Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

vấn đề xây dựng nền kinh tế tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.59 KB, 24 trang )

TiÓu luËn TriÕt häc
Lời mở đầu

Trong bối cảnh hiện kinh tế hiện nay còn rất nhiều biến động, toàn
cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước
tham gia, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có
đấu tranh. Để phát triển trong bối cảnh như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế
trở thành một đòi hỏi không thể né tránh đối với các nước. Vì vậy, Đảng ta
đã quyết định: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập
tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an
ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Toàn
cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế tất yếu trong
quan hệ kinh tế hiện nay. Trong xu thế đó, ở các mức độ khác nhau, các
nước không thể không tham gia hội nhập. Vấn đề đặt ra là nếu không có sự
chuẩn bị, không chủ động phát huy nội lực thì không thể hội nhập thành
công. Toàn cầu hoá kinh tế có tác động hai mặt đối với nền kinh tế của mọi
quốc gia. Quá trình toàn cầu hoá kinh tế không chỉ gây tác động lan toả,
phổ cập những mặt tích cực mà nó còn gây ra những mặt trái, ảnh hưởng
tới sự phát triển của các quốc gia. Tuy thế giữa các nước và các bộ phận xã
hội ở mỗi nước vẫn đang tồn tại sự khác biệt đáng kể về nhận thức cũng
như trong hành động trước toàn cầu hoá. Những nước và nhóm xã hội yêu
thế thường bị thua thiệt do tác động từ những mặt trái của toàn cầu hoá và
luôn phản đối nó hoặc trong tâm thế thích ứng bị động. Trong khi đó,
những nước và những người có sức mạnh chi phối toàn cầu hoá lại coi đó
là cơ hội mang lại sự tiến bộ cho mình và ra sức tận dụng những mặt tích
1


TiÓu luËn TriÕt häc
cực của nó. Cho dù vậy, toàn cầu hoá vẫn đã và sẽ diễn ra, chi phối dưới


hình thức này hay khác, với các mức độ khác nhau đối với tất cả các lĩnh
vực kinh tế và xã hội của hầu hết các nước, nếu nhìn về dài hạn.. Mà hội
nhập kinh tế quốc tế là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để xây
dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ. Ngay nay, muốn tránh thua thiệt và
được hưởng lợi trong cạnh tranh quốc tế, thì vấn đề cốt lõi là phải tăng
cường thực lực kinh tế và chủ động hội nhập. Đồng thời có tự chủ về kinh
tế mới có thể chủ động hội nhập hiệu quả như mong muốn. Xác định độc
lập, tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất cơ bản bảo đảm sự bền vững của
độc lập tự chủ về chính trị và do đó, trên con đường hội nhập kinh tế quốc
tế, các nước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế phải có đường lối, chính
sách kinh tế độc lập tự chủ, gắn với nguyên tắc chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế trên nguyên tắc bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, hiện nay Việt Nam cũng đang
chuẩn bị để ra nhập WTO. Để có thể chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
giữ vững độc lập tự chủ thì việc nghiên cứu và tìm hiểu quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế là bắt buộc đối với các sinh viên kinh tế. Chính vì lý do đó,
tôi đã tìm hiểu về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế qua các bài viết khác
nhau để thấy rõ hơn quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước đặc
biệt là đối với Việt Nam.

2


TiÓu luËn TriÕt häc

Phần 1. Quan điểm toàn diện trong triết học Mác- Lênin.
1.

Cơ sở khoa học của quan điểm toàn diện.


Nguyên lý về mối quan hệ phổ biến là cơ sở khoa học của quan điểm
toàn diện.
1.1 Khái niệm về mối liên hệ phổ biến.
Khái niệm về mối liên hệ phổ biến là phạm trù triết học dùng chỉ sự
quy định sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt trong
cùng một sự vật hiện tượng hay giữa các sự vật với nhau.
Nội dung: Mọi sự vật hiện tượng thế giới đều nằm trong sự nương
tựa ràng buộc, quy định lẫn nhau làm tiền đề và điều kiện cho sự tồn tại và
phát triển của nhau. Không có sự vật nào tồn tại tuyệt đối độc lập.
1.2

Tính chất của mối liên hệ phổ biến.

Tính khách quan.
Tính phong phú đa dạng.
Tính phổ biến.
2.

Nội dung của quan diểm toàn diện.

Khi xem xét nhận thức sự vật phải đặt nó trong chỉnh thể các mặt các
mối liên hệ cấu thành nó và giữa sự vật đó với các sự vật khác.
Phân loại, phân biệt các mặt các mối liên hệ của sự vật, từ đó vạch ra
được các mối liên hệ bản chất, chủ yếu của sự vật để tác động vào sự vật có
hiệu quả.
3


TiÓu luËn TriÕt häc
Khi tác động vào sự vật phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các

phương tiện khác nhau.
Phần 2. Hội nhập kinh tế quốc tế – Xu thế tất yếu khách quan.
1. Hội nhập kinh tế quốc tế- Cơ hội và thách thức.
1.1. Động lực và Cơ hội.
Động lực của toàn cầu hoá chính là lợi ích mà các lực lượng tham dự
có thể thu được nhờ vào sự mở rộng thương mại hoá, dịch vụ và đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI). Việc mở rộng này là hoàn toàn phù hợp với công
nghệ đang thay đổi, làm giảm chi phí vận tải và thông tin liên lạc quốc tế,
tạo điều kiện cho việc khuyếch chương các hoạt động sản xuất và tiếp thị
trên khắp thế giới.
Toàn cầu hoá tạo động lực để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp là động lực thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thúc đẩy các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới và hoàn thiện
về mọi mặt để tăng tính hiệu quả và năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền
kinh tế và của các doanh nghiệp.
Toàn cầu hoá tạo cơ hội để chúng ta tiếp cận, huy động các nguồn
vốn, FDI, các công nghệ mới, chất xám và kỹ năng cao cấp từ bên ngoài.
Toàn cầu hoá tạo điều kiện mở rộng, đa dạng hoá thị trường quốc tế
và đối tác quốc tế, tránh bị lệ thuộc tập trung vào một số thị trường và đối
tác nước ngoài, giữ độ an toàn cao hơn cho nền kinh tế; tạo cơ hội để tăng
cường xuất khẩu và tích luỹ, nâng nguồn dự trữ quốc gia, tạo khả năng ứng
phó cao hơn đối với các biến cố về tài chính có thể xảy ra, hạn chế việc
phải xin viện trợ bên ngoài.

4


TiÓu luËn TriÕt häc
Toàn cầu hoá tạo động lực thúc đẩy cải cách hệ thống tài chính ngân
hàng, làm mạnh hoá nền tài chính quốc gia, tạo điều kiện để phát triển kinh

tế và từ đó hạn chế bớt nguy cơ bị lệ thuộc bên ngoài về tài chính.
Toàn cầu hoá tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để nắm bắt thông tin,
tri thức mới một cách nhanh chóng, kịp thời và tối đa, từ đó giúp cho việc
phân tích, đánh giá tình hình và hoạch định chính sách kinh tế một cách
phù hợp, nâng cao năng lực quản lý và hiệu quả của bộ máy nhà nước. Bên
cạnh đó, quá trình toàn cầu hoá còn tạo điều kiện để đào tạo, nâng cao trình
độ của đội ngũ các nhà khoa học, các nhà quản lý doanh nghiệp và tay
nghề chuyên môn của đội ngũ lao động dần dần theo kịp với trình độ chung
của thế giới.
Bằng con đường hội nhập mới có thể tiếp cận được với những thành
tựu mới nhất về khoa học, công nghệ, và chỉ có thể bằng cách đó thì các
nước nghèo và chậm phát triển mới có cơ hội mà vươn lên, tránh được tụt
hậu xa hơn, mà phần lớn các thành tựu ấy cũng như một lực lượng vật chất
khổng lồ của nhân loại, nằm trong các nước giầu.
Toàn cầu hoá tạo khả năng để mỗi quốc gia phát huy lợi thế so sánh.
Toàn cầu hoá làm tăng tốc độ chuyển giao công nghệ làm cho các
nước lạc hậu có thể rút ngắn thời gian phát triển của mình.

1.2. Khó khăn và thách thức.
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, giá hàng hoá rẻ vì chủ yếu xuất
phát từ những quốc gia có nền kinh tế phát triển hơn, có năng xuất lao động
cao hơn, bóp chết các nền kinh tế non trẻ và lạc hậu trong nước…

5


TiÓu luËn TriÕt häc
Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng đào sâu hố cách biệt giữa nước
giầu và nước nghèo. Nếu những năm 60, các nước công nghiệp hoá chỉ
giầu gấp ba lần các nước đang phát triển, thì hiện nay tỷ lệ đó đã tăng vọt

lên 74 lần. Với đà mở rộng thương mại toàn cầu trong 25 năm gần đây,
mức thu nhập bình quân đầu người ở các nước phát triển tăng 71%, trong
khi ở các nước nghèo chỉ tăng được 6%.
Cơ hội tiếp cận trực tiếp với vốn đầu tư nước ngoài nhưng quá trình
sử dụng kém hiệu quả dẫn đến mất khả năng trả nợ. Để vay nợ, nhiều quốc
gia đã đi đến chấp nhận các điều kiện của các chủ nợ, dần dần mất tính độc
lập và tự chủ trong việc hoạch định chính sách phù hợp với điều kiện cụ thể
của đất nước; nên càng vay, càng nợ, càng lệ thuộc. Chẳng hạn, một số
nước châu Phi cải tổ cơ cấu hướng mạnh vào xuất khẩu nhưng nguyên liệu,
khoáng sản và sản phẩm sơ chế cần cho các nước phương Tây gắn với các
điều kiện vay và trả nợ; trong khi đó, nhập khẩu lại thiên về những hàng
hoá tiêu dùng xa xỉ chuyên phục vụ nhu cầu của giới thượng lưu trong
nước, và hậu quả là cũng chính ở châu Phi, số người nghèo đói đang đứng
hàng đầu thế giới cả về con số tuyệt đối và tương đối.
Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt các
nước, đặc biệt là các nước đang phát triển phải đối mặt trước nhiều hiểm
hoạ đối với sự ổn định như: nguy cơ gia tăng thất nghiệp và sự suy yếu của
văn hoá truyền thống, nguy cơ phổ biến dễ dàng hơn các tệ nạn như chủ
nghĩa khủng bố, ma tuý, mại dâm, nguy cơ gia tăng giàu nghèo, bất công
xã hội và các khuynh hướng chính trị cực đoan phản dân chủ…

6


TiÓu luËn TriÕt häc
Trong quá trình toàn cầu hoá, các nước phát triển chiếm vị trí chủ
đạo, các nước đang phát triển thường phải chấp nhận một số điều kiện
không bình đẳng, không công bằng.
Một số thế lực có thể lợi dụng ưu thế khoa học kỹ thuật về “chuyển
nhượng” hoặc đe doạ về khoa học kỹ thuật để tìm kiếm lợi ích kinh tế cao

hoặc lợi ích chính trị lớn.
Các nước phát triển và các xí nghiệp lớn đã lấy điều kiện làm việc tốt
và mức thù lao cao để thu hút nhân tài dẫn đến tình trạng chảy máu chất
xám có nguy cơ gia tăng nghiêm trọng.
Suy thoái môi trường đi đôi với tiến trình toàn cầu hoá khiến cho an
ninh sinh thái của các nước, nhất là các nước đang phát triển trở nên nóng
bỏng và nhức nhối hơn.
Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra khả năng làm xói mòn quyền lực nhà
nước, dân tộc, làm tăng thêm quyền lực của các công ty xuyên quốc gia, đa
quốc gia.
1.3.

Những vấn đề đặt ra cho nền kinh tế nước ta khi bước vào hội

nhập.
1.3.1. Khó khăn
Nền kinh tế nước ta có điểm xuất phát thấp, cụ thể là GDP bình quân
đầu người còn thấp, chưa thoát khỏi ranh giới nghèo đói.
Máy móc thiết bị công nghệ thuộc tất cả các ngành, các lĩnh vực
trong nền kinh tế nước ta còn thấp hơn mức trung bình của thế giới từ 1
đến 3 thế hệ công nghệ nên ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lao động và
chất lượng sản phẩm. Nên việc tiếp cận, chiếm lĩnh thị trường trong nước,
khu vực và thế giới của sản phẩm hàng hoá nước ta rất hạn chế.
7


TiÓu luËn TriÕt häc
Mức trao đổi hàng hoá của nước ta với thế giới còn thấp.
Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế để đi đến tự do hoá thương
mại, tức là chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh ngang bằng với các

nước khác.
Trên thị trường nội địa, do kỹ thuật, công nghệ và quản lý còn kém
nên nhiều sản phẩm của ta thiếu sức cạnh tranh với các mặt hàng cùng loại
nhập khẩu cả về chất lượng và giá cả. Ví dụ, đường RS của ta giá xuất
xưởng năm 1999 là 340- 400 USD/ tấn nhưng giá nhập khẩu chỉ có 230300 USD/ tấn (giá nhập rẻ hơn giá xuất xưởng của ta 20- 30 %), giá sắt
thép trong nước sản xuất bình quân 300USD/ tấn nhưng nhập khẩu chỉ
285USD/ tấn, giá xi măng Việt nam 840.000đồng/ tấn trong khi nhập của
Thái Lan chỉ có 630.000 đồng/ tấn…
Trên thị trường thế giới, ta mới xuất khẩu chủ yếu là các nguyên liệu
và sản phẩm sơ chế như dầu thô, gạo, cà phê, chè, cao su… còn các sản
phẩm công nghiệp chế biến nhất là các sản phẩm chất lượng cao còn ít, sức
cạnh tranh còn yếu. Trong khi đó, giá cả các mặt hàng nguyên liệu và sơ
chế lại bấp bênh, hay bị tác động xấu bất lợi cho nước xuất khẩu.
Tham gia toàn cầu hoá kinh tế tức là nước ta chấp nhận những chấn
động có thể xảy ra trong hệ thống kinh tế toàn cầu. Trong trường hợp đó,
nếu năng lực quản lý kinh tế vĩ mô kém, hệ thống tài chính, ngân hàng lạc
hậu, tệ tham nhũng và quan liêu hoành hành, không chủ động phòng và tích
cực thì nền kinh tế khó tránh khỏi sự đổ vỡ, khủng hoảng. Đây là một thách
thức lớn đối với nước ta. Ngoài ra, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế còn
có thể gặp phải các thách thức khác do tác động tiêu cực của thị trường từ

8


TiÓu luËn TriÕt häc
nước ngoài dội vào, sự xung đột của các nền văn hóa, thậm chí có cả sự
phá hoại của các thế lực phản động, thù địch.
1.3.2. Cơ hội.
Tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước ngoài trên cơ sở các hiệp
định thương mại đã ký kết với các nước, trong khu vực và toàn cầu. Nếu

thực hiện đầy đủ các cam kết trong AFTA thì đến năm 2006 hàng công
nghiệp chế biến có xuất sứ từ nước ta sẽ được tiêu thụ trên tất cả thị trưòng
các nước ASEAN với dân số trên 500 triệu dân và GDP trên 700 tỷ USD.
Nếu sau năm 2000, nước ta được gia nhập WTO thì sẽ được hưởng những
ưu đãi dành cho nước đang phát triển theo qui chế tối huệ quốc trong quan
hệ với 132 nước thành viên của tổ chức này, do vậy hàng của ta sẽ xuất
khẩu vào các nước đó dễ dàng hơn. Từ năm 2020, hàng rào thuế quan của
các nước APEC sẽ được dỡ bỏ, đây cũng là cơ hội để nước ta xuất khẩu
hàng hoá vào các nước thành viên APEC.
Cơ hội mở rộng thị trường dẫn đến cơ hội thu hút các nguồn vốn từ
nước ngoài. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường của
nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn
và công nghệ vào nước ta, sử dụng lao động và tài nguyên vốn có của nước
ta, làm ra các sản phẩm trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi
mà nước ta có. Cơ hội mở rộng thị trường kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu
tư của nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để thúc đẩy các doanh nghiệp trong
nước huy động vốn có hiệu quả hơn.
Tranh thủ được kỹ thuật công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để
đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo cơ sở vật chất kỹ
thuật cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội: Hội nhập kinh tế quốc tế là
9


TiÓu luËn TriÕt häc
con đường để khai thông thị trường nước ta với thế giới, tạo ra môi trường
đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả, qua đó mà các kỹ thuật, công nghệ mới có
điều kiện du nhập vào nước ta đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kỹ
thuật, công nghệ nước ngoài làm phát triển năng lực kỹ thuật, công nghệ
quốc gia. Trong cạnh tranh quốc tế, có thể công nghệ này là cũ đối với các
nước phát triển, nhưng lại là mới và có hiệu quả tại một nước đang phát

triển như Việt nam.
Tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực của nước ta với các
nước: Với dân số 77,6 triệu người, nguồn nhân lực của ta khá dồi dào,
nhưng nếu không hội nhập kinh tế quốc tế thì việc sử dụng trong nước sẽ bị
lãng phí, kém hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để nguồn
nhân lực của nước ta khai thông, giao lưu với các nước. Ta có thể thông
qua hội nhập để xuất khẩu lao động, thông qua các hợp đồng gia công chế
biến hàn g xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội nhập khẩu lao động kỹ thuật
cao, công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có.
1.4

. Mối quan hệ biện chứng giữa giữ vững độc lập tự chủ về kinh

tế với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Dù muốn hay không, xu thế toàn cầu hoá, trước hết về kinh tế, với
qui mô ngày càng rộng lớn, tốc độ ngày càng mạnh mẽ và mức độ ngày
càng sâu sắc như một cơn lốc hiện diện toàn vẹn trong hai mặt sáng tối
luôn song hành của nó, là một khu vực khách quan, không gì ngăn nổi và
không ai cưỡng được, nhất là trong thời khắc hiện nay. Và dù muốn hay
không, các nước dù lớn hay nhỏ, dù giầu hay nghèo đều hoặc là bị cơn lốc
đó cuốn hút vào hoặc là chủ động tham gia vào cơn lốc đó, với hoặc muôn
màu trạng thái hoặc những toan tính khác nhau. Cố nhiên, các nước qua đó,
10


TiÓu luËn TriÕt häc
hứng chịu những hậu quả hoặc kết quả cũng hết sức khác nhau, tuỳ thuộc
vào thái độ và nỗ lực của mỗi nước, như chúng ta đều thấy. Có thể nói, đó
là một kịch tính mang tầm vóc và ý nghĩa toàn cầu. Nhưng, xét trên nhiều
bình diện, toàn cầu hoá tuyệt đối không chỉ là một quá trình kinh tế hay

công nghệ đơn thuần, ở bề nổi của các quá trình này mà nhìn ở tầm sâu
hơn, đây thực chất là một cuộc xâm nhập, đấu tranh giữa các nước với nhau
hết sức đa diện, cả về kinh tế- chính trị, kinh tế- xã hội lẫn văn hóa- tư
tưởng rất gay gắt, thậm chí khốc liệt, với các thời cơ bức phá và nguy cơ
thàng bại luôn biến động, chuyển hoá khôn lường. Xử lý kịch tính tất yếu
toàn cầu ấy, Đảng ta nhận rõ: “Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan,
lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt
tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh” và quyết định: “ Chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng
cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc
gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”. Đó là một quyết
sách đúng đắn mang tầm chiến lược, một mặt hoàn toàn phù hợp với quy
luật khách quan và xu thế thời đại, mặt khác, nhạy cảm đáp ứng nhu cầu
phát triển nội tại của đất nước trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, trong bối cảnh hiện nay. Và, đó không chỉ là nhận thức, là nguyên tắc,
là phương châm chỉ đạo mà còn là quyết tâm, là con đường, là sự hoạch
định đúng đắn, mạch lạc bước đi chiến lược và sách lược bảo đảm tiến
trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của chúng ta phát triển đúng
hướng, mạnh mẽ và vững chắc.
Hội nhập và cạnh tranh là hai mặt của một tiến trình toàn cầu hoá
kinh tế quốc tế .
11


TiÓu luËn TriÕt häc
Là một kịch tính tất yếu khách quan hợp logic phát triển lịch sử của
nhân loại, trước hết trong sự vận động của quá trình sản xuất vật chất, toàn
cầu hoá với xung lực là kinh tế chi thức trong sự diễn tiến nhanh chóng của
quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất, sự phân công với qui mô rộng lớn
và sâu sắc về lao động quốc tế, sự tự do hoá của các nền kinh tế và tốc độ

mạnh mẽ trong cải cách thị trường toàn cầu… đã thực sự tạo ra môi trường
và điều kiện cho các nền kinh tế nương tựa vào nhau, liên kết với nhau và
thâm nhập lẫn nhau, tạo nên những mối ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau giữa
các quốc gia, dân tộc ngày càng tăng lên. Nói cụ thể, toàn cầu hoá thực sự
đã tạo ra những cơ hội phát triển cho các quốc gia; và đến lượt họ, các quốc
gia, dù lớn hay nhỏ, và sự nỗ lực ở mức độ này hay khác, đều hướng sự chú
ý cần thiết vào sự phối hợp, cộng đồng trách nhiệm trong việc giải quyết
các vấn đề chung của thế giới theo các chương trình nghị sự có tính ưu tiên
toàn cầu. Nhưng đồng thời, thực tế cũng cho thấy một cách trầm trọng
rằng, toàn cầu hoá là một quá trình vận động đầy mâu thuẫn, tạo ra vô vàn
những nghịch lý và sự phân hoá sâu sắc về khoảng cách trong quá trình
phát triển giữa các quốc gia, dân tộc, có tính phổ biến toàn cầu. Các cường
quốc kinh tế, thông qua cơn lốc toàn cầu hoá, thu rất nhiều lợi; trong khi đó
các nước đang phát triển, các nước nghèo lại hứng chịu rất nhiều thiệt thòi
do vòng xoáy các mặt tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá cuốn vào, chế
ước và áp đặt. Điều cần thiết phải cảnh báo là, một số thế lực tư bản chủ
nghĩa đã và đang vận dụng mọi lợi thế về vốn, kỹ thuật… của họ ráo riết
thực hiện ý đồ chiến lược nhằm biến quá trình toàn cầu hoá thành quá trình
tự do hoá kinh tế buộc các nước nghèo nằm trong vòng khống chế của họ
hoặc bị họ cuốn vào theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Dù là một xu thế khách
12


TiÓu luËn TriÕt häc
quan song với tất cả thực tế hiện hữu, xét dưới mọi khía cạnh, toàn cầu hoá
với hai mặt tốt- xấu, tích cực- tiêu cực, sáng- tối của nó lại chính là hệ quả
hoạt động của bản thân nhân loại trong thời đại ngày nay. Vấn đề còn lại là,
hoặc chủ động hội nhập hoặc là bị cuốn hút vào một cách ngoài ý muốn
hoặc là phản đối tẩy chay nó… Điều đó hoàn toàn tuỳ thuộc ở thái độ và
thực lực ở mỗi quốc gia, dân tộc. Đối với chúng ta, thái độ và quyết tâm

trước vấn đề này đã trở nên hết sức rõ ràng và cụ thể.
Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa của chúng ta là con đường phát triển rút ngắn biện chứng. Để thực
hiện sự rút ngắn ấy, thực tiễn 16 năm đổi mới, nhất là 10 năm gần đây đã
chứng minh một cách thuyết phục rằng, con đường công nghiệp hoá, hiện
đại hoá gắn với việc phát triển nền kinh tế thị trường và hình thành thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự thể hiện đúng đắn,
hiệu quả trên nhiều phương diện, trước hết kinh tế của con đường lên chủ
nghĩa xã hội có tính chất rút ngắn đó, ở Việt nam. Và mặt khác, thực tiễn
lịch sử đổi mới 16 năm qua cũng đã và đang chứng thực xác đáng rằng
muốn thực hiện thành công sự phát triển rút ngắn đó, không có sự lựa chọn
nào khác ngoài quá trình chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu trên cơ sở
không ngừng xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ vững mạnh đủ sức
đương đầu, chế ngự mọi khó khăn, thách thức cũng như nhạy cảm chớp lấy
tất cả các thời cơ, tận dụng các thuận lợi do xu thế toàn cầu hoá đặt ra hoặc
mang lại nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển rút ngắn trên hành trình tiến tới
xã hội chủ nghĩa. Đó là sự lựa chọn phương thức và bước đi hợp nhất trong
bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Nói khái lược, xây dựng một nền kinh tế
độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp với điều kiện
13


TiÓu luËn TriÕt häc
và môi trường toàn cầu hoá là một yếu kép trong bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của chúng ta, trong thời đại
ngày nay. Đó cũng chính là hai mặt song hành của một quá trình phát triển
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách hợp qui luật đòi hỏi nhất
thiết phải chủ động hành xử trên lộ trình đất nước tiến lên theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Chỉ có xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ
chúng ta mới có đầy đủ tư cách và thực lực để chủ động hội nhập đúng

hướng và hiệu quả kinh tế quốc tế; và ngược lại, chỉ có chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế chúng ta mới nhanh chóng bổ xung sức mạnh nội lực còn
khiếm khuyết, thiếu hụt, rút ngắn con đường phát triển nhằm không ngừng
tự hoàn thiện mình để giữ vững hơn nền độc lập tự chủ. Hơn nữa, muốn
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế một cách đúng đắn và mạnh mẽ không
thể không bắt đầu từ nền tảng sức mạnh tổng thể của một nền kinh tế độc
lập tự chủ. Nếu vấn đề thứ nhất là tiền đề, là điều kiện, là bảo đảm cho vấn
đề thứ hai thì đến lượt nó, vấn đề thứ hai lại là hệ quả, là động lực, là môi
trường phát triển mới của vấn đề thứ nhất. Đó là một quá trình biện chứng.
Nói một cách hình ảnh như chủ tịch Hồ Chí Minh: Thực lực như cái
chuông, đối ngoại như tiếng chuông; cái chuông có to thì tiếng của nó mới
vang xa. Trong khi giải quyết mối quan hệ biện chứng này không thể coi
nhẹ hoặc lãng quên mặt nào. Đó cũng là biểu hiện cụ thể chứng minh cho
sự đúng đắn bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của
cách mạng Việt nam suốt 73 năm qua và nhìn rộng ra suốt thời kỳ lịch sử
của mình. Nếu không hành động một cách chủ động, kiên quyết và đúng
đắn như thế nhất định chúng ta sẽ cầm chắc sự thất bại. Bởi lẽ, nếu không
hiểu đúng hoặc khước bỏ những nhân tố thời đại không thể tìm được con
14


TiÓu luËn TriÕt häc
đường phát triển đúng đắn cho đất nước mình. Nói như V.I. Lênin, nếu
không tỉnh táo nhận thức và giải quyết đúng đắn những vấn đề chung nhất
định sẽ vấp ngã, thất bại trong việc giải quyết những vấn đề riêng và cụ thể.
Đó cũng là bài học có ý nghĩa thành, bại chung, được báo trước, đối với tất
cả các nước phát triển và đang phát triển trong thập kỷ qua; và gần đây
nhất là lời cảnh báo từ Ac-hen-ti-na rất đáng được xem trọng.
Một lẽ hợp tự nhiên, dù công bố hay không nói ra, dù có hội nhập
kinh tế quốc tế rộng rãi, mạnh mẽ và sâu sắc đến đâu chăng nữa, song chắc

chắn chẳng có quốc gia nào lại mong đánh mất mình hoặc bị hoà tan hoặc
mong bị chìm nghỉm trong đại dương toàn cầu hoá hoặc bị lệ thuộc vào
nước khác, thông qua quá trình toàn cầu hoá. Cố nhiên, trừ những nước bị
cơn lốc toàn cầu hoá cuốn vào ngoài ý muốn. Rõ ràng, quy mô, tốc độ và
tính chất của toàn cầu hoá càng phát triển và mỗi nước càng hội nhập mạnh
mẽ và sâu sắc vào đời sống toàn cầu thì vấn đề độc lập tự chủ không chỉ về
kinh tế mà suy rộng hơn, giữ vững độc lập về chính trị, bảo vệ bản sắc văn
hoá, không ngừng củng cố vị thế, mở rộng ảnh hưởng chính trị và uy tín
mọi mặt trên trường quốc tế, đối với mọi quốc gia, dân tộc càng trở nên
muôn thuở vẫn là vấn đề căn cơ cốt tử. Việt nam trong suốt trường kỳ lịch
sử dựng nước và giữ nước của mình, ở những thời kỳ thịnh trị, tuyệt nhiên
không nằm ngoài quy luật vận động đó. Và, ngày nay, trong dòng chảy thời
đại, chúng ta phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa tất yếu
càng phải như vậy. Độc lập tự chủ về kinh tế bao hàm rất nhiều nội dung,
nhưng xét cho cùng, là quyền tự quyết quốc gia, dân tộc về kinh tế của
chúng ta từ đường lối, cơ chế vận hành, con đường phát triển, chính sách
về kinh tế đối nội đến chủ trương, phương hướng, chính sách và thực tiễn
15


TiÓu luËn TriÕt häc
phát triển đối ngoại về kinh tế làm nền tảng căn bản củng cố nền độc lập tự
do và bảo vệ chủ quyền chính trị và lợi ích quốc gia dân tộc Việt nam. Điều
đó hoàn toàn không đồng nghĩa với cách biểu hiện về một nền kinh tế độc
lập tự chủ tồn tại theo kiểu khép kín, biệt lập, cố thủ, như một số người
thường nghĩ. Như vậy, độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở và điều kiện cho
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động, đúng hướng, có hiệu
quả sẽ tạo môi trường, điều kiện và động lực cần thiết để không ngừng xây
dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ. Đó chính là hai mặt của một quá trình
xây dựng một nền kinh tế phát triển đúng hướng, toàn diện, mạnh mẽ và

bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và chỉ có như thế chúng ta
mới thực sự giữ vững nền độc lập về chính trị của một dân tộc; quyền dân
chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân; bảo vệ, phát triển bản sắc văn hoá dân
tộc; phát huy sức mạnh và uy tín mọi mặt của nước ta trên trường quốc tế.
Là một nhu cầu tất yếu, vấn đề cơ bản còn lại ở đây là chúng ta phải
làm gì và làm như thế nào. Để thực hiện đúng đắn, mạnh mẽ và hiệu quả
của việc giữ vững độc lập tự chủ về kinh tế với chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, theo tôi, nhất thiết nỗ lực tiếp
tục lựa chọn và làm tốt mấy vấn đề chính yếu dưới đây:
Một là, kiên định nguyên tắc xã hội chủ nghĩa; linh hoạt, mềm dẻo
về phương châm hành xử theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội đã hoạch định.
Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh: dĩ bất biến ứng vạn biến. Cái bất biến ở
đây là, kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội, giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đó là nguyên tắc hành động của chúng ta. Xuất phát từ nguyên
tắc đó, phương châm hành xử của chúng ta là, phải xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại và coi đây là nhiệm vụ trung
16


TiÓu luËn TriÕt häc
tâm của suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời đa dạng hoá, đa
phương hoá các mối quan hệ quốc tế với tinh thần như Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói: sẵn sàng là bạn với tất cả các nước, không gây thù oán với một
ai.
Hai là, dự báo một cách khoa học và chính xác thực tiễn phát triển
của đất nước và xu thế vận động của thế giới, trước hết về kinh tế trong các
mối quan hệ quốc tế căn bản. Đây là vấn đề cực kì quan trọng. Nó quyết
định tính độc lập tự chủ, sự đúng đắn, sáng tạo và phù hợp trong việc hoạch
định đường lối phát triển kinh tế trên tầm vĩ mô và hệ các chính sách phát
triển kinh tế cụ thể của đất nước. Nhưng cần thấy rằng, trong thời đại ngày

nay, sự xuyên thấm, đan quyện một cách phức hợp giữa kinh tế với chính
trị, giữa chính trị với văn hoá, giữa kinh tế với văn hoá, giữa kinh tế với xã
hội và sự chuyển hoá giữa các mối quan hệ này hết sức tinh tế, phức tạp và
đa dạng. Điều quan trọng là từ những tham số cơ bản có tính dự báo ấy
phải biết lựa chọn, phân định, quyết định và có đối sách xử lý hữu hiệu với
từng loại vấn đề. Chỉ có như thế, chúng ta mới có thể lường tránh được sự
giáo điều, rập khuôn hoặc sự áp đặt, lệ thuộc về đường lối, chính sách kinh
tế từ bên ngoài. Đó là một bài học lớn từ nước ta suốt mấy chục năm qua
và từ kinh nghiệm thành bại của nhiều nước qua mấy thập kỷ nay.
Ba là, tập trung sức xây dựng một nền kinh tế có thực lực mạnh, có
sức cạnh tranh cao và phát triển bền vững; đồng thời, giữ vững môi trường
chính trị và xã hội ổn định, kiến tạo môi trường kinh tế vĩ mô phát triển,
môi trường an ninh quốc gia và môi trường sinh thái bền vững. Để có một
nền kinh tế độc lập tự chủ với thực lực kinh tế mạnh thì nước ta phải trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đó cũng là nhiệm vụ
17


TiÓu luËn TriÕt häc
trung tâm của chúng ta suốt thời kỳ quá độ, mà trước mắt trong tầm nhìn
năm 2020- năm nước ta phấn đấu cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Ở đây, có hàng loạt vấn đề đặt ra cần xử lý: cân đôi giữa sản xuất với tiêu
dùng và tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế; xây dựng thể chế kinh tế- xã hội bền
vững, có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và có sức cạnh tranh cao, với sự
phát triển của các ngành kinh tế công nghiệp nặng then chốt và nền tảng;
thiết lập một hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại; v.v…
Đồng thời, ra sức giữ vững môi trường chính trị và xã hội ổn định;
chủ động bảo đảm tốt môi trường phát triển kinh tế ở tầm vĩ mô và môi
trường an ninh quốc gia tốt và môi trường sinh thái phát triển cân bằng.
Đây thực sự là những điều kiện cực kỳ quan trọng, có tính chất quyết định

trong việc thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ của
chúng ta nhằm chủ động tăng cường hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế toàn
cầu hiện nay.
Bốn là, xây dựng một hệ công cụ pháp luật quản lý kinh tế đầy đủ,
tiên tiến, hiện đại và đủ mạnh. Đây thực chất là tạo dựng một hành lang
pháp lý bảo đảm cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế một cách đúng hướng và hiệu quả. Nhiệm vụ
lâu dài cũng là cấp bách trước mắt là, chúng ta nhanh chóng xây dựng mới,
bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, các luật và bộ luật kinh
tế về quản lý kinh tế nói riêng trong điều kiện mới bảo đảm tương dung với
luật pháp quốc tế. Đó cũng chính là nhiệm vụ của công cuộc cải cách hành
chính, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt nam xã hội chủ nghĩa . Không
có vấn đề này, có thể nói chúng ta sẽ chênh vênh, lạc lối, thậm chí mất
phương hướng. Và như thế cầm chắc sự đổ vỡ không thể tránh khỏi.
18


TiÓu luËn TriÕt häc
Cuối cùng là, uyển chuyển, linh hoạt và mềm dẻo trong phương thức,
bước đi theo lộ trình hội nhập nền kinh tế thế giới được hoạch định. Kinh
nghiệm cho thấy, một bước đi thiếu sách lược, cụ thể sai lầm có thể dẫn tới
sự đổ vỡ, thất bại toàn cục. Do đó, sự thận trọng song không trì trệ, sự khẩn
trương song không nôn nóng trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế cực kì
quan trọng. Vấn đề ở đây đòi hỏi một khả năng nhậy bén nhưng thận trọng
trong việc sử lý các tình huống, chớp lấy thời cơ và hành động thật kiên
quyết. Nhưng dù thế nào chăng nữa, trong cuộc hội nhập chung ta phải bảo
vệ cho kỳ được lợi ích tối cao của quốc gia dân tộc chúng ta.
Phần 3. Xây dựng nền kinh tế tự chủ và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế.
1.


Khái niệm kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá.

Một nền kinh tế độc lập tự chủ theo cách hiểu thông thường và
truyền thống là một nền kinh tế phát triển toàn diện, có khả năng tự thoả
mãn những nhu cầu mọi mặt của đời sống xã hội, của an ninh, quốc phòng
và quá trình tái sản xuất; không bị lệ thuộc vào bên ngoài cả từ khâu sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm, để có thể vận hành một cách bình thường và
bảo đảm được nền tảng cho việc duy trì an ninh quốc gia.
Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá có thể
được hiểu là nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động
của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến động đó; trong
bất kì tình huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì được các hoạt động
bình thường của xã hội và phục vụ đắc lực cho các mục tiêu an ninh, quốc
phòng của đất nước.
2.

Nguy cơ tiềm ẩn đe doạ nền độc lập tự chủ kinh tế quốc gia.
19


TiÓu luËn TriÕt häc
Nguy cơ bán rẻ như cho và mua phải trả giá cao.
Nguy cơ nhập siêu đưa đến thâm hụt cán cân thương mại buộc phải
vay tiền nước ngoài.
Nợ quốc tế gia tăng với tốc độ nhanh hàng năm đưa đến tình hình nợ
đáo hạn và vốn lời phải trả mỗi năm mỗi tăng.
Toàn cầu hoá làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên
nhiều phương diện, đặc biệt là về kinh tế, từ đó làm suy giảm hay hạn chế
sự độc lập tự chủ về kinh tế của các nước theo quan niệm truyền thống.

Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy phân công lao
động quốc tế theo hướng mỗi nước tập trung vào các ngành, lĩnh vực có ưu
thế và hiệu quả kinh tế cao, do vậy, ít chú ý hoặc bỏ rơi hẳn những ngành,
lĩnh vực có hiệu quả kinh tế thấp.
Toàn cầu hoá làm gia tăng sự lưu chuyển các nguồn vốn mà chính
phủ không dễ dàng kiểm soát được.
3.

Những yêu cầu chủ yếu cần đáp ứng để có một nền kinh tế độc

lập tự chủ.
Cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết.
Nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao.
Cơ cấu xuất nhập khẩu cơ bản cân đối; cơ cấu mặt hàng đa dạng,
phong phú với tỷ lệ các mặt hàng công nghệ và có giá trị gia tăng lớn có ưu
thế; cơ cấu thị trường quốc tế, đối tác cũng đa dạng và tránh chỉ tập trung
quá nhiều vào một vài mục tiêu.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong một ngành kinh tế, nhất là
những ngành kinh tế quan trọng, chiếm một tỷ lệ không thể chi phối nền

20


TiÓu luËn TriÕt häc
kinh tế; hạn chế hoặc không cho phép đầu tư nước ngoài vào những ngành
nhậy cảm.
Đảm bảo nền tài chính lành mạnh, đặc biệt giữ cân bằng cần thiết
trong cán cân thanh toán và có nguồn dự trữ quốc gia mạnh.
4. Phát triển nền kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ trong xu hướng hội
nhập kinh tế quốc tế

Xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế, xác định bước đi và
kế hoạch triển khai cụ thể, rõ ràng.
Tuyên truyền sâu rộng trong các cấp, các ngành, mọi doanh nghiệp
và mọi người dân VN nhận thức đúng đắn về toàn cầu hoá kinh tế, tác động
của nó đối với đời sống kinh tế của đất nước để chủ động hội nhập.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm đổi mới,
nâng cao trình độ kỹ thuật- công nghệ và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế
quốc dân đáp ứng yêu cầu khai thác, phát huy lợi thế của nền kinh tế trong
phát triển và hội nhập quốc tế. Xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng
đặc biệt là giao thông, thông tin liên lạc, điện nước để vừa tạo điều kiện
phát triển thị trường trong nước vừa thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
Trên cơ sở quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn
dân và của tất cả các doanh nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý
của nhà nước, phải đưa tất cả các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần
kinh tế vào cuộc.
Tiếp tục đổi mới để nâng cao vai trò quản lý hướng dẫn của nhà
nước trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Tiếp tục đổi mới để phát triển giáo dục đào tạo, hướng giáo dục đào
tạo nhằm vào yêu cầu thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
21


TiÓu luËn TriÕt häc
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đổi mới thiết bị công nghệ,
chuyển nền kinh tế từ trình độ phát triển thấp của lực lượng sản xuất sang
nền kinh tế phát triển với trình độ công nghệ cao, kĩ thuật tiên tiến, hiện
đại.
Đổi mới hệ thống chính sách, pháp luật không chỉ phù hợp với sự
vận động, phát triển của nền kinh tế, mà còn phải phù hợp với thông lệ
quốc tế và khu vực.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu, song chú trọng khai
thác các nguồn lực trong nước; sử dụng nguồn lực nước ngoài nhằm hỗ trợ,
bổ sung, thúc đẩy khai thác có hiệu quả nguồn lực trong nước.
Xây dựng đội ngũ cán bộ có đầy dủ các yêu cầu phục vụ cho nền
kinh tế hội nhập, đó là có khả năng chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật, am
hiểu kinh nghiệm kinh doanh, luật pháp nước ta và thông lệ quốc tế, có khả
năng giao tiếp trực tiếp với các đối tác nước ngoài và trung thành với lợi
ích kinh tế, chính trị xã hội của quốc gia.

22


TiÓu luËn TriÕt häc

Lời kết
Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế tất yếu
trong quan hệ kinh tế hiện nay. Và Việt Nam cũng đang cố gắng hội nhập
vào nền kinh tế thế giới vì vậy tìm hiểu về nền kinh tế Việt Nam và thế giới
là trách nhiệm của mỗi sinh viên kinh tế. Để vươn lên nhằm thoát khỏi tình
trạng của một nước kém phát triển bằng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và hội nhập kinh tế quốc tế là hướng đi đúng của nước ta và không có
con đường nào khác. Hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện cần thiết không
thể thiếu được để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ. Đồng thời có tự
chủ về kinh tế mới có thể chủ động hội nhập hiệu quả như mong muốn.
Với nhận thức như trên về chiều hướng phát triển và tác động lâu dài của
toàn cầu hoá, chúng ta cần có sự đổi mới phù hợp hơn về tư duy kinh tế
độc lập tự chủ trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế để xác
định đúng đắn các chiến lược phát triển kinh tế, xã hội trung hạn và dài hạn
cũng như các chính sách kinh tế cụ thể, đưa đất nước tiến nhanh mạnh và
vững chắc trên con đường công nghiệp hoá- hiện đại hoá theo định hướng

xã hội chủ nghĩa. Trên đây tôi mới chỉ đề cập được một phần nhỏ của quá

23


TiÓu luËn TriÕt häc
trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ.

24



×