Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Thuyết minh về Côn Sơn và Chu Văn An (2 bài khác nhau)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.28 KB, 6 trang )

*Cách 1:
Quê hương – hai tiếng thân thương, mỗi chúng ta đều rất tự hào về quê hương của
mình. Bởi mỗi miền quê đều có vẻ đẹp về cảnh vật, về văn hóa, về con người khiến mỗi cta
khi đi xa lòng sẽ ko nguôi nỗi nhớ. Đã bao giờ bạn đến với quê hương tôi chưa? Mời bạn
hành hương về miền Đông Bắc của Tổ quốc, vùng đất thiêng của Đại Việt, nơi tụ hội anh
linh của tiền nhân, của những anh hùng với bao chiến công chói ngời sử sách. Đặc biệt khi
đến với khu di tích Côn Sơn, nghe thông Côn Sơn reo, ta tưởng như nghe tiếng mài gươm
của Nguyễn Trãi thuở “bình Ngô”. Nghe tiếng sóng Lục Đầu Giang vỗ, ta tưởng như nghe
tiếng reo cùa trăm vạn hùng binh dưới ngọn cờ người anh hùng Trần Quốc Tuấn đang ào ào
xông tới Vạn Kiếp tiêu diệt giặc Nguyên-Mông.
Khu di tích Côn Sơn nằm dưới chân núi CS, xã Cộng Hoà, huyện Chí Linh, tỉnh Hải
Dương, gần làng Chi Ngại, quê hương của dòng họ Nguyễn Trãi. Khu di tích này gồm có
núi non, chùa, tháp, rừng thông, khe suối và các di tích nổi tiếng gắn liền với cuộc đời của
nhiều danh nhân lịch sử, những dấu tích thời Trần và các giai đoạn lịch sử kế tiếp.
Từ con đường Quốc Lộ 18, rẽ vào con đường Quốc lộ 37, đi thẳng đến cuối đường, ta
sẽ gặp một hồ nước. Đó là hồ CS bốn mùa trong vắt luôn đầy nước. Men theo bờ hồ dưới
tán thông rậm rạp, mùi lá thông ngai ngái khiến tâm hồn ta thư thái. Nếu để ý, ta sẽ thấy
dưới những tán thông già là những bụi sim, bui mái nở hoa tím ngắt cả một tầng rừng thấp
mỗi dịp hè về. Khu di tích CS nổi tiếng với phong cảnh nên thơ, hữu tình. Quanh năm,
chẳng phân biệt mùa, người người, nhà nhà về đây để chụp ảnh, lưu giữ những kỉ niệm bên
gia đình. Các cặp đôi chụp ảnh cưới cho dịp trọng đại nhất đời mình. Vào sâu hơn nữa, ta
đến với chùa CS – di tích lịch sử đặc biệt quan trọng của nước ta.
Nẳm trong quần thể khu di tích, chùa Côn Sơn hay còn gọi là “Thiên tư phúc tự”, dân
địa phương gọi là chùa Hun. Năm 1304, nhà sư Pháp Loa cho xây dựng một chùa nhỏ gọi
Kỳ Lân, đến năm 1329, chùa được xây dựng mở rộng thành CS TTPT, giao cho Trạng
Nguyên Lí Đạo Tái, pháp danh Huyền Quang chủ trì. Vào thời nhà Lê lúc Thiền sư Mai Trí
Bản trụ trì, chùa được trùng tu và mở rộng. Khi đó chùa có đến 83 gian. Nhưng do bị chiến
tranh tàn phá, ngày nay chùa Côn Sơn chỉ còn là một ngôi chùa nép mình dưới tàn lá xanh
của những cây cổ thụ.
Chùa kiến trúc theo kiểu chữ công, gồm Tiền đường, Thiêu lương, Thượng điện là nơi
thờ Phật, trong đó có những tượng Phật từ thời Lê cao tới 3 mét. Trong chùa còn đầy đủ hệ


thống tượng Phật như tượng Di Đà Tam Tôn, tượng Trúc Lâm Tổ - tức Trần Nhân Tông,
tượng Nhà sư Huyền Quang, tượng ông bà Trần Nguyên Đán, hai pho tượng Nguyễn Trãi
và Nguyễn Thị Lộ.Tiếp đến nhà Tổ là nơi thờ các vị tổ có công tu nghiệp đối với chùa:
Điều ngư Trúc Lâm Trần Nhân Tông, Thiền sư Pháp Loa và Thiền sư Huyền Quang.
Đường vào Tam quan lát gạch, chạy dài dưới hàng thông trăm năm phong trần xen lẫn
những tán vải thiều xum xuê xanh thẫm. Tam quan được tôn tạo năm 1995, kiểu cổ, có 2
tầng 8 mái với các hoạ tiết hoa lá, mây tản cách điệu của nền nghệ thuật kiến trúc thời Lê.
Sân chùa có 4 nhà bia với những tấm bia quý còn nguyên vẹn như “Thanh Hư Động” (bút
tích của vua Trần Duệ Tông năm 1373) và “Côn Sơn Tư Phúc tự bi” (Bác Hồ đã về thăm
CS và dịch tấm bia này năm 1965)
Nằm ở sườn núi Kỳ Lân, bên phải là lối lên Bàn Cờ Tiên, dưới chân Đăng Minh bảo
tháp là Giếng Ngọc. Người xưa cho rằng Giếng Ngọc chính là mắt của con Kỳ Lân. Tương


truyền đây là giếng nước do thiền sư Huyền Quang được thần linh báo mộng ban cho chùa
nguồn nước quí. Soi mình trong đó ta có thể thấy nước giếng trong vắt, xanh mát quanh
năm. Nước giếng được các sư dùng làm nước cúng lễ của chùa. Giếng Ngọc cũng có thời
gian bị cỏ cây che lấp. Năm 1995, ban Quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc đã cho khơi lại,
kè đá, xây bờ, lát sân để phục vụ cho du khách về tham quan Côn Sơn lại được tận hưởng
nước giếng thiêng.
Bên suối Côn Sơn có một phiến đá lớn, mặt phẳng và nhẵn gọi là Thạch Bàn, nơi Bác
Hồ tới thăm Côn Sơn (15/2/1965), Bác đã dừng chân nghỉ tại đây. Tương truyền khi xưa
Nguyễn Trãi lấy làm “chiếu thảm” nghỉ ngơi, ngắm cảnh, làm thơ và suy tư việc nước.
Từ chùa Côn Sơn leo lên các bậc đá đến đỉnh núi, là một khu đất bằng phẳng, tại đây
có một phiến đá khá rộng, tục gọi là Bàn Cờ Tiên. Hiện Bàn Cờ Tiên có dựng nhà bia theo
kiểu vọng lâu đình, hai tầng cổ, tám mái. Đứng tại đây, du khách có thể nhìn bao quát cả
một vùng rộng lớn: Lục Đầu Giang -Côn Sơn-Kiếp Bạc
Chùa Côn Sơn đã chứng kiến một chặng đường đời và bi kịch của người anh hùng dân
tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi. Sau những năm tham gia triều chính, Nguyễn Trãi lui
về Côn Sơn và sống cuộc dời ẩn dật. Cảnh đẹp Côn Sơn đã gợi nên cảm hứng để Nguyễn

Trãi sáng tác nhiều bài thơ trong Quốc Âm thi tập. Đến năm 2002, để tưởng nhớ NT – danh
nhân văn hóa thế giới, tỉnh Hải Dương đã xây dựng đền thờ Nguyễn Trãi trên một khu đất
rộng trong quần thể khu di tích Côn Sơn
Trải qua hơn 2500 ngày lao động, cùng với sự tâm đức, khéo tay, cần mẫn của các
nghệ nhân, đền Nguyễn Trãi có kiến trúc truyền thống và rất độc đáo. Phía bên phải là dòng
suối Côn Sơn chảy từ Bắc xuống Nam, uốn lượn từ phải qua trái, ôm lấy khu Đền. Đền
Nguyễn Trãi gồm có đền thờ chính, hai nhà Tả vu, Hữu vu, Nghi môn nội, Nghi môn
Ngoại, Nhà Bia, Am hoá vàng, cầu vào cổng chính, cầu qua suối Côn Sơn theo kiểu thượng
gia hạ kiều để lên Thạch Bàn, nhà từ đền, hệ thống sân vườn, đường cấp thoát nước...
Trong đền thờ có tượng Nguyễn Trãi bằng đồng với kích thước hợp lý đặt trong nhà tưởng
niệm rất trang trọng.
Quanh năm, chùa CS đón khách thập phương về thăm và vãn cảnh chùa nhưng lễ hội
chính thường đc tổ chức vào dịp tháng Giêng và tháng Tám hàng năm. Cứ mỗi độ xuân về,
trên các nẻo đường quê em, dòng dân khắp nơi lại nườm nượp đổ về Côn Sơn tham gia trẩy
hội mùa xuân. Mọi người thành tâm cầu mong cho một năm mới an vui, hạnh phúc và bày
tỏ lòng thành kính với vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Vào mỗi dịp như vậy, các sư trụ trì
và các cấp lãnh đạo thường phối hợp tở chức lễ hội cầu an rất long trọng để tưởng nhớ, cầu
siêu cho các anh hùng liệt sĩ và các nân nhân tử vong vì tai nạn giao thông. Qua lễ hội cầu
an, các sư trụ trì chùa cũng muốn gửi đến du khách thập phương lời nhắn nhủ : “Hãy luôn
biết ơn các anh hùng liệt sĩ, hãy biết quý trọng cuộc sống của bản thân bằng việc tuân thủ
luật giao thông”
Đối với người dân Cl nói riêng và người dân Việt Nam nói chung, khu di tích CS có ý
nghĩa đặc biệt về mặt tâm linh, là một trong 62 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng của VN.
Quan trọng như vậy, nhưng hiện nay, do ý thức của một số khách du lịch, các anh chị nam
nữ thanh niên còn chưa cao. Còn vứt rác bừa bãi; ăn mặc không phù hợp; khi chụp ảnh lưu
niệm thì leo trèo làm hư hại hiện vật, mất mỹ quan. Không chỉ vậy, chùa CS trải qua năm
tháng bị thời gian bào mòn đã bắt đầu xuống cấp. Hiện nay, Nhà nước đang trùng tu lại


chùa, chắc chắn sau khi trùng tu chùa sẽ trở nên to đẹp hơn. Thế nhưng bên cạnh đó, chúng

ta cũng phải có ý thức giữ gìn, bảo vệ di tích lịch sử này. Bản thân em mỗi khi có dịp về
thăm chùa cũng luôn cố gắng tuân thủ các quy định của nhà chùa, không vứt rác bừa bãi,…
Có lần em và các bạn tham gia buổi dã ngoại tại nơi đây, trước khi ra về, cem đã thu dọn
rác cùng với các cô bác lao công ở đây. Em mong rằng mỗi du khách đến thăm chùa sẽ tuân
thủ các quy định để giữ gìn được vẻ cổ kính, nghiêm trang của khu di tích Côn Sơn.
Sau mỗi chuyến tham quan các di tích lịch sử, em càng thêm yêu và tự hào khi được là
người con của mảnh đất Cl – mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi có những di tích lịch sử quốc
gia đặc biệt như Côn Sơn – Kiếp Bạc,… Ngay từ bây giờ, khi còn ngồi trên ghế nhà
trường, em luôn tự nhủ với bản thân mình rằng phải cố gắng học tập, tu dưỡng đạo đức
nhằm phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc ta, noi gương người xưa như cụ Nguyễn
Trãi, thầy giáo CVA, bà NTD,… để sau này lớn lên góp phần xây dựng quê hương, bảo tồn
các di tích lịch sử ngày càng to đẹp hơn.


Quê hương – hai tiếng thân thương, mỗi chúng ta đều rất tự hào về quê hương của
mình. Bởi mỗi miền quê đều có vẻ đẹp về cảnh vật, về văn hóa, về con người khiến dù đi
xa lòng ta sẽ ko nguôi nỗi nhớ. Đã bao giờ bạn đến với quê hương tôi chưa? Mời bạn hành
hương về miền Đông Bắc của Tổ quốc, vùng đất thiêng của Đại Việt, nơi tụ hội anh linh
của tiền nhân, của những anh hùng với bao chiến công chói ngời sử sách. Đặc biệt khi đến
với đền thờ thầy giáo Chu Văn An, dạo bước dưới tán thông ngút ngàn, nghe mùi lá ngai
ngái đâu đây, ta như thấy văng vẳng bên tai những bài học của thầy CVA – người thầy của
muôn đời.
Từ Quốc lộ 18, rẽ vào đường lên núi Phượng Hoàng khoảng 3km, men theo dốc núi
quanh co giữa bạt ngàn cây trái, tiếp đến là cánh rừng thông ngút ngàn tầm mắt. Nếu để ý,
ta sẽ thấy dưới những tán thông già là những bụi sim, bụi mái nở hoa tím ngắt cả một tầng
rừng thấp mỗi dịp hè về. Từ xa, ta có thể thấy mái ngói cong cong của Đền thờ Thầy giáo
Chu Văn An tọa lạc trên sườn núi PH, thuộc xã Văn An (trước đây là xã Kiệt Đặc), huyện
Chí Linh, Hải Dương
Thầy giáo Chu Văn An (1292-1370), quê ở làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện
Thanh Đàm (nay thuộc xóm Văn, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Ông là người

chính trực, đã từng đỗ Thái học sinh nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học.
Ngoài 20 tuổi, ông được Vua Trần Minh Tông (1314 – 1329) mời làm tư nghiệp Quốc tử
giám dạy học cho Thái tử. Đến đời Vua Trần Dụ Tông (1341 – 1369), vì không chịu nổi
bọn gian thần ác bá, ông đã trao ấn từ quan về ở ẩn trên núi Phượng Hoàng, lấy hiệu là
“Tiều ẩn” (tiều phu), chỉ chuyên dạy học, viết sách, làm thơ, nghiên cứu y dược cho tới khi
mất. Thầy đã để lại nhiều câu nói bất hủ cho thế hệ sau noi theo: “Ta chưa từng thấy nước
nào coi nhẹ sự học mà khá lên được”;…
Sau khi thầy Chu Văn An qua đời, nhân dân đã dựng ngôi đền thờ thầy tại nơi thầy
làm nhà dạy học. Tuy nhiên, trải qua sự nghiệt ngã của thời gian, sự khốc liệt của bom đạn
chiến tranh, đến những năm 80 của thế kỷ trước đền đã bị phá hủy gần như hoàn toàn.
Trước thực trạng đó, những năm 90 của thế kỷ trước, được sự nhất trí của chính quyền các
cấp, Bảo tàng Hải Dương, UBND phường Văn An và ngành Giáo dục cùng bà con địa
phương đã tiến hành một cuộc đại trùng tu và tôn tạo lại đền. Kết quả sau 2 giai đoạn trùng
tu, năm 2008 đền thờ Chu Văn An đã trở thành quần thể kiến trúc bề thế trang nghiêm như
ngày nay.
Quần thể kiến trúc đền thờ Thầy giáo CVA gồm tam quan nội, tam quan ngoại, sân hạ,
sân trung, sân thượng, vườn cây, hai nhà giải vũ, hai nhà bia, đền thờ chính,… Từ dưới
chân đền, có 112 bậc thang đá dẫn lên đền thờ chính. Nếu bạn để ý, cứ 7 bậc thang sẽ có
một chiếu nghỉ. Bảy bậc thang này tượng trưng cho 7 tên quan tham nịnh thần trong “Thất
trảm sớ” của thầy CVA dâng lên vua Trần Dụ Tông nhưng không được chấp thuận. Chúng
còn có ngụ ý những tên tham quan sẽ luôn bị người đời nguyền rủa, giày xéo dưới chân.
Đi qua cổng Tam quan, ta bước vào khuôn viên khu di tích, ngay từ cổng lên đền
chính nổi bật chữ “Học” được viết theo nét bút thư pháp trông xa như một tấm thảm nhung
trải lên các bậc đá để bước lên Đền. Kế tiếp là hàng chữ “Vạn thế sư biểu” bằng Hán tự in
trên nền đá thể hiện tấm lòng tôn kính của bao thế hệ người Việt dành cho nhà giáo Chu
Văn An. Dọc hai bên lên là dãy nhà bia bao gồm: bia “Trùng tu chùa Lệ Kỳ (Kỳ Lân) thế
kỷ XVII”; bia “Chu Văn Trinh tiên sinh ẩn cư xứ”; 3 tấm bia nói về thân thế sự nghiệp Chu
Văn An và quá trình trùng tu di tích vào các năm 1837, 1841, 1857. Đây là những văn bản



quý, xác định danh nhân đã sống và mất tại đây. Đằng sau đó là hai dãy nhà dành cho
khách thập phương dừng chân thưởng trà, cùng bàn luận về các bài học của thầy,…
Qua hết 112 bậc đá, du khách sẽ đặt chân đến ngôi đền chính. Đền thờ chính tọa lạc
trên thế đất cao, rộng, theo phong thủy, đây chính là mắt của chim Phượng. Phía trước đền
có núi Ngọc làm tiền án, phía sau có núi Phượng làm hậu trẩm, hai bên là núi Kì Lân và núi
Phượng Hoàng chầu về. Đền chính ngày xưa là điện Lưu Quang, nơi thầy Chu Văn An dạy
học, nay được xây dựng bằng gỗ lim trên một vị trí thoáng đãng giữa đất trời. Đền có kiến
trúc chữ đinh, kiểu chồng diêm 2 tầng 8 mái thể hiện sự tôn vinh tầm vóc một danh nhân,
những đầu đao trên mái đền cong vút thanh thoát, nóc đắp nổi lưỡng long chầu nhật. Bên
trong bao gồm 5 gian tiền tế và 1 gian hậu cung. Chính giữa tiền tế đặt ban thờ công đồng,
ngay phía sau là ban thờ gia tiên họ Chu, bên phải là ban thờ sơn thần núi Phượng Hoàng,
bên trái là ban thờ các môn sinh của thầy. Trong hậu cung đặt tượng thờ thầy bằng đồng,
nặng 100kg. Nghệ thuật trang trí trong đền theo đề tài tứ linh (Long, Ly, Quy, Phượng), tứ
quý (Tùng, Cúc, Trúc, Mai). Các bức y môn sơn son thếp vàng trang trí mỹ thuật theo hình
tượng “rồng chầu hoa cúc mãn khai”. Phía trước đền là đôi rồng đá mang phong cách kiến
trúc thời Trần… Nhìn bao quát, ngôi đền không nguy nga hoành tráng, cầu kì, mà được
thiết kế, xây dựng, bài trí độc đáo, đậm màu sắc truyền thống vừa toát lên vẻ nghiêm cẩn,
vừa ấm áp, trang trọng.
Phía sau đền là đường lên khu lăng mộ, leo lên những bậc thang đá dài khoảng 800m,
mộ thầy được lát đá xanh và nằm dưới bóng mát của tán thông. Tương truyền khi thầy Chu
Văn An mất, học trò đã đưa thầy lên táng tại đỉnh núi Phượng Hoàng và dựng nhà bên mộ
tế lễ cả năm. Tương truyền ngày xưa nơi đây có khu giếng son, đáy có lớp bùn màu đỏ
thắm, được thầy An dùng để viết chữ. Hơn bảy thế kỷ trôi qua, giếng son đã bị vùi lấp
nhưng người dân địa phương ngày nay đã chế tác được loại mực son bằng nguyên liệu tự
nhiên chỉ có ở đây.
Hàng năm, Lễ hội Khai bút Mùa Xuân (Mùng 6 tháng Giêng) diễn ra tại Đền thờ Thầy
giáo CVA nhằm phát huy truyền thống tôn sư trọng đạo, giữ gìn truyền thống hiếu học của
dân tộc ta, đồng thời tôn vinh, khen thưởng những tấm gương hiếu học trên mảnh đất CL
địa linh nhân kiệt và huyện Thanh Trì (quê hương thầy giáo CVA). Vào dịp này, tại thư
phòng phía trái Đền thường có các cụ đồ Nho trong trang phục xưa, ngồi thảo những con

chữ giàu ý nghĩa bằng màu mực đỏ đặc trưng, tương truyền là màu mực nhà giáo Chu Văn
An thường sử dụng ngày trước hàm ý về tấm lòng trung trinh, son sắc của mình với dân với
nước. Không chỉ vậy, tục khai bút, xin chữ và cho chữ còn diễn ra vào dịp lễ tết hay tuần
rằm, mùng một, ngày giỗ thầy (26/11), đặc biệt là vào mùa thi cử, nơi đây luôn có đông đảo
người địa phương và du khách đến chiêm bái, thành lễ.
Đối với người dân Cl nói riêng và người dân Việt Nam nói chung, thầy giáo Chu Văn
An được tôn là “Vạn thế sư biểu - người thầy giáo của muôn đời”. Thầy là tấm gương sáng
ngời về sự hiếu học và lòng ngay thẳng, liêm khiết, yêu nước thương dân. Với truyền thống
“Tôn có ý nghĩa đặc biệt về mặt tâm linh, là một trong 62 di tích quốc gia đặc biệt quan
trọng của VN. Quan trọng như vậy, nhưng hiện nay, do ý thức của một số khách du lịch,
các anh chị nam nữ thanh niên còn chưa cao. Còn vứt rác bừa bãi; ăn mặc không phù hợp;
khi chụp ảnh lưu niệm thì leo trèo làm hư hại hiện vật, mất mỹ quan. Vì vậy, chúng ta phải
có ý thức giữ gìn, bảo vệ di tích lịch sử này. Bản thân em mỗi khi có dịp về đến thăm đền
cũng luôn cố gắng tuân thủ các quy định, không vứt rác bừa bãi,… Có lần em và các bạn
tham gia buổi dã ngoại tại nơi đây, trước khi ra về, cem đã thu dọn rác cùng với các cô bác


lao công ở đây. Em mong rằng mỗi du khách đến thăm đền sẽ tuân thủ các quy định để giữ
gìn được vẻ cổ kính, nghiêm trang của đền thờ Thầy giáo Chu Văn An.
Sau mỗi chuyến tham quan các di tích lịch sử, em càng thêm yêu và tự hào khi được là
người con của mảnh đất Cl – mảnh đất địa linh nhân kiệt, nơi có những di tích lịch sử quốc
gia đặc biệt như Côn Sơn – Kiếp Bạc, Đền thờ thầy giáo CVA… Ngay từ bây giờ, khi còn
ngồi trên ghế nhà trường, em luôn tự nhủ với bản thân mình rằng phải cố gắng học tập, tu
dưỡng đạo đức nhằm phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc ta, noi gương người xưa
như cụ Nguyễn Trãi, thầy giáo CVA, bà NTD,… để sau này lớn lên góp phần xây dựng quê
hương, bảo tồn các di tích lịch sử ngày càng to đẹp hơn.




×