Tải bản đầy đủ (.docx) (129 trang)

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin của các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành vận tải niêm yết trên thị trường chứng khoán việt naml

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.03 KB, 129 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác gia

VŨ THỊ MAI HƯƠNG


MỤC LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CBTT

:

Công bố thông tin

DN

:

Doanh nghiệp

SGDCK

:

Sở giao dịch chứng khoán


HĐQT

:

Hội đồng quan trị

UBCKNN :

Uỷ ban chứng khoán Nhà nước


DANH MỤC SƠ ĐỒ
Số hiệu

Tên sơ đồ

sơ đồ
1.1

Trang

Phương pháp phân tích thông tin trên báo cáo thường
niên

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu

Tên bảng

Trang



bảng
2.1
3.1
3.2
3.3
3.4
3.5
3.6
3.7
3.8
3.9

Tổng hợp đo lường các biến anh hưởng đến công bố
thông tin
Bang thống kê mức độ công bố thông tin
Thống kê mô ta các biến độc lập và biến kiểm soát
Ma trận tương quan giữa các biến
Kết qua đánh giá độ phù hợp của mô hình
Phân tích hồi quy
Kết qua kiểm tra gia thiết phương sai sai số thay đổi
Kết qua đánh giá độ phù hợp của mô hình lần 2
Phân tích hồi quy lần 2
Tổng hợp kết qua nghiên cứu các nhân tố anh hưởng
đến mức độ công bố thông tin

77
80



6

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối canh thị trường mang tính toàn cầu hóa ngày càng cao, đối
tượng tham gia thị trường ngày càng đa dạng đòi hỏi doanh nghiệp phai theo
kịp xu thế tất yếu đang hình thành trên thị trường chứng khoán đó là thông tin
phai ngày càng minh bạch và được truyền thông, phan hồi hai chiều giữa
doanh nghiệp niêm yết và nhà đầu tư. Khi nguồn cung cổ phiếu dồi dào thì sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp niêm yết trong việc giữ chân cổ đông và thu
hút sự quan tâm của nhà đầu tư tiềm năng trên thị trường diễn ra ngày càng
gay gắt. Hiển nhiên, doanh nghiệp nào có hoạt động công bố thông tin tốt và
xây dựng quan hệ nhà đầu tư một cách chuyên nghiệp sẽ góp phần giúp nhà
đầu tư, cổ đông thường xuyên cập nhật tin tức, so sánh, đánh giá và phân tích
để đưa ra các quyết định về định giá kịp thời và chính xác, từ đó tạo nên sức
hút của cổ phiếu và sức mạnh toàn diện của doanh nghiệp. Do đó, có thể thấy
thông tin là yếu tố then chốt, nhạy cam và anh hưởng mạnh mẽ đến hành vi
của tất ca các đối tượng tham gia thị trường, đó là nhà đầu tư, cơ quan quan lý
nhà nước, các công ty chứng khoán...
Tính đến thời điểm 12/2015, trên thị trường chứng khoán Việt Nam có
tổng cộng 1.670 công ty đại chúng, trong đó có 695 công ty đã niêm yết trên 2
Sở Giao dịch Chứng khoán, 400 công ty đăng ký giao dịch trên UPCOM, 80
công ty chứng khoán, 50 công ty quan lý quỹ và hơn 1,6 triệu tài khoan nhà
đầu tư trong và ngoài nước... Tuy nhiên, theo kết qua công bố từ vietstock.vn
vào năm 2012 chỉ có 23 doanh nghiệp trên tổng số 688 doanh nghiệp niêm
yết, tương ứng tỷ lệ 3.3% hoàn thành nghĩa vụ công bố thông tin theo quy
định. Tỷ lệ này tăng lên 4.2% vào năm 2013 và là 9.7% vào năm 2015. Như



7

vậy có rất nhiều doanh nghiệp niêm yết đã chậm công bố thông tin hoặc bỏ
sót những thông tin quan trọng, anh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư.
Trong bối canh nền kinh tế Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển
như hiện nay thì ngành vận tai đóng vai trò ngày càng quan trọng trong sự
phát triển của đất nước. Vận tai là yếu tố cần thiết của tất ca các giai đoạn của
quá trình san xuất. Trong quá trình hoạt động của mình, dịch vụ vận tai đã góp
phần tiêu thụ một khối lượng lớn các san phẩm của ngành khác, bằng cách
đưa các san phẩm đó từ nơi san xuất đến nơi tiêu dùng, làm cho giá trị san
phẩm được tăng lên. Do đó, khi nền kinh tế tăng trưởng, nhu cầu vận chuyển
hàng hóa tăng lên thì ngày càng nhiều các doanh nghiệp cổ phần kinh doanh
dịch vụ vận tai ra đời để đáp ứng nhu cầu phát triển của toàn ngành. Trong đó,
nguồn vốn huy động từ thị trường chứng khoán đối với ngành này chiếm tỷ
trọng không hề nhỏ. Nhưng dường như nhà đầu tư chưa nhận được những
thông tin tương xứng về doanh nghiệp mà họ đã bỏ vốn đầu tư. Trong khi
thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự ra quyết định của nhà
đầu tư cũng như anh hưởng đến quá trình hoạt động và phát triển của thị
trường chứng khoán.
Chính vì vậy việc nghiên cứu mức độ công bố thông tin và các nhân tố
anh hưởng đến mức độ công bố thông tin của các công ty đại chúng lớn, công
ty niêm yết rất cần được quan tâm kể ca đối với ca nhà đầu tư, công ty niêm
yết và ca cơ quan quan lý. Có nhiều tác gia trong nước và thế giới đã nghiên
cứu anh hưởng của các nhân tố đến mức độ công bố thông tin trong doanh
nghiệp niêm yết nhưng hiện nay chưa có nghiên cứu về mức độ công bố
thông tin của các doanh nghiệp ngành vận tai để giúp người đọc, nhà đầu tư
có cái nhìn tổng quát hơn về vấn đề này, từ đó có thể giúp nhà đầu tư và các
bên liên quan có đánh giá chung trước khi ra quyết định.



8

Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, đề tài: “Nghiên cứu các nhân tố ảnh
hưởng đến mức độ công bố thông tin của các doanh nghiệp thuộc nhóm
ngành vận tải niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” được lựa
chọn để nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá mức độ công bố thông tin tự nguyện của các doanh nghiệp
vận tai niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
- Xác định các nhân tố anh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự
nguyện của các doanh nghiệp vận tai niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam.
- Gợi ý các chính sách nhằm nâng cao mức độ công bố thông tin.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu của nghiên cứu đặt ra ở trên, nội dung chính của
đề tài cần phai tra lời được các câu hỏi sau:
- Mức độ công bố thông tin tự nguyện của các doanh nghiệp vận tai niêm
yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam như thế nào?
- Các yếu tố nào anh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện của
các doanh nghiệp vận tai niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về mức độ công bố thông
tin tự nguyện của các doanh nghiệp vận tai niêm yết trên thị trường chứng


9

khoán Việt Nam, trên cơ sở đó đánh giá anh hưởng của các yếu tố tác động
đến mức độ công bố thông tin tự nguyện.
Phạm vi nghiên cứu: Các báo cáo thường niên năm 2015 của 47 doanh

nghiệp vận tai niêm yết tại tại sàn giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí
Minh (HOSE) và sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX).
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu trong luận văn này là phương pháp
nghiên cứu định lượng. Với phương pháp này luận văn sử dụng mô hình hồi
quy để kiểm tra những gia thuyết nghiên cứu đặt ra. Trong đó biến về về đặc
điểm quan trị doanh nghiệp gồm số lượng thành viên hội đồng quan trị, thành
viên hội đồng quan trị độc lập và việc kiêm nhiệm giữa chủ tịch hội đồng
quan trị và tổng giám đốc, loại công ty kiểm toán độc lập. Yếu tố về cơ cấu sở
hữu gồm: sở hữu nhà nước, sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, sở hữu của
nhóm nhà quan lý. Cuối cùng là các yếu tố về đặc tính của doanh nghiệp gồm
quy mô doanh nghiệp, kha năng sinh lời, đòn bẩy nợ.
- Trình tự nghiên cứu: Bước đầu tiên, tác gia đã tiến hành tìm hiểu và
tổng hợp các lý thuyết có liên quan. Tiếp theo, lựa chọn mẫu nghiên cứu là
các doanh nghiệp vận tai niêm yết tại HOSE và HNX trước năm 2015 và thu
thập báo cáo thường niên năm 2015 của các doanh nghiệp này. Bước 3, xây
dựng bang các yếu tố thông tin tự nguyện công bố trong báo cáo thường niên,
tính toán chỉ số công bố thông tin đồng thời xác định các nhân tố có thể có
anh hưởng đến mức độ công bố thông tin trong báo cáo thường niên của các
doanh nghiệp thuộc nhóm ngành vận tai niêm yết, đặt ra các gia thuyết nghiên
cứu. Và cuối cùng là tiến hành phân tích hồi quy, kiểm định các gia thuyết, rút
ra kết luận về vấn đề nghiên cứu.


10

- Phương pháp phân tích:
Nghiên cứu sử dụng chỉ số công bố thông tin theo cách tiếp cận không
trọng số để đo lường mức độ công bố thông tin trong báo cáo thường niên của
các doanh nghiệp vận tai và sử dụng phương pháp thống kê mô ta để xem xét

đặc điểm, đánh giá mức độ công bố thông tin trong báo cáo thường niên của
các doanh nghiệp này.
Đồng thời, nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính bội (áp dụng
phương pháp bình phương bé nhất - OLS regression model) với phần mềm
ứng dụng SPSS nhằm xác định các nhân tố có anh hưởng đến mức độ công bố
thông tin trong báo cáo thường niên của các doanh nghiệp vận tai.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục các từ viết tắt, sơ đồ, bang biểu và phụ
lục, bố cục của luận văn được chia làm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về công bố thông tin và các nhân tố ảnh hưởng
đến mức độ công bố thông tin của doanh nghiệp
Chương 2: Thiết kế nghiên cứu
Chuơng 3: Kết quả nghiên cứu
Chương 4: Hàm ý chính sách và kết luận
7. Tổng quan tài liệu nghiên cứu


11

Công bố thông tin của các doanh nghiệp niêm yết là một chủ đề luôn
nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý của các nhà nghiên cứu, học thuật trong
nước cũng như trên thế giới trong thời gian qua.
- Các nghiên cứu trên thế giới:
Đã có rất nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa mức độ công bố thông
tin và đặc điểm của doanh nghiệp nhằm xem xét những yếu tố quyết định đến
hành động công bố thông tin của các doanh nghiệp. Những yếu tố hay được
xem xét trong các nghiên cứu trước là các đặc điểm trong quan trị doanh
nghiệp như hội đồng quan trị, quy mô hội đồng quan trị, thành phần hội đồng
quan trị, thành phần ban kiểm toán và cơ cấu sở hữu. Trong khi các thuộc tính
công ty được sử dụng nhiều ở các nghiên cứu trước là quy mô công ty, lợi

nhuận, tính thanh khoan, đòn bẩy nợ, chất lượng công ty kiểm toán, tình trạng
niêm yết, tuổi công ty. Có thể kể đến các nghiên cứu của Gray và cộng sự
(1995), Ho và Wong (2001), Chau và Gray (2002), Eng và Mak (2003),
Barako và cộng sự (2006), Yuen và cộng sự (2009), Rouf (2010) [25], [30],
[16], [20], [10], [49], [39]. Luận văn sẽ trình cụ thể từng nghiên cứu của họ để
giúp hiểu ban chất, phương pháp và kết qua của nghiên cứu này.
Nghiên cứu của Gray và cộng sự (1995): Nghiên cứu này đã phân tích
các yếu tố anh hưởng đến việc công bố thông tin tự nguyện của các công ty ở
Mỹ, Anh và châu Âu [25]. Họ đã sử dụng một bang điểm để đo lường số điểm
mức độ công bố thông tin tự nguyện. Các mục thông tin trong bang điểm
được chia thành chiến lược, thuyết minh tài chính và phi tài chính. Các yếu tố
được kiểm tra bao gồm quy mô công ty, quốc gia/khu vực, tình trạng niêm
yết, ngành, đòn bẩy tài chính, đa dạng hóa kinh doanh và lợi nhuận. Nghiên
cứu này đã không kiểm tra các yếu tố về cơ cấu sở hữu.


12

Kết qua phân tích hồi quy đã cho thấy rằng quy mô công ty và quốc
gia/khu vực là những yếu tố quan trọng nhất giai thích mức độ công khai
thông tin. Đòn bẩy cho một mối quan hệ ngược chiều đáng kể đối với mức độ
công bố thông tin đã được quan sát trong khi đó ít có bằng chứng cho thấy lợi
nhuận có anh hưởng đến mức độ công bố thông tin.
Nghiên cứu của Ho và Wong (2001): Nghiên cứu này bàn về mối quan
hệ giữa quan trị doanh nghiệp và mức độ công bố thông tin tự nguyện của các
công ty niêm yết tại Hồng Kông [30]. Các biến trong nghiên cứu bao gồm
giám đốc điều hành độc lập, sự tồn tại của một ủy ban kiểm toán, sự tồn tại
của các nhân chi phối và tỷ lệ phần trăm của các thành viên gia đình trong hội
đồng quan trị...
Kết qua nghiên cứu tìm thấy rằng tỷ lệ phần trăm của các thành viên gia

đình trong hội động quan trị là biến quan trọng nhất anh hưởng đến mức độ
công bố thông tin tự nguyện. Hơn nữa, kết qua cũng cho thấy sự tồn tại của
một ủy ban kiểm toán tự nguyện là tích cực đối với mức độ công bố tự
nguyện. Hai biến khác, thành viên hội đồng quan trị độc lập và cá nhân chi
phối không có mối liên hệ đáng kể với mức độ công bố tự nguyện.
Nghiên cứu của Chau và Gray (2002): Nghiên cứu này đã phân tích
mối quan hệ giữa cơ cấu sở hữu và công bố tự nguyện của công ty tại Hồng
Kông và Singapore [16] . Mẫu của họ đã được lựa chọn gồm 60 công ty trong
ngành công nghiệp, trong đó báo cáo thường niên năm 2007 là nguồn dữ liệu
chính. Nghiên cứu đã sử dụng một bang điểm đo lường mức độ công khai để
đo lường số điểm công bố thông tin tự nguyện. Cơ cấu sở hữu được đo bằng
tỷ lệ cổ phần thuộc sở hữu của bên ngoài.


13

Kết qua cho thấy có sự ủng hộ cho gia thuyết tỷ lệ sở hữu bên ngoài
công ty lớn hơn làm cho công bố thông tin tự nguyện cao hơn. Hơn nữa,
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có một mối quan hệ ngược chiều giữa quyền sở
hữu hoặc quyền sở hữu gia đình tập trung và các công bố thông tin tự nguyện.
Nghiên cứu của Eng và Mak (2003): Nghiên cứu đã kiểm tra mối quan
hệ giữa quan trị doanh nghiệp và các công bố thông tin tự nguyện tại
Singapore [20]. Họ đã sử dụng một mẫu của 158 công ty niêm yết vào cuối
năm 1995. Các tác gia đã phát triển một bang điểm công bố thông tin để đánh
giá mức độ công bố thông tin tự nguyện. Các yếu tố sử dụng trong nghiên cứu
này bao gồm thành phần hội động quan trị và cơ cấu sở hữu. Đối với cơ cấu
sở hữu họ sử dụng các yếu tố sở hữu cổ đông lớn, quyền sở hữu của ban điều
hành, quyền sở hữu của nhà nước. Kết qua cho thấy rằng quyền sở hữu của
nhà quan lý thấp hơn làm tăng mức độ công bố thông tin tự nguyện. Hơn nữa,
họ không tìm thấy liên hệ giữa quyền sở hữu của cổ đông lớn và mức độ công

bố thông tin tự nguyện. Liên quan đến quyền sở hữu của chính phủ nghiên
cứu cho thấy rằng quyền sở hữu của chính phủ nhiều hơn dẫn đến công bố
thông tin tự nguyện cao hơn.
Nghiên cứu của Barako và công sự (2006): Nghiên cứu này phân tích
các yếu tố anh hưởng đến việc công bố thông tin tự nguyện của các công ty
Kenya [10]. Các yếu tố được sử dụng trong nghiên cứu của họ là sự xuất hiện
của ủy ban kiểm toán, thành phần hội đồng quan trị, sở hữu nước ngoài, sở
hữu tổ chức, sự tập trung cổ đông, quy mô doanh nghiệp, công ty kiểm toán
độc lập, kha năng sinh lời, kha năng thanh toán, ngành và tỷ lệ đòn bẩy. Mẫu
của họ bao gồm 54 công ty niêm yết trên NSE. Kết qua cho thấy rằng sự hiện
diện của một ủy ban kiểm toán liên quan tích cực đến mức độ công bố thông
tin tự nguyện. Nghiên cứu này được thực hiện qua nhiều năm và trong những


14

năm đầu có một mối quan hệ ngược chiều giữa các thành phần hội đồng quan
trị và số lượng công bố thông tin tự nguyện trong khi trong những năm sau
này là một mối quan hệ cùng chiều. Ngoài ra, sở hữu nước ngoài, tổ chức sở
hữu, quy mô doanh nghiệp và đòn bẩy cũng có một mối quan hệ cùng chiều
đáng kể với mức độ công bố tự nguyện. Tập trung sở hữu cổ đông cho thấy
một mối quan hệ ngược chiều với mức độ công bố thông tin.
Nghiên cứu của Yuen và cộng sự (2009): Nghiên cứu này xem xét tác
động của sở hữu, cơ chế quan trị doanh nghiệp, và đặc điểm công ty với việc
công bố tự nguyện của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán
Thượng Hai [49]. Các tính năng cơ cấu sở hữu và cơ chế quan trị doanh
nghiệp bao gồm: (1) mức độ sở hữu tập trung, (2) sở hữu của các tổ chức nhà
nước; (3) quyền sở hữu cá nhân, (4) giám đốc điều hành kiêm chủ tịch hội
đồng quan trị, (5) hội đồng quan trị độc lập, và (6) sự tồn tại của ủy ban kiểm
toán. Các đặc tính công ty gồm (1) quy mô doanh nghiệp, (2) đòn bẩy, (3) lợi

nhuận, và (4) ngành. Nghiên cứu này sử dụng một bang chỉ số để đo lường
mức độ công bố tự nguyện. Kết qua của nghiên cứu cho thấy rằng quyền sở
hữu cá nhân, sự tồn tại của một ủy ban kiểm toán, quy mô doanh nghiệp, và
đòn bẫy tài chính, bao gồm ca tỷ lệ thành viên hội đồng quan trị độc lập có
liên quan đáng kể đến mức công bố thông tin. Nghiên cứu này cung cấp bằng
chứng thực nghiệm cho các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc và cơ
quan quan lý để cai thiện các cơ chế quan trị doanh nghiệp và minh bạch của
các công ty niêm yết được nghiên cứu.
Nghiên cứu của Akhtaruddin và cộng sự (2009): Nghiên cứu này điều
tra mối quan hệ giữa quan trị doanh nghiệp và mức độ công bố tự nguyện của
các doanh nghiệp niêm yết tại Malaysia [6]. Các yếu tố quan trị được kiểm tra
bao gồm số lượng thành viên hội đồng quan trị, tỷ lệ thành viên hội đồng


15

quan trị độc lập, sở hữu cổ phần bên ngoài, kiểm soát gia đình, và tỷ lệ phần
trăm của các thành viên ủy ban kiểm toán trên tổng số thành viên hội đồng
quan trị. Kết qua nghiên cứu cho thấy một mối liên hệ thuận giữa số lượng
thành viên hội đồng quan trị, tỷ lệ thành viên hội đồng quan trị độc lập và
công bố thông tin tự nguyện. Tuy nhiên, kiểm soát gia đình có tác động ngược
chiều đến công bố thông tin tự nguyện tại Malaysia, trong khi đó tỷ lệ của các
thành viên ủy ban kiểm toán trên tổng số thành viên hội đồng quan trị không
liên quan đến mức độ công bố thông tin.
Nghiên cứu của Rouf (2010): Nghiên cứu này tác gia muốn kiểm tra
các mối quan hệ giữa "đặc điểm của công ty", "thuộc tính quan trị" và "mức
độ công bố thông tin tự nguyện" ở Bangladesh [39] . Bài nghiên cứu này dựa
trên một mẫu gồm 120 công ty phi tài chính niêm yết tại sàn giao dịch chứng
khoán DSE trong năm 2007. Nghiên cứu sử dụng phương pháp OLS để kiểm
tra các mối quan hệ giữa các biến giai thích và công bố thông tin. Kết qua

thực nghiệm cho thấy một mối liên hệ thuận giữa số lượng thành viên hội
đồng quan trị, cơ cấu hội đồng quan trị và Ủy ban ban kiểm toán với công bố
tự nguyện. Ngược lại, mức độ công bố thông tin tự nguyện có liên quan
ngược chiều đối với việc kiêm nhiệm Chủ tịch hội đồng quan trị và tổng giám
đốc, cơ cấu sở hữu và lợi nhuận ròng.
- Các nghiên cứu tại Việt Nam
Việc nghiên cứu các chủ đề liên quan đến công bố thông tin được thực
hiện tại các quốc gia trên thế giới sớm hơn so với Việt Nam, tuy nhiên, trong
thời gian gần đây, các nhà nghiên cứu của Việt Nam cũng đã quan tâm nhiều
hơn và đã có những nghiên cứu liên quan đến chủ đề này.


16

Nghiên cứu của Kelly Vu (2012): “Determinants of Voluntary
Disclosure for Vietnamese Listed Firms” Nghiên cứu này xem xét các yếu tố
tác động đến mức độ công bố thông tin của 252 doanh nghiệp niêm yết trên
sàn chứng khoán Việt Nam trong năm 2009 [34]. Nghiên cứu này sử dụng
bang điểm gồm 84 mục và không có trọng số để xác mức độ công bố thông
tin các doanh nghiệp tại Việt Nam. Tác gia đã sử dụng phân tích hồi quy hỗ
trợ cho việc giai thích nghiên cứu về thực tế công bố thông tin tự nguyện tại
Việt Nam. Các bằng chứng cho thấy công bố thông tin tự nguyện của doanh
nghiệp bị anh hưởng tích cực bởi sức mạnh của quan trị doanh nghiệp (tỷ lệ
thành viên hội đồng quan trị độc lập). Sở hữu nhà nước cao là một đặc thù của
các công ty niêm yết Việt Nam, có liên quan đáng kể và ngược chiều với mức
độ công bố thông tin. Trong khi một tỷ lệ cao hơn về quyền sở hữu của ban
điều hành làm giam mức độ công bố thông tin tự nguyện, sở hữu nước ngoài
không anh hưởng đến công bố thông tin. Quy mô doanh nghiệp, lợi nhuận,
ngành, yếu tố về công ty kiểm toán, thời gian niêm yết và nơi niêm yết là
những thuộc tính quan trọng liên quan đến việc công bố tự nguyện trong các

báo cáo thường niên tại Việt Nam.
Bằng chứng từ nghiên cứu này cho thấy rằng quan trị doanh nghiệp có
thể như là một cơ chế giám sát hiệu qua để nâng cao mức độ công bố thông
tin tại Việt Nam. Phát hiện này khuyến nghị các nhà ban hành chính sách Việt
Nam cần áp dụng mạnh hơn cơ chế quan trị doanh nghiệp để nâng cao mức
độ minh bạch thông tin. Ảnh hưởng ngược chiều của sở hữu nhà nước đến
mức độ công bố tự nguyện tại Việt Nam cung cấp những lý luận có giá trị vào
các kế hoạch cổ phần hóa trong tương lai của các doanh nghiệp nhà nước.
Hơn nữa, mối quan hệ ngược chiều giữa quyền sở hữu quan lý và thực thi


17

công bố thông tin tự nguyện cho thấy các vấn đề về quyền sở hữu quan lý,
đặc biệt trong một thị trường mới nổi như Việt Nam.
Nghiên cứu của Phạm Thị Bích Vân (2012) nghiên cứu về “Mối quan
hệ giữa cơ chế quản trị công ty và công bố thông tin trong báo cáo thường
niên: nghiên cứu tại thị trường Việt Nam” [4]. Số mẫu thực nghiệm gồm 101
công ty niêm yết bao gồm 46 công ty niêm yết trên HOSE và 55 công ty niêm
yết trên HNX được thu thập. Điểm số công bố thông tin trong bài nghiên cứu
này được khao sát từ 24 mục trong thông tư 52/2012/TT-BTC về thông tin
cần có trong báo cáo thường niên tại Việt Nam. Kết qua chỉ ra rằng, các biến
đại diện cho cơ chế quan trị công ty như: số lượng thành viên hội đồng quan
trị, tỷ lệ thành viên hội đồng quan trị độc lập không điều hành, sở hữu vốn của
các tổ chức có mối tương quan thuận và có ý nghĩa thống kê với biến mức độ
công bố thông tin. Tuy nhiên, sự bất kiêm nhiệm giữa Tổng giám đốc và chủ
tịch hội đồng quan trị có mối tương quan nghịch với mức độ công bố thông
tin. Các biến độc lập trong mô hình giai thích được 26,7% biến phụ thuộc.
Nghiên cứu mới nhất về vấn đề này là nghiên cứu của Hiếu và Lan
(2015): "Factors Influencing the Voluntary Disclosure of Vietnamese Listed

Companies". Bài nghiên cứu này nhằm mục đích để đánh giá các yếu tố anh
hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện. bằng cách kiểm tra các báo
cáo hàng năm của 205 công ty công nghiệp và san xuất niêm yết trên SGDCK
Thành phố Hồ Chí Minh (HSX) và Sở GDCK Hà Nội (HNX) cho năm 2012
[37]. Những yếu tố anh hưởng bao gồm quy mô công ty, lợi nhuận, đòn bẩy,
quyền sở hữu nhà nước, quyền sở hữu ban điều hành, sở hữu nước ngoài,
thành viên hội đồng quan trị độc lập, chủ tịch hội đồng quan trị kiêm tổng
giám đốc và công ty kiểm toán. Bài viết đánh giá mức độ công bố thông tin
dựa trên một bang gồm 42 câu và được chia làm 4 nhóm chính. Bằng chứng


18

từ nghiên cứu này cho thấy hai phát hiện chính: (1) Các công ty có sở hữu
nước ngoài cao có mức độ công bố thông tin tự nguyện tốt hơn; (2) Quy mô
công ty là một yếu tố quan trọng liên quan đến sự gia tăng mức độ công bố
thông tin tự nguyện trong các báo cáo hàng năm của các công ty niêm yết Việt
Nam. Tuy nhiên, các yếu tố còn lại không có tác động đên mức độ công bố
thông tin như đưa ra trong gia thuyết trong nghiên cứu.
Kết qua của các nghiên cứu về công bố thông tin trên thế giới và tại Việt
Nam được tác gia thể hiện tóm tắt trong bang phụ lục A.
- Kết luận tổng quan tài liệu nghiên cứu:
Qua việc tổng quan các nghiên cứu được thực hiện trên thế giới và tại
Việt Nam có liên quan đến công bố thông tin, có thể thấy rằng, công bố thông
tin và các nhân tố anh hưởng là một trong những chủ đề được đặc biệt quan
tâm. Hầu hết các nghiên cứu này sử dụng phương pháp định lượng tiếp cận
theo quy trình từ các nghiên cứu trước, lý thuyết nền tang và đặc điểm kinh tế
xã hội ở mỗi quốc gia để xây dựng mô hình và kiểm định mô hình. Tuy nhiên
các nghiên cứu vẫn còn chưa thống nhất về các nhân tố anh hưởng đến công
bố thông tin, có thể do xuất phát về đo lường hoặc do chọn mẫu. Hơn nữa hầu

hết các nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu mức độ công bố thông tin cho các
doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam thuộc tất ca các
nhóm ngành nghề, có rất ít các nghiên cứu liên quan đến công bố thông tin
riêng cho một nhóm ngành cụ thể, ví dụ như nhóm ngành vận tai. Vì vậy, tất
yếu cần phai có các nghiên cứu về chủ đề này cho từng nhóm ngành cụ thể để
các cơ quan quan lý nhà nước có thể có những chính sách, quy định chặt chẽ
hơn, phù hợp hơn với thị trường chứng khoán Việt Nam.


19

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN VÀ CÁC
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN MỨC ĐỘ CÔNG BỐ
THÔNG TIN
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN
1.1.1 Khái niệm về công bố thông tin
Công bố thông tin là quá trình cung cấp thông tin liên quan đến tình hình
tài chính, vị thế cạnh tranh, triển vọng phát triển và các thông tin phi tài chính
của công ty, quan trọng là các khoan mục bằng tiền cho các bên có quan tâm
và có lợi ích liên quan đến công ty (Owusu-Ansah, 1998) [36]
Trong hoạt động của thị trường chứng khoán các nhà đầu tư yêu cầu
thông tin phai kịp thời và chính xác để đưa ra quyết định đầu tư hiệu qua.
Thông tin có thể được thu thập qua nhiều cách khác nhau và một trong những
nguồn quan trọng nhất là từ các công bố thông tin của công ty. Vai trò quan
trọng nhất của công bố thông tin là cung cấp thông tin tài chính liên quan, hữu
ích và đáng tin cậy cho các nhà đầu tư, cổ đông và những người quan tâm
khác về tình hình tài chính và hiệu qua hoạt động công ty. Đồng thời cung cấp
những thông tin về triển vọng trong tương lai của công ty để giúp các nhà đầu

tư trong việc ra quyết định. Có bằng chứng thực nghiệm cho thấy rằng việc
công bố thông tin tăng làm giam chi phí vốn của một công ty bằng cách giam
thông tin bất cân xứng (Botosan, 1997) [12]. Như vậy, công bố thông tin tự nó
là một công cụ chiến lược giúp tăng cường kha năng của một công ty để huy
động vốn với chi phí thấp nhất có thể. Các thông tin được cung cấp bởi các


20

công ty bao gồm hai loại: công bố thông tin bắt buộc và công bố thông tin tự
nguyện.
- Công bố thông tin bắt buộc:
Là việc công bố những thông tin cơ ban theo quy định của pháp luật mà
cụ thể là các quy định công bố thông tin theo luật doanh nghiệp, luật chứng
khoán 2005 (đã có sửa đổi và bổ sung), thông tư 155/2015/TT-BTC về công
bố thông tin. Theo Simon (2001) công bố thông tin bắt buộc là các quy tắc
cho phép truy cập những thông tin cơ ban [40]. Hay công bố thông tin bắt
buộc là các thông tin mà các doanh nghiệp nhất thiết phai công bố theo quy
chuẩn, nội dung và thời gian bắt buộc do luật quy định (Durukan, 2003) [19].
Hiện tại theo quy định của thông tư 155/2015/TT-BTC việc công bố thông tin
được phân chia làm 3 loại gồm: công bố thông tin định kỳ, công bố thông tin
bất thường, công bố thông tin theo yêu cầu.
Công bố thông tin định kỳ: Công bố thông tin định kỳ gồm những báo
cáo: báo cáo tài chính quý, bán niên, năm, đối với công ty là công ty mẹ công ty con hoặc công ty có kế toán phụ thuộc phai có ca báo cáo tài chính
riêng và báo cáo tài chính hợp nhất. Ngoài ra, công bố thông tin định kỳ còn
có báo cáo thường niên và báo cáo quan trị. Thông tư 155 còn quy định cụ thể
nội dung, thời hạn và cách thức công bố thông tin.
Công bố thông tin bất thường: Cũng theo quy định của thông tư 155
những sự kiện, thông tin xay ra anh hưởng đến tình hình hoạt động kinh
doanh, cổ đông của công ty thì phai công bố thông tin trong thời hạn quy định

của thông tư này. Một số sự kiện phai công bố thông tin bất thường như: tài
khoan công ty bị phong tỏa, nghị quyết/quyết định của Đại hội đồng cổ đông,


21

các nghị quyết quan trọng của Hội đồng quan trị, thay đổi nhân sự chủ chốt,
sự kiện anh hưởng lớn đến họat động san xuất kinh doanh….
Công bố thông tin theo yêu cầu: Công ty phai công bố thông tin trong
vòng 24h khi có yêu cầu của Ủy ban chứng khoán nhà nước khi xay ra các sự
kiện anh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của cổ đông, giá chứng khoán. Cách
thức và nội dung công bố thông tin cũng được quy định rõ trong thông tư 155.


22

- Công bố thông tin tự nguyện:
Công bố thông tin tự nguyện là thuật ngữ khá mới ở Việt Nam và các thị
trường tài chính mới nổi nhưng đối với các thị trường phát triển như Châu Âu,
Châu Mỹ thì đây là thuật ngữ phổ biến. Như FASB (Financial Accounting
Standard Board in US) đã định nghĩa công bố thông tin tự nguyện là các
thông tin được công bố ngoại trừ những báo cáo tài chính đã công bố theo yêu
cầu. Gray và cộng sự (1995) xác định công bố thông tin tự nguyện như là
những công bố được thực hiện vượt quá những yêu cầu thông tin cơ ban.
Công bố thông tin tự nguyện như là công cụ giam bớt thông tin bất cân xứng
giữa lãnh đạo công ty và nhà đầu tư . Công bố thông tin tự nguyện thường
xuyên được chia thành ba loại thông tin: chiến lược, tài chính và phi tài chính.
Nghiên cứu đầu tiên về ba loại thông tin này là của Gray và cộng sự (1995).
Chiến lược và thông tin tài chính thường liên quan đến nhà đầu tư và các nhà
san xuất. Trong khi đó thông tin phi tài chính tập trung nhiều hơn về trách

nhiệm xã hội của một doanh nghiệp, bên cạnh việc thông tin cho các nhà đầu
tư, cũng liên quan đến công chúng nói chung. Có nhiều phương thức khác
nhau để cung cấp thông tin tự nguyện, thông qua các báo cáo thường niên,
nửa năm, hàng quý, báo cáo quan hệ nhà đầu tư, báo cáo phát triển bền vững,
chú thích, phỏng vấn, thông cáo báo chí và những cách thức khác [25].
1.1.2 Tầm quan trọng của việc công bố thông tin
Verrecchia (1983) lập luận rằng quyết định của người quan lý tiết lộ
hoặc che giấu thông tin phụ thuộc vào sự cân bằng giữa chi phí và lợi ích của
việc cung cấp thông tin [45]. Chi phí liên quan công bố tự nguyện, bao gồm
chi phí thu thập, lưu trữ, kiểm toán và chi phí cạnh tranh bất lợi. Trong đó, chi
phí cạnh tranh bất lợi là đến từ các thông tin như các chiến lược và đổi mới


23

công nghệ, quan lý về hoạt động của một công ty. Như công bố thông tin liên
quan đến kế hoạch phát triển san phẩm trong tương lai của công ty với công
chúng thì dễ xay ra một nguy cơ cạnh tranh tiềm tàng cho chính công ty đã
công bố thông tin. Đó chính là đối thủ cạnh tranh có thể sử dụng công bố
thông tin của công ty để phát triển một san phẩm tương tự hoặc cập nhật san
phẩm, kết qua là gây bất lợi trong cạnh tranh với công ty.
Tuy nhiên, có nhiều ích lợi trong việc công bố thông tin của các công ty
như khuyến khích các giao dịch thị trường vốn. Khi quan lý một công ty dự
kiến giao dịch thị trường vốn trong tương lai gần, một số công bố thông tin tự
nguyện được sử dụng để làm giam sự bất đối xứng thông tin giữa công ty và
nhà đầu tư. Lý do việc nhà quan lý làm như vậy là nó có thể làm giam chi phí
tài chính bên ngoài. Nhiều nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng thực nghiệm
cho lý thuyết này. Botosan (2000) kết luận rằng kết qua công bố thông tin
nhiều hơn thì có chi phí vốn thấp hơn [13].
Nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng tăng công bố tự nguyện có thể cai thiện

tính thanh khoan thị trường vốn bằng cách giam chi phí giao dịch và do đó
làm tăng nhu cầu đối với cổ phiếu của một công ty. Nhu cầu cao hơn đối với
cổ phiếu dẫn đến giá cổ phiếu cao hơn, dẫn đến chi phí thấp hơn vốn
(Verrecchia, 1983) [45]. Trong một nghiên cứu về công bố tự nguyện và thanh
khoan thị trường trong thị trường mới nổi ở Jordan, Cormier (1999) thấy rằng
tăng cường công bố thông tin tự nguyện giúp giam thiểu khoang cách giữa
lệnh đặt mua – lệnh đặt bán trong các hoạt động giao dịch cổ phiếu, làm giam
chi phí vốn và do đó cai thiện tính thanh khoan của thị trường [18] .
Hiệu qua của việc công bố thông tin tốt là làm giam chi phí nợ cũng
được xem xét trong nghiên cứu trước đây. Bằng chứng thực nghiệm từ


24

Botosan (2000) nghiên cứu cho thấy rằng tỷ lệ lãi suất thấp có liên quan với
mức độ cao hơn trong công bố thông tin [13]. Điều này là do khi các vấn đề
thông tin bất đối xứng tồn tại, chủ nợ có thể cho rằng các công ty đang che
giấu thông tin, có thể dẫn đến sự gia tăng trong chi phí đi vay vì chủ nợ phai
tự bao vệ mình từ các thông tin không đầy đủ nhận được từ các công ty. Điều
đó cũng có nghĩa là khi một công ty công bố thêm thông tin tự nguyện giúp
chủ nợ tiết kiệm chi phí tìm kiếm thông tin và giúp làm giam chi phí đi vay.
Mức độ công bố thông tin tự nguyện có thể làm giam sự không chắc
chắn xung quanh một công ty cụ thể và cho phép nhà đầu tư hoặc các nhà đầu
tư tiềm năng có được dự báo chính xác hơn từ đó, cổ phiếu chịu ít biến động
và giá trị của chúng được xác định chính xác hơn (Healy và Palepu , 2001)
[28]. Các nghiên cứu trước đây cũng tìm thấy rằng mức độ công bố thông tin
tốt có một tác động tích cực trở lại cổ phiếu của một công ty. Barako (2004)
cho rằng việc công bố thông tin tự nguyện phi tài chính có thể nâng cao giá trị
cổ phiếu của một công ty cũng như uy tín xã hội [9].
Công bố thông tin là một yếu tố quan trọng có anh hưởng đến việc phân

bổ hiệu qua các nguồn lực của xã hội và giam thiểu sự nhiễu loạn thông tin
giữa doanh nghiệp và các đối tượng sử dụng thông tin bên ngoài doanh
nghiệp, (Adina, 2008) [5]. Thật vậy, một số các vấn đề liên quan đến thông tin
và động cơ công bố thông tin đã can trở việc phân bổ nguồn lực tối ưu trong
thị trường vốn. Đó chính là các vấn đề như vấn đề bất đối xứng thông tin, vấn
đề đại diện,... Vấn đề bất đối xứng thông tin nay sinh từ sự khác biệt về mức
độ và nội dung thông tin, từ sự khác biệt về động cơ giữa chủ doanh nghiệp,
nhà quan trị doanh nghiệp với các nhà đầu tư. Thông tin bất đối xứng tạo ra
những kỳ vọng về giá khác nhau đối với mỗi chủ thể trên thị trường dẫn đến
sự khác nhau về mặt hiệu qua kinh tế và thường là thiệt hại cho các nhà đầu tư


25

có những thông tin không đầy đủ hay những thông tin thiếu chính xác, thậm
chí còn gây ra các hành vi tiêu cực như đầu cơ, giao dịch nội gián, tung tin
đồn thất thiệt, ... làm cho thị trường kém hiệu qua, dễ chao đao, hoạt động đầu
tư của các nhà đầu tư cũng dễ rủi ro hơn, .... Còn vấn đề đại diện phát sinh khi
các cổ đông của doanh nghiệp, tức là những nhà đầu tư đã đầu tư vốn vào
doanh nghiệp, bổ nhiệm, chỉ định người khác, người quan lý doanh nghiệp
(người đại diện - agents), để thực hiện việc quan lý doanh nghiệp cho họ,
trong đó bao gồm ca việc trao thẩm quyền để ra quyết định định đoạt tài san
của doanh nghiệp. Nếu ca cổ đông và người quan lý doanh nghiệp đều muốn
tối đa hóa lợi ích của mình, thì chắc chắn rằng người quan lý doanh nghiệp sẽ
không luôn luôn hành động vì lợi ích tốt nhất cho người chủ, tức các cổ đông
và doanh nghiệp, mà trái lại họ luôn có xu hướng tìm kiếm lợi ích cá nhân (lý
thuyết đại diện). Và một trong số những giai pháp làm giam các vấn đề nêu
trên là việc thúc đẩy công bố thông tin doanh nghiệp trên thị trường chứng
khoán.
Nhìn chung, tăng cường công bố thông tin cho phép các công ty dễ dàng

huy động vốn bên ngoài thông qua một chi phí vốn giam và chi phí nợ giam,
đồng thời nâng cao giá trị của công ty và cai thiện thanh khoan thị trường,
đóng góp vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế của một quốc gia.
1.1.3 Yêu cầu về công bố thông tin
 Yêu cầu công bố thông tin đối với các doanh nghiệp niêm yết
Thông tư số 155/2015/TT-BTC của Bộ Tài Chính hướng dẫn về việc
công bố thông tin trên thị trường chứng khoán có các quy định điều về yêu
cầu thực hiện công bố thông tin như sau:


×