Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Nghiên cứu hiệu quả sử dụng phân hữu cơ với chế phẩm Trichoderma và Pseudomonas cho cây lạc tại Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.28 MB, 131 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Lạc (Arachis hypogaea L.) là cây công nghiệp ngắn ngày, cây thực phẩm có gia
trị dinh dưỡng cao, trong hạt lạc có chứa 40 - 60% lipid, 26 - 34% protein, 6 - 25%
gluxit, 8 loại axit amin không thay thế và cac loại vitamin hòa tan làm nguyên liệu
quan trọng trong công nghiệp chế biến. Khả năng cố định đạm của cac vi khuẩn
Rhizobium sống cộng sinh trong nốt sần của cây lạc là đặc tính tuyệt vời làm lạc trở
thành cây có khả năng bảo vệ, duy trì và cải thiện độ phì nhiêu của đất rất hiệu quả.
Gieo trồng lạc cải thiện được độ pH, hàm lượng mùn và độ phì nhiêu của đất, góp
phần duy trì và tăng năng suất, sản lượng cac cây trồng khac, tăng hệ số sử dụng đất và
hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích. Đồng thời cũng là cây tạo ra tính đa dạng
trong sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, lạc là cây trồng quan trọng trong hệ thống xen
canh, luân canh với cac cây trồng khac, đặc biệt có ý nghĩa to lớn trong việc cải tạo đất
đối với cac loại đất nghèo dinh dưỡng.
Ở Việt Nam nói chung và cac tỉnh miền Trung nói riêng, lạc chủ yếu được canh
tac trên cac loại đất nghèo dinh dưỡng. Diện tích trồng lạc ở Thừa Thiên Huế thường
tập trung trên một số loại đất chính như đất cat ven biển, đất xam bạc màu và đất phù
sa. Gần đây, cây lạc được gieo trồng ở đất vàng nhạt trên đa cat thuộc cac huyện Nam
Đông, A Lưới và một số xã thuộc huyện Hương Trà nhưng với diện tích rất ít. Trong 5
nhóm đất đồng bằng của tỉnh Thừa Thừa Thiên thì đất cat ven biển, chiếm tỷ trọng lớn
nhất, với diện tích là 19.604 ha và tiếp theo là đất xam bạc màu, với diện tích là 800
ha. Hai loại đất này chiếm tỷ lệ khoảng 80% so với tổng diện tích trồng lạc của toàn
tỉnh (Sở NN và PTNT Thừa Thiên Huế, 2013). Lạc được canh tac trên đất nghèo dinh
dưỡng, đầu tư phân chuồng ngày càng hạn chế, điều kiện thời tiết không ưu đãi nên
năng suất lạc tại tỉnh Thừa Thiên Huế là thấp hơn so với cac tỉnh khac (< 20,4 tạ/ha).
Tuy nhiên, năng suất trên còn thấp so với tiềm năng năng suất của cây lạc và cac vùng
khac trong cả nước như Trà Vinh (51,1 tạ/ha), Đồng Thap (35,0 tạ/ha) Long An (31,5
tạ/ha) (Niên giam thống kê ngành nông nghiệp, 2014). Trong khi lạc được xem là cây
công nghiệp ngắn ngày chủ lực trong cơ cấu cây trồng của tỉnh. Vì vậy, cần được quan


tâm nghiên cứu cac biện phap kỹ thuật, nhằm nâng cao năng suất và hướng tới sản
xuất lạc bền vững và thân thiện với môi trường.
Để tăng năng suất và sản lượng cây trồng thì cac yếu tố như giống, phân bón, kỹ
thuật canh tac,... đóng vai trò quan trọng, trong đó phân bón được xem là nhân tố


2

chính. Tuy nhiên, việc lạm dụng sử dụng phân hóa học lâu dài sẽ dẫn đến đầu tư chi
phí cao, nông dân thu được lợi nhuận thấp, đồng thời gây phat thải khí N 2O càng
nhiều. Mặt khac, sự dư thừa phân hóa học gây ô nhiễm môi trường đất, nước và ảnh
hưởng đến sức khỏe con người [153]. Vấn đề tăng vụ trong sản xuất làm cho nhiều
diện tích đất canh tac bị ô nhiễm, độ phì nhiêu và sức sản xuất của đất sẽ giảm, gây
hiện tượng suy thoai dinh dưỡng. Ở cac nước công nghiệp phat triển đã bón qua nhiều
phân hóa học khiến môi trường bị suy thoai, chất lượng sản phẩm giảm sút [89].
Nghiên cứu tìm ra những biện phap canh tac hiệu quả mà vẫn giữ được năng suất
cao, đồng thời cải thiện độ phì nhiêu của đất và an toàn cho môi trường là rất cần thiết.
Bên cạnh việc tìm ra những giống cây trồng mới có năng suất cao, thì người ta khuyến
cao sử dụng phân hữu cơ, biện phap này có thể tận dụng được tất cả những phế phẩm
trong sản xuất nông nghiệp để làm phân hữu cơ như rơm rạ, phân chuồng, tàn dư thực
vật… Sử dụng phân hữu cơ giúp giảm lượng phân hóa học, cải thiện tốt độ phì nhiêu
đất. Phân hữu cơ không những làm tăng năng suất cây trồng mà còn có khả năng làm
tăng hiệu lực của phân hóa học, cải tạo và nâng cao độ phì của đất [65].
Vi sinh vật có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng chất dinh
dưỡng của cây trồng, tăng cường khả năng giữ ẩm, khả năng cố định nitơ, phân giải
phốt phat khó tan, hòa tan kali… của đất qua đó giúp cây trồng sinh trưởng, phat triển
tốt hơn và góp phần làm tăng năng suất, chất lượng nông sản cũng như hạn chế phân
bón, thuốc bảo vệ thực vật hóa học. Nhưng cho đến nay chưa có chế phẩm sinh học
chuyên dụng cho cây lạc tại Thừa Thiên Huế được nghiên cứu phat triển.
Vì vậy, việc nghiên cứu và ứng dụng bón phân hữu cơ và cac chế phẩm sinh học

trong sản xuất nông nghiệp nhằm hạn chế phân bón hóa học, góp phần bảo vệ môi
trường và xây dựng một nền nông nghiệp phat triển bền vững. Điều này thật sự rất cần
thiết và có ý nghĩa to lớn trong sản xuất nông nghiệp. Ở Thừa Thiên Huế nói riêng và
miền Trung nói chung, việc ứng dụng phân hữu cơ và cac sản phẩm sinh học chưa
được rộng rãi, thậm chí còn rất hạn chế trong bối cảnh biến đổi khí hậu hướng đến sản
xuất nông nghiệp bền vững và an toàn.
Xuất phat từ những vấn đề nêu trên, đề tài: “Nghiên cứu hiệu quả sử dụng
phân hữu cơ với chế phẩm Trichoderma và Pseudomonas cho cây lạc tại Thừa
Thiên Huế” được thực hiện nhằm chọn được công thức phân bón có khả năng cung
cấp chất dinh dưỡng cho đất, cây trồng và góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất lạc tại
Thừa Thiên Huế.


3

2. MỤC ĐÍCH VÀ MỤC TIÊU ĐỀ TÀI
 Mục đích của đề tài
Xac định được ảnh hưởng của phân hữu cơ với cac chế phẩm sinh học đến cây
lạc, làm cơ sở cho việc xây dựng quy trình kỹ thuật hợp lý nhằm nâng cao năng suất
lạc và phat triển sản xuất lạc bền vững theo hướng sinh học.
 Mục tiêu của đề tài
Đanh gia được hiệu quả sử dụng của phân hữu cơ với chế phẩm Trichoderma và
Pseudomonas cho cây lạc trên đất cat ven biển và đất xam bạc màu nhằm nâng cao
hiệu quả sản xuất lạc tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
 Ý nghĩa khoa học
- Cung cấp cac dẫn liệu khoa học về hiệu quả sử dụng phân hữu cơ với chế phẩm
Trichoderma và Pseudomonas đến sinh trưởng, phat triển, năng suất lạc và hiệu quả
sản xuất lạc trên đất cat ven biển và đất xam bạc màu.
- Là nguồn tài liệu tham khảo, thông tin mới làm cơ sở cho việc sử dụng chế

phẩm sinh học cho cây lạc trên đất cat ven biển và đất xam bạc màu.
 Ý nghĩa thực tiễn
- Góp phần ứng dụng phân hữu cơ và chế phẩm sinh học có ích trong sản xuất
nông nghiệp bền vững.
- Những kết quả nghiên cứu của đề tài đạt được sẽ là những tiến bộ khoa học mới
làm cơ sở sản xuất lạc bền vững theo hướng sinh học ở Thừa Thiên Huế và cac địa
phương khac.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
- Nghiên cứu ảnh hưởng của phân hữu cơ với chế phẩm Trichoderma và
Pseudomonas cho cây lạc trong chậu trên đất cat ven biển và đất xam bạc màu tại nhà
lưới Khoa Nông học, Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế để xac định cac công
thức có tiềm năng cho sinh trưởng và năng suất, nhằm có cơ sở tiếp tục nghiên cứu
trong điều kiện đồng ruộng. Thời gian tiến hành thí nghiệm trong nhà lưới từ thang 01
- 04 năm 2013.


4

- Nghiên cứu hiệu quả sử dụng phân hữu cơ với chế phẩm Trichoderma và
Pseudomonas cho cây lạc trong điều kiện đồng ruộng. Cac thí nghiệm đồng ruộng
được bắt đầu tiến hành từ thang 12/2013 đến thang 10/2015 (bao gồm 4 vụ liên tục:
Đông Xuân 2013-2014, Hè Thu 2014; Đông Xuân 2014-2015 và Hè Thu 2015). Đề tài
tập trung nghiên cứu hiệu quả sử dụng phân hữu cơ và chế phẩm sinh học đến sinh
trưởng phat triển, cac chỉ tiêu sinh lý, khả năng phòng trừ sâu bệnh, năng suất và hiệu
quả kinh tế trong sản xuất lạc.
- Mô hình ứng dụng phân hữu cơ và chế phẩm Trichoderma và Pseudomonas
được tiến hành từ thang 12/2015 đến thang 6/2016.
- Thí nghiệm đồng ruộng và mô hình được thực hiện trên hai loại đất: đất cat ven
biển tại xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế và đất xam bạc màu
tại phường Tứ Hạ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.

5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
- Kết quả nghiên cứu đã xac định được công thức bón phân hữu cơ với chế phẩm
Trichoderma và Pseudomonas tốt nhất cho cây lạc trên 2 loại đất trồng lạc phổ biến tại
Thừa Thiên Huế. Đất cat ven biển, công thức VI (02 tấn phân hữu cơ + 40 kg N + 60
kg P2O5 + 60 kg K2O + 400 kg vôi + Trichoderma và Pseudomonas với tỷ lệ 50:50) và
đất xam bạc màu, công thức V (02 tấn phân hữu cơ + 40 kg N + 60 kg P 2O5 + 60 kg
K2O + 400 kg vôi + Trichoderma và Pseudomonas với tỷ lệ 30:70).
- Kết quả nghiên cứu của đề tài đã đanh gia được hiệu quả của việc sử dụng phân
hữu cơ với chế phẩm sinh học đến việc cải tạo sinh tính và tính chất hóa học trên đất
cat ven biển và đất xam bạc màu tại tỉnh Thừa Thiên Huế.


5

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Vai trò của cây lạc
- Trong nền kinh tế quốc dân
Lạc là cây trồng cho gia trị sản lượng trên 1 ha chỉ xếp sau cây lúa (so sanh với
bốn cây trồng vụ Xuân là lúa, ngô, lạc và đậu tương) nhưng hiệu quả thu được trên 1
ha thì lạc là cây đạt cao nhất. Như vậy, lạc là cây trồng có khả năng để làm giàu, vừa
phù hợp với những nơi nghèo có vốn đầu tư thấp.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, lạc là một trong những mặt hàng nông sản
xuất khẩu chủ lực với khối lượng xuất khẩu lớn và có gia trị kinh tế cao. Châu Á và
Châu Mỹ là hai châu lục có khối lượng xuất khẩu lạc lớn nhất (chiếm 78,56% khối
lượng lạc xuất khẩu trên thế giới). Việt Nam là nước đứng thứ bảy trong số cac nước
xuất khẩu lạc chính sau Mỹ, Trung Quốc, Argentina, Sudan, Hongkong, Ấn Độ,
Zambia [74].
Những năm gần đây, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 70 - 80 ngàn tấn lạc nhân

qua cac nước như Đức, Phap, Ý... cho nên lạc là cây đem lại nguồn thu ngoại tệ quan
trọng [78]. Mặc dù thị trường lạc nhân thế giới bấp bênh nhưng xuất khẩu lạc nhân là
một ngành hàng nông sản kha tiềm năng do có gia trị xuất khẩu cao và nhu cầu thị
trường thế giới lớn. Hiện nay trên thị trường thế giới mỗi năm có khoảng 1,2 triệu tấn
lạc nhân được giao dịch nên lạc nhân vẫn được xếp vào một trong những mặt hàng
nông sản xuất khẩu chủ lực của đất nước.
- Trong nông nghiệp và công nghiệp chế biến
Lạc là cây trồng có ý nghĩa đối với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt với cac
nước nghèo vùng nhiệt đới. Ngoài gia trị kinh tế của lạc, đối với ép dầu, trong công
nghiệp thực phẩm, trong chăn nuôi, lạc còn có ý nghĩa to lớn trong việc cải tạo đất do
khả năng cố định đạm (N) của nó. Rễ lạc có thể tạo ra cac nốt sần do vi sinh vật cộng
sinh cố định đạm hình thành, đó là vi khuẩn Rhizobium vigna. Rhizobium vigna có thể
tạo nốt sần ở rễ một số cây họ đậu. Nhưng với lạc thì tạo được nốt sần lớn và khả năng
cố định đạm cao hơn cả. Theo ước tính, cây họ đậu có thể đưa lại 80 triệu tấn đạm mỗi
năm từ nguồn nitơ không khí [1].
Qua kết quả phân tích thân la lạc cho thấy hàm lượng khoang chất không thua
kém gì phân chuồng. Tính theo chất khô thì tỷ lệ lân và kali trong thân la lạc bằng 2


6

lần phân chuồng. Nên thân la lạc còn là loại phân xanh có gia trị cả về chất lượng và
khối lượng, và theo ước tính thì 01 ha thân la lạc đủ bón cho 2 - 3 ha lúa và năng suất
tăng rõ rệt [26].
Bên cạnh đó, lạc còn là nguồn thức ăn tốt cho gia súc. Thân la có tỷ lệ đường
>24%, protein >10% làm thức ăn xanh cho gia súc. Vỏ lạc có 3,7% protein; 1,4%
lipid; 32,3% gluxit nên có thể cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho gia súc [60].
Trong công nghiệp, hạt lạc được dùng trong công nghiệp ép dầu. Trên thế giới có
khoảng 80% số lạc sản xuất ra được dùng ở dạng dầu ăn, khoảng 20% được chế biến
bằng cac sản phẩm khac như: banh kẹo, mứt, bơ...

1.1.2. Nhu cầu dinh dưỡng của cây lạc
Theo kết quả nghiên cứu, để đạt 1 tấn quả (kèm với thân la), cây lạc lấy đi từ đất
64 kg N, 16 kg P2O5, 27 kg K2O, 26,3 kg Cao, 16,7 kg MgO và 7,1 kg S [14]. Hầu hết
cac loại đất trồng lạc ở nước ta có hàm lượng chất dinh dưỡng thấp, nông dân ít chú
trọng đến việc bổ sung phân bón nên năng suất lạc đạt rất thấp. Năng suất lạc còn
chênh lệch qua lớn giữa năng suất tiềm năng và năng suất thực tế [15]. Phân bón là
một trong những yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến sinh trưởng và phat triển cũng
như khả năng hình thành năng suất của tất cả cac cây trồng.
* Đạm (N)
Nitơ có vai trò quan trọng đối với sinh trưởng, phat triển và năng suất lạc. Nhu
cầu đạm của lạc cao hơn nhiều so với cac loại cây ngũ cốc vì hàm lượng protein trong
hạt chiếm 26 - 34% cao hơn 1,5 lần so với hạt ngũ cốc.
Cây lạc có thể lấy nitơ từ nhiều nguồn: Nguồn nitơ từ khí trời thông qua vi khuẩn
cố định đạm, nguồn nitơ có sẵn trong đất, nguồn nitơ từ phân hữu cơ và vô cơ. Nguồn
đạm cố định được có thể đap ứng được 50 - 70% nhu cầu đạm của cây lạc. Cây lạc là
cây đậu đỗ có khả năng cố định nitơ phân tử do cộng sinh với vi khuẩn nốt sần để tổng
hợp đạm cung cấp cho cây. Tuy nhiên, vì nốt sần của cây lạc được hình thành khi cây
bắt đầu phân cành đến bắt đầu ra hoa, nên ở giai đoạn đầu sinh trưởng khi cây 3 - 4 la
cần bón bổ sung một lượng đạm hoặc bón một lượng phân hữu cơ, nhằm tạo điều kiện
cho cây sinh trưởng và phat triển mạnh, thúc đẩy sự phat triển của vi khuẩn cộng sinh
ở giai đoạn sau [15], [35]. Lượng đạm bón cho cây có tương quan chặt chẽ đến chiều
cao cây, chiều dài cành. Bón đạm qua ngưỡng sẽ gây nên hiện tượng mất cân đối giữa
sinh trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực, thân la phat triển mạnh làm ảnh
hưởng đến qua trình tạo quả và hạt, dẫn đến năng suất thấp.
Cac nghiên cứu trước đây cho thấy trên nền phân chuống 8 -10 tấn/ha thì lượng
đạm bón thích hợp là 30kg N/ha. Tăng liều lượng N lên 40kg N/ha sẽ làm giảm năng


7


suất thực thu do sinh khối cây lạc phat triển mạnh [20]. Trần Thị Thu Hà (2004) [31]
đã xac định, bón 30 kg N/ha cho năng suất lạc cao nhất và cao hơn từ 8,4 - 11,4% so
với lượng bón 40 kg N/ha và 50 kg N/ha trên đất phù sa nghèo dinh dưỡng ở Thừa
Thiên Huế. Tuy nhiên, trên đất cat ven biển Thừa Thiên Huế, Lê Thanh Bồn (1997) [9]
đã xac định bón 40 kg N/ha làm tăng năng suất 10,18% so với đối chứng. Lượng N
thích hợp cho cây lạc L23 tại Hà Tĩnh là 40 kg N/ha [56] và 30 kg N/ha đối với giống
lạc LDH01 trên đất xam bạc màu ở Bình Định [11].
* Lân
Lân là yếu tố dinh dưỡng quan trọng đối với lạc. Lân có tac dụng kích thích sự
phat triển của bộ rễ, thúc đẩy sự hình thành nốt sần, tăng cường khả năng hút đạm của
cây, thúc đẩy sự ra hoa đậu quả sớm. Cây lạc có nhu cầu lân nhiều nhất ở thời kỳ từ ra
hoa đến sau hình thành quả. Ở thời kỳ cây con hàm lượng lân trong cây không cao
nhưng lân rất cần thiết để vi khuẩn nốt sần phat triển [82].
Theo nghiên cứu của Bùi Huy Hiền (1995) [35], trên đất cat biển không chua (pH
5,8 - 6,0) hiệu lực cac loại phân lân (phân lân nung chảy và phân lân chậm tan) cao,
chỉ thấp hơn supe lân trên nền 8 tấn phân chuồng + 30 kg N + 30 kg K 2O/ha. Bón supe
lân giúp năng suất lạc tăng 115% so với đối chứng và tăng 112% khi bón phân lân
nung chảy.
Lượng lân thích hợp bón cho cây lạc trên đất cat biển ở Thừa Thiên Huế là 60 - 90 kg
P2O5/ha [8]; trên đất xam bạc màu ở Bình Định là 90 kg P2O5/ha [11] và ở Hà Tĩnh là
120 kg P2O5/ha [56].
* Kali
Kali không trực tiếp đóng vai trò là thành phần cấu tạo của cây, nhưng tham gia
vào cac hoạt động của cac enzym và là chất điều chỉnh xúc tac, làm tăng cường mô cơ
giới, tăng tính chống đổ của cây, tăng tính chịu hạn. Vai trò quan trọng nhất của kali là
xúc tiến qua trình quang hợp và sự hình thành quả. Thiếu kali, khả năng quang hợp và
hấp thu đạm giảm, tỷ lệ quả 1 hạt tăng, khối lượng hạt và năng suất lạc giảm rõ rệt [15].
Theo Nguyễn Văn Bộ và cs (1999) [6], trên đất bạc màu phù sa cổ, hiệu suất sử
dụng kali của cây lạc 2,3 - 8,2 kg lạc vỏ/kg K 2O, năng suất lạc đạt cao nhất ở lượng
bón 90 kg K2O/ha và đạt hiệu quả kinh tế cao nhất ở lượng bón 60 kg K2O/ha.

Lượng phân kali hợp lý cho giống lạc LDH01 trên đất xam bạc màu ở Bình Định
là 60 kg K2O/ha [11] và 80 kg K2O/ha đối với giống lạc L23 ở Hà Tĩnh [56].


8

* Trung lượng và vi lượng
Canxi là một nguyên tố không thể thiếu khi trồng lạc. Lượng canxi cây lạc hấp
thu gấp 2 - 3 lần lượng lân. Vôi bón cho lạc có tac dụng khử chua cho đất, tạo môi
trường thuận lợi cho vi khuẩn nốt sần phat triển và quan trọng nhất góp phần hình
thành quả lạc [14].
Trên đất bạc màu bón vôi từ 300 - 500 kg/ha đã tăng năng suất lạc đang kể, tăng
lên trên 600 kg/ha đã làm năng suất lạc giảm. Trên đất cat biển, lượng vôi thích hợp
300 - 400 kg/ha [7], [14]. Theo Trần Thị Thu Hà (2004) [31], lượng vôi bón thích hợp
cho cây lạc trồng tại tỉnh Thừa Thiên Huế là 500 kg/ha đối với đất phù sa và 300 kg/ha
đối với đất cat ven biển.
Cac nguyên tố vi lượng đóng vai trò là chất xúc tac hoặc là một thành phần của
cac enzim hoặc chất hoạt hóa của hệ enzim cho cac qua trình sống của cây. Đối với
cây lạc, có 2 nguyên tố vi lượng quan trọng là Molipden (Mo) và Bo (B).
Molipden rất cần thiết cho hoạt động cố định N 2 của vi khuẩn nốt sần. Trong điều
kiện cây hút đủ Mo thì số lượng và trọng lượng nốt sần đều tăng, cường độ cố định N
của vi khuẩn nốt sần cũng tăng rõ rệt, do đó làm tăng lượng chứa đạm của cây. Thiếu
Mo thì hoạt động cố định N của vi khuẩn nốt sần bị giảm, cây có biểu hiện thiếu N.
Trong điều kiện thiếu N, vai trò của sự cố định N được nâng cao thì vai trò của Mo
càng quan trọng [2].
Bo (B) đóng vai trò quan trọng trong qua trình thụ phấn, thụ tinh của cây lạc. Bo
giúp cho qua trình hình thành rễ được tốt, tia quả không bị nứt, hạn chế nấm bệnh xâm
nhập. Thiếu Bo, tỷ lệ hoa hữu hiệu giảm rõ rệt, số lượng hoa cũng giảm, dẫn đến giảm
số quả/cây, hạt lép, sức sống hạt giống giảm [2].
Ngoài 2 nguyên tố vi lượng chính là Mo và Bo, một số nguyên tố vi lượng khac

như Fe, Cu, Zn cũng đóng vai trò quan trọng đối với năng suất lạc. Tuy nhiên, thường
cây có thể hấp thu lượng dinh dưỡng này từ đất đủ cho qua trình sinh trưởng và phat
triển của cây, trong sản xuất ít khi phải bổ sung cac loại vi lượng này [16].
Bón phân để thỏa mãn yêu cầu về dinh dưỡng khoang cho cây lạc nhằm đạt năng
suất cao, phẩm chất tốt là vấn đề được nghiên cứu từ lâu và ở nhiều vùng trồng lạc trên
thế giới, người ta thường coi lạc là “cây trồng có phản ứng thất thường”. Tuy nhiên,
gần đây với những tiến bộ trong công tac nghiên cứu dinh dưỡng khoang cũng như
sinh lý cây lạc, đã nắm chắc hơn yêu cầu dinh dưỡng khoang của cây lạc và sử dụng
phân bón đạt được hiệu quả tốt hơn.


9

1.1.3. Các loại phân hữu cơ chủ yếu sử dụng trong sản xuất nông nghiệp
1.1.3.1 Phân hữu cơ truyền thống (phân hữu cơ nhà nông)
Theo cac văn bản quy định của nhà nước về phân bón hữu cơ [3], [4], [5] và Bùi
Huy Hiền [36], [37] thì phân hữu cơ truyền thống là loại phân có nguồn gốc từ chất
thải người, động vật hoặc từ cac phế phụ phẩm trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông,
lâm, thuỷ sản, phân xanh, rac thải hữu cơ, cac loại than bùn được chế biến theo
phương phap ủ truyền thống. Có thể chia phân hữu cơ truyền thống làm cac nhóm
chính như sau:
- Phân chuồng: là những loại phân hữu cơ tạo bởi phân gia súc, gia cầm (trâu, bò,
lợn, gà...) được độn thêm cac chất độn là phế phụ phẩm nông nghiệp (rơm, rạ, cỏ...).
Phân chuồng có hai loại:
+ Phân chuồng tươi có thành phần dinh dưỡng chính: 24 - 25% chất hữu cơ; 0,45
- 0,50% N; 0,25 - 0,3% P2O5 và 0,5 - 0,6% K2O.
+ Phân chuồng hoại mục (là phân chuồng tươi được ủ hoai sau 2 - 3 thang), với
thành phần dinh dưỡng chính gồm: 19 - 20% chất hữu cơ; 0,50 - 0,60% N; 0,30 0,40% P2O5 và 0,6 - 0,7% K2O.
Tùy theo điều kiện sản xuất mà nông dân có thể sử dụng phân chuồng tươi và
phân chuồng hoai mục. Tuy nhiên, việc sử dụng phân chuồng tươi có thể dẫn đến

mang theo mầm bệnh và cỏ dại cho cây trồng.
- Phân rac (phân xanh): loại phân này làm từ rơm, rạ, thân la cac cây ngô, đậu,
đỗ, vỏ lạc, trấu, bã mía,... Thành phần trung bình của phân rac như sau: 0,5 - 0,6% N;
0,4 - 0,6% P2O5; 0,5 - 0,8% K2O; 3 - 6% CaO.
- Phân than bùn: dùng than bùn đã được phơi khô để độn chuồng, hoặc có thể
dùng để chế biến phân rac, làm chất đốt, chất cải tạo đất. Than bùn không dùng trực
tiếp làm phân bón, chỉ để ủ phân rac hoặc độn chuồng; than bùn có độ phân giải cao
(>50%) và pH từ 5,5 trở lên có thể bón trực tiếp, nhất là dùng để làm chất cải tạo lý
tính đất.
Ngoài ra còn một số loại phân hữu cơ truyền thống khac như:
- Bùn ao, bùn hồ, bùn sông: có hàm lượng mùn trung bình là: 4,90% (dao động
trong khoảng 1,65 - 14,90%), N tổng số: 0,23% (dao động 0,11 - 0,52%), P 2O5 tổng số:
0,29% (dao động 0,21 - 0,48%), K2O tổng số: 0,40% (dao động 0,13 - 0,70%), H2S
trung bình là 7,1 mg/100 g bùn (dao động 3,4 - 13,6 mg/100 g).


10

- Khô dầu: là bã còn lại sau khi hạt đã ép lấy dầu. Tùy theo thành phần của mỗi
loại khô dầu mà nông dân đã sử dụng như loại phân bón hữu cơ, bón vào đất để cung
cấp dinh dưỡng cho cây trồng. Bình quân hàm lượng dinh dưỡng như sau: 3,97% N;
1,23% P2O5; 0,91% K2O.
1.1.3.2. Phân hữu cơ công nghiệp
- Phân hữu cơ chế biến (công nghiệp) là một loại phân được chế biến từ cac
nguồn hữu cơ khac nhau, theo một quy trình công nghiệp nhất định, để tạo thành một
loại phân hữu cơ bón vào đất, có tac dụng tăng năng suất cây trồng, cải tạo độ phì
nhiêu đất tốt hơn so với bón vào đất bằng cac nguyên liệu thô ban đầu [3], [4], [5]. Có
thể chia ra cac loại phân hữu cơ chế biến như sau:
- Phân hữu cơ khoang: là loại phân được sản xuất từ nguyên liệu hữu cơ được
trộn thêm một hoặc một số yếu tố dinh dưỡng khoang, trong đó có ít nhất một yếu tố

dinh dưỡng khoang đa lượng. Phân phải đảm bảo một số chỉ tiêu bắt buộc như sau: ẩm
độ đối với phân bón dạng bột ≤ 25%; hàm lượng hữu cơ tổng số ≥ 15%; hàm lượng
Nts + P2O5hh + K2Ohh ≥ 8%.
- Phân hữu cơ sinh học: là loại phân được sản xuất từ nguyên liệu hữu cơ theo
quy trình lên men có sự tham gia của vi sinh vật sống có ích hoặc cac tac nhân sinh
học khac. Phân phải đảm bảo một số chỉ tiêu bắt buộc như sau: ẩm độ đối với dạng bột
≤ 25%; hàm lượng hữu cơ tổng số ≥ 22%; hàm lượng Nts ≥ 2,5%; hàm lượng axit
humic (đối với phân chế biến từ than bùn) ≥ 2,5% (hoặc tổng hàm lượng cac chất sinh
học đối với phân chế biến từ nguồn hữu cơ khac ≥ 2,0%). Nếu phân có bổ sung chất
điều tiết sinh trưởng thì tổng hàm lượng của chúng ≤ 0,5%.
- Phân hữu cơ vi sinh: là loại phân được sản xuất từ nguyên liệu hữu cơ có chứa
ít nhất một chủng vi sinh vật sống có ích với mật độ phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật
đã ban hành. Phân phải đảm bảo một số chỉ tiêu bắt buộc: ẩm độ đối với phân bón
dạng bột ≤ 30%; hàm lượng hữu cơ tổng số ≥ 15%; mật độ mỗi chủng vi sinh vật có
ích ≥ 1 × 106 CFU/g.
- Phân vi sinh vật: là loại phân trong thành phần chủ yếu có chứa một hay nhiều
loại vi sinh vật sống có ích bao gồm: nhóm vi sinh vật cố định đạm, phân giải lân,
phân giải kali, phân giải cellulose, vi sinh vật đối khang, vi sinh vật tăng khả năng
quang hợp và cac vi sinh vật có ích khac với mật độ phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật
đã ban hành. Phân phải đảm bảo một số chỉ tiêu bắt buộc như sau:
Mật độ mỗi chủng vi sinh vật có ích trên nền chất mang khử trùng ≥ 10 8 CFU/g;
trên nền chất mang không khử trùng có mật độ vi sinh vật hữu ích > 106 CFU/g.


11

1.1.3.3. Vai trò của phân hữu cơ
Cho đến nay, cac tài liệu trong và ngoài nước đều khẳng định hàm lượng chất
hữu cơ trong đất là yếu tố hàng đầu quyết định độ phì nhiêu đất. Tuy nhiên, hàm lượng
chất hữu cơ được tích lũy trong đất phụ thuộc rất nhiều vào cac yếu tố như lượng hữu

cơ bón vào, chất lượng hữu cơ, điều kiện tự nhiên (nhiệt độ, ẩm độ…), tốc độ phân
giải hữu cơ trong đất, sử dụng bởi cây trồng, rửa trôi, xói mòn…
Trong điều kiện nhiệt đới ẩm, tốc độ khoang hóa chất hữu cơ trong đất rất cao.
Theo những nghiên cứu của Nguyễn Vi (1999) [84], thì cac chất hữu cơ bón vào đất ở
Việt Nam sẽ bị phân giải nhanh, bình quân 9 thang đến 1 năm gần như đã phân giải hết.
Đất mới khai hoang có hàm lượng hữu cơ kha cao (5 - 6%), song chỉ cần sau 4 -5
năm canh tac cây lương thực ngắn ngày, lượng chất hữu cơ giảm trung bình 50 - 60%
[54]. Nguyên nhân của sự suy giảm nói trên là do tổng hợp của nhiều nguyên nhân.
Ngoài lượng cây trồng sử dụng, thì qua trình khoang hóa mạnh hữu cơ do nhiệt độ cao,
qua trình rửa trôi, xói mòn là những nguyên nhân chính. Nhưng nguyên nhân quan
trọng nhất là việc bổ sung hữu cơ cho đất, cho cây không được chú ý đúng mức, chỉ
nặng về phân hóa học.
- Cải tạo đất
Mùn là một thực thể hữu cơ phức tạp, là cơ sở chủ yếu của độ phì nhiêu của đất.
Ngày nay quan điểm sinh học về qua trình hình thành mùn được nhiều người công
nhận cho rằng: Hình thành mùn là qua trình phân giải cac chất hữu cơ. Cac phản ứng
xảy ra trong qua trình hình thành mùn là cac phản ứng sinh hóa với sự tham gia của
cac enzym do vi sinh vật tiết ra.
Thành phần của mùn có cấu tạo đặc trưng bởi cac hợp chất chính: như axit
humic, axit fulvic và cac hợp chất humin, axit ulmic. Chất mùn là kho dự trữ thức ăn
cho cây trồng. Axit mùn trong đất còn có tac dụng kích thích sự phat triển của rễ và sự
sinh trưởng của cây trồng.
Bón phân hữu cơ là cung cấp thêm chất hữu cơ, bổ sung hàm lượng mùn, tạo nên
cấu trúc bền vững, cải thiện độ xốp, hạn chế sự rửa trôi và xói mòn của đất, giúp cây
hấp thụ chất dinh dưỡng dễ dàng hơn. Đất làm qua tơi không được bồi một lớp hữu cơ
thì sau khi tưới nước hoặc sau khi mưa sẽ tạo thành một lớp vang ngăn cản việc lưu
thông không khí, thấm nước, hạn chế nẩy mầm của hạt và dễ bị xói mòn.
Chất hữu cơ không chỉ là nguồn dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng do mùn bị
phân hủy và hòa tan cac chất vô cơ trong đất [83] mà còn có tính chất bền vững đến



12

tiềm năng, năng suất cao nhất cho phép của đất nhờ con đường khoang hóa và cải tạo
tính chất lý - hóa đất [163]. Bên cạnh đó, nhờ có cac axit humic có trong phân hữu cơ
đã giúp cho cây trồng hấp thu tốt chất dinh dưỡng [13].
Trong qua trình phân giải, phân hữu cơ có thể tăng khả năng hòa tan cac chất khó
tan, tăng khả năng trao đổi của đất. Hữu cơ là nhân tố tích cực tham gia vào chuyển
hóa lân trong đất từ dạng khó tan sang dạng dễ tiêu, hữu dụng cho cây trồng [54]. Mặt
khac sự bổ sung chất hữu cơ cho đất thông qua phân hữu cơ góp phần gia tăng khả
năng đệm trong hầu hết cac loại đất, gia tăng sự tạo phức chất hữu cơ - khoang để khắc
phục cac yếu tố độc hại trong đất [53].
Bón phân hữu cơ đơn thuần hoặc bón kết hợp phân hóa học thì vi sinh vật đất ổn
định hơn, sự cân bằng sinh học trong đất được tốt hơn [47].
Phân hữu cơ ngoài tac dụng làm tăng năng suất cây trồng như cac loại phân hóa
học mà còn bồi dưỡng, cải thiện đất toàn diện, làm gia tăng lượng chất hữu cơ và mùn
trong đất, giúp đất không bị bạc màu, đặc tính này không có ở phân hóa học. Qua trình
này xảy ra chậm do phân hữu cơ phân giải chậm nhưng nó có ưu điểm hơn phân hóa
học ở chỗ là nó cung cấp cho đất gần như đầy đủ cac dưỡng chất N, P, K, Ca, Mg và
cac vi lượng khac [37]. Quan trọng hơn phân hữu cơ có tính chất tac động tốt đến hệ vi
sinh vật đất, bổ sung nguồn vi sinh vật có lợi cho cây trồng, đồng thời là nguồn dinh
dưỡng cho hệ vi sinh vật phat triển.
Chất hữu cơ trong đất đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì độ phì nhiêu
của đất và vì thế có thể làm tăng cường mức độ sản xuất nông nghiệp. Thêm vào đó,
nó là một nguồn dinh dưỡng cho cây trồng, làm cải thiện cac đặc tính lý hóa và sinh
học của đất. Sự cải thiện này đối với đất tạo nên kết quả: (i) cây trồng trở nên chống
chịu tốt hơn đối với khô hạn, sâu bệnh và tính độc; (ii) giúp sự hấp thu dinh dưỡng của
cây trồng; (iii) tự chủ được chu trình dinh dưỡng hữu hiệu bởi sự hoạt động mạnh mẽ
của vi sinh vật. Những yếu tố đó có vai trò làm giảm rủi ro thu hoạch, nâng cao thu
nhập, giảm chi phí phân bón vô cơ cho nông dân [136].

Khi sử dụng phân hữu cơ bón cho cây trồng, qua trình phân hủy trong đất giúp:
- Cải thiện kết cấu đất: Phân hữu cơ khi bón vào đất sẽ làm cho đất sét qua dính
dẻo sẽ tơi xốp hơn, với đất cat thì lại làm cho cac hạt cat dính lại với nhau, từ đó làm
cho đất bớt rời rạc. Phân hữu cơ còn cải tạo tính chất cơ lý của đất, chống xói mòn,
chống chai hoa đất.
- Tạo sự màu mỡ trong đất: Trong phân hữu cơ có chứa đầy đủ cac nguyên tố
nitơ, photpho, magiê, lưu huỳnh… khi phân hủy sẽ giải phóng ra cac chất dinh dưỡng,


13

làm đất tăng sự hấp thụ khoang chất. Phân bố dinh dưỡng hợp lý, giúp phục hồi đất
bạc màu, đất đã khai thac lâu năm và đất đã sử dụng nhiều phân hóa học.
- Duy trì độ ẩm cho đất: Tăng thời gian lưu giữ nước giúp tốt cho đất. Cac chất
hữu cơ trong phân hữu cơ khi hòa tan vào đất sẽ trở thành một miếng xốp hút nước rồi
luân chuyển nước vào đất để nuôi cây. Nếu thiếu chất hữu cơ nước sẽ bị thẩm thấu, từ
đó đất sẽ bị đóng màng làm nước bị ứ đọng trên bề mặt đất, chảy tràn khiến xói mòn
đất.
- Tạo môi trường tốt cho vi khuẩn có lợi sinh sống: Phân hữu cơ là môi trường
dinh dưỡng tốt cho cac loài vi sinh vật sống trong đất, cac axit mùn là chất khang sinh
chống lại nấm bệnh và tuyến trùng ký sinh thực vật cũng như tiêu diệt cac loài côn
trùng pha hoại đất đai. Theo Nguyễn Văn Sức (1995, 1999) [69], [70], thì việc sử dụng
phụ phẩm hữu cơ của cây trồng bón vào đất, dù chất liệu có khac nhau, đều có ảnh
hưởng tốt đến hoạt động sinh khối của vi sinh vật đất và tổng hoạt tính sinh học của
đất. Bón phân hợp lý giữa phân khoang và phân hữu cơ là yếu tố quan trọng để điều
chỉnh và tăng cường một cach có hiệu quả cac qua trình hoạt động sinh khối của vi
sinh vật nói chung và cac nhóm vi sinh vật chuyển hóa nitơ, phân giải cellulose… nói
riêng và làm tăng đang kể năng suất cây trồng trên đất xam bạc màu.
- Thông khí: 95% chất dinh dưỡng của cây là lấy từ không khí, anh sang và nước
thông qua qua trình quang hợp. Nếu đất trồng xốp sẽ giúp cho sự khuếch tan không

khí vào đất để trao đổi chất dinh dưỡng và độ ẩm, CO 2 được thoat ra do chất hữu cơ
phân hủy, sẽ khuếch tan ra ngoài làm tăng qua trình hấp thu CO2 của cây.
- Tăng năng suất cây trồng
Bón phân hữu cơ cho cây trồng sẽ ổn định năng suất, tăng chất lượng sản phẩm,
tăng sức khỏe cộng đồng khi sử dụng sản phẩm nông nghiệp bón phân hữu cơ.
Sử dụng phân hữu cơ trong trồng trọt được đanh gia là một biện phap phù hợp,
an toàn và tiết kiệm trong nông nghiệp. Thông qua tac dụng phòng ngừa một số bệnh
hại nên nấm Trichoderma giúp giảm một phần thuốc bảo vệ thực vật, giảm ô nhiễm
môi trường, giúp cây trồng sinh trưởng khỏe, giúp đất tơi xốp, giữ độ phì đất lâu dài và
cho sản phẩm sạch, an toàn không có dư lượng thuốc hóa học, giúp người nông dân
tiết kiệm được tiền bạc hơn khi sử dụng cac thuốc hóa học khac.
Phân hữu cơ giúp duy trì thế cân bằng vi sinh vật có lợi trong đất, chủ yếu là bảo
vệ và cân bằng vi sinh vật có ích cũng như cac loài thiên địch có lợi trên đồng ruộng.
Do đó, thường xuyên bổ sung chất hữu cơ cho đất cũng như cac nguồn vi sinh vật có
lợi để tạo điều kiện thuận lợi cho bộ rễ phat triển hạn chế mầm bệnh. Làm tăng hệ số


14

sử dụng đạm, vì vậy làm giảm lượng đạm tiêu tốn để tạo ra một đơn vị sản phẩm và
làm tăng hiệu suất phân đạm. Phân hữu cơ cũng làm tăng hiệu lực của phân lân do vi
sinh phân giải lân bị kết tủa trong đất, giúp cây khỏe, tăng trưởng nhanh hơn, khả năng
chống chịu sâu bệnh tốt hơn và cho năng suất cao hơn [58].
Sử dụng phân hữu cơ và cac chế phẩm sinh học sẽ làm tăng năng suất cây trồng
và bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh
của nông sản Việt Nam [49].
Vì vậy, sử dụng phân hữu cơ và cac chế phẩm sinh học bón cho cây trồng thay
thế cho phân chuồng, phân hóa học được xem là biện phap quản lý cây trồng toàn
diện, thân thiện với môi trường, tạo sản phẩm an toàn cho người tiêu dùng.
1.1.3.4. Giá trị sử dụng của phân hữu cơ

Phân hữu cơ nói chung có ưu điểm là chứa đầy đủ cac nguyên tố dinh dưỡng đa,
trung và vi lượng mà không một loại phân khoang nào có được. Ngoài ra, phân hữu cơ
cung cấp chất mùn làm kết cấu của đất tốt lên, tơi xốp hơn, bộ rễ phat triển mạnh, hạn
chế mất nước trong qua trình bốc hơi từ mặt đất, chống được hạn, chống xói mòn.
Vào những năm của thập kỷ 60 thế kỷ 20 do nguồn phân khoang có hạn nên sử
dụng phân chuồng bình quân hơn 6 tấn/ha/vụ. Trong giai đoạn 15 năm (1980 - 1995)
việc sản xuất và sử dụng phân hữu cơ có giảm sút, nhưng từ năm 1995 lại đây do yêu
cầu thâm canh, do sự khuyến khích sản xuất, sử dụng phân hữu cơ được phục hồi, nên
số lượng phân hữu cơ được sản xuất, sử dụng đã tăng lên đang kể. Kết quả điều tra của
Viện Thổ nhưỡng Nông hoa ở một số vùng đồng bằng, trung du Bắc bộ và Bắc Trung
bộ cho thấy bình quân mỗi vụ cây trồng bón khoảng 8 - 9 tấn/ha/vụ [86].
Bón phân hữu cơ làm tăng năng suất cây trồng. Kết quả nghiên cứu khoa học
trong rất nhiều năm của cac viện, trường, cũng như kết quả điều tra kinh nghiệm của
cac hộ nông dân cho thấy, năng suất cây trồng và hiệu quả kinh tế cao, ổn định ở
những nơi có bón tỷ lệ N hữu cơ và N vô cơ cân đối với tỷ lệ N tính từ hữu cơ chiếm
khoảng 25 - 30% tổng nhu cầu của cây trồng. Ước tính do bón phân hữu cơ năng suất
cây trồng đã tăng được 10 - 20%. Nếu tính riêng về thóc do bón phân hữu cơ đã đạt
khoảng 2,5 - 3,0 triệu tấn thóc/năm.
Bón phân hữu cơ còn làm giảm hiệu lực của phân kali khoang, nhất là với loại
phân có khả năng giải phóng kali dễ dàng như phân chuồng. Điều này có nghĩa nếu
bón phân chuồng thì có thể giảm liều lượng phân kali khoang. Đối với đậu tương


15

khuyến cao bón 5 - 6 tấn phân chuồng/ha trên đất phù sa và 8 - 10 tấn/ha trên đất bạc
màu, đất cat ven biển, đất feralit trên nền phù sa cổ, ngoài phân bón vô cơ [87].
Sử dụng phân hữu cơ trong canh tac trên đất cat ven biển và đất xam bạc màu
không chỉ có mục đích cân đối dinh dưỡng, mà chất hữu cơ còn có vai trò hàng đầu
trong việc làm tăng hàm lượng mùn trong đất, cải thiện độ phì nhiêu, nâng cao hiệu

quả sử dụng nước và phân vô cơ, giảm nguy cơ sâu bệnh, tăng năng suất và chất lượng
nông sản, cuối cùng là tăng hiệu quả sản xuất. Chính vì vậy, ngoài việc sử dụng đầy đủ
và cân đối lượng phân khoang cho đất cat ven biển và đất xam bạc màu, việc chú ý sử
dụng phân hữu cơ là một nhu cầu tất yếu và không thể bỏ qua.
Tuy nhiên, nếu ta chỉ quan tâm đến việc sử dụng phân hữu cơ truyền thống như
trước kia, sẽ hoàn toàn thiếu nguồn cung cấp và chất lượng. Con số thống kê cho thấy,
ước tính lượng phân hữu cơ truyền thống chỉ có thể đap ứng khoảng dưới 20% nhu cầu
phân hữu cơ hiện nay. Hơn 80% nhu cầu còn lại chỉ có thể được cung cấp bằng cac
nguồn phân hữu cơ chế biến (phân hữu cơ công nghiệp) [87].
1.1.4. Nấm Trichoderma
1.1.4.1. Đặc điểm của nấm Trichoderma
Chủng nấm Trichoderma thuộc nhóm nấm bất toàn (Deuteromycetes hay Fungi
Imperfecti), sinh sản vô tính bằng bào tử bụi, sắp xếp theo kiểu đính bào tử. Chúng
được tìm thấy khắp mọi nơi từ những vĩ độ cực Nam và cực Bắc. Hầu hết dòng
Trichoderma đều hoại sinh, chúng phổ biến trong những khu rừng nhiệt đới ẩm hay
cận nhiệt đới, ở rễ cây, trong đất hay trên xac sinh vật đã chết, xac bã hữu cơ hay ký
sinh trên những loại nấm khac. Nấm Trichoderma phat triển nhanh ở 25 - 300C có một
số ít loài Trichoderma tăng trưởng được ở 450C. Mỗi dòng nấm Trichoderma spp. khac
nhau sẽ yêu cầu nhiệt độ và độ ẩm khac nhau [122].
Trichoderma là giống nấm có vach ngăn (septate fungus) và cuống sinh bào tử
phân nhanh, có dạng hình nón hoặc hình kim tự thap [143]. Thể bình (phialide) được
tạo thành ở đỉnh cuống sinh bào tử. Cac bào tử đính (conidia) được tạo ra tại đầu mút
của cac thể bình, nơi chúng tích lũy để hình thành cac đỉnh bào tử đính (conidial head)
[112]. Cac loài Trichoderma tạo khuẩn lạc có dạng cụm, bông (floccose) hay mọc
thành búi (tufted) với màu sắc khac nhau (trắng, vàng, lục), là những đặc điểm được sử
dụng để định danh loài trước đây [143]. Hiện nay, việc sử dụng những đặc điểm hình
thai để định danh cac loài Trichoderma đang dần được thay thế bởi cac công cụ phân
tử, nhanh và dễ dàng hơn [134].
1.1.4.2. Vai trò của nấm Trichoderma
- Khả năng đối kháng



16

Nấm Trichoderma là thành viên phổ biến của hệ vi sinh vật đất, chúng thường
tiết ra cac men, khang sinh gây độc cho nấm gây bệnh hoặc cạnh tranh điều kiện sống
với nấm gây bệnh. Nấm Trichoderma có thể kìm hãm sự sinh trưởng, phat triển của
nấm gây bệnh, giúp cây trồng phục hồi, sinh trưởng, phat triển.
Nấm Trichoderma có khả năng tiêu diệt và khống chế ngăn ngừa cac loại nấm
bệnh hại cây trồng gây bệnh xì mủ, vàng la thối rễ, chết yểu, héo rũ như: Rhizoctonia
solani, Fusarium, Pythium, Phytophthora sp., Sclerotium rolfsii,… Ngoài hiệu quả trừ
nấm gây bệnh, làm giảm tỷ lệ cây bị bệnh, chế phẩm từ nấm Trichoderma còn có tac
dụng tốt đối với cây trồng. Dùng chế phẩm nấm Trichoderma làm cho cây khỏe hơn,
tăng sức đề khang với vi sinh vật gây bệnh, tac dụng kích thích sinh trưởng cây trồng
[101], [111].
Nấm Trichoderma thường hiện diện ở vùng xung quanh hệ thống của rễ cây. Đây
là loại nấm hoại sinh có khả năng ký sinh và đối khang trên nhiều loại nấm bệnh cây
trồng. Nhờ vậy, nhiều loài Trichoderma spp. đã được nghiên cứu như là một tac nhân
phòng trừ sinh học và đã được thương mại hóa thành thuốc trừ bệnh sinh học, phân
sinh học và chất cải tạo đất [122].
Cơ chế tac động chính của nấm Trichoderma là ký sinh và tiết ra cac khang sinh
trên cac loài nấm gây bệnh. Ngoài hiệu quả trực tiếp trên cac tac nhân gây bệnh cây,
nhiều loài Trichoderma còn định cư ở bề mặt rễ cây giúp thay đổi khả năng biến
dưỡng của cây, nhiều dòng nấm đã kích thích sự tăng trưởng của cây, gia tăng khả
năng hấp thụ dinh dưỡng, cải thiện năng suất cây và giúp cây khang được bệnh [122].
- Ngăn chặn nấm bệnh trong đất
Trichoderma có khả năng ngăn chặn những loại nấm bệnh cây trong đất, như
Rhizoctonia solani, Pythium spp., vấn đề này đã được công bố rộng rãi trong cac
nghiên cứu những năm gần đây [100], [161].
Khả năng thứ hai của nấm Trichoderma là khang nấm. Trichoderma thamatum có

rất nhiều trong đất hữu cơ tại vườn ươm ở Colombia có khả năng ngăn chặn nấm
Rhizoctonia solani [101] và Trichoderma hazianum có nhiều khi phân lập từ đất tại
Mexico có khả năng ngăn chặn nhiều loại nấm đất. Dưới nhiệt độ và tia phóng xạ
gamma không thể tiêu diệt được nấm Rhizoctonia solani, ngược lại trên môi trường
Trichoderma hazianum diệt được nấm này đây là vai trò chính của Trichoderma trong
phòng trừ sinh học.


17

Trichoderma đóng vai trò quan trọng trong việc phân hủy xac hữu cơ có trong đất
[132]. Chất hữu cơ được phân hủy nhanh hơn nhờ cac men phân hủy glucose, cellulose
do Trichoderma tiết ra trong hoạt động sống [75].
- Xử lý hạt giống
Xử lý Trichoderma vào hạt giống, đã ảnh hưởng rõ đến khả năng xâm nhập của
Trichoderma vào trong đất. Đây là một phương phap rất có ý nghĩa trong việc phòng
trừ nấm gây bệnh ở giai đoạn hạt đến giai đoạn cây con.
Trichoderma có hiệu quả nhất trong việc phòng trừ bệnh chết rạp cây con, với
khả năng tăng sinh khối hệ rễ, ngăn cản bệnh gây hại cây trồng bằng cach cạnh tranh,
ký sinh trên nấm hoặc khang sinh nấm. Ngoài ra, chúng còn gây ảnh hưởng mạnh đến
vi khuẩn và cac loại nấm khac trong đất.
Việc lựa chọn cac chủng vi khuẩn đối khang khac nhau với cơ chế phòng trừ
bệnh hiệu quả để sử dụng trong phòng trừ bệnh tổng hợp là giải phap tốt trong chiến
lược phòng trừ bệnh. Việc sử dụng cac tac nhân sinh học để xử lý hạt giống hoặc tưới
với đất đóng vai trò trong phòng trừ bệnh hại do nấm gây ra do cơ chế trực tiếp đó là
cạnh tranh dinh dưỡng, tiết ra cac chất khang sinh hoặc gian tiếp bằng cac cơ chế kích
khang [159].
- Kích thích tăng trưởng của cây trồng
Những lợi ích mà những loài nấm Trichoderma mang lại đã được biết đến là việc
kích thích sự tăng trưởng và phat triển của thực vật, do việc kích thích sự hình thành

nhiều hơn và phat triển mạnh hơn của bộ rễ so với thông thường. Những cơ chế giải
thích cho cac hiện tượng này chỉ mới được hiểu rõ ràng hơn trong thời gian gần đây.
Hiện nay, một số giống nấm Trichoderma đã được phat hiện là chúng có khả năng gia
tăng số lượng rễ mọc sâu (sâu hơn 1 m dưới mặt đất). Những rễ sâu này giúp cac loài
cây như ngô hay cây cảnh có khả năng chịu được hạn han.
Một khả năng đang chú ý nhất là những cây ngô có sự hiện diện của nấm
Trichoderma dòng T22 ở rễ, thì có nhu cầu về đạm thấp hơn đến 40% so với những
cây không có sự hiện diện của loài nấm này ở rễ.
1.1.4.3. Cơ chế tác động của nấm Trichoderma
- Cơ chế ký sinh nấm
Ký sinh nấm là sự tấn công trực tiếp của một loài nấm trên loài nấm khac và
thường được định nghĩa là sự đối khang trực tiếp [107], bao gồm 4 bước liên tiếp
[103]. Bước đầu tiên được gọi là sự phat triển có tính chất hướng hóa (chemotrophic


18

growth), tức là tiết ra một tac nhân kích thích hóa học gây ra bởi nấm ký chủ đã hấp
dẫn chủng nấm ký sinh (nấm đối khang) [102], [152]. Bước thứ hai được gọi là sự
nhận diện đặc hiệu (specific recognition), tức chủng nấm ký sinh nhận diện được bề
mặt tế bào của nấm ký chủ [94]. Bước thứ ba bao gồm hai qua trình tach biệt nhau.
Qua trình thứ nhất được gọi là sự quấn (coiling), tức sợi nấm ký sinh Trichoderma bao
quanh sợi nấm ký chủ [101], [139]. Qua trình thứ hai bao gồm sự tương tac và tiếp xúc
sợi nấm gắn kết với nhau (intimate hyphal interaction and contact), tức sợi nấm
Trichoderma phat triển hoàn toàn dọc theo sợi nấm ký chủ. Bước thứ tư và cũng là
bước cuối cùng bao gồm sự tiết cac enzyme phân giải đặc biệt, chúng sẽ phân hủy
vach tế bào của nấm ký chủ [103].
Cac nghiên cứu cấu trúc siêu vi (ultrastructural) và mô hóa học (histochemical)
đã chứng minh rằng cac enzyme của Trichoderma gây ra sự phân giải vach tế bào nấm
ký chủ tại vị trí tiếp xúc giữa sinh vật đối khang và ký chủ [96], [97]. Sự hiện diện của

chitin và/hoặc cac sợi β-glucan, gắn chặt trong chất nền protein, trong vach cac tế bào
nấm bệnh đề xuất rằng sự phân giải hệ sợi nấm của chúng trong qua trình ký sinh có
thể được thực hiện nhờ β-glucanase, chitinase và protease [140], [141]. Sự hình thành
cac enzyme này đã được nghiên cứu trong qua trình tương tac vật ký sinh - ký chủ
giữa cac loài Trichoderma spp. với một số nấm gây bệnh cây trồng nhất định [120],
cũng như dưới điều kiện mô phỏng nhân tạo của qua trình ký sinh nấm (khi
Trichoderma spp. được cho phat triển trên cac môi trường có chứa hệ sợi nấm vô trùng
hoặc cac vach tế bào nấm bệnh) [98], [104], [114]. Nghiên cứu cho thấy, hoạt động
thủy phân của cac chủng Trichoderma khảo sat đối với vach tế bào nấm bệnh có tương
quan với mức độ mà chúng bị ức chế [139]. Bên cạnh đó, hoạt động phối hợp giữa cac
enzyme phân giải với chất khang sinh là một nhân tố khac có thể nâng cao khả năng
ức chế mầm bệnh cây trồng của Trichoderma [128], [152].
- Cơ chế kháng sinh
Kiểu tương tac này được định nghĩa là sự đối khang gian tiếp vì ở đây sự đối
khang diễn ra mà không yêu cầu phải có sự tiếp xúc [107]. Người ta đã chứng minh rằng
Trichoderma có khả năng tiết ra một lượng lớn cac chất chuyển hóa thứ cấp khac nhau
có thể ức chế nấm và vi khuẩn. Cơ chế khang sinh thường diễn ra phối hợp với ký sinh
nấm [147]. Theo đó, cac chất khang sinh có thể ức chế sự tạo thành vach tế bào, làm gia
tăng hoạt động của những enzyme thủy phân [135]. Cac chất khang sinh cũng có thể tac
động tới nấm mục tiêu thông qua một loạt cac cơ chế khac nhau, như kìm hãm sự phat
triển, sự sản xuất cac chất chuyển hóa, sự hấp thu cac chất dinh dưỡng và sự hình thành
bào tử [124], [160]. Cũng giống như cơ chế ký sinh nấm, khang sinh có đặc trưng cho


19

từng loài và cac loài Trichoderma khac nhau có khả năng kiểm soat sinh học không
giống nhau. Thậm chí, cac chủng Trichoderma khac nhau trong cùng một loài cũng biểu
hiện những hoạt tính tiêu diệt nấm mục tiêu khac nhau [115], [125].
- Cơ chế cạnh tranh

Tương tac cạnh tranh giữa Trichoderma và vi sinh vật đất có thể được xem là sự
đối khang gian tiếp. Trichoderma có thể ức chế hoặc làm giảm sự phat triển của mầm
bệnh cây trồng thông qua việc cạnh tranh về không gian, cơ chất enzyme, chất dinh
dưỡng và oxygen [107]. Với bản chất phat triển nhanh và khả năng sinh trưởng tốt trên
nhiều loại cơ chất khac nhau Trichoderma chính là những sinh vật chiếm lĩnh môi
trường sống trong đất rất hiệu quả và có khả năng thay thế cho cac sinh vật có khả
năng xâm chiếm kém hơn [139]. Tuy nhiên, khả năng xâm chiếm của chúng bị ảnh
hưởng rất lớn bởi những nhân tố môi trường đất, bao gồm pH, nhiệt độ và nước [131].
- Cơ chế thúc đẩy sự phát triển và gia tăng sức đề kháng của cây trồng
Trichoderma thúc đẩy sự phat triển của cây trồng thông qua việc kích thích trực
tiếp sự hấp thu cac chất dinh dưỡng của chúng [130], [138] hoặc việc tiết cac chất
chuyển hóa có khả năng đẩy nhanh sự phat triển cây trồng như cac hormone tăng
trưởng [161]. Với bản chất đối khang nấm bệnh cây trồng của hầu hết cac loài
Trichoderma, chúng có thể thúc đẩy sự phat triển của cây trồng một cach gian tiếp
thông qua việc ức chế cac mầm bệnh và vì thế, làm gia tăng sự sinh trưởng của cây
trồng [109].
- Cơ chế tiết enzyme thủy phân của nấm Trichoderma
Việc cac loài Trichoderma có thể phân giải nhanh và hiệu quả đối với hầu như
bất kỳ loại hợp chất hữu cơ nào là nhờ vào lượng enzyme thủy phân mà chúng có khả
năng tạo ra. Cac vật liệu hữu cơ bao gồm cac loại đường, hormon và
heteropolysaccharide. Vài loại enzyme thủy phân của cac loài Trichoderma đối khang
khac nhau đã được tạo dòng.


20

Hình 1.1. Những hoạt động kích thích sự tăng trưởng cây trồng của Trichoderma spp.
Trực tiếp: (a) ký sinh nấm, (b) cạnh tranh; gián tiếp: (c) sự phát triển hệ sợi xung
quanh vùng bầu rễ cây trồng và sản xuất các chất chuyển hóa
(Nguồn: Verma và cs, 2007) [157].

1.1.5. Vi khuẩn Pseudomonas
1.1.5.1. Đặc điểm của vi khuẩn Pseudomonas
Vi khuẩn Pseudomonas thường là vi khuẩn Gram âm, hình que. Có tiên mao ở
cực nên có khả năng lội tốt trong nước, không có khả năng tạo bào tử. Pseudomonas là
vi khuẩn sống tự do, chúng hiện diện khắp nơi như trong đất, trong nước, thực vật,
động vật, một số tàn dư thực phẩm. Chúng có khả năng hô hấp hiếu khí hay kỵ khí.
Nhiệt độ thuận lợi để chúng phat triển là 30 - 37 0C. Tuy nhiên một số chủng
Pseudomonas lại có thể sống tốt ở 40 0C. Pseudomonas có thể được nuôi trong môi
trường đơn giản và ở pH trung tính. Một vài chủng có thể tạo huỳnh quang dưới anh
sang tia cực tím ở bước sóng 254 nm.
1.1.5.2. Vai trò của vi khuẩn Pseudomonas
Vi khuẩn Pseudomonas spp. phân bố rộng rãi và có nhiều chủng loài, là vi khuẩn
sống tự do, chúng có thể được tìm thấy trong đất, nước, trong thực vật, động vật.
Giống Pseudomonas spp. có nhiều loài, có khả năng cố định đạm như Pseudomonas
fluorescens,

Pseudomonas

stutzeri,

Pseudomonas

diminuta,

Pseudomonas

paucimobilis, Pseudomonas pseudoflava, Pseudomonas putida, Pseudomonas
saccharophila và Pseudomonas vesicularis. Một số loài Pseudomonas có khả năng
hòa tan lân như Pseudomonas fluorescens, Pseudomonas putida, Pseudomonas
chlororaphis [99], một số có khả năng tổng hợp kích thích tố tăng trưởng như

Pseudomonas fluorescens, Pseudomonas putida, Pseudomonas syringae [154].

Hình 1.2. Pseudomonas dưới kính hiển vi điện tử
(Nguồn: Thrane và cs, 2000) [155].
Một số chủng Pseudomonas có ảnh hưởng quan trọng trong sự sinh trưởng và
phat triển thực vật, tổng hợp kích tố tăng trưởng thực vật như: auxin, cytokinin, kích


21

thích sự phat triển của bộ rễ cây làm gia tăng khả năng hấp thu chất dinh dưỡng trong
đất ở một số loài như: Pseudomonas putida, Pseudomonas fluorescens, Pseudomonas
syringae [116], [154], [164].
1.1.5.3. Cơ chế tác động của vi khuẩn Pseudomonas
Pseudomonas kích thích sinh trưởng của cây trồng bởi vì chúng xúc tiến cây
trồng sinh ra cac chất kích thích sinh trưởng như auxin, xitokinyl, gibberellin và tính
khang tập thể của cây, giúp cây khang lại tốt hơn sự tấn công của mầm bệnh [158]. Cơ
chế tac động của vi khuẩn đối khang Pseudomonas như sau:
Có khả năng sản sinh ra cyanide, tăng tính chống chịu của cây, sản sinh ra chất
kích thích sinh trưởng và có khả năng phân giải độc tố do vi sinh vật gây bệnh tiết ra.
Có khả năng hấp thụ cac ion Fe3+ trong môi trường với ai lực cao nhằm phục vụ
trực tiếp cho sự sinh trưởng và hô hấp của vsv, làm cho môi trường xung quanh nghèo
sắt, dẫn đến cac loại vi sinh vật khac không có đủ ion Fe 3+ cho qua trình sinh trưởng
của mình, do đó chúng sẽ không sinh trưởng được.
Cạnh tranh dinh dưỡng với cac vi sinh vật gây bệnh, ví dụ như tiết ra cac hợp
chất siderophore tạo điều kiện thuận lợi cho việc cạnh tranh Fe.
Có khả năng phòng chống lại nhiều loại vi sinh vật gây bệnh hại cây, nghĩa là có
khả năng chống lại những loại vi sinh vật gây bệnh mà những vi sinh vật đó thường
làm giảm sự sinh trưởng và phat triển của cây trồng.


PGPR: Plant Growth Promoting Rhizobacteria
ISR: Induction of Systemic Resistance of host plant by PGPR


22

Hình 1.3. Các cơ chế kích thích sự sinh trưởng thực vật bởi PGPR
(Nguồn: Kumar và cs, 2011) [133]
Kích thích sinh trưởng thực vật (Plant Growth Promoting Rhizobacteria-PGPR)
do vi khuẩn vùng rễ khi tương tac với rễ cây có thể tạo ra tính khang của cây chống lại
vi khuẩn, nấm và virut gây bệnh. Hiện tượng này được gọi là tính kích khang hệ thống
- ISR (Induction of Systemic Resistance), cũng giống như tính kích khang hệ thống có
điều kiện - SAR (Systemic Acquired Resistance).
1.1.6. Đặc điểm của đất cát ven biển và đất xám bạc màu
1.1.6.1. Đất cát ven biển (Haplic Arenosols)
Đất cat ven biển ở Thừa Thiên Huế chiếm tỷ trọng lớn nhất trong 5 nhóm đất
đồng bằng của tỉnh, với diện tích là 19.604 ha (chiếm 9,7% đất tự nhiên). Đất cat ven
biển có những tính chất rất đặc trưng, có độ phì tự nhiên thấp, cac chất tổng số và dễ
tiêu đều ở mức nghèo, nên năng suất cây trồng trên loại đất này không cao. Mặt khac,
đất cat ven biển có thành phần cấp hạt thô chiếm tỷ lệ lớn, kết cấu rời rạc nên sự rửa
trôi cac chất dinh dưỡng theo trọng lực dễ dàng xảy ra. Đồng thời do nghèo mùn và
dung tích hấp thu thấp, nên khả năng giữ nước và phân bị hạn chế.
Ðất cat ven biển nghèo mùn (OM% < 1%), chất hữu cơ phân giải mạnh (C/N <
5). Nghèo N%: 0,03 - 0,08%, P2O5%: 0,02 - 0,04%, K2O%: 0,3 - 0,5%. Cac chất dễ
tiêu trong đất cũng đều ở mức nghèo đến rất nghèo, CEC trong đất thấp (3,3 - 8,0 lđl/
100g đất), tổng số cation kiềm trao đổi từ 1,5 - 6 lđl/ 100g đất. Đất có phản ứng trung
tính - ít chua (biến động từ 4,5- 7,5); đất có khả năng giữ phân và nước kém [10].
Đất được hình thành do qua trình bồi tích của biển nhưng đã được khai thac sử
dụng từ lâu đời, vì vậy tính chất lý hóa học của đất đã thay đổi theo chiều hướng có lợi
cho sản xuất nông nghiệp. Đây là loại đất có độ phì tự nhiên thấp, nhưng có lợi thế về

thành phần cơ giới nhẹ, mực nước ngầm nông, lại thích hợp với nhiều loại cây trồng
như: cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, rau màu, dưa, cà, cây gia vị... nếu chọn
được cơ cấu cây trồng thích hợp, đầu tư thêm phân hữu cơ và cac loại phân bón khac,
thì có thể thu được hiệu quả kinh tế cao khi sản xuất trên loại đất này.
1.1.6.2. Đất xám bạc màu (Haplic Acrisols)
Ở Thừa Thiên Huế đất xam bạc màu có diện tích 800 ha, chiếm 0,16% tổng diện
tích tự nhiên, đất đều ảnh hưởng của lớp đa mẹ chua, nghèo chất kiềm thổ, thành phần
cơ giới nhẹ bởi vì trầm tích biển đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành đồng
bằng này. Hơn nữa đồng bằng ở đây có đặc điểm là hẹp và dốc (do vị trí của dãy


23

Trường Sơn đối với Biển Đông) nên lũ lên xuống nhanh làm cho cac hạt sét và mùn
giàu dinh dưỡng không kịp lắng đọng để bồi đắp, vì vậy đất thường nghèo lân và kali.
Đất xam bạc màu có phản ứng chua ít đến rất chua, pH KCl dao động từ 3,0 - 4,5
chủ yếu 4,0 - 4,5; hàm lượng Ca 2+, Mg2+ trao đổi rất thấp (Ca 2+ + Mg2+ < 2mg/100g
đất). Độ no bazơ và dung tích hấp phụ thấp (<50%), hàm lượng mùn tầng đất mặt từ
nghèo đến rất nghèo (0,5 - 1,5%). Mức độ phân giải chất hữu cơ mạnh (C/N < 10) cac
chất dinh dưỡng tổng số và dễ tiêu đều nghèo.
Đất xam bạc màu có nhược điểm chua, nghèo chất dinh dưỡng, thường bị khô
hạn, nhưng có gia trị trong nông nghiệp. Phần lớn diện tích đất nằm ở địa hình bằng
phẳng, thoải, thoang khí, thoat nước, dễ canh tac và thích hợp với sinh trưởng của
nhiều cây trồng cạn [10].
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.2.1. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới, ở Việt nam và Thừa Thiên Huế
1.2.1.1. Tình hình sản xuất lạc trên thế giới
Cây lạc chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thế giới không chỉ gieo
trồng trên diện tích lớn mà còn vì cây lạc được sử dụng rất rộng rãi để làm thực phẩm
và nguyên liệu cho công nghiệp. Nhu cầu sử dụng và tiêu thụ ngày càng tăng đã và

đang khuyến khích nhiều nước đầu tư phat triển sản xuất lạc với quy mô ngày càng mở
rộng.
Tình hình sản xuất lạc trên thế giới trong 3 năm trở lại đây được thể hiện ở bảng
1.1. Qua bảng 1.1 cho thấy:
Về diện tích: Ấn độ là nước có diện tích trồng lạc lớn nhất thế giới (5,52 triệu ha)
nhưng năng suất lại thấp (9,82 tạ/ha), nước có năng suất lớn nhất thế giới là Mỹ (44,85
tạ/ha), trong khi diện tích trồng lạc rất nhỏ (0,42 triệu ha).
Về năng suất: Mỹ là nước có năng suất trồng lạc lớn nhất thế giới (44,85 tạ/ha),
tiếp đến là Trung Quốc (36,52 tạ/ha), Sudan là quốc gia có năng suất lạc thấp nhất (6,3
tạ/ha).
Bảng 1.1. Diễn biến về diện tích, năng suất và sản lượng lạc trên thế giới
(2014 - 2016)


24

Nước
Trung Quốc
Ấn Độ
Nigeria
Indonesia
Mỹ
Sudan
Cameroon
Việt Nam

Diện tích (triệu ha)
2014 2015 2016
4,72
4,65

4,52
4,77
5,52
5,20
2,66
2,73
2,77
0,55
0,52
0,50
0,42
0,64
0,54
1,69
1,61
2,16
0,42
0,46
0,44
0,22
0,22
0,21

Năng suất (tạ/ha)
Sản lượng (triệu tấn)
2014 2015 2016 2014 2015 2016
35,72 36,52 34,9 16,85 17,02 15,78
9,82 18,00 12,61
4,7
9,47 6,57

12,46 9,06 12,31 3,31
2,47 3,41
22,35 22,00 22,04 1,25
1,14 1,10
47,2 44,85 44,07 3,06
1,89 2,36
6,90
6,30
8,39
1,18
1,03 1,76
15,00 13,72 13,96 0,63
0,66 0,61
21,36 22,76 21,78 0,47
0,49 0,45
(Nguồn: FAOSTAT, 2017)

Về sản lượng: Trung Quốc là nước có sản lượng lớn thứ nhất thế giới (17,02 triệu
tấn) và cũng là nước có diện tích lớn thứ hai thế giới sau Ấn Độ.
Khu vực Đông Nam Á: Việt Nam có diện tích nhỏ nhất khoảng (0,21 triệu ha), và
sản lượng cũng kha thấp so với cac quốc gia trong khu vực chỉ đạt
(0,47 triệu tấn). Tuy nhiên năng suất cũng đạt ở mức trung bình khoảng (22,76 tạ/ha).
Trong cơ chế thị trường mới, cac chính sach mở cửa đã tạo cơ hội cho cac nước
trên thế giới trao đổi những tiến bộ kĩ thuật cũng như kinh nghiệm sản xuất. Đây là
những nguyên nhân góp phần thúc đẩy, khuyến khích nhiều nước đầu tư phat triển lạc
với quy mô ngày càng lớn.
1.2.1.2. Tình hình sản xuất lạc ở trong nước
Lạc là một trong những cây trồng chính ở nước ta, được người nông dân trồng từ
lâu đời và có thể trồng trên nhiều loại hình sinh thai khac nhau. Diện tích chiếm
khoảng 28% tổng diện tích cây công nghiệp hàng năm (đậu tương, thuốc la, đay, cói).

Tuy nhiên có 6 vùng sản xuất lạc chính là vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Đông
Bắc, vùng duyên hải Bắc Trung Bộ, vùng duyên hải Nam Trung Bộ, vùng Tây
Nguyên, vùng Đông Nam Bộ. Trong những năm trở lại đây việc thực hiện cac chính
sach chuyển đổi cơ chế quản lý trong sản xuất nông nghiệp đã giải quyết được vấn đề
lương thực. Vì vậy người dân có điều kiện chủ động để chuyển dần một phần diện tích
trồng lúa sang trồng cac loại cây có gia trị kinh tế. Trong đó lạc có vị trí quan trọng
trong nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa, cũng góp phần cải tạo và sử dụng tài nguyên
đất đai, nhằm khai thac lợi thế của vùng khí hậu nhiệt đới. Diện tích, năng suất và sản
lượng lạc ở Việt Nam được thể hiện ở bảng 1.2.
Bảng 1.2. Diện tích, năng suất và sản lượng ở Việt Nam từ năm 2004 - 2016
Diện tích
Năng suất
Sản lượng
Năm
(nghìn ha)
(tạ/ha)
(nghìn tấn)
2004
263,70
17,80
469,00
2005
269,60
18,10
489,30
2006
246,70
18,70
462,50



25

2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016

254,50
255,30
245,00
231,40
223,80
220,50
216,40
208,70
200,32
191,30

20,00
510,00
20,80
530,20
20,90

510,90
21,10
487,20
20,90
468,70
21,30
470,60
22,70
491,90
21,70
453,30
22,60
451,80
23,10
441,40
(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2017)

Về diện tích
Cây lạc được trồng trên tất cả cac vùng sinh thai nông nghiệp của Việt Nam.
Diện tích trồng lạc chiếm khoảng 40% tổng diện tích gieo trồng cac cây công nghiệp
ngắn ngày và có xu hướng giảm trong giai đoạn 2005 - 2016, cụ thể là 269,60 nghìn ha
năm 2005 giảm còn 191,30 nghìn ha năm 2016.
Về năng suất
Tuy chưa đạt năng suất cao như một số nước khac trên thế giới, nhưng năng suất
lạc của nước ta cao hơn năng suất trung bình của toàn thế giới. Trong những năm gần
đây, do thị trường tiêu thụ sản phẩm kha ổn định, cac tiến bộ kỹ thuật mới trong sản
xuất lạc như giống mới, kỹ thuật thâm canh tiên tiến được ap dụng rộng rãi, điều kiện
phục vụ sản xuất như hệ thống tưới tiêu được cải thiện, đầu tư thâm canh trong sản
xuất được chú trọng, nên năng suất lạc của nước ta không ngừng tăng lên. Cụ thể là
năm 2004 năng suất lạc chỉ có 17,8 tạ/ha nhưng đến 2016 thì năng suất lạc đã lên đến

23,10 tạ/ha. Bên cạnh đó cac yếu tố hạn chế chính đối với sản xuất lạc ở nước ta đã
được nghiên cứu, nên đã đap ứng nhu cầu của nông dân và bước đầu đã đem lại hiệu
quả đang khích lệ.
Về sản lượng
Mặc dù, diện tích trồng có xu hướng giảm, nhưng năng suất lạc liên tục tăng
trong những năm gần đây, nên sản lượng lạc của nước ta không ngừng tăng lên. Theo
bảng số liệu 1.3, từ năm 2004 - 2008 do năng suất liên tục tăng, diện tích trồng lạc
giảm không đang kể nên sản lượng lạc của cả nước năm 2008 đạt 530,20 nghìn tấn
tăng 61,20 nghìn tấn so với năm 2004. Tuy vậy năm 2015 và 2016, do diện tích trồng
lạc giảm mạnh nên sản lượng lạc của cả nước bị giảm đi.
1.2.1.3. Tình hình sản xuất lạc ở Thừa Thiên Huế


×