chột.
* Hệ thống giáo dục phát triển không tương xứng với những hứa hẹn của
người Pháp "khai hóa văn minh" dân thuộc địa. Chính vì thế, cái mà người Việt
thừa hưởng từ người Pháp sau khi Việt Nam giành được độc lập chỉ là những
mảnh vụn văn hóa và lịch sử; tỷ lệ mù chữ lên đến 95% dân số, hệ thống kiến
thức Tây học kém cỏi, thiếu chiều sâu cùng với nền tảng đạo đức xã hội suy đồi
+ Chủ trương xây dựng một nền giáo dục mới
* Mục tiêu của văn hoá giáo dục là để thực hiện cả ba chức năng của văn hoá
thông qua việc dạy và học.
* Nội dung giáo dục phải phù hợp với thực tiễn VN
* Phương châm, phương pháp giáo dục
* Về đội ngũ giáo viên

- Văn hoá - nghệ thuật
+ Một là, văn hoá - văn nghệ là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn
nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng.
+ Hai là, văn nghệ phải gắn với thực tiễn đời sống của nhân dân.


Thực tiễn đời sống nhân dân là lao động, chiến đấu, sinh hoạt và xây
dựng xã hội mới. Văn nghệ phản ánh và hướng thực tiễn ấy phát triển


theo quy luật của cái đẹp. Cái đẹp của cuộc sống đang vận động và biến
đổi, do con người tạo ra, đồng thời cũng tạo ra sự hoàn thiện của con


người chứ không phải là cái đẹp siêu thực, vĩnh hằng.
Hồ Chí Minh yêu cầu chiến sĩ văn nghệ phải thật hoà mình với quần

chúng, nguồn nhựa sống sáng tác của nhà văn là từ nhân dân. Nhà văn
quên điều đó thì nhân dân cũng quên nhà văn.

+ Ba là, phải có những tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất
nước và dân tộc.
- Văn hoá đời sống: 3 mặt của đời sống mới
+ Lối sống mới: cái này chép y hệt trong giáo trình vào nhé, trang 246
+ Nếp sống mới cái này chép y hệt trong giáo trình vào nhé, trang 245
+ Đạo đức mới cái này chép y hệt trong giáo trình vào nhé, trang 245

II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
a) Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
- Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến vai trò và sức mạnh của đạo đức
+ Hồ Chí Minh quan tâm sớm và suốt đời đến vai trò và sức mạnh của đạo đức
* "Tư cách một người cách mệnh" là bài giảng đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho các lớp tập huấn cán bộ của Đảng ta từ năm 1927, song đến nay vẫn
còn nguyên giá trị. Tuy ngắn gọn nhưng nội dung bài giảng đã chỉ rõ những yêu


cầu về phẩm chất và năng lực của người cán bộ cách mạng:
"Tự mình phải: Cần kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận
mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị
công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ
nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất. Bí mật.
Đối người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có
lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người.
Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phuc tùng
đoàn thể".



Yêu cầu đầu tiên của một người cách mạng là đạo đức

* Năm 1947, trong "Sửa đổi lối làm việc" Người có đề cập:
“IV. TƯ CÁCH VÀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
B. PHẬN SỰ CỦA ĐẢNG VIÊN VÀ CÁN BỘ
2. Đạo đức cách mạng….”
* Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cuốn sách “Cần kiệm liêm chính”, viết xong khoảng
tháng 6/1949, ký tên Lê Quyết Thắng. Nội dung của cuốn sách này đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết trong bố bài báo đăng trên Báo Cứu Quốc: Thế nào là
Cần, 30/5/1949; Thế là nào Kiệm, 31/5/1949; Thế nào là Liêm, 1/6/1949; Thế
nào là Chính, 2/6/1949.
* Trong Di chúc, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự thấm
nhuần "đạo đức cách mạng", giữ gìn Đảng thật "trong sạch".
+ Đề cập rất phong phú và sâu sắc trên cả phương diện lý luận và thực tiễn
* Lý luận: Người xây dựng hệ thống lý luận bao gồm




Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức
Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới


* Thực tiễn



Toàn Đảng toàn dân thực hành đạo đức cách mạng

HCM trở thành một tấm gương về đạo đức cách mạng

- Đảng phải là đạo đức, là văn minh. Tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng
(3-2-1930 - 3-2-1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự hào khẳng định: “Đảng ta là
đạo đức, là văn minh” và “Đảng ta thật là vĩ đại”.
+ Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”
+ Đề phòng nguy cơ Đảng xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng, rơi vào thoái
hoá, biến chất
+ Biện pháp:
* Trong Di chúc, người căn dặn: "Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải
giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân".
* Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi
đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế Người nói: "Phải lấy kết quả thiết
thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà do ý chí cách
mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình
thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất".
- Mối quan hệ giữa Đức và Tài:
+ Trong Bài nói chuyện tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai, ngày
7/5/1958, Hồ Chí Minh đã dặn dò đối với thanh niên rằng:”…thanh niên phải có
đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi


nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội,
mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt
không làm hại gì, nhưng cũng không có lợi cho loài người”.

+ Năm 1964, trong lần đến thăm Đại học sư phạm Hà Nội, Người nhắc nhở các
giảng viên:” Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo
đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng
thì có tài cũng vô dụng. Đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với cách
mạng, một lòng một dạ phục vụ nhân dân”.
+ Đức biểu hiện thông qua tài:
* Theo Người giữa đức và tài, hồng và chuyên phải gắn bó chặt chẽ nhau, bổ
trợ nhau mới làm nên sự hoàn thiện trong nhân cách của con người. Nhân cách
Hồ Chí Minh là một mẫu mực của sự thống nhất hai yếu tố đó.
* Luận điểm nổi tiếng mà Hồ Chí Minh đã nêu ra rằng: Có tài mà không có đức
là người vô dụng; có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Do vậy,giữa
đức với tài không thể có mặt này mà thiếu mặt kia,chúng phải tương hỗ cùng
nhau, thống nhất hữu cơ với nhau mới giúp cho con người, nhất là người cán
bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ cách mạng cũng như hoàn thiện nhân cách
bản thân. Trong mối quan hệ biện chứng đó, đức là nền tảng của tài, định
hướng cho tài năng phát triển và phát triển đúng hướng-tức phục vụ nhân dân
và cách mạng. Ngược lại, tài là thành tố góp phần tạo nên đức, phát huy tác
dụng của đức, hoàn thiện đức.
* Theo luận điểm của Hồ Chí Minh, có tài mà không có đức là người vô dụng;
nó nguy hiểm hơn có đức mà không có tài. Người không có đức là người không
quan tâm đến quyền lợi của người khác. Người có tài mà đi ngược lại lợi ích
chân chính của tập thể, của nhân dân, phản bội Tổ quốc thì chẳng những vô
dụng mà còn có tội, tài đó đáng bỏ đi, không đáng trân trọng.
=> Đức với tài là một thể thống nhất, không thể tách rời; không thể chỉ có đức


mà không cần tài, càng không thể coi trọng tài mà xem nhẹ đức
+ HCM yêu cầu có cả đức và tài
- Đức là là yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
+ Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng

cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà
trước hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người
cộng sản luôn sống và chiến đấu cho lý tưởng đó của loài người thành hiện
thực.
+ Bác nói: “Đối với phương Đông một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100
bài diễn văn tuyên truyền”. Và cuộc đời của Người chính là một tấm gương đạo
đức sáng ngời, chẳng những có sức hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ với nhân dân
Việt Nam mà còn cả với nhân dân thế giới. Tấm gương của Người trở thành
nguồn cổ vũ, động viên tinh thần quan trọng đối với nhân dân ta và nhân loại
tiến bộ đoàn kết đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội.
b) Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
- Trung với nước, hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với
nhân dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo
đức quan trọng nhất, bao trùm nhất.
+ Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống
Việt Nam và phương Đông, song có nội dung hạn hẹp, phản ánh bổn phận của
dân đối với vua, con đối với cha mẹ: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”.
+ Hồ Chí Minh đã mượn khái niệm cũ và đưa vào nội dung mới: “Trung với
nước, hiếu với dân”, tạo nên một cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức.
Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước,
trung thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu hy sinh vì


độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước là nước của dân, còn nhân
dân là chủ của đất nước. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng
hàng đầu. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, gắn bó với dân,

kính trọng và học tập nhân dân, lấy dân làm gốc, phục vụ nhân dân hết lòng.
Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu
rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Đây là những phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của con
người. Hồ Chí Minh cũng dùng những phạm trù đạo đức cũ, lọc bỏ những nội
dung lạc hậu, đưa vào những nội dung mới đáp ứng nhu cầu cách mạng.
+ Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất
cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại,
không dựa dẫm.
+ Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân
dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; “Không
xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, nhưng không phải là bủn xỉn. Kiệm
trong tư tưởng của Người còn đồng nghĩa với năng suất lao động cao.
+ Liêm là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm
một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”. Phải trong sạch, không
tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng.
Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ.
Hành vi trái với chữ liêm là:... cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc
trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của
mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là
tham uý lạo. Cụ Khổng nói: người mà không liêm, không bằng súc vật. Cụ Mạnh


nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.
+ Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn đối với mình, với người, với việc.
Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn
kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.
Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái
độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.

Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn,
không ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
Theo Hồ Chí Minh, Cần, kiệm, liêm, chính là “tứ đức” không thể thiếu được của
con người. Người viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người”.
Bác cũng nhấn mạnh: Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết đối với người cán
bộ, đảng viên. Nếu đảng viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của
Đảng, nhiệm vụ của cách mạng. Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu
có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. “Nó” là cái
cần thiết để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự
giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.
+ Chí công vô tư là ham làm những việc ích quốc, lợi dân, không ham địa vị,
không màng công danh, vinh hoa phú quý; “phải lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc).
Thực hành chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình,


muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc
ngoại xâm.
Hồ Chí Minh viết: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là
vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu
mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá
nhân”. Người cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân.
Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi

dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để người
cách mạng vững vàng qua mọi thử thách : “Giàu sang không quyến rũ, nghèo
khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”.



×